Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Tội giết người qua thực tiễn xét xử tại tòa án nhân dân tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG THỊ THU HOÀI

TỘI GIẾT NGƢỜI QUA THỰC TIỄN XÉT XỬ TẠI
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC NINH

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC

TS Phạm Minh Tuyên

Hà Nội, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực.
Hà Nội, ngày 23 tháng 3 năm 2018
Tác giả luận văn

HOÀNG THỊ THU HOÀI



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI
GIẾT NGƢỜI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM...................... 6
1.1. Khái niệm tội giết người và ý nghĩa của việc quy định tội phạm này theo
pháp luật hình sự Việt Nam... .......................................................................... .6
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển các quy phạm pháp luật hình sự Việt
Nam về tội giết người…................................................................................. .20
1.3. Tìm hiểu quy định về tội giết người theo Bộ luật hình sự của một số nước
trên thế giới… ............................................................................................... ..33
CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH
PHẠT CÁC VỤ ÁN VỀ TỘI GIẾT NGƢỜI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẮC NINH… .................................................................................... ..39
2.1. Thực tiễn định tội danh khi xét xử các vụ án hình sự về tội giết người tại
Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh ...................................................................... .39
2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt khi xét xử các vụ án hình sự về tội giết
người tại Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh ...................................................... .45
2.3. Những mặt hạn chế trong định tội danh và quyết định hình phạt khi xét
xử các vụ án hình sự về tội giết người tại Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh .... 53
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ
TỘI GIẾT NGƢỜI........................................................................................ 58
3.1 Yêu cầu và quan điểm chỉ đạo nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
luật…………………………………………………………………………...58
3.2 Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật các vụ án
hình sự về tội giết người.................. .............................................................. .61
KẾT LUẬN......................... ........................................................................ ...78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.... ............................................. ....80



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ADPL

Áp dụng pháp luật

BLHS

Bộ luật Hình sự

BLHĐ

Bộ luật Hồng Đức

BLGL

Bộ luật Gia Long

CTTP

Cấu thành tội phạm

HĐTP

Hội đồng Thẩm phán

NXB

Nhà xuất bản


QĐHP

Quyết định hình phạt

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TNHS

Trách nhiệm hình sự

VAHS

Vụ án hình sự

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xã hội càng phát triển thì quyền con người ngày càng được quan tâm hơn.
Một trong những quyền cơ bản của con người đó là quyền được sống, được bảo vệ
về tính mạng, sức khỏe. Từ trước tới nay, quyền sống (hay quyền được sống) đã

được ghi nhận trong nhiều văn kiện pháp lý quan trọng của quốc tế, của các quốc
gia khác nhau và của nước ta như: Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền của Liên hợp
quốc năm 1948; Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Liên hợp
quốc năm 1966; Công ước quốc tế về quyền trẻ em của Liên hợp quốc năm 1989;
Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776; Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam
1945... Tại Điều 3 của bản Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948 khẳng định:
“Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân”. Trong bản “Tuyên
ngôn Độc lập” do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình lịch sử
ngày 2 tháng 9 năm 1945 không những đã kế thừa tinh hoa về quyền con người trên
thế giới mà còn phát triển những tư tưởng ấy lên một tầm cao mới bằng việc nhắc
lại những luận điểm bất hủ trong bản “Tuyên ngôn độc lập” của nước Mỹ và
“Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền” của Pháp. Người khẳng định: “Tất cả mọi
người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể
xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền
mưu cầu hạnh phúc”. Tại Điều 19 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận “Mọi người có
quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt
tính mạng trái luật” [22]. Tuy nhiên trước ảnh hưởng tiêu cực mà nền kinh tế thị
trường đem lại, tình trạng suy đồi đạo đức, truyền thống, lối sống ích kỉ cá nhân của
một bộ phận giới trẻ hiện nay trở thành vấn đề đáng báo động trong xã hội. Theo đó
tình hình tội phạm nói chung trong đó có tội phạm giết người nói riêng không
ngừng gia tăng trong những năm gần đây. Nhiều vụ án có thủ đoạn tinh vi xảo quyệt
gây khó khăn cho công tác điều tra, xét xử, có nhiều vụ đặc biệt nghiêm trọng với
hành vi dã man, tàn ác để lại hậu quả cũng thương tâm hơn, gây bất bình, phẫn uất
trong quần chúng nhân dân điển hình như vụ Lê Văn Luyện ở Bắc Giang, vụ án
Nguyễn Hải Dương ở Bình Dương…
Tỉnh Bắc Ninh là một trong những tỉnh tăng trưởng nhanh nhất miền bắc, nhất
là tốc độ tăng trưởng công nghiệp; là nơi tập trung dân cư đông đúc do tập trung
nhiều Khu công nghiệp lớn, chính vì vậy tình hình tội phạm diễn ra ở đây vô cùng
1



