Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên phạm tội bằng chế định hình phạt trong luật hình sự việt nam (qua thực tiễn xét xử của tòa án nhân dân tỉnh hà giang)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 100 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

BÙI VĂN SƠN

BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN PHẠM TỘI BẰNG CHẾ ĐỊNH HÌNH PHẠT
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(QUA THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ GIANG)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

BÙI VĂN SƠN

BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN PHẠM TỘI BẰNG CHẾ ĐỊNH HÌNH PHẠT
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(QUA THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ GIANG)

Chuyên nghành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Trịnh Quốc Toản



Hà Nội - 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã
thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học
Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Bùi Văn Sơn


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU


1

Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ
QUYỀN CON NGƢỜI CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN
PHẠM TỘI BẰNG CHẾ ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.

Khái niệm, đặc điểm ngƣời chƣa thành niên và ngƣời chƣa
thành niên phạm tội

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm người chưa thành niên
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm người chưa thành niên phạm tội
1.2.

9

9
9
12

Sự cần thiết bảo vệ quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành
niên phạm tội bằng chế định hình phạt trong Luật hình sự
Việt Nam

1.3.

17

Khái quát lịch sử Luật hình sự Việt Nam quy định hình phạt

đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội

25

1.3.1. Giai đoạn từ Cách mạng tháng tám năm 1945 đến trước khi ban
hành Bộ luật Hình sự năm 1985

25

1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 đến trước
khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999
1.4.

27

Những quy định cơ bản của pháp luật quốc tế về bảo vệ
quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên phạm tội

30


1.5.

Pháp luật hình sự một số nƣớc về bảo vệ quyền con ngƣời của
ngƣời chƣa thành niên phạm tội

33

Chƣơng 2: CÁC QUY ĐỊNH VỀ HÌNH PHẠT TRONG BỘ
LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỚI VIỆC BẢO VỆ QUYỀN

CON NGƢỜI CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM
TỘI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1.

Các quy định về hình phạt trong Bộ luật Hình sự năm 1999
áp dụng đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội

2.2.

38

38

Thực tiễn áp dụng hình phạt của Tòa án nhân dân tỉnh Hà
Giang về bảo vệ quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên
phạm tội

2.3.

45

Một số tồn tại, hạn chế, vƣớng mắc trong thực tiễn áp dụng
hình phạt về bảo vệ quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành
niên phạm tội và nguyên nhân của nó

59

Chƣơng 3: NHU CẦU VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIẾN
NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI

CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
3.1.

66

Nhu cầu hoàn thiện các quy định về hình phạt trong Bộ luật
Hình sự năm 1999 để bảo vệ quyền con ngƣời của ngƣời chƣa
thành niên phạm tội

3.2.

66

Một số giải pháp hoàn thiện các quy định về hình phạt trong
Bộ luật Hình sự năm 1999 về bảo vệ quyền con ngƣời của
ngƣời chƣa thành niên phạm tội

3.3.

Chế định hình phạt trong Bộ luật Hình sự năm 2015 dƣới góc
độ bảo vệ quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên phạm

71


tội và một số kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
3.3.1

77


Chế định hình phạt trong Bộ luật Hình sự năm 2015 dưới
góc độ bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên
phạm tội

3.3.2. Một số kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng

77
80

KẾT LUẬN CHUNG

86

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

88


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật Hình sự

CRC

Công ước về quyền trẻ em

EU


Khối liên minh châu âu

HP

Hiến pháp

HĐXX

Hội đồng xét xử

LHS

Luật hình sự

NCTN

Người chưa thành niên

ICCPR

Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị

ICESCR

Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội

LHQ

Liên hợp quốc, Liên hiệp quốc


PLHS

Pháp luật hình sự

Quy tắc Bắc Kinh

Những quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên Hợp Quốc về
việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên

TAND

Tòa án nhân dân

TTHS

Tố tụng hình sự

TNHS

Trách nhiệm hình sự

UDHR

Tuyên ngôn thế giới về quyền con người

UNICEF

Quỹ nhi đồng liên hiệp quốc


UNFPA

Quỹ dân số thế giới

VPPL

Vi phạm pháp luật

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

WHO

Tổ chức y tế thế giới


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu bảng
Bảng: 1.1

Tên bảng
Quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của một
số quốc gia trên thế giới

Bảng: 2.1

Trang
14


Thống kê tỷ lệ tội phạn là NCTN so với tổng số tội
phạm khác bị Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang xét

48

xử giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015
Bảng: 2.2

Thống kê tội danh của NCTN phạm tội bị Tòa án
nhân dân tỉnh Hà Giang xét xử (từ đủ 14 tuổi đến

49

dưới 16 tuổi) giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015
Bảng: 2.3

Thống kê tội danh của NCTN phạm tội bị Tòa án
nhân dân tỉnh Hà Giang xét xử (từ đủ 16 tuổi đến

49

dưới 18 tuổi) giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015
Bảng: 2.4

