Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Xung đột giữa nhãn hiệu và tên thương mại trong bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu theo quy định của pháp luật việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 131 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THU

XUNG ĐỘT GIỮA NHÃN HIỆU VÀ TÊN THƢƠNG MẠI
TRONG BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI
VỚI NHÃN HIỆU THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THU

XUNG ĐỘT GIỮA NHÃN HIỆU VÀ TÊN THƢƠNG MẠI
TRONG BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI
VỚI NHÃN HIỆU THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ QUẾ ANH


HÀ NỘI – 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Thu


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ XUNG ĐỘT GIỮA NHÃN HIỆU
VÀ TÊN THƢƠNG MẠI TRONG BẢO HỘ QUYỀN SHCN ĐỐI VỚI
NHÃN HIỆU .................................................................................................... 7
1.1.


Khái niệm, chức năng, điều kiện bảo hộ và ý nghĩa của nhãn hiệu
và tên thƣơng mại ............................................................................... 7

1.1.1. Nhãn hiệu ............................................................................................... 7
1.1.2. Tên thƣơng mại .................................................................................... 22
1.2.

Mối quan hệ xung đột giữa nhãn hiệu và tên thƣơng mại ............. 35

1.2.1. Khái niệm xung đột giữa nhãn hiệu và tên thƣơng mại ....................... 35
1.2.2. Nội dung xung đột giữa nhãn hiệu và tên thƣơng mại......................... 37
1.2.3. Nguyên nhân xung đột giữa nhãn hiệu và tên thƣơng mại .................. 42
1.2.4. Hệ quả xung đột giữa nhãn hiệu và tên thƣơng mại ............................ 46
1.3.

Quy định về giải quyết xung đột giữa nhãn hiệu và tên thƣơng mại
trong bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu theo pháp luật của
một số nƣớc trên thế giới .................................................................. 49

1.3.1. Trung Quốc .......................................................................................... 49
1.3.2. Canada .................................................................................................. 50
1.3.3. Hoa Kỳ ................................................................................................. 54
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT GIỮA NHÃN
HIỆU VÀ TÊN THƢƠNG MẠI TRONG BẢO HỘ QUYỀN SHCN ĐỐI
VỚI NHÃN HIỆU TẠI VIỆT NAM............................................................ 58


2.1.


Các quy định pháp luật Việt Nam về giải quyết xung đột giữa
nhãn hiệu và tên thƣơng mại trong bảo hộ quyền SHCN đối với
nhãn hiệu ........................................................................................... 58

2.1.1. Trong xác lập quyền SHCN đối với nhãn hiệu .................................... 58
2.1.2. Trong khai thác và bảo vệ quyền SHCN đối với nhãn hiệu ................ 62
2.2.

Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật giải quyết xung đột giữa
nhãn hiệu và tên thƣơng mại trong bảo hộ quyền SHCN đối với
nhãn hiệu............................................................................................ 65

2.2.1. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật giải quyết xung đột giữa nhãn hiệu
và tên thƣơng mại trong xác lập quyền SHCN đối với nhãn hiệu ........... 65
2.2.2. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật giải quyết xung đột giữa nhãn
hiệu và tên thƣơng mại trong khai thác và bảo vệ quyền SHCN đối với
nhãn hiệu ............................................................................................. 89
Chƣơng 3. NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
NHẰM HOÀN THIỆN CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT GIỮA
NHÃN HIỆU VÀ TÊN THƢƠNG MẠI TRONG BẢO HỘ QUYỀN
SHCN ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU .................................................................. 101
3.1.

Nguyên nhân của thực trạng ........................................................... 101

3.2.

Giải pháp ........................................................................................... 109

3.2.1. Giải pháp liên quan đến hoàn thiện quy định pháp luật: ............ 109

3.2.2. Giải pháp liên quan đến nâng cao hiệu quả giải quyết xung đột
giữa nhãn hiệu và tên thƣơng mại trong bảo hộ quyền SHCN
đối với nhãn hiệu ........................................................................... 117
KẾT LUẬN .................................................................................................. 121
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 123


DANH MỤC CÁC CHỨ VIẾT TẮT
SHTT:

Sở hữu trí tuệ

SHCN:

Sở hữu công nghiệp

GCNĐKNH:

Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu

TNHH:

Trách nhiệm hữu hạn


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Ngày nay, với tốc độ phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, của
giao thƣơng quốc tế, giá trị của sở hữu trí tuệ ngày càng đƣợc đánh giá đầy đủ
hơn và tiềm năng của sở hữu trí tuệ trong việc tạo ra những cơ hội mang lại

lợi ích trong tƣơng lai dƣờng nhƣ cũng đã đƣợc các doanh nghiệp nhận thức
đúng mức. Đặc biệt, khi quyền sở hữu trí tuệ đƣợc bảo hộ pháp lý và trên thị
trƣờng có nhu cầu về các loại sản phẩm và/hoặc dịch vụ đƣợc bảo hộ sở hữu
trí tuệ thì khi đó sở hữu trí tuệ sẽ trở thành một tài sản kinh doanh có giá trị.
Trong đó, nhãn hiệu có thể coi là một trong những tài sản đáng lƣu tâm của
các doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh và hội nhập quốc tế. Nhận thức
đƣợc điều này, các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng chú trọng vào việc bảo
bộ quyền sở hữu công nghiệp của mình đối với các nhãn hiệu cho các sản
phẩm dịch vụ do chính mình dày công đầu tƣ sáng tạo và xây dựng uy tín.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
đối với nhãn hiệu, không ít các doanh nghiệp vƣớng phải những vấn đề khó
giải quyết. Một trong những vấn đề đó là xung đột về quyền giữa nhãn hiệu
và tên thƣơng mại.
Xem xét vấn đề này, ngoài cơ sở xác lập quyền khác nhau, tên thƣơng
mại và nhãn hiệu còn có mục đích sử dụng khác nhau. Tuy nhiên ở một khía
cạnh nào đó, hai đối tƣợng quyền sở hữu công nghiệp này lại thực hiện thức
năng giống nhau và có cách thức sử dụng tƣơng tự nhau. Điều này dẫn đến
xung đột quyền giữa nhãn hiệu và tên thƣơng mại, cụ thể là nếu thực tế có khả
năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa dịch vụ giữa chủ sở hữu nhãn hiệu
và chủ thể kinh doanh sử dụng tên thƣơng mại trong trƣờng hợp có sự trùng
lặp hoặc tƣơng tự giữa nhãn hiệu và tên thƣơng mại đó thì quyền đối với đối