phức tạp. Trong những năm gần đây, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh mặc dù số vụ án
giết người nhìn chung đã được kiềm chế và có xu hướng giảm, tuy nhiên tính chất
ngày càng nghiêm trọng, thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi gây ra tâm lý hoang
mang, lo sợ trong quần chúng nhân dân. Có thể nói rằng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh,
trong những năm gần đây tình trạng sử dụng bạo lực diễn ra trầm trọng, trong đó có
nhiều vụ án giết người xảy ra chủ yếu do mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, chỉ vì
những mâu thuẫn nhỏ nhặt trong cuộc sống, những tranh chấp không đáng kể trong
gia đình, hay để cướp tài sản. Nhiều vụ án, hung thủ đã sử dụng cụ, phương tiện
nguy hiểm như súng, lựu đạn, kiếm,… gây ra cái chết thương tâm của nhiều người.
Trước tình hình, diễn biến tội phạm giết người xảy ra khá phức tạp như hiện
nay, đặc biệt là với địa bàn tỉnh Bắc Ninh, một tỉnh đang có sự phát triển vượt bậc
về công nghiệp do có chính sách thu hút đầu tư nước ngoài tốt. Tuy nhiên, đi liền
với sự phát triển vượt bậc về kinh tế, thì cũng phát sinh nhiều tệ nạn xã hội và các
tội phạm xâm phạm trật tự trị an, trong đó có tội giết người xảy ra trên địa bản tỉnh
Bắc Ninh. Do vậy, tác giả chọn đề tài “Tội giết người qua thực tiễn xét xử tại Tòa
án nhân dân tỉnh Bắc Ninh” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình với mong muốn
tìm ra những nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm giết người trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh, đồng thời đưa ra những giải pháp có cơ sở lý luận và thực tiễn, góp
phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội giết người trên phạm vi
toàn quốc nói chung và trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thời gian qua, ở nước ta có rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về tội
phạm giết người như “Một số quan điểm khác nhau về định nghĩa về đối tượng tác
động của tội giết người” của tác giả Đỗ Đức Hồng Hà, Tạp chí Tòa án, số 13 năm
2004; “Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm” của Phó Giáo sư,Tiến sĩ
Nguyễn Xuân Yêm, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội năm 2001; “Giáo trình
luật hình sự Việt Nam – Phần các tội phạm”, Võ Khánh Vinh, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội năm 2008; “Lý luận chung về định tội danh”, Võ Khánh Vinh, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội năm 2013; “Giáo trình luật hình sự Việt Nam – Phần

chung”, Võ Khánh Vinh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội năm 2014; Luận văn thạc sĩ
luật học “Tội giết người theo luật hình sự Việt Nam và đấu tranh phòng chống tội
phạm giết người” của tác giả Hoàng Công Huân, Hà Nội năm 1997; Khóa luận tốt
nghiệp “Đấu tranh phòng chống tội giết người ở Việt Nam trong giai đoạn hiện
2


nay” của tác giả Nguyễn Thùy Linh, Hà Nội năm 2005; Luận án tiến sĩ luật học
“Tội giết người trong luật hình sự Việt Nam và đấu tranh phòng chống loại tội
phạm này” của tác giả Đỗ Đức Hồng Hà, Hà Nội, năm 2007; Luận văn thạc sĩ luật
học “Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam” của tác giả Thái Duy Đức,
Học viện Khoa học xã hội – Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, năm 2014;
Luận văn thạc sĩ luật học “Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực
tiễn tỉnh Nam Định” của tác giả Nguyễn Chí Công, Học viện Khoa học xã hội –
Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, năm 2016; Luận văn thạc sĩ luật học “Tội
giết người qua thực tiễn xét xử tại TAND tỉnh Thái Nguyên” của tác giả Nguyễn
Thúy Quỳnh, Học viện Khoa học xã hội – Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam,
năm 2013; Luận văn thạc sĩ luật học “Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” của tác giả Phạm Huyền Trang, Học viện Khoa
học xã hội – Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, năm 2017;…
Có thể thấy rằng liên quan đến tội phạm giết người đã có rất nhiều các tác giả
quan tâm và tiếp cận dưới các góc độ khác nhau. Có tác giả nghiên cứu tội giết
người dưới góc độ tội phạm học, có tác giả thì nghiên cứu tội giết người dưới góc
độ phân tích, bình luận khoa học các quy phạm pháp luật hình sự hoặc nghiên cứu
TNHS về tội giết người ở những địa bàn khác nhau. Trong những năm qua, cũng có
những công trình nghiên cứu tội giết người dưới góc độ ADPL hình sự của ngành
Tòa án, nhưng ở địa bàn tỉnh Bắc Ninh chưa có đề tài nào nghiên cứu về tội giết
người qua thực tiễn xét xử tại TAND tỉnh Bắc Ninh. Do đo, đề tài này không trùng
với những đề tài đã được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm sáng tỏ những vấn đề lý luận, các quy
định của pháp luật hình sự về tội giết người và đánh giá thực tiễn áp dụng các quy
định pháp luật hình sự về tội giết người tại TAND tỉnh Bắc Ninh để qua đó phát
hiện ra những bất cập, hạn chế, đồng thời tìm ra nguyên nhân của những hạn chế đó
và mạnh dạn đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự và nâng cao hiệu
quả của hoạt động ADPL các vụ án giết người của TAND tỉnh Bắc Ninh nói riêng
và của hệ thống Tòa án nói chung, từ đó góp phần vào công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm giết người.