Thống kê thực tiễn áp dụng hình phạt đối với
người chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân
dân tỉnh Hà Giang xét xử giai đoạn từ năm 2011
đến năm 2015


50


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tuyên ngôn thế giới về quyền con người đã được Đại Hội Đồng Liên
Hợp Quốc (LHQ) thông qua và tuyên bố tại Nghị quyết số 217A (III) ngày 10
tháng 12 năm 1948, trong đó có yếu tố cốt yếu là các quyền con người phải
được bảo vệ bằng Nhà nước pháp quyền. Đó là chuẩn mực chung cho tất cả các
dân tộc và các quốc gia hướng tới và thúc đẩy sự tôn trọng đối với những quyền
và sự tự do cơ bản của con người. Bên cạnh đó LHQ thông qua mở cho các
nước ký phê chuẩn và gia nhập Công ước về quyền trẻ em. Việt Nam là nước
thứ hai trên thế giới và nước Châu Á đầu tiên đã ký vào ngày 26 tháng 01 năm
1990 và phê chuẩn ngày 20 tháng 02 năm 1990. Lịch sử Nhà nước Việt Nam đã
ghi nhận quyền con người ngay khi giành được độc lập năm 1945, đó là việc
hiến định vấn đề quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 1946,
sau đó tiếp tục khẳng định, mở rộng trong các Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992
và mới đây nhất là Hiến pháp năm 2013 đã tiếp tục kế thừa và phát triển các
thiết chế bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Ghi nhận một cách trang
trọng, khẳng định rõ ràng Nhà nước Việt Nam đảm bảo các quyền con người,
quyền công dân ngay tại Chương II đó là “Quyền con người, quyền nghĩa vụ cơ
bản của công dân”, trong đó cụ thể tại Điều 14 quy định "Ở nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân
sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo
Hiến pháp và pháp luật…" [35, tr.26]. Đó là nền tảng để Nhà nước ta cụ thể hóa
hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ quyền con người, quyền công dân bằng
các thiết chế Tư pháp phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế và xây dựng nhà
nước pháp quyền, đặc biệt là hệ thống pháp luật hình sự.
Pháp luật hình sự Việt Nam quy định chế định hình phạt để áp dụng đối

với người chưa thành niên (NCTN) phạm tội là biện pháp cưỡng chế nghiêm
1


khắc nhất của Nhà nước, buộc đối tượng này phải chịu trách nhiệm đối với
những hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ gây ra, đồng thời những quy định
đó cũng là hành lang, cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền con người đối với NCTN
phạm tội một cách tốt nhất. Hay nói cách khác chế định hình phạt trong Luật
hình sự Việt Nam để bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội là một chế
định đặc biệt. Tính chất đặc biệt ở chỗ chế định hình phạt được quy định nhẹ
hơn so với người đã thành niên phạm tội có các tình tiết tương đương. Sở dĩ
NCTN được hưởng chính sách giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của Nhà nước khi
có hành vi phạm tội vì họ có đặc điểm về nhân thân, họ chưa phát triển đầy đủ
về thể chất, tâm sinh lý, chưa thể nhận thức đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã
hội của hành vi mà mình thực hiện. Nhận thức của họ còn thiếu chín chắn dễ bị
kích động, bị lôi kéo nếu ở môi trường xấu và không được chăm sóc giáo dục
chu đáo dẫn đến vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó, so với người đã thành niên ý
thức phạm tội của NCTN nói chung chưa sâu sắc, họ dễ tiếp thu sự giáo dục của
xã hội, nhà trường và gia đình để từ bỏ con đường phạm tội. Luật nhân quyền
quốc tế và hệ thống pháp luật Việt Nam coi đây là một trong những nhóm dễ
bị tổn thương và cần có chính sách pháp luật đặc biệt để bảo vệ các quyền,
lợi ích hợp pháp của họ [21]. Chính vì thế quy định chế định hình phạt trong
Luật hình sự Việt Nam áp dụng đối với NCTN phạm tội phải nhẹ hơn so với
người đã thành niên nhằm bảo vệ quyền con người đối với NCTN phạm tội
một cách tốt nhất.
Nhằm hạn chế tối đa những hành vi xâm phạm đến các quyền con người
của NCTN phạm tội, trong các giai đoạn lịch sử pháp luật hình sự nước ta đã có
rất nhiều quy định chặt chẽ về nguyên tắc cũng như trình tự, thủ tục tố tụng.
Đặc biệt là giai đoạn xét xử và áp dụng hình phạt của Tòa án nhân dân đối với
NCTN phạm tội phải đảm bảo tôn chỉ, mục đích đó là “Chủ yếu nhằm giáo dục,

giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích
cho xã hội”. Tuy nhiên, trên thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân (TAND) áp
2