1


tƣợng nào sẽ đƣợc bảo vệ. Tƣơng tự nhƣ vậy, trong vấn đề xác lập quyền đối
với nhãn hiệu, nếu có tranh chấp xảy ra giữa ngƣời nộp đơn đăng ký nhãn
hiệu với chủ sở hữu tên thƣơng mại thì quyền ƣu tiên sẽ thuộc về ai.
Vậy, thực tiễn mối quan hệ xung đột giữa nhãn hiệu và tên thƣơng mại
trong bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nhƣ thế nào, thực

trạng giải quyết vấn đề này ra sao, đã có phƣơng án giải quyết triệt để mối
quan hệ xung đột này trong quy định pháp luật hiện hành hay chƣa là những
vấn đề cần đƣợc giải đáp một cách đầy đủ và có hệ thống. Chính vì vậy, tác
giả chọn đề tài: “Xung đột giữa nhãn hiệu và tên thương mại trong bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu theo quy định của Pháp luật Việt
Nam hiện nay”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu của đề tài là dựa trên cơ sở lý luận để nghiên cứu các quy
định của luật thực định về bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu, tìm hiểu
thực tiễn áp dụng luật thực định để tìm ra những xung đột giữa nhãn hiệu và
tên thƣơng mại trong bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu và cơ chế giải
quyết xung đột đó. Từ đó, tìm hiểu những vƣớng mắc, bất cập, đồng thời tìm
hiểu nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó, trên cơ sở đó có những nhận xét,
kiến nghị về giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền SHCN đối với
nhãn hiệu cũng nhƣ nâng cao hiệu quả của cơ chế giải quyết xung đột giữa
nhãn hiệu và tên thƣơng mại trong bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Để đạt đƣợc mục tiêu tổng quát đề cập trên, cần thực hiện các mục tiêu
cụ thể sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về nhãn hiệu, tên thƣơng mại,
bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu và mối quan hệ giữa nhãn hiệu và tên

2


thƣơng mại trong bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu. Với mục tiêu này, tác
giả xây dựng khát quát chung về nhãn hiệu và tên thƣơng mại; nghiên cứu về
vấn đề bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu; tìm hiểu về mối quan hệ giữa
nhãn hiệu và tên thƣơng mại cũng nhƣ quy định pháp luật về giải quyết xung đột

giữa nhãn hiệu và tên thƣơng mại trong bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu
trong pháp luật Việt Nam và pháp luật về SHTT của một số nƣớc trên thế giới.
Từ đó, khẳng định tính tất yếu và cần thiết của việc nghiên cứu lý luận và thực
tiễn nhằm giải quyết xung đột giữa nhãn hiệu và tên thƣơng mại trong bảo hộ
quyền SHCN đối với nhãn hiệu trong quy định pháp luật;
- Phân tích và đánh giá thực trạng xung đột giữa nhãn hiệu và tên
thƣơng mại trong bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu. Với mục tiêu này,
tác giả tìm hiểu các quy định của pháp luật hiện hành về bảo hộ quyền SHCN
đối với nhãn hiệu; tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo hộ quyền
SHCN đối với nhãn hiệu. Đồng thời, qua việc phân tích quy định giải quyết
xung đột giữa nhãn hiệu và tên thƣơng mại trong luật thực định, tìm ra những
điểm bất cập, chƣa hợp lý, thiếu tính khoa học của các quy định đó, để làm cơ
sở cho các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề này trong
Luật SHTT năm 2009;
- Trên cơ sở phân tích nội dung và thực tiễn áp dụng quy định pháp luật
về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, luận văn nêu một số kiến
nghị đề xuất hƣớng sửa đổi, bổ sung các quy định trong Luật SHTT năm 2009
đồng thời đƣa ra những ý kiến đóng góp đối với hoạt động của các cơ quan nhà
nƣớc có thẩm quyền nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết xung đột giữa nhãn hiệu
và tên thƣơng mại trong bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu có tính hệ thống những vấn
đề liên quan đến xung đột giữa nhãn hiệu và tên thƣơng mại trong bảo hộ
quyền SHCN đối với nhãn hiệu, thể hiện ở các nội dung cơ bản sau đây:

3


- Đƣa ra một cái nhìn khái quát về mối quan hệ giữa tên thƣơng mại và
nhãn hiệu

- Phân tích và giải thích về mặt lý luận nguyên nhân, nội dung và hậu
quả của mối quan hệ xung đột giữa nhãn hiệu và tên thƣơng mại trong bảo hộ
Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu.
- Phân tích và đánh giá đúng thực trạng và hiệu quả cách thức giải
quyết xung đột giữa nhãn hiệu và tên thƣơng mại trong bảo hộ Quyền sở hữu
công nghiệp đối với nhãn hiệu theo quy định Pháp luật Việt Nam hiện hành.
- Đề xuất đƣợc những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện và thực thi có
hiệu quả những quy định của pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
đối với nhãn hiệu.
Luận văn có ý nghĩa góp phần tăng cƣờng hiệu quả của công tác bảo hộ
quyền SHCN đối với nhãn hiệu, đổi mới và hoàn thiện pháp luật về bảo hộ
Quyền SHCN tại Việt Nam hiện nay. Những đề xuất của luận văn có thể tham
khảo trong việc hoàn thiện pháp luật, hƣớng dẫn thi hành pháp luật và nâng
cao hiệu quả bảo hộ Quyền SHCN đối với nhãn hiệu tại Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về nhãn hiệu
và tên thƣơng mại, mối quan hệ giữa nhãn hiệu và tên thƣơng mại, là các quy
định của pháp luật về giải quyết xung đột giữa nhãn hiệu và tên thƣơng mại
trong bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu và thực trạng áp
dụng các quy định pháp luật trong hoạt động bảo hộ quyền SHCN đối với
nhãn hiệu hiện nay.
Nội dung nghiên cứu đề tài bao gồm nhiều vấn đề khác nhau. Tuy vậy,
do giới hạn của một luận văn thạc sĩ, việc nghiên cứu chỉ tập trung vào những
vấn đề cơ bản nhất thuộc nội dung đề tài nhƣ khái quát chung về nhãn hiệu và
tên thƣơng mại; nội dung các quy định của Luật SHTT về bảo hộ quyền
SHCN đối với nhãn hiệu và thực tiễn thực hiện chúng hiện nay.
4