3


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên luận văn đề ra những nhiệm vụ cần thực hiện
sau đây:
- Phân tích khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội giết người.
- Nêu ra ý nghĩa của việc quy định tội giết người trong BLHS Việt Nam.
- Phân biệt tội giết người với một số tội phạm khác có liên quan.
- Phân tích quy định về tội giết người trong pháp luật hình sự Việt Nam.
- Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về tội giết người của TAND
tỉnh Bắc Ninh trên các phương diện định tội danh và quyết định hình phạt trong giai
đoạn 2013-2017.
- Chỉ ra nguyên nhân và đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định pháp
luật hình sự về tội giết người nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động ADPL về tội
giết người.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định pháp luật hình sự Việt Nam
về tội giết người và thực tiễn áp dụng quy định pháp luật hình sự về tội giết người

trong xét xử tại TAND tỉnh Bắc Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tội giết người dưới góc độ luật hình sự và áp dụng luật hình
sự từ thực tiễn xét xử của TAND tỉnh Bắc Ninh từ năm 2013 đến năm 2017. Các
quy định của pháp luật hình sự được nghiên cứu trong BLHS hiện hành là chủ yếu.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận: chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng và nhà nước về các vấn đề về tội phạm và hình phạt, về
đấu tranh phòng, chống tội phạm.... Đồng thời, Luận văn còn sử dụng một hệ thống
các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Phương pháp tổng hợp, thống kê dựa trên
những bản án, quyết định, số liệu thống kê, báo cáo tổng kết hàng năm của TAND
tỉnh Bắc Ninh; phương pháp so sánh đối chiếu để tìm ra những điểm mới trong quá
trình nghiên cứu; phương pháp phân tích đánh giá nhằm rút ra những kết luận, từ đó
đưa ra những đề xuất, giải pháp hữu ích; phương pháp tham khảo chuyên
gia…trong đó phương pháp phân tích là phương pháp chủ đạo.
4


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về lý luận: Luận văn nhằm làm rõ khía cạnh pháp lý về định tội danh và quyết
định hình phạt đối về tội giết người góp phần xây dựng, hoàn thiện thêm lý luận về
định tội danh và quyết định hình phạt trong khoa học pháp lý hình sự. Luận văn có
thể làm tài liệu dùng trong học tập và nghiên cứu.
Về thực tiễn: Luận văn đề xuất việc hoàn thiện các quy định của BLHS hiện
hành đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn về công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
giết người. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng trong việc xây dựng
chính sách quản lý xã hội nhằm ngăn chặn đẩy lùi tội giết người trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh.
7. Cơ cấu của luận văn

Luận văn gồm có ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tội giết người theo pháp luật hình sự
ViệtNam.
Chương 2: Thực tiễn xét xử các vụ án về tội giết người tại TAND tỉnh Bắc
Ninh.
Chương 3: Giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự và nâng cao hiệu quả
ADPL hình sự về tội giết người.