dụng hình phạt đối với NCTN phạm tội cũng còn bộc lộ nhiều điểm bất cập,
chưa tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc cơ bản như “Áp dụng hình phạt đối với
người chưa thành niên phạm tội chỉ được thực hiện trong trường hợp cần thiết
và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội…”. Ngoài ra khi phạm tội
nhóm đối tượng này cũng rất khó có khả năng và điều kiện để bảo vệ quyền, lợi
ích chính đáng của mình đã được pháp luật hình sự Việt Nam quy định. Đồng
thời họ cũng rất dễ bị cơ quan tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng
vô tình hoặc cố ý xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Những xâm
phạm này có thể gây ra những hậu quả khó lường, khó có thể khắc phục bởi nó
liên quan trực tiếp đến tương lai của NCTN.
Việc các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng khi xử lý
hành vi vi phạm pháp luật đối với NCTN phạm tội có vì mục đích chủ yếu
nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công
dân có ích cho xã hội hay không; Có phù hợp với tình hình thực tế, với những
hành vi nguy hiểm mà họ đã gây ra hay không; Họ có được hưởng đầy đủ các
chính sách giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của Nhà nước quy định hay không...;
Đó chính là vấn đề cần phải được quan tâm nghiên cứu nhằm bảo đảm các quy
định pháp luật hình sự, các chế định hình phạt đối với NCTN thật sự phù hợp,
để họ có cơ hội được sửa chữa, khắc phục những sai lầm và được phát triển hài
hòa, toàn diện. Do vậy, việc nghiên cứu các chế định hình phạt trong Luật hình
sự và đánh giá qua thực tiễn xét xử của TAND là một điều hết sức cần thiết
nhằm bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội một cách tốt nhất.
Trong đề tài này, tác giả đi sâu nghiên cứu Bảo vệ quyền con người của
NCTN phạm tội bằng chế định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam. Phân tích,
khái quát lịch sử hình thành và phát triển của chế định hình phạt đối với NCTN

phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử đối với NCTN
phạm tội ở địa bàn tỉnh Hà Giang, trong giai đoạn 5 năm trở lại đây (2011 2015). Trên cơ sở đó kiến nghị việc hoàn thiện pháp luật hình sự đối với NCTN,
3


tìm giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng về mặt thực tiễn nhằm góp phần bảo vệ
quyền con người của người của NCTN phạm tội. Đây cũng là lý do để học viên
quyết định lựa chọn đề tài: Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên
phạm tội bằng chế định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam (qua thực tiễn
xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang) làm Luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Bảo đảm quyền con người của NCTN nói chung, bảo đảm quyền con
người của NCTN phạm tội và việc áp dụng hình phạt trong xét xử án hình sự, đã
được nhiều nhà khoa học và cán bộ làm công tác thực tiễn nghiên cứu. Có nhiều
công trình khoa học được công bố, có một số luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ,
một số giáo trình giảng dạy, bài viết trên các tạp chí dưới các góc độ và mức độ
khác nhau, cụ thể như:
* Dưới góc độ luận án tiễn sĩ, luận văn thạc sĩ luật học: Có các công
trình “Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên theo pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam”của tác giả Trần Hưng Bình, Luận án tiến sỹ luật
học năm 2013, Học viện khoa học xã hội - Viện hàm lâm khoa học xã hội Việt
Nam; “Hình phạt tù có thời hạn, áp dụng đối với người chưa thành niên phạm
tội theo Luật hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Thu Huyền, Luận văn
thạc sỹ luật học năm 2012, Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; "Bảo vệ
quyền của người chưa thành niên trong Tư pháp hình sự Việt Nam" của tác giả
Nguyễn Thị Thanh, Luận văn thạc sỹ luật học năm 2008, Khoa Luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội...
* Dưới góc độ đề tài khoa học, bài viết trên báo, tạp chí: Có nhiều tài
liệu đề cập đến như: Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, Khoa
luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội 2009;

Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự, Khoa luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội, Trung tâm nghiên cứu quyền con người - quyền công dân và
Trung tâm nghiên cứu tội phạm học và tư pháp hình sự, Nxb Đại Học Quốc Gia
4