Tổng quan tài liệu

“Xung đột giữa nhãn hiệu và tên thƣơng mại” không phải là vấn đề mới
bởi ngay khi soạn thảo Luật sở hữu trí tuệ 2009, nội dung này đã đƣợc sự liệu
trƣớc và sau khi ban hành, Luật SHTT 2009 cũng đã có những quy định pháp
luật nhằm giải quyết mối quan hệ xung đột này. Cho đến nay, chỉ có một số ít
công trình nghiên cứu khoa học pháp lý đề cập đến vấn đề này nhƣ:
- Luận văn Thạc sỹ “Khía cạnh pháp lý về mối quan hệ giữa nhãn hiệu
và tên thương mại” - Bồ Xuân Tuấn; Ngƣời hƣớng dẫn : TS. Nguyễn Thị
Bích Ngọc
- “Xung đột quyền trong bảo hộ nhãn hiệu và tên thương mại” - Lê Thị
Nam Giang – Tạp chí: Khoa học pháp lý, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh,
2013, Số 03(76), tr.54- 62
- “Mối quan hệ giữa nhãn hiệu và tên thương mại” - Trần Hải Linh,
Tạp chí Thông tin KH&CN Nghệ An, số 3.2010”
Tuy nhiên, do mục đích và phạm vi nghiên cứu, các công trình nghiên
cứu này cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ nêu phân tích chung về mối quan hệ
giữa nhãn hiệu và tên thƣơng mại, nêu một số ví dụ về xung đột quyền trong
bảo hộ hai đối tƣợng này mà chƣa nghiên cứu, phân tích một cách toàn diện,
tổng thể về các nội dung liên quan đến xung đột giữa hai đối tƣợng này trong
vấn đề xác lập, khai thác và bảo vệ quyền SHCN đối với nhãn hiệu. Tuy vậy,
đây vẫn là những tài liệu nghiên cứu quan trọng đƣợc tác giả lựa chọn tham
khảo khi thực hiện việc nghiên cứu đề tài luận văn của mình.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Thực hiện luận văn này, tác giả đã dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà nƣớc và pháp luật, đồng thời,
trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu
khoa học truyền thống nhƣ phƣơng pháp lịch sử cụ thể, phƣơng pháp kết hợp

5



giữa lý luận với thực tiễn, phƣơng pháp phân tích, tổng hợp và sử dụng số liệu
thống kê, phƣơng pháp so sánh luật.
6. Kết cấu của Luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Khái quát chung về xung đột giữa nhãn hiệu và tên thương
mại trong bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu.
Chương 2: Thực trạng giải quyết xung đột giữa nhãn hiệu và tên
thương mại trong bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu.
Chương 3: Nguyên nhân của thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện
cơ chế giải quyết xung đột giữa nhãn hiệu và tên thương mại trong bảo hộ
quyền SHCN đối với nhãn hiệu.

6


Chƣơng 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ XUNG ĐỘT GIỮA NHÃN HIỆU VÀ
TÊN THƢƠNG MẠI TRONG BẢO HỘ QUYỀN SHCN
ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU
1.1. Khái niệm, chức năng, điều kiện bảo hộ và ý nghĩa của nhãn
hiệu và tên thƣơng mại
1.1.1. Nhãn hiệu
1.1.1.1. Khái niệm
Khoảng 4000 năm về trƣớc, nhãn hiệu đã đƣợc sử dụng để nhận biết
nguồn gốc của sản phẩm. Vào thời xa xƣa đó, các thợ thủ công ở Trung Quốc,
Ấn Độ, Ba tƣ đã sử dụng chữ ký của họ hoặc một biểu tƣợng riêng để phân
biệt sản phẩm của họ. Việc sử dụng nhãn hiệu trong thời Trung cổ đã đƣợc
gắn với phát triển và tăng trƣởng của thƣơng mại, từ đó mới xuất hiện thuật
ngữ “Nhãn hiệu hàng hoá” [23, tr.149] . Ngày nay, nhãn hiệu đã phát triển

thành công cụ để nhận biết sản phẩm của các công ty khác nhau. Trên thế giới
hiện có nhiều cách định nghĩa khác nhau về nhãn hiệu. Theo Khoản 1 Điều 15
Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thƣơng mại của Quyền sở hữu trí
tuệ - Hiệp định TRIPs:
Bất kỳ một dấu hiệu, hoặc tổ hợp dấu hiệu nào. Có khả năng
phân biệt hàng hóa dịch vụ của các doanh nghiệp khác đều có thể
làm nhãn hiệu hàng hóa. Các dấu hiệu đó đặc biệt là các từ, kể cả
tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình họa và tổ hợp các sắc
mầu cũng nhƣ tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó phải có khả năng
đƣợc đăng ký là nhãn hiệu hàng hóa. Trƣờng hợp bản thân các dấu
hiệu không có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ tƣơng
ứng, các thành viên có thể quy định rằng khả năng đƣợc đăng ký
thuộc vào tính phân biệt đạt đƣợc thông qua việc sử dụng. Các
thành viên có thể quy định rằng điều kiện để đƣợc đăng ký các dấu
hiệu phải là dấu hiệu nhìn thấy đƣợc.[12]

7


Đây dƣờng nhƣ là một định nghĩa bao quát chung nhất các vấn đề liên
quan đến nhãn hiệu, từ bản chất, chức năng, các yếu tố cấu thành đến điều
kiện bảo hộ của nhãn hiệu đều đƣợc đề cập trong định nghĩa này. Kế thừa
nhƣng có phần rút gọn hơn rất nhiều là định nghĩa về nhãn hiệu của Tổ chức
Sở hữu trí tuệ thế giới - WIPO, theo đó, “nhãn hiệu hàng hóa được hiểu một
cách chung nhất là dấu hiệu phân biệt, để chỉ ra sản phẩm, dịch vụ, được sản
xuất hay cung cấp bởi một chủ thể nào đó và để phân biệt với hàng hóa, dịch
vụ của chủ thể khác”. (www.wipo.int).
Định nghĩa nhãn hiệu hàng hóa trên đây của WIPO chỉ tập trung vào
bản chất của nhãn hiệu hàng hóa đồng thời là hai chức năng chính của nhãn
hiệu, chức năng chỉ nguồn gốc và chức năng phân biệt. Nội dung chính của