5


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI GIẾT NGƢỜI
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm tội giết ngƣời và ý nghĩa của việc quy định tội phạm này
theo pháp luật hình sự Việt Nam.
1.1.1. Khái niệm, các dấu hiệu pháp lý của tội giết người theo pháp luật
hình sự Việt Nam.
1.1.1.1. Khái niệm tội giết người.
Hiện nay, các nước trên thế giới có hai xu hướng: Một là, định nghĩa tội giết
người ngay trong BLHS như Thái Lan, Thụy Điển, Cộng hòa Liên bang Nga, Trung
Quốc,…; Hai là, không định nghĩa tội giết người trong BLHS như Việt Nam, Nhật
Bản, Cộng hòa Pháp,… Các nước theo xu hướng thứ nhất tuy đều định nghĩa tội
giết người trong BLHS của mình nhưng mỗi nước lại có cách định nghĩa khác nhau.
Trong BLHS Thái Lan năm 1967, tại Điều 288, tội giết người được định nghĩa như
sau: “Tội giết người là hành vi cố ý gây ra cái chết cho người khác”. Tại Điều 106
BLHS Liên bang Nga năm 1996 định nghĩa tội giết người như sau: “Tội giết người
là cố ý làm chết người khác”. Tại Điều 232 BLHS Trung Quốc năm 1997 định
nghĩa tội giết người “là hành vi cố ý giết người khác”. Tại Điều 187 BLHS Bang
California (Mỹ) năm 1998 định nghĩa tội giết người “là hành vi cố ý giết người

khác hoặc giết bào thai một cách hiểm độc và bất hợp pháp”. Tại Điều 1 Chương
III BLHS Thụy Điển định nghĩa tội giết người như sau: “Tội giết người là hành vi
tước đoạt tính mạng của người khác”. Việt Nam tuy theo xu hướng thứ hai: Không
định nghĩa thế nào là tội giết người mà chỉ nêu tên tội danh. Như vậy qua điều luật
ta không thể hiểu thế nào là tội giết người. Trong khoa học pháp lý hình sự Việt
Nam cũng có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm tội giết người. Quan điểm
thứ nhất cho rằng: “Tội giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người
khác một cách trái pháp luật”. Quan điểm thứ hai cho rằng: “Tội giết người là hành
vi trái pháp luật của người đủ năng lực TNHS cố ý tước bỏ quyền sống của người
khác”. Quan điểm thứ ba cho rằng: “Tội giết người là hành vi làm chết người khác
một cách cố ý và trái pháp luật” [11, tr.18,19]. Quan điểm thứ tư cho rằng: “Tội giết
người là hành vi cố ý gây ra cái chết cho người khác một cách trái pháp luật, do
người có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định thực hiện”. Nhìn chung các quan
điểm đều cho rằng: Giết người là hành vi trái pháp luật cố ý làm chết người ngoài ý
6


muốn của người khác. Qua nghiên cứu các quan điểm trên thấy rằng: Quan điểm
thứ nhất và quan điểm thứ ba không đề cập đến dấu hiệu năng lực TNHS của người
phạm tội và độ tuổi của người phạm tội hoặc quan điểm thứ hai có đề cập đến dấu
hiệu năng lực TNHS nhưng không đề cập đến độ tuổi của người phạm tội. Quan
điểm thứ tư có phần phản ánh đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm giết người và tác
giả đồng tình với quan điểm này.
Dựa trên cơ sở khoa học và cơ sở pháp lý quy định tại khoản 1 Điều 8 BLHS
năm 1999 (nay là khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015) thì “Tội phạm là hành vi nguy
hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực TNHS hoặc
pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập , chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ
kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền lợi ích hợp
pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công

dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật mà theo quy định của Bộ
luật này phải bị xử lý hình sự” và khoản 2 Điều 12 BLHS năm 1999 (nay là khoản 2
Điều 12 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định độ tuổi chịu TNHS,
tác giả đưa ra định nghĩa về tội giết người như sau: Tội giết người là hành vi cố ý
tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật, do người có năng lực
TNHS và đủ tuổi chịu TNHS theo quy định của pháp luật thực hiện.
1.1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội giết người theo pháp luật hình sự Việt
Nam.
a) Các dấu hiệu định tội:
Tội phạm là một hiện tượng xã hội và một trong những đặc điểm của tội phạm
là tính nguy hiểm cho xã hội. Tính nguy hiểm cho xã hội thể hiện ở chỗ nó ảnh
hưởng đến sự tồn tại và phát triển của xã hội. Để xác định hành vi nào đó do con
người thực hiện có phải là tội phạm hay không phải dựa vào CTTP. CTTP là cơ sở
pháp lý thống nhất để truy cứu TNHS người phạm tội. Như vậy, “CTTP là tổng hợp
các dấu hiệu được quy định trong Luật Hình sự đặc trưng cho một loại tội phạm cụ
thể”. Nhắc đến CTTP là đề cập đến các yếu tố bắt buộc cấu thành nên tội phạm đó
cũng như các dấu hiệu của mỗi yếu tố đó. Phụ thuộc vào mỗi chế độ, nhà nước khác
nhau và phụ thuộc vào chính sách hình sự của nhà nước đó mà quy định trong pháp
luật hình sự những yếu tố nào là các yếu tố CTTP. Theo khoa học luật hình sự Việt
Nam thì CTTP là tổng hợp những dấu hiệu có tính chất đặc trưng chung cho một
7


loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự. Có hai nhóm dấu hiệu CTTP
là: Nhóm các dấu hiệu không bắt buộc của CTTP: chỉ có ở những tội phạm cụ thể
được quy định trong luật hình sự chứ không bắt buộc có ở mọi tội phạm và nhóm
các dấu hiệu CTTP bắt buộc là những yếu tố đặc trưng của các loại tội phạm cụ thể
được quy định trong BLHS. Chỉ khi nào có đầy đủ các dấu hiệu bắt buột này thì hành
vi vi phạm pháp luật mới được coi là hành vi phạm tội. Những dấu hiệu bắt buộc bao
gồm: Khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm,

mặt chủ quan của tội phạm. Bốn yếu tố đó đã hợp thành cấu thành của tội phạm. CTTP
là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy
định trong luật hình sự cho phép phân biệt tội này với tội khác, trường hợp phạm tội
này với trường hợp phạm tội khác trong cùng một loại tội phạm. Vì vậy CTTP được
coi là khái niệm pháp lý, là sự mô tả khái quát loại tội phạm nhất định. Việc nghiên cứu
CTTP có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tìm hiểu bản chất pháp lý của mỗi loại tội
phạm, đồng thời giúp ta phân biệt được tội phạm này với tội phạm khác để xác định
đúng tội danh và xử lý một cách đúng nhất.
BLHS không nói rõ cụ thể từng dấu hiệu pháp lý của từng loại tội một nhưng
qua thực tiễn xét xử và nghiên cứu ta có thể rút ra những dấu hiệu pháp lý riêng của
nó. Tội giết người có những dấu hiệu pháp lý sau:
* Khách thể của tội giết người:
Theo PGS.TS Lê Cảm thì “Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được
pháp luật hình sự bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm, nhưng bị tội
phạm xâm hại đến và gây nên (hoặc đe dọa thực tế gây nên) thiệt hại đáng kể nhất
định”[4, tr.2].
Vì giết người như đã nhấn mạnh là hành vi tước đoạt tính mạng của người
khác một cách trái pháp luật do người có năng lực TNHS và độ tuổi theo quy định
của pháp luật thực hiện, nên quyền được sống đặc trưng cho khách thể của tội giết
người. Tội giết người xâm phạm đến quyền sống của con người thông qua sự tác
động làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động - chính là con
người đang sống. Việc xác định đối tượng tác động của tội giết người có ý nghĩa vô
cùng quan trọng. Bởi lẽ, nếu hành vi nào đó tác động vào đối tượng không phải hay
chưa phải là con người thì không xâm phạm đến quyền sống của con người nên
không phạm tội giết người.

8


Quyền được sống là một trong những quyền cơ bản và thiêng liêng nhất của

con người, nó được ghi nhận ở nhiều văn kiện của nước ta. Không ai có quyền tước
đoạt mạng sống của người khác một cách trái pháp luật. Một bộ phận quan trọng
của khách thể của tội giết người là con người (người khác) với tư cách là đối tượng
tác động của tội này. Con người nói ở đây là con người bắt đầu từ khi họ được sinh
ra cho đến lúc chết và không thuộc trường hợp là đối tượng tác động của tội giết
con mới đẻ.
* Mặt khách quan của tội giết người:
Mặt khách quan của tội phạm là sự tổng hợp các dấu hiệu do luật hình sự quy
định và các tình tiết phản ánh hành vi bên ngoài của sự xâm hại cụ thể nguy hiểm
đáng kể cho xã hội đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự. Nói một cách
khác, mặt khách quan của tội phạm là sự thể hiện cách xử sự có tính chất tội phạm
trong thực tế khách quan. Những biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm, bao gồm:
Hành vi khách quan của tội phạm, hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi và hậu quả, các dấu hiệu khác về thời gian, địa điểm, hoàn
cảnh, công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn phạm tội. Trong đó hành vi
khách quan là biểu hiện cơ bản, dấu hiệu bắt buộc của mọi tội phạm vì hành vi
khách quan là nguyên nhân gây ra thiệt hại cho quyền sống của con người. Những
dấu hiệu khác của mặt khách quan như hậu quả của tội phạm, công cụ, phương tiện
phạm tội… chỉ có ý nghĩa khi có hành vi khách quan.
Hành vi khách quan của tội phạm có ba đặc điểm sau: có tính nguy hiểm cho
xã hội, là hoạt động có ý thức và có ý chí của chủ thể, là hành vi trái pháp luật hình
sự và về hình thức biểu hiện, hành vi khách quan của tội phạm được thể hiện dưới
hình thức hành động hoặc không hành động phạm tội.
Mặt khách quan của tội giết người là những biểu hiện của tội giết người diễn
ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan bao gồm hành vi cố ý tước đoạt tính
mạng của người khác một cách trái pháp luật, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi tước đoạt tính mạng của người khác và hậu quả. Người phạm tội có thể
bằng những thủ đoạn hoặc những phương tiện khác nhau gây ra hậu quả nguy hiểm
cho xã hội nhằm tước đoạt mạng sống của người khác. Hành vi tước đoạt mạng
sống của người khác thuộc tội giết người là hành vi có sự kiểm soát của ý thức và