Hà Nội, Hà Nội 2011; Việt Nam và các văn kiện quốc tế về quyền trẻ em, Nxb
Chính Trị Quốc Gia - Ủy Ban bảo vệ và chăm sóc Trẻ em Việt Nam, Hà Nội
1997; Số chuyên đề Bảo đảm quyền con người và quyền công dân bằng các
thiết chế Tư pháp, Bộ Tư pháp, Tạp chí dân chủ và pháp luật, Nxb Tư pháp, Hà
Nội 2014; Đồng tác giả Lê Cảm và Đỗ Thị Phượng "Tư pháp hình sự đối với
người chưa thành niên, những khía cạnh pháp lý hình sự, tố tụng hình sự, tội
phạm học và so sánh luật học" các số 20, 21, 22, năm 2004; “Chính sách hình
sự đối với người chưa thành niên phạm tội - Nhìm từ phương diện tội phạm học
và trách nhiệm xã hội" của ThS. Lê Minh Thắng, Tạp chí dân chủ và pháp luật,
số 12 năm 2011; “Hiến pháp năm 2013 với chế định bảo đảm quyền con người
về Tư pháp hình sự" của TS. Phạm Văn Hùng, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 16
tháng 8 năm 2014; “Hoàn thiện quy định pháp luật hình sự về hình phạt áp
dụng đối với người chưa thành niên phạm tội" của ThS. Lương Ngọc Trâm,
Tạp chí Tòa án nhân dân, số 19 tháng 10 năm 2014 ...
Như vậy, các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến vấn đề về
quyền con người của NCTN trong các chính sách hình sự Việt Nam. Tuy nhiên,
về phương diện nghiên cứu chuyên sâu về quyền con người của NCTN phạm tội
bằng chế định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử của
TAND trên một địa bàn cụ thể thì vẫn chưa được quan tâm một cách đúng mức.
Vì lý do đó, đề tài nghiên cứu dựa trên thực tiễn xét xử của TAND tỉnh Hà Giang,
giai đoạn 05 năm (2011 - 2015) để từ đó đưa ra các kiến nghị giải pháp hoàn thiện
và nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt đối với NCTN phạm tội, nhằm bảo vệ
quyền con người của NCTN phạm tội là việc làm cần thiết có ý nghĩa cả về lý luận
và thực tiễn hiện nay.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của Luận văn đó là làm sáng tỏ về mặt lý luận, những vấn đề
pháp lý của hệ thống pháp luật Việt Nam có liên quan đến chế định hình phạt
5


trong Luật hình sự Việt Nam đối với NCTN phạm tội, và các văn kiện Luật
nhân quyền quốc tế về lĩnh vực này. Đồng thời xem xét thực tiễn áp dụng
những quy định nêu trên tại địa bàn tỉnh Hà Giang. Trên cơ sở đó đưa ra những
nhận xét, đánh giá, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật hình sự
và nâng cao hiệu quả áp dụng vào việc bảo vệ quyền của NCTN phạm tội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn đi sâu vào việc giải quyết các vấn đề làm sáng tỏ khái niệm,
đặc điểm về NCTN và NCTN phạm tội; Phân tích, so sánh, nhận xét, đánh giá
các quy định đối với NCTN phạm tội theo quy định của Luật nhân quyền quốc
tế và pháp luật Việt Nam về tính phù hợp, hợp lý và tương thích. Nghiên cứu
thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật đối với việc bảo vệ quyền con
người của NCTN phạm tội. Trách nhiệm bảo vệ quyền con người của NCTN
phạm tội, phân biệt bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội trong các giai
đoạn tố tụng khác. Trên cơ sở đó Luận văn chỉ ra một số vướng mắc, tồn tại
trong thực tiễn để đề xuất một số kiến nghị, các giải pháp hoàn thiện các quy
định của pháp luật hình sự và việc áp dụng nhằm bảo vệ quyền con người của
NCTN phạm tội.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng
về nhà nước và pháp luật. Nhất là quan điểm của Bộ Chính trị tại Nghị quyết số
08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công
tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm

2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng
6 năm 2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Ngoài ra Luận văn
cũng kế thừa có chọn lọc những vấn đề lý luận và thực tiễn đã được các nhà
nghiên cứu đi trước đưa ra, những tài liệu, công trình đã được công bố trên các
6


tài liệu, bài viết, tạp trí của các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể khác như:
Phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn giải, suy luận lôgic, phương pháp hệ thống,
thống kê xã hội học...; Các phương pháp nghiên cứu được kết hợp giữa lý luận
và thực tiễn để rút ra kết luận khoa học của mình đối với vấn đề nghiên cứu.
5. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của Luận văn đúng như tên gọi của đề
tài: Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên phạm tội bằng chế
định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam (qua thực tiễn xét xử của Tòa án
nhân dân tỉnh Hà Giang).
Đối tượng nghiên cứu của luận văn gồm 02 vấn đề chính:
- Các vấn đề chung về quyền con người của NCTN phạm tội bằng chế
định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam.
- Các vấn đề thực tiễn áp dụng các chế định hình phạt đối với NCTN
phạm tội theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam. (Qua thực tiễn xét xử
của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang) giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015.
6. Kết quả nghiên cứu
Thứ nhất: Thông qua việc nghiên cứu các quy định của Luật nhân quyền
quốc tế và quy định của pháp luật hình sự Việt Nam. Luận văn làm sáng tỏ
những vấn đề chung cơ bản của chế định hình phạt trong Luật hình sự Việt
Nam đối với việc bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội. Nhận xét, đánh
giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật đối với việc bảo vệ quyền con

người của NCTN phạm tội tại tỉnh Hà Giang.
Thứ hai: Thông qua việc đánh giá thực trạng, tổng hợp kết quả nghiên
cứu. Luận văn đưa ra đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện các quy
định của pháp luật hình sự về bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội, các
biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt đối với đối với NCTN phạm tội
trên thực tế.
7