hai chức năng này sẽ đƣợc đề cập cụ thể trong phần chức năng của nhãn hiệu
dƣới đây.
Kết hợp giữa hai định nghĩa nêu trên, Hiệp định thƣơng mại Việt Nam
– Hoa Kỳ cũng có định nghĩa về nhãn hiệu. Tại khoản 1 Điều 6 Hiệp định này
quy định :
Trong hiệp định này, nhãn hiệu hàng hóa đƣợc cấu thành bởi dấu
hiệu bất kỳ hoặc sự kết hợp bất kỳ của các dấu hiệu có khả năng phân
biệt hàng hóa dịch vụ của một ngƣời với hàng hóa dịch vụ của ngƣời
khác, bao gồm từ ngữ, tên ngƣời,hình ảnh, chữ cái, chữ số, tổ hợp mầu
sắc, các yếu tố hình hoặc hình dạng của hàng hóa hoặc hình dạng của
bao bì hàng hóa. Nhãn hiệu hàng hóa bao gồm cả nhãn hiệu dịch vụ,
nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận.[11]
Với sự tiếp thu có chọn lọc tinh thần của định nghĩa nhãn hiệu trong
Hiệp định TRIPs và định nghĩa của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới, Hiệp định
thƣơng mại Việt Nam – Hoa Kỳ cũng khẳng định bản chất của nhãn hiệu
cũng nhƣ nêu bật các yếu tố cấu thành nhãn hiệu trong định nghĩa đề cập trên,

8


tuy nhiên Hiệp định này không chỉ dừng ở đó mà còn đƣa vào định nghĩa đó
phân loại nhãn hiệu.
Không bao hàm quá nhiều nội dung, định nghĩa nhãn hiệu theo quy
định của pháp luật Việt Nam khá ngắn gọn, đƣợc đề cập tại Khoản 16, Điều 4
Luật SHTT: “Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của
các tổ chức, cá nhân khác nhau”. [20]
Định nghĩa nhãn hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay
loại bỏ gần nhƣ tất cả các vấn đề về yếu tố cấu thành, về điều kiện bảo hộ
cũng nhƣ phân loại nhãn hiệu mà chỉ tập trung vào bản chất của nhãn hiệu là
dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác

nhau. Mặc dù định nghĩa này dƣờng nhƣ gần nhất với định nghĩa về nhãn hiệu
của WIPO, tuy nhiên nếu xem xét kỹ có thể nhận thấy sự khác biệt căn bản
giữa hai định nghĩa này chính là việc xem xét bản chất của nhãn hiệu. Nếu
nhƣ định nghĩa nhãn hiệu của WIPO đề cập đến cả hai chức năng chính của
nhãn hiệu là chỉ nguồn gốc và phân biệt hàng hoá dịch vụ thì định nghĩa nhãn
hiệu của pháp luật Việt Nam chỉ tập trung vào chức năng thứ hai của nhãn
hiệu và coi đó là chức năng chủ yếu chỉ ra bản chất của nhãn hiệu.
Theo quan điểm của các nhân tác giả, định nghĩa nhãn hiệu theo pháp
luật Việt Nam hiện hành có thể nói là đã theo kịp xu hƣớng mở trong cách
định nghĩa, với việc khái quát chung nhƣ vậy, việc sửa đổi để thêm các đối
tƣợng đƣợc bảo hộ dƣới danh nghĩa nhãn hiệu sẽ không làm thay đổi định
nghĩa về nhãn hiệu. Điều này hoàn toàn phù hợp với xu hƣớng phát triển của
nhãn hiệu trên thế giới, bởi ngày càng có nhiều đối tƣợng đƣợc xem xét bảo
hộ nhƣ một nhãn hiệu ví dụ nhƣ âm thanh, màu sắc, mùi vị v..v. Tuy nhiên,
tác giả cho rằng định nghĩa nhƣ vậy vẫn chƣa đầy đủ bởi nó chƣa chỉ ra đƣợc
hoàn toàn bản chất của nhãn hiệu.
Nhƣ vậy, một nhãn hiệu hàng hoá có thể là một từ, khẩu hiệu, logo,

9


cũng nhƣ một màu sắc hoặc tổ hợp màu, âm thanh hoặc thậm chí là mùi
hƣơng. Để có một cái nhìn khái quát về nhãn hiệu là nền tảng cho việc xem
xét nhãn hiệu trong mối quan hệ với tên thƣơng mại cũng nhƣ vấn đề giải
quyết xung đột giữa nhãn hiệu và tên thƣơng mại trong bảo hộ quyền SHCN
đối với nhãn hiệu trong các chƣơng sau, tác giả xin đƣợc đƣa ra định nghĩa
chung về nhãn hiệu nhƣ sau:
Nhãn hiệu là dấu hiệu nhìn thấy được, có thể là chữ cái, chữ số, từ ngữ,
hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể
hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc… dùng để chỉ ra hàng hoá/dich vụ được

sản xuất/cung ứng bởi tổ chức, cá nhân nào, đồng thời phân biệt hàng hóa,
dịch vụ của tổ chức cá nhân đó với hàng hoá/dịch vụ của các cá nhân, tổ
chức sản xuất, kinh doanh khác. Nhãn hiệu hàng hóa bao gồm cả nhãn hiệu
dịch vụ, nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận.
1.1.1.2. Chức năng
Từ định nghĩa nêu trên của nhãn hiệu hàng hoá có thể nhận thấy hai
khía cạnh khác nhau thể hiện hai chức năng của nhãn hiệu hàng hoá nhƣng
phụ thuộc lẫn nhau và trong thực tế luôn cần đƣợc xem xét cùng với nhau:
(i) Chức năng chỉ dẫn thƣơng mại, cụ thể là chỉ dẫn nguồn gốc của
hàng hoá/dịch vụ:
Chức năng này là chức năng chung của các dấu hiệu chỉ dẫn thƣơng
mại nhƣ nhãn hiệu, tên thƣơng mại, biểu tƣợng kinh doanh, khẩu hiệu kinh
doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao bì của hàng hoá, nhãn hàng hoá. Tất cả
các dấu hiệu này khi đƣợc gắn lên một hàng hóa hay đi kèm với một dịch vụ
nhất định đều nhằm mục đích chỉ dẫn cho ngƣời tiêu dùng về cơ sở sản xuất
hoặc cơ sở phân phối hàng hóa đó hay cơ sở kinh doanh cung cấp dịch vụ
mang các dấu hiệu đó. Mặc dù cùng thực hiện chức năng chỉ dẫn thƣơng mại,
tuy nhiên mỗi một loại dấu hiệu này thực hiện chức năng này theo một cách
thức rất riêng.