sự điều khiển của ý chí từ chủ thể thực hiện hành vi đó và có thể thực hiện bằng các
phương tiện như: đâm, chém, đấm đá, bóp cổ, đầu độc, dìm xuống nước … Có thể
9


dùng các hành động như: dao, gậy, chân tay, thuốc độc, súng … Nhưng cũng có thể
là không hành động cũng gây ra cái chết cho người khác là việc chủ thể không làm
việc mà pháp luật yêu cầu phải làm mặc dù có điều kện để làm. Ví dụ như người mẹ
không cho con ăn dẫn đến đứa bé bị chết đói [26, tr.10].
Tuy nhiên, không phải bất kì trường hợp nào hậu quả dẫn đến chết người cũng
được coi là tội giết người, mà chỉ những hành vi nào trái pháp luật mới cấu thành tội
giết người. Ví dụ như hậu quả chết người do hành vi của chủ thể thực hiện trong
trường hợp phòng vệ chính đáng và tình thế cấp thiết thì không bị coi là tội phạm.
Hay trường hợp cán bộ Thi hành án đi thi hành án tử hình cũng không bị coi là tội
phạm. Ngoài các trường hợp này thì tất cả những hành vi tước đoạt mạng sống của
người khác đều bị coi là trái pháp luật và bị pháp luật trừng trị, kể cả trường hợp
được sự đồng ý của nạn nhân.
Hậu quả của tội giết người thường là thiệt hại do hành vi phạm tội giết người
gây ra cho quan hệ nhân thân, cho quyền sống của con người, tức là cái chết của
nạn nhân. Nhưng cũng có trường hợp nạn nhân không chết mà chỉ bị thương, hoặc
không làm sao cả (ví dụ đầu độc nạn nhân nhưng nạn nhân phát hiện ra và không sử
dụng). Tuy nhiên, việc nạn nhân không chết là nằm ngoài ý muốn của người phạm
tội. Đó là trường hợp tội phạm chưa đạt.
Để xác định một hành vi phạm tội giết người còn phải xem xét mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả chết người xảy ra. Về nguyên tắc
người phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm về hành vi do mình gây ra. Người có hành
vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác phải chịu trách nhiệm về hậu
quả chết người đã xảy ra nếu hành vi họ đã thực hiện là nguyên nhân của hậu quả
chết người đã xảy ra [27, tr.11].
* Chủ thể của tội giết người:

Chủ thể của tội phạm theo luật hình sự Việt Nam năm 1999 thì chỉ có thể là cá
nhân, nhưng đến BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì ngoài cá nhân con
người cụ thể thì pháp nhân thương mại cũng là chủ thể của tội phạm quy định cụ thể
tại Điều 8 của BLHS. Tuy nhiên, theo quy định của BLHS Việt Nam thì chủ thể của
tội giết người chỉ có thể là cá nhân. Và không phải ai thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội đều bị coi là người phạm tội. Để trở thành chủ thể của tội phạm phải là
người có năng lực TNHS. Đó là năng lực nhận thức được ý nghĩa xã hội của việc
thực hiện hành vi và năng lực điều khiển được hành vi theo đòi hỏi tất yếu của xã
10