Luận văn có thể dùng làm tài liệu thảm khảo trong quá trình nghiên cứu
xây dựng sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện các chế định hình phạt trong Luật hình
sự Việt Nam đối với NCTN phạm tội. Ngoài ra có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo, nghiên cứu, học tập..., qua đó góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh
phòng, chống tội phạm do NCTN thực hiện, cũng như việc bảo vệ tốt nhất
quyền con người của NCTN phạm tội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận văn bao gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề chung về bảo vệ quyền con người của người
chưa thành niên phạm tội bằng chế định hình phạt trong
Luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Các quy định về hình phạt trong Bộ luật Hình sự năm 1999
với việc bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên
phạm tội và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Nhu cầu và một số giải pháp kiến nghị hoàn thiện các quy
định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về bảo vệ quyền con
người của người chưa thành niên phạm tội và nâng cao hiệu
quả áp dụng.

8



Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI
CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
BẰNG CHẾ ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm ngƣời chƣa thành niên và ngƣời chƣa
thành niên phạm tội
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm người chưa thành niên

Mỗi con người từ khi sinh ra đến khi trưởng thành đều có quá trình phát
triển và được chia thành nhiều giai đoạn phát triển khác nhau, trong đó có một
giai đoạn đặc biệt để có bước phát triển nhảy vọt cả về thể chất và tâm hồn, đó
là thời kỳ được gọi là ngƣời chƣa thành niên. Khi nói đến NCTN chúng ta
thường hiểu rằng đó là người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về nhân cách
(thể chất và tinh thần), chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân.
Đó là thời kỳ gắn liền với những thay đổi về tâm sinh lý mà bất kỳ người đã
thành niên nào cũng phải trải qua. Đây là thời kỳ chuyển tiếp mà NCTN không
hẳn là trẻ em, nhưng cũng không phải là người đã thành niên.
Thuật ngữ NCTN thường được dùng phổ biến ở tất cả các nước trên thế
giới cũng như ở các ngành khoa học khác nhau, nhưng khi nói đến khái niệm về
NCTN thì đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Ngay cả trong văn bản pháp
luật thực định cũng có những tên gọi khác nhau như “Người chưa thành niên;
trẻ vị thành niên hoặc trẻ em”. Trên phương diện luật pháp quốc tế khái niệm
NCTN được đề cập tại các văn kiện pháp lý quan trọng và nó trở thành giá trị
chuẩn mực chung cho tất cả các dân tộc, các quốc gia muốn hướng tới nhằm
thúc đẩy sự tôn trọng để bảo vệ quyền con người của NCTN. Cụ thể các văn
kiện quốc tế như:
Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em (CRC) tại Điều 1 quy
định "Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi,

9


trừ trường hợp pháp luật áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm
hơn" [29, tr.26]. Như vậy, theo CRC trẻ em được xác định là người dưới 18
tuổi, trừ khi pháp luật quốc gia công nhận tuổi thành niên sớm hơn. Còn theo
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) lứa tuổi 10 - 19 tuổi là độ tuổi vị thành niên;
thanh niên trẻ là lứa tuổi 19 - 24 tuổi. Chương trình Sức khỏe sinh sản/Sức khỏe
tình dục vị thành niên - thanh niên của khối Liên minh Châu Âu (EU) và Quỹ
Dân số Liên Hiệp Quốc (UNFPA) lấy độ tuổi 15 - 24 tuổi.
Bên cạnh đó Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của LHQ về việc áp dụng pháp
luật đối với NCTN (Quy tắc Bắc Kinh) cũng nêu rõ "Người chưa thành niên là
trẻ em hay người ít tuổi tuỳ theo từng hệ thống pháp luật có thể bị xét xử vì
phạm pháp theo một phương thức khác với việc xét xử người lớn" [27, số 2.2,
mục a]. Quy tắc Bắc Kinh chỉ quy định các tiêu chuẩn tối thiểu và nó hoàn toàn
tôn trọng tính riêng của mỗi quốc gia khi quy định giới hạn độ tuổi của NCTN
phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của quốc gia đó.
Tuy nhiên, trên thực tế các văn kiện pháp lý quốc tế đều thống nhất định
nghĩa khái niệm NCTN là người dưới 18 tuổi. Bởi lẽ đây là giai đoạn trẻ em
phát triển lên người lớn, và đặc điểm chính của NCTN trong giai đoạn này là
chưa phát triển toàn diện về thể chất, tinh thần, tâm sinh lý và nhân cách; Chưa
đủ khả năng để sử dụng quyền và gánh vác nghĩa vụ pháp lý như người đã
thành niên. Do vậy, pháp luật ở mỗi quốc gia quy định riêng độ tuổi cụ thể của
NCTN phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội để có hệ thống pháp luật phù hợp.
Ở Việt Nam, định nghĩa, khái niệm NCTN theo Từ điển Tiếng Việt –
Viện ngôn ngữ học viết "Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy
đủ, toàn diện về thể lực, trí lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy đủ
quyền và nghĩa vụ công dân" [49, tr.55].
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, tùy theo từng lĩnh vực điều chỉnh
của từng ngành luật mà nhà làm luật đưa ra khái niệm NCTN cũng khác nhau