10


Khi quyết định lựa chọn một sản phẩm/dich vụ, điều đầu tiên tác động
đến tâm lý ngƣời tiêu dùng đó chính là nhãn hiệu. Bởi nhãn hiệu là sợi dây
liên kết giữa ngƣời tiêu dùng và nhà sản xuất/nhà cung ứng dịch vụ. Nhãn
hiệu với chức năng đầu tiên và quan trọng của mình chính là chỉ dẫn cho
ngƣời tiêu dùng biết sản phẩm/dich vụ đó đƣợc cung cấp bởi nhà sản xuất/nhà
cung ứng dịch vụ nào. Một sản phẩm/dịch vụ khi đã đƣợc đƣa ra thị trƣờng
với một nhãn hiệu nhất định, đã đem đến cho ngƣời tiêu dùng sự tin tƣởng

vào uy tín và chất lƣợng của nhà sản xuất sản phẩm/nhà cung ứng dịch vụ đó,
nhãn hiệu đó sẽ là dấu hiệu để ngƣời tiêu dùng quyết định chọn mua một sản
phẩm nào đó mà không hề do dự bởi họ đã biết hàng hóa hàng hoá mang nhãn
hiệu đó đã đƣợc chứng minh về mặt chất lƣợng, chắc rằng hàng hoá mang
nhãn hiệu đó đƣợc sản xuất bởi cùng một nhà sản xuất hoặc có liên quan đến
nhau và hoàn toàn tin tƣởng vào hàng hóa của nhà sản xuất đó. Nhƣ vậy, chỉ
cần nhìn vào nhãn hiệu hàng hóa, ngƣời tiêu dùng có thể cho rằng sản phẩm
mang nhãn hiệu hàng hóa đều có cùng nguồn gốc hoặc ngay cả khi đã xác
định đƣợc hai sản phẩm mang nhãn hiệu đó đƣợc sản xuất bởi các nhà sản
xuất khác nhau thì họ cũng sẽ cho rằng có mối liên hệ nào đó giữa các nhà sản
xuất này. Điều này không có nghĩa là nhãn hiệu nhất thiết phải thông báo cho
ngƣời tiêu dùng về ngƣời thực sự đã sản xuất ra sản phẩm hoặc thậm chí là
ngƣời bán sản phẩm hay ngƣời trực tiếp cung ứng dịch vụ. Chỉ cần sao cho
ngƣời tiêu dùng có thể tin tƣởng vào doanh nghiệp nhất định, là bên có trách
nhiệm đối với sản phẩm đƣợc bán ra hay dịch vụ đƣợc cung ứng mang nhãn
hiệu, chịu trách nhiệm về hàng hoá và dịch vụ mà không nhất thiết phải có
biết cụ thể về doanh nghiệp đó.
(ii) Nhãn hiệu phân biệt hàng hoá/dịch vụ của một doanh nghiệp này
với hàng hoá/dịch vụ của doanh nghiệp khác.
Chính từ chức năng chỉ dẫn nguồn gốc của hàng hoá/dịch vụ, nhãn hiệu

11


còn có thêm một chức năng nữa, đó chính là phân biệt hàng hoá/dịch vụ của
các các nhân và tổ chức khác nhau. Mặc dù là chức năng phái sinh từ chức
năng đầu tiên, nhƣng với sự phát triển không ngừng của thị trƣờng, của kinh
tế toàn cầu, dƣờng nhƣ chức năng này lại trở thành chức năng chính của nhãn
hiệu. Ngày nay, hàng hóa, dịch vụ vô cùng đa dạng và phong phú. Ngƣời tiêu
dùng lựa chọn hàng hóa, dịch vụ để mua chủ yếu dựa vào các dấu hiệu mà các

cơ sở sản xuất, kinh doanh gắn trên sản phẩm hay bao bì sản phẩm khi đƣa ra
thị trƣờng, trong đó nhãn hiệu hàng hoá là một trong những dấu hiệu chỉ dẫn
thƣơng mại đƣợc lƣu tâm hàng đầu đối với cả nhà sản xuất và ngƣời tiêu
dùng. Nhờ có nhãn hiệu hàng hóa mà ngƣời tiêu dùng có thể xác định đƣợc
hàng hóa, dịch vụ mà mình mong muốn đƣợc cung cấp bởi nhà sản xuất/nhà
cung ứng dịch vụ nào, có phải là đơn vị kinh doanh mà ngƣời tiêu dùng đã
biết và tin tƣởng hay không.
Chỉ khi nhãn hiệu cho phép ngƣời tiêu dùng phân biệt đƣợc sản
phẩm/dịch vụ mang nhãn hiệu đó với sản phẩm/dịch vụ của doanh nghiệp khác
trên thị trƣờng thì lúc đó chức năng của nhãn hiệu mới đầy đủ. Điều này cho
thấy chức năng phân biệt và chức năng chỉ dẫn nguồn gốc là hai chức năng
không thể tách rời tạo thành nhãn hiệu. Tuy nhiên không phải bất cứ dấu hiệu
nào cũng thực hiện đƣợc cả hai chức năng đề cập trên để có thể thực hiện vai trò
là một nhãn hiệu. Cần có những điều kiện cần và đủ để một dấu hiệu có thể đóng
vai trò nhƣ một nhãn hiệu đặc biệt là một nhãn hiệu đƣợc bảo hộ cho riêng một
chủ thể nào đó và thực hiện đƣợc chức năng của nhãn hiệu. Các điều kiện cần và
đủ đó chính là điều kiện bảo hộ một nhãn hiệu đƣợc đề cập dƣới đây.
1.1.1.3. Điều kiện bảo hộ
Một dấu hiệu để đƣợc bảo hộ nhƣ một nhãn hiệu cần đáp ứng hai điều
kiện, điều kiện cần là dấu hiệu đó thuộc trong các đối tƣợng đƣợc bảo hộ với
danh nghĩa nhãn hiệu và điều kiện đủ là dấu hiệu đó phải có khả năng phân biệt.