hội. Để đạt được năng lực này con người cần đạt một độ tuổi nhất định. Luật hình
sự Việt Nam không trực tiếp quy định người như thế nào là người có năng lực
TNHS mà chỉ quy định tuổi phải chịu TNHS và tình trạng không có năng lực
TNHS. Với quy định như vậy, Luật hình sự Việt Nam mặc nhiên thừa nhận những
người đã đạt độ tuổi chịu TNHS nói chung là người có năng lực TNHS.
BLHS quy định tội giết người là tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng
do vậy bất kì người nào từ đủ 14 tuổi trở lên có năng lực TNHS đều phải chịu
TNHS về hành vi tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật. Như
vậy điều kiện để trở thành chủ thể của tội giết người phải là người đủ 14 tuổi trở lên
và có năng lực TNHS.
Người có năng lực TNHS là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi và có khả
năng điều khiển hành vi ấy. Tức là có khả năng kiểm soát được hành vi nguy hiểm
cho xã hội và trong hoàn cảnh ấy có thể lựa chọn cách xử sự khác phù hợp hơn
không nguy hiểm cho xã hội và được pháp luật cho phép. Những người tước đoạt
tính mạng của người khác một cách trái pháp luật nhưng không có năng lực TNHS
thì không phải chịu TNHS do hành vi của mình gây ra. “Người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất
khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải

chịu TNHS” (Khoản 1 Điều 13 BLHS năm 1999 và Điều 21 BLHS năm 2015 sửa
đổi, bổ sung năm 2017). Quy định như vậy là hợp lý bởi lẽ người không có năng lực
TNHS là những người không nhận thức được hành vi của mình là đúng hay sai,
được làm hay không được làm. Hành động của họ là vô thức. Tuy nhiên pháp luật
cũng quy định trường hợp năng lực TNHS bị hạn chế. Đó là trường hợp do mắc
bệnh nên hạn chế nhận thức, điều khiển hành vi. Những người này vẫn phải chịu
TNHS do hành vi của mình gây ra nhưng khi lượng hình sẽ được xem xét là tình tiết
giảm nhẹ, được quy định tại điểm n khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 (nay là điểm
q khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017) “Người phạm tội là
người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi
của mình”.
Về độ tuổi chịu TNHS của tội giết người được quy định tại khoản 2 Điều 12
BLHS năm 1999quy định “Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải
chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc đặc biệt nghiêm trọng”. Tại
11


khoản 2 Điều 12 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã quy định “Người
từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng, tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134,…”. Như vậy,
tội giết người dù là tội rất nghiêm trọng hay là tội đặc biệt nghiêm trọng, dù lỗi cố ý
trực tiếp hay gián tiếp thì bất kỳ chủ thể nào đủ 14 tuổi trở lên đều phải chịu trách
nhiệm về hành vi tước đoạt mạng sống của người khác. Tuy nhiên, không phải mọi
trường hợp xác định độ tuổi của người phạm tội đều dễ dàng, có những trường hợp
không còn giấy khai sinh hoặc chỉ còn giấy khai sinh bản sao nhưng lại không chính
xác… Để giải quyết vấn đề này TANDTC đã có hướng dẫn tại mục 11 phần II công
văn số 81/2002/TANDTC ngày 10/6/2002 về cách tính tuổi chịu TNHS của người
phạm tội. Hướng dẫn này giúp giải quyết các vụ án được thống nhất trên cả nước,
đảm bảo quyền lợi của người phạm tội cũng như trừng trị thích đáng kẻ phạm tội.
Ngoài ra điều luật còn quy định chủ thể của tội phạm của một số trường hợp cụ thể

phải là con, cháu, người có trách nhiệm nuôi dưỡng người khác, học trò (đối với
điểm đ khoản 1 Điều 93 BLHS năm 1999 nay là điểm đ khoản 1 Điều 123 BLHS
năm 2015); người có nghề nghiệp nhất định (đối với điểm k khoản 1 Điều 93 BLHS
năm 1999 nay là điểm k khoản 1 Điều 123 BLHS năm 2015) [27, tr.13].
* Mặt chủ quan của tội giết người:
Mặt chủ quan của tội phạm nói chung là mặt bên trong của tội phạm bao gồm
các dấu hiệu lỗi, động cơ và mục đích phạm tội. Trong cấu thành tội giết người,
động cơ, mục đích không phải là dấu hiệu bắt buộc. Nhưng một số trường hợp luật
quy định phải làm rõ động cơ, mục đích của người phạm tội như: vì động cơ đê hèn,
để thực hiện hoặc để che giấu tội phạm khác…. để xác định tình tiết định khung
tăng nặng. Tội giết người được thực hiện do lỗi cố ý, có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc
là lỗi cố ý gián tiếp.
Lỗi của người phạm tội giết người là thái độ, tâm lý của họ đối với hành vi
gây ra cái chết cho người khác một cách trái pháp luật và hậu quả chết người là do
hành vi đó gây ra, được biểu hiện dưới hình thức cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp.
Người phạm tội hoàn toàn nhận thức rõ được hành vi của mình có thể tước đoạt
mạng sống của người khác, mong muốn đều đó xảy ra. Người phạm tội thực hiện
hành vi giết người một cách trái pháp luật chỉ bị coi là có lỗi nếu hành vi đó là kết
quả của sự lựa chọn của họ, trong khi họ có đủ điều kiện để lựa chọn và thực hiện
xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.