10


cụ thể như:
+ Điều 18 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định "Người từ đủ 18 tuổi trở
lên là người thành niên, người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên" [31];
+ Điều 119 Bộ luật Lao động năm 2002 quy định "Người lao động chưa
thành niên là người lao động dưới 18 tuổi" [33];
+ Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định "Trẻ em quy
định trong luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi" [30];
+ Điều 12 BLHS năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định
"Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm; Người từ đủ 14
tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm
trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng" [32]; Điều 68 BLHS quy
định "Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu
TNHS theo những quy định của chương này..." [32].
Từ những phân tích trên có thể thấy rất nhiều quy định khác nhau về việc
xác định cụ thể thời điểm bắt đầu, kết thúc của thời kỳ NCTN, vì mỗi góc độ
tiếp cận khác nhau thì quan niệm về NCTN theo đó cũng khác nhau. Nhưng tựu
chung quan niệm của các ngành luật đều đồng nhất ý kiến NCTN là người chưa
trưởng thành về thể chất và trí tuệ. Đặc điểm đặc trưng về lứa tuổi là sự phát
triển chưa đầy đủ, các em đang trong quá trình hình thành, phát triển tâm sinh
lý, nhận thức còn non nớt, hạn chế, kinh nghiệm sống ít ỏi, hành động thường
bồng bột, xốc nổi, nhẹ dạ, thiếu kinh nghiệm, dễ va vấp bởi môi trường sống
xung quanh tác động.
Nhưng nói về khái niệm NCTN thì chúng ta có thể dựa theo quy định tại
Điều 18 BLDS và Điều 119 BLLĐ là hai Bộ luật chung, phổ biến để thống nhất
về quan điểm đưa ra định nghĩa, khái niệm "Người chưa thành niên là người
dưới 18 tuổi". Khái niệm này hoàn toàn phù hợp với CRC.


11


1.1.2. Khái niệm, đặc điểm người chưa thành niên phạm tội
Khái niệm NCTN phạm tội không những mang tính pháp lý mà còn có ý
nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc. Khái niệm này phụ thuộc vào sự tồn tại của mỗi
xã hội và sự phát triển về thể chất, tinh thần của con người sống trong xã hội
đó, nó phản ánh thông qua ý chí của giai cấp thống trị. Trong các văn bản Quốc
tế và các chương trình của LHQ về vấn đề trẻ em sử dụng đồng thời cả hai khái
niệm trẻ em và người chưa thành niên. Hệ thống pháp luật ở tất cả các quốc gia
trên thế giới khi quy định NCTN phạm tội đều chú ý tới độ tuổi của họ, và nỗ
lực tìm mọi cách bảo đảm hệ thống pháp luật liên quan đến NCTN phạm tội
tuân thủ theo đúng luật quốc tế về quyền con người. Bên cạnh đó Công ước còn
có tính ràng buộc, tập hợp các quy tắc, hướng dẫn đã được cộng đồng quốc tế
thông qua để quy định chi tiết việc áp dụng pháp luật với NCTN. Đây là những
nguyên tắc và tiêu chuẩn mà nhiều quốc gia thành viên đã đồng ý và nêu rõ
trong các tuyên ngôn, nguyên tắc, quy tắc và các hướng dẫn chuẩn. Mặc dù
những văn bản này không có hiệu lực ràng buộc về mặt pháp lý với các quốc
gia thành viên, nhưng chúng được xây dựng từ pháp luật quốc tế và được đông
đảo các nước trên thế giới đồng tình ủng hộ. Do vậy, các văn bản chủ yếu mang
tính khuyến nghị, định hướng đối với các quốc gia thành viên, góp phần thực
hiện Công ước quốc tế về quyền trẻ em [23, tr.424-429].
- Tại Nga, Bộ luật Hình sự liên bang quy định tuổi chịu trách nhiệm hình
sự ở Điều 20 đó là "Người đủ 16 tuổi vào thời điểm phạm tội phải chịu trách
nhiệm hình sự; Người đủ 14 tuổi vào thời điểm phạm tội phải chịu trách nhiệm
hình sự về các tội tại các điều 105; 111; 112; 126; 131; 132; 158; 161; 162;
163; 166; 167; 205; 206; 207; 213; 214; 226; 229; 267 [9, tr.40].
- Tại Pháp, Điều 122.8 Bộ luật Hình sự quy định "Những người chưa
thành niên nhận thức được hành vi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với các