12


(i) Các dấu hiệu được bảo hộ dưới danh nghĩa nhãn hiệu:
Nhƣ đã đƣợc đề cập trong định nghĩa về nhãn hiệu trong Hiệp định
TRIPs hay Hiệp định thƣơng mại Việt Nam-Hoa Kỳ, có rất nhiều dấu hiệu có
khả năng đƣợc bảo hộ nhƣ một nhãn hiệu nhƣ “từ ngữ, tên người,hình ảnh,
chữ cái, chữ số, tổ hợp mầu sắc, các yếu tố hình hoặc hình dạng của hàng

hóa hoặc hình dạng của bao bì hàng hóa”(Định nghĩa về nhãn hiệu trong
Hiệp định thƣơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ), “tên riêng, các chữ cái, chữ số,
các yếu tố hình họa và tổ hợp các sắc mầu cũng như tổ hợp bất kỳ của các
dấu hiệu đó” (Hiệp định TRIPs). Trong quy định pháp luật sở hữu trí tuệ của
các quốc gia, không có khái niệm dấu hiệu nhƣ thế nào đƣợc bảo hộ dƣới
danh nghĩa nhãn hiệu, mà hầu hết các quốc gia đều liệt kê các dấu hiệu có thể
đƣợc bảo hộ và các dấu hiệu không đƣợc phép bảo hộ dƣới danh nghĩa nhãn
hiệu. Trong đó các dấu hiệu thuộc các trƣờng hợp sau đƣợc xem xét nhƣ điều
kiện cần để bảo hộ nhƣ một nhãn hiệu:
- Dấu hiệu là chữ cái, chữ số: Đây là dạng dấu hiệu phổ biến đƣợc bảo
hộ nhƣ một nhãn hiệu bởi tính đơn giản, dễ nhận biết và dễ ghi nhớ của nó.
Tuy nhiên, không phải dấu hiệu bao gồm chữ cái, chữ số nào cũng đƣợc bảo
hộ nhƣ một nhãn hiệu. Thông thƣờng các quốc gia sẽ tự đƣa ra những dấu
hiệu loại trừ không đƣợc bảo hộ do chƣa đạt đƣợc điều kiện đủ là có khả năng
phân biệt hàng hóa dịch vụ của các tổ chức cá nhân khác nhau. Điều này cũng
đã đƣợc quy định rõ ràng trong Hiệp định TRIPs nhƣ một quy định mở cho
từng quốc gia. Ví dụ nhƣ ngay tại Việt Nam, qua mỗi thời kỳ khác nhau, quy
định về yếu tố loại trừ này cũng khác nhau. Trƣớc khi có Luật Sở hữu trí tuệ
ra đời, tức trƣớc năm 2005, dấu hiệu chỉ bao gồm ba chữ cái không phát âm
đƣợc thành từ sẽ không đƣợc bảo hộ nhƣ một nhãn hiệu, theo đó dấu hiệu nhƣ
“CMC” hay “ABC” sẽ không đƣợ bảo hộ trừ trƣờng hợp đã đạt đƣợc khả
năng phân biệt thông qua quá trình sử dụng rộng rãi. Trong khi đó, quy định

13


hiện nay cho phép dấu hiệu chỉ cần có hai chữ cái phát âm đƣợc thành từ đã
có khả năng đƣợc bảo hộ nhƣ một nhãn hiệu, ví dụ nhƣ “AE” đã đƣợc bảo hộ
nhƣ một nhãn hiệu tại Việt Nam cho sản phẩm “quần áo, giày dép, mũ nón”.
- Dấu hiệu hình vẽ, hình ảnh: Để đƣợc bảo hộ nhƣ một nhãn hiệu, dấu

hiệu hình vẽ phải đƣợc trình bày một cách đặc biệt, tạo ra ấn tƣợng và có khả
năng nhận biết cho ngƣời tiêu dùng. Rất nhiều nhãn hiệu hình đã trở thành
biểu tƣợng khó phai mờ trong tâm trí ngƣời tiêu dùng nhƣ nhãn hiệu “
của Apple Inc. hay nhãn hiệu “



” của Microsoft Corporation. Các hình,

hình học hai chiều đơn giản nhƣ hình chữ nhật, hình vuông, hình tam
giác…hoặc hình quá rắc rối, phức tạp, khó ghi nhớ và khó nhận biết thì cũng
không đảm bảo điều kiện đƣợc bảo hộ nhƣ một nhãn hiệu. Điều này đƣợc quy
định tại pháp luật của hầu hết các nƣớc trong đó có Việt Nam. Hình ảnh là
những gì chúng ta thấy đƣợc thông qua thị giác rồi sau đó chuyển về não giúp
ta cảm nhận nhận hình ảnh đó một cách chân thực nhất từ đó đƣa ra những
phản xạ, cảm nhận về hình ảnh mà ta vừa thu nhận. Mặc dù pháp luật có quy
định hình ảnh là một trong những đối tƣợng đƣợc bảo hộ dƣới danh nghĩa
nhãn hiệu, tuy nhiên trong thực tiễn, những hình ảnh thực tế của thực thể sống
sẽ không đƣợc bảo hộ.
- Dấu hiệu kết hợp giữa các yếu tố chữ và hình được thể hiện dưới một
hoặc nhiều màu sắc. Ngay cả trƣờng hợp các yếu tố chữ và hình tách biệt
không đáp ứng đủ điều kiện về tính phân biệt nhƣng sự kết hợp của hai hay
nhiều dấu hiệu hình và dấu hiệu chữ đó tạo thành một tổng thể ấn tƣợng, dễ
nhận biết và có khả năng phân biệt thì vẫn có thể đƣợc bảo hộ nhƣ một nhãn
hiệu. Thông thƣờng sự kết hợp đó đều đi kèm với màu sắc để tạo ấn tƣợng
khác biệt. Qua đó, có thể thấy yếu tố màu sắc là không thể thiếu đƣợc đối với