tội phạm nghiêm trọng, các tội ít nghiêm trọng hoặc các tội phạm nhỏ…”; LHS

12


Pháp cũng quy định các biện pháp giáo dục có thể được tuyên đối với những
NCTN từ 10 đến 18 tuổi, quy định hình phạt đối với NCTN từ 13 đến 18 tuổi,
có tính đến độ tuổi khi cân nhắc giảm hình phạt [9, tr.47].
- Tại Mỹ, có 13 tiểu bang đã thiết lập độ tuổi tối thiểu khoảng từ 6 đến 12
tuổi, và hầu hết các bang đều dựa vào pháp luật chung của nhà nước.
- Pháp luật của các nước Bắc Âu lại quy định tuổi chịu trách nhiệm hình
sự là 15, thanh thiếu niên dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu được áp dụng hệ thống
tư pháp là các dịch vụ xã hội, còn việc giam giữ là phương án cuối cùng.
- Tại Nhật Bản có hệ thống Tòa án gia đình để xét xử đối với người phạm
tội dưới 20 tuổi, chứ không được xét xử chung trong hệ thống tòa án hình sự.
- Tại Trung Quốc lại quy định trẻ em từ 14 đến 18 tuổi được xử lý bằng
hệ thống tư pháp vị thành niên.
- Còn ở Việt Nam, Điều 12 BLHS năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm
2009 quy định "1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm;
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội
phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng" [32].
Theo quy định của Luật hình sự (LHS) Việt Nam thì NCTN phải chịu
trách nhiệm hình sự (TNHS) là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi; Người từ
đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất
nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy, một người
chưa đủ 14 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội dù cố ý hay vô ý và gây
hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, hoặc từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi phạm
tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng do vô ý đều
không phải chịu TNHS. Quy định NCTN phạm tội trong LHS là cụ thể hóa
TNHS về các nguyên tắc bình đẳng trong LHS, nhưng đồng thời nó cũng là cơ

sở để bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội qua việc Tòa án xét xử và
quyết định hình phạt đối với họ.

13


Bảng 1.1: Quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
của một số quốc gia trên thế giới
Hoa kỳ
Ấn Độ
Bangladesh
Pakistan
Nam Phi
Vương quốc Anh (Scotland)
Indonesia
Ethiopia
Iram
Vương quốc Anh (Anh)
Vương quốc Anh (xứ Wales)
Ukraine
Hàn Quốc
Uganda
Pháp
Ba Lan
Liên bang Nga
Đức
Ý
Trung Quốc
Nhật Bản
Ai cập

Argentina
Brazil
Colmbia
Peru

7
7
7
7
7
8
8
9
9
10
10
10
12
12
13
13
14
14
14
14
14
15
16
18
18

18
(Nguồn: TAND Tối cao)

Nhìm vào Bảng biểu quy định độ tuổi chịu TNHS của mỗi quốc gia có
thể nói hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia tùy thuộc vào từng điều kiện kinh
tế - xã hội của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ nhất định; sự đánh giá về trình
độ phát triển và nhận thức xã hội để có thể quy định độ tuổi chịu TNHS đối với
NCTN phạm tội nhằm đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả trên thực
tiễn của mỗi quốc gia đó.
Một hoạt động mà các quốc gia trên toàn cầu đang nỗ lực thực hiện là
14


tìm mọi cách bảo đảm hệ thống pháp luật liên quan đến NCTN phạm tội tuân
thủ theo đúng Luật quốc tế về quyền con người. Kể từ năm 1989 các nước trên
thế giới đã và đang đưa những nguyên tắc quốc tế vào các luật và chính sách
quốc gia, đã có nhiều văn bản quốc tế về quyền con người đối với trẻ em và
NCTN ra đời. Trong các văn bản quốc tế và các chương trình của LHQ về trẻ
em luôn sử dụng đồng thời cả hai khái niệm trẻ em và NCTN, việc tăng cường
bảo vệ các quyền của trẻ em nói chung, NCTN phạm tội nói riêng là một khía
cạnh quan trọng trong hoạt động của các cơ quan và chương trình của LHQ.
Đối với pháp luật hình sự Việt Nam quy định độ tuổi chịu TNHS đầy đủ
là từ đủ 16 tuổi trở lên, còn độ tuổi chịu TNHS hạn chế là độ tuổi từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi và được quy định cụ thể trong Điều 12 BLHS. Chúng ta có thể
hiểu về mặt lý luận BLHS quy định người chưa đủ mười 14 tuổi sẽ không phải
chịu TNHS về bất kể hành vi nguy hiểm nào mà họ đã gây ra cho xã hội. Vì
người chưa đủ 14 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất, trí tuệ, chưa
nhận thức đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội mà mình đã gây ra. Họ chưa
đủ khả năng để tự chủ hành động của mình, nên họ không bị coi là có lỗi về
hành vi nguy hiểm của mình gây ra, tức là họ không hội tụ đầy đủ yếu tố cấu

thành tội phạm do BLHS quy định, do vậy họ không phải chịu TNHS (loại trừ
trách nhiệm hình sự). Đối với người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16
phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm
trọng. Bởi đây được coi là độ tuổi chưa có năng lực TNHS đầy đủ, đó là lứa
tuổi đang phát triển về tâm sinh lý và nhân cách, còn non nớt về nhận thức và
tinh thần, nên dễ bị ảnh hưởng của môi trường sống. Hành vi của NCTN thường
bồng bột, thiếu suy nghĩ, thậm chí không cần suy nghĩ về hậu quả của hành vi
mình thực hiện. Do đó, họ cũng phải chịu TNHS về một số tội phạm “Rất
nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng” chứ họ không phải chịu
TNHS đối với tất cả các loại tội phạm mà họ gây ra.
Tuy Điều 12 BLHS quy định (1. Người đủ từ 16 tuổi trở lên phải chịu
15


trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm; 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa
đủ 16 phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc
tội đặc biệt nghiêm trọng) [32], song BLHS cũng có một chương riêng quy định
đối với NCTN phạm tội (Chương X từ Điều 68 đến Điều 77). Trong đó tại Điều
68 quy định nguyên tắc xử lý đối với NCTN phạm tội đó là “Người chưa thành
niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự theo những
quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Phần chung
Bộ luật không trái quy định của Chương này” [32]. Quy định trên là sự thể hiện
chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta đối với NCTN phạm tội, thể hiện
chính sách bảo vệ quyền con người đối với NCTN phạm tội.
Khái niệm NCTN phạm tội (hay vi phạm pháp luật hình sự) là người
dưới 18 tuổi đã thực hiện, hoặc bị tố cáo là đã thực hiện một hành vi vi phạm
pháp luật. Khái niệm này bao gồm cả những NCTN bị áp dụng các biện pháp
hành chính và hình sự. Trong các văn bản pháp luật quốc tế, đôi khi những đối
tượng này còn được gọi là “Trẻ em làm trái pháp luật”. Xét về khía cạch quy
định trong Luật hình sự Việt Nam thì chúng ta có thể hiểu khái niệm NCTN

phạm tội bao gồm “Những người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 18 tuổi
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong LHS là tội
phạm” [16, tr.458]. Như vậy, Bộ luật hình sự chưa đưa ra khái niệm cụ thể về
NCTN phạm tội, mà chỉ đưa ra các quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình
sự đối với NCTN phạm tội và các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng dựa trên một số đặc điểm sau để xác định NCTN phạm tội đó là:
- Có hành vi phạm tội do NCTN thực hiện.
- Người thực hiện hành vi phạm tội đã đủ tuổi chịu TNHS tương ứng với
loại tội phạm và lỗi gây ra tội phạm.
- Người đó thực tế phải chịu TNHS sau khi các cơ quan có thẩm quyền
cân nhắc tính cần thiết phải xử lý bằng hình sự mà không thể áp dụng các biện
pháp tư pháp khác để quản lý, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.
16


Trong lĩnh vực nghiên cứu về NCTN phạm tội, đồng tác giả Lê Cảm và
Đỗ Thị Phượng có cuốn “Tội phạm hình sự đối với người chưa thành niên những khía cạch pháp lý hình sự, tố tụng hình sự, tội phạm học và so sánh luật
học”, tại Phần I - Những khía cạnh pháp lý hình sự đã đưa ra khái niệm về
NCTN phạm tội như sau "Người chưa thành niên phạm tội là người đủ 14
tuổi đến dưới 18 tuổi có năng lực trách nhiệm hình sự chưa đầy đủ do hạn
chế bởi đặc điểm tâm - sinh lý và có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự cấm" [19, tr.18]. Có thể nói, đây là một
khái niệm hoàn chỉnh nhất về NCTN phạm tội cho đến thời điểm hiện nay được
các nhà khoa học nghiên cứu.
1.2. Sự cần thiết bảo vệ quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên
phạm tội bằng chế định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam
Về nhận thức chung thì quyền con người được hiểu là một phạm trù đa
diện, do đó có nhiều định nghĩa khác nhau về quyền con người (nhân quyền).
Mỗi định nghĩa về quyền con người là một sự biểu hiện khác nhau ở góc độ
nhìn nhận về vấn đề nhân quyền sao cho phù hợp với sự nhìn nhận của người

đó. Ở cấp độ quốc tế, khái niệm quyền con người lần đầu tiên được tổ chức
Liên Hợp Quốc chính thức thừa nhận vào năm 1948 với sự kiện ra đời của
Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người. Trong đó, quyền con người được
Văn phòng Cao ủy LHQ khẳng định “Quyền con người là những bảo đảm pháp
lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành
động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do
cơ bản của con người” [24, tr.48]. Như vậy, quyền con người dù được nhìn
nhận dưới góc độ nào đều được hiểu là những quyền tự nhiên cơ bản của con
người, không thể bị tước đoạt, chiếm giữ bởi bất cứ ai và bất cứ thế lực nào.
Ở Việt Nam, đã có một số cơ quan và các chuyên gia nghiên cứu từng
đưa những định nghĩa khác nhau về quyền con người. Nhưng xét chung có một
định nghĩa về quyền con người đang được sử dụng phổ biến trong giảng dạy,
17


×