14



nhãn hiệu hàng hóa bởi ƣu điểm gây ấn tƣợng đối với thị giác con ngƣời, qua
đó nó giúp cho nhãn hiệu thực hiện đƣợc chức năng phân biệt của mình. Tuy
nhiên nếu một yếu tố chỉ bao gồm màu sắc sẽ không đƣợc bảo hộ nhƣ một
nhãn hiệu theo quy định của hầu hết các nƣớc.
- Dấu hiệu phi truyền thống như hình ba chiều, màu sắc, âm thanh hay
mùi vị: Hình ba chiều đƣợc hiểu nhƣ một dạng hình ảnh đặc biệt thông qua kĩ
thuật xử lý hình ảnh, làm cho hình ảnh trở nên sắc nét, sống động hơn. Khi
nhìn vào hình ảnh đó, ngƣời ta có thể cảm nhận đƣợc vật thể một cách rõ ràng
hơn so với hình vẽ và hình ảnh thông thƣờng. Thông thƣờng hình ảnh ba
chiều đƣợc bảo hộ trên thực tế là dấu hiệu hình dáng hàng hóa hoặc bao bì sản
phẩm. Tuy nhiên, dấu hiệu hình dáng hàng hóa thƣờng không đáp ứng điều
kiện đủ để bảo hộ nhãn hiệu bởi thiếu tính phân biệt, do vậy chỉ đƣợc bảo hộ
trong trƣờng hợp đã đƣợc sử dụng rộng rãi và đƣợc đông đảo ngƣời tiêu dùng
thừa nhận tính phân biệt của nó. Ví dụ nhƣ trƣờng hợp hình ảnh ba chiều của
chai sản phẩm nƣớc súc miệng “LISTERINE” của Reckitt Benckiser đã đƣợc
bảo hộ ở Việt Nam sau khi chứng minh đƣợc dấu hiệu đã đạt đƣợc khả năng
phân biệt thông qua thực tế sử dụng rộng rãi. Tuy nhiên pháp luật Việt Nam
không chấp nhận bảo hộ dấu hiệu chỉ đơn thuần là màu sắc nhƣ mảng màu,
vệt màu mà không đƣợc kết hợp với dấu hiệu chữ hoặc dấu hiệu hình hoặc
không đƣợc thể hiện thành dạng dấu hiệu chữ hoặc dấu hiệu hình, đặc biệt
Việt Nam chƣa có cơ chế bảo hộ nhãn hiệu âm thanh, mùi vị. Giới hạn này đã
đƣợc cho phép trong Hiệp định TRIPs nhƣ quyền lựa chọn của các quốc gia
thành viên tùy vào điều kiện và năng lực bảo hộ của các quốc gia đó. Trên
thực tế tại các quốc gia phát triển, các dấu hiệu phi truyền thống nhƣ dấu hiệu
âm thanh, hình ảnh không gian ba chiều (ở Đức, Hoa Kỳ, Australia), mùi vị
(ở Australia) đã đƣợc xem xét để bảo hộ nhƣ một nhãn hiệu khi chúng đã đạt
đƣợc khả năng phân biệt thông qua thực tiễn sử dụng. Tuy nhiên, việc xác

15



định và bảo hộ các dấu hiệu này nhƣ một nhãn hiệu hàng hóa là vô cùng khó
khăn đặc biệt là trong quá trình thẩm định tính phân biệt của dấu hiệu.
Nhƣ đã đề cập trên, ngoài việc liệt kê các dấu hiệu có khả năng đƣợc
bảo hộ nhƣ một nhãn hiệu, pháp luật của các quốc gia cũng cụ thể hóa các đối
tƣợng không đƣợc phép bảo hộ nhƣ nhãn hiệu căn cứ theo Điều 6ter Công
ƣớc Paris, bao gồm:
- Các dấu hiệu trùng/tƣơng tự gây nhầm lẫn với các quốc huy, quốc kỳ
hoặc các biểu tƣợng quốc gia khác của các nƣớc thành viên của Liên minh,
các dấu hiệu kiểm tra xác nhận hoặc bảo đảm chính thức đƣợc các nƣớc đó
chấp nhận, và bất cứ sự bắt chƣớc nào mang đặc điểm huy hiệu;
- Các dấu hiệu trùng/tƣơng tự gây nhầm lẫn với các huy hiệu, cờ, các
biểu tƣợng khác, tên viết tắt, tên đầy đủ của các tổ chức quốc tế liên Chính
phủ mà có một hoặc nhiều nƣớc thành viên của Liên minh tham gia.
(ii) Điều kiện về khả năng phân biệt của nhãn hiệu.
- Khả năng tự phân biệt của nhãn hiệu:
Khả năng tự phân biệt của một dấu hiệu đƣợc xác định thông qua các
yếu tố cấu thành nên dấu hiệu đó. Nếu dấu hiệu đƣợc tạo thành từ một hoặc
một số yếu tố dễ nhận biết, dễ ghi nhớ hoặc từ nhiều yếu tố kết hợp thành một
tổng thể dễ nhận biết, dễ ghi nhớ, dấu hiệu đó đƣợc coi là có khả năng phân
biệt tự thân.
Một dấu hiệu dễ nhận biết là dấu hiệu bao gồm các yếu tố đủ để tác
động vào nhận thức, tạo ấn tƣợng và có khả năng lƣu trữ trong trí nhớ hay
tiềm thức của con ngƣời [9]. Bởi vậy, khi ta đặt dấu hiệu này bên cạnh các
dấu hiệu khác thì chúng ta đều có thể dễ dàng ghi nhớ và phân biệt.
Một dấu hiệu có thể có nhiều yếu tố độc đáo, mới lạ, hoàn toàn không
giống những gì đã có nhƣng lại có quá nhiều chi tiết rắc rối, phức tạp gây ra
sự khó khăn cho ngƣời tiếp cận và dẫn đến việc rất khó để nhận biết và phân

16



biệt cũng nhƣ ghi nhớ nội dung và cấu trúc của dấu hiệu cũng không đáp ứng
điều kiện khả năng tự phân biệt để đƣợc bảo hộ nhƣ một nhãn hiệu.
Hầu nhƣ các nƣớc đều không có quy định liệt kê các dấu hiệu có tính
phân biệt tự thân, thay vì đó, các quy định pháp luật đều đƣa ra các trƣờng hợp
bị coi là không có tính phân biệt, trong đó có các trƣờng hợp điển hình sau:
- Dấu hiệu đơn giản, thiếu tính độc đáo: Hình và hình học đơn giản,
chữ số, chữ cái, chữ thuộc các ngôn ngữ không thông dụng;
- Dấu hiệu mô tả hàng hóa, dịch vụ: Dấu hiệu có thể chính là biểu
tƣợng, hình vẽ, tên gọi thông thƣờng của hàng hóa dịch vụ, hay dấu hiệu chỉ
thời gian, địa điểm, phƣơng pháp sản xuất, chủng loại, số lƣợng, chất lƣợng,
tính chất, thành phần, công dụng, giá trị hoặc các đặc tính khác liên quan đến
hàng hóa, dịch vụ đƣợc đăng ký. Theo quy định của pháp luật của hầu hết các
nƣớc, dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của hàng hóa dịch vụ cũng không đƣợc
bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu.
- Dấu hiệu mô tả hình thức pháp lý, lĩnh vực kinh doanh của chủ thể
kinh doanh. Bất cứ chủ thể kinh doanh nào cũng gắn liền với hình thức pháp
lý nhất định và lĩnh vực kinh doanh riêng, tuy nhiên rất nhiều chủ thể khác
nhau đƣợc thành lập dƣới cùng một hình thức pháp lý và hoạt động trong
cùng lĩnh vực kinh doanh do vậy dấu hiệu mô tả thức pháp lý, lĩnh vực kinh
doanh không thể thực hiện đƣợc chức năng phân biệt hàng hóa/dịch vụ cùng
loại đƣợc cung cấp bởi các chủ thể kinh doanh khác nhau.
Điều 15 Hiệp định TRIPS ghi rõ: "Trong trường hợp bản thân các dấu
hiệu không có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ tương ứng, các thành
viên có thể quy định rằng khả năng được đăng ký phụ thuộc vào tính phân biệt
đạt được thông qua việc sử dụng". Từ quy định này của Hiệp định TRIPs, có
thể nhận thấy Hiệp định TRIPs đã để ngỏ cho các quốc gia phần quy định về
điều kiện bảo hộ trong trƣờng hợp này, tức nếu nhƣ các dấu hiệu không có khả
17



năng phân biệt tự thân, pháp luật quốc gia có thể thừa nhận khả năng một số
dấu hiệu nêu trên có thể dần dần đạt đƣợc khả năng phân biệt nhờ quá trình đầu
tƣ tiếp thị và truyền thông của doanh nghiệp. Việt Nam cũng đã có quy định
tƣơng tự trong Luật SHTT, theo quy định của Điều 74 khoản 2 mục a, b Luật
SHTT năm 2005, dấu hiệu có khả năng phân biệt thông qua sử dụng bao gồm
dấu hiệu "đã đƣợc sử dụng và thừa nhận rộng rãi với danh nghĩa một nhãn
hiệu", "đƣợc sử dụng rộng rãi, thƣờng xuyên, nhiều ngƣời biết đến". Ví dụ,
nhãn hiệu “BIA HÀ NỘI”, “VANG ĐÀ LẠT” hoặc nhãn hiệu “SM58” của
hãng micro SHURE nổi tiếng, rõ ràng các dấu hiệu này tự thân nó hoàn toàn
không có khả năng phân biệt, tuy nhiên các nhãn hiệu này đã đạt đƣợc khả
năng phân biệt qua một quá trình sử dụng đến trƣớc thời điểm nộp đơn đăng ký
và do vậy, đã đƣợc chấp nhận bảo hộ tại Việt Nam.
- Khả năng phân biệt khách quan của nhãn hiệu so với các đối tượng
được bảo hộ khác của quyền SHTT:
Để thực hiện đƣợc một cách đầy đủ hai chức năng chính của nhãn hiệu
là chức năng chỉ dẫn nguồn gốc và chức năng phân biệt, dấu hiệu xem xét
phải không đƣợc trùng hoặc tƣơng tự ở mức gây nhầm lẫn với một nhãn hiệu
hoặc một đối tƣợng của quyền SHTT cùng đóng vai trò là các chỉ dẫn thƣơng
mại đã tồn tại trƣớc đó nhƣ kiểu dáng công nghiệp, chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu
nổi tiếng, đặc biệt là trùng/tƣơng tự gây nhầm lẫn với tên thƣơng mại. Việc
đánh giá khả năng gây nhầm lẫn giữa các nhãn hiệu, giữa nhãn hiệu với các
đối tƣợng khác của quyền sở hữu công nghiệp đƣợc căn cứ vào phạm vi bảo
hộ của các đối tƣợng đó, đặc biệt là bản thân các dấu hiệu và hàng hoá/dịch
vụ mang các dấu hiệu đó.
Nhƣ vậy, bất cứ nhãn hiệu nào rơi vào các trƣờng hợp nêu trên đều
không đáp ứng đủ điều kiện để đƣợc bảo hộ nhƣ một nhãn hiệu. Việc quy

18



định nhƣ vậy tránh việc trùng hoặc tƣơng tự đến mức gây nhầm lẫn cho ngƣời
tiêu dùng; đảm bảo khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của nhà sản xuất,
nhà cung cấp dịch vụ này với các nhà sản xuất, nhà cung cấp dịch vụ khác
trên thị trƣờng, hay chỉ dẫn đền nguồn gốc của hàng hóa, dịch vụ.
1.1.1.4. Ý nghĩa
Trong nền kinh tế thị trƣờng với sự tự do cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp, bảo hộ nhãn hiệu có ý nghĩa với bản thân doanh nghiệp, với ngƣời
tiêu dùng và với toàn xã hội:
(i) Đối với doanh nghiệp:
Bảo hộ nhãn hiệu là bảo vệ tài sản trí tuệ cho doanh nghiệp. Nhãn hiệu là
tài sản vô hình rất có giá trị. Doanh nghiệp sẽ đƣợc đảm bảo mức độ an toàn
lâu dài, tốc độ phát triển lớn, với tỷ suất lợi nhuận cao nếu có một nhãn hiệu
mạnh. Nhãn hiệu đƣợc bảo hộ sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh cho chủ sở hữu nhãn
hiệu, đồng thời bảo vệ sản phẩm của họ khỏi nguy cơ bị làm giả, bắt chƣớc,
ảnh hƣởng tới uy tín cũng nhƣ kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, hỗ trợ
doanh nghiệp trƣớc áp lực cạnh tranh. Sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp đƣa
ra thị trƣờng mang nhãn hiệu đã đƣợc bảo hộ sẽ đƣợc ngƣời tiêu dùng tin tƣởng
đồng nghĩa với việc tăng cƣờng sự chung thuỷ của khách hàng.
Thực tế hiện nay, tỷ lệ giá trị tài sản vô hình (trong đó có nhãn hiệu)
đang chiếm ƣu thế áp đảo tuyệt đối khi định giá tài sản của doanh nghiệp.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, việc xây dựng và bảo hộ nhãn hiệu
cũng tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp duy trì và mở rộng thị trƣờng,
đặc biệt là vƣơn ra chiếm lĩnh thị trƣờng nƣớc ngoài. Bảo hộ nhãn hiệu còn
giúp tạo giá trị cho doanh nghiệp thông qua các hình thức chuyển giao quyền
đối với nhãn hiệu (li xăng, franchise).
Vị thế của hàng hóa sẽ đƣợc khẳng định và đƣợc thị trƣờng nhận biết,
phân biệt thông qua nhãn hiệu của hàng hóa đó. Vì vậy, cho dù doanh nghiệp
19



×