12


Trường hợp giết người do lỗi cố ý trực tiếp là trường hợp người phạm tội nhận
thức rõ hành vi giết người do mình thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước
được hậu quả chết người có thể xảy ra (hoặc tất yếu xảy ra) nhưng vì mong muốn
thực hiện tội phạm nên đã thực hiện hành vi phạm tội. Trường hợp giết người do lỗi
cố ý gián tiếp là người phạm tội nhận thức được hành vi của mình có khả năng nguy
hiểm đến tính mạng của người khác nhưng vì muốn đạt được mục đích của mình

nên người phạm tội có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Ví dụ như trường hợp
dùng đường dây điện cao áp để đánh cá dưới sông, người phạm tội nhận thức được
hành vi của mình có thể gây nguy hiểm đến tính mạng của người khác nhưng vẫn để
mặc hậu quả xảy ra. Việc xác định đúng dấu hiệu lỗi trong CTTP giết người sẽ giúp
phân biệt tội phạm giết người với các tội phạm khác cũng gây ra hậu quả chết người
như tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người; tội hiếp dâm làm nạn nhân chết;
tội cướp tài sản (hậu quả nạn nhân chết)... Trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử
cho thấy, nếu xác định không đúng lỗi của người phạm tội đối với hậu quả chết
người là cố ý hay vô ý sẽ dẫn đến nhiều hậu quả tiêu cực như định tội không đúng,
không đảm bảo được tính công minh, có căn cứ và đúng pháp luật của hình phạt
được quyết định, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan tiến hành tố
tụng và giảm hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Vì vậy, muốn xác
định đúng lỗi của người phạm tội đối với cái chết của nạn nhân là cố ý hay vô ý,
phải làm sáng tỏ hai vấn đề: Một là, người phạm tội có thấy trước hậu quả chết
người không? Hai là, nếu thấy trước thì họ mong muốn, chấp nhận hay loại trừ khả
năng này xảy ra [7, tr.26]?
Để xác định người phạm tội có thấy trước được hậu quả chết người hay không
phải căn cứ vào năng lực nhận thức của họ cũng như những dấu hiệu thuộc mặt
khách quan như: Tính chất của công cụ, phương tiện cũng như cách thức sử dụng,
vị trí bị tấn công, tình trạng sức khỏe và khả năng chống trả của nạn nhân…
Để xác định người phạm tội mong muốn, chấp nhận hay loại trừ khả năng hậu
quả chết người xảy ra ta có thể dựa vào những tình tiết như: sự lựa chọn công cụ,
phương tiện, phương pháp phạm tội cũng như cách sử dụng; diễn biến tâm lý của
người phạm tội; tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội; động cơ, mục đích phạm
tội…Trường hợp mong muốn thì người phạm tội không những lựa chọn công cụ,
phương tiện phạm tội có tính nguy hiểm cao, khi sử dụng họ thường nhắm vào
những vị trí trọng yếu trên cơ thể nạn nhân…Nếu chỉ có ý thức chấp nhận hậu quả,
thì người phạm tội không quan tâm đến công cụ, phương tiện, phương pháp phạm
13



tội có tính nguy hiểm hay không mà chỉ quan tâm chúng có khả năng giúp đạt được
mục đích hay không. Nếu người phạm tội có ý thức loại trừ hậu quả chết người xảy
ra thì người phạm tội sẽ lựa chọn công cụ, phương tiện, phương pháp phạm tội ít
nguy hiểm, có thể có những biện pháp nhằm giảm bớt tính nguy hiểm cho xã hội
của công cụ, phương tiện. Khi sử dụng thì người phạm tội có thể tránh những vị trí
nguy hiểm cũng như tránh sử dụng quá mức…[7, tr.27]
Ngoài có ý nghĩa trong việc định tội danh, xác định đúng hình thức lỗi còn có
ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định hình phạt. Nếu các tình tiết khác của vụ án
tương đương, người phạm tội giết người với lỗi cố ý trực tiếp phải bị xử phạt nặng
hơn người phạm tội giết người do lỗi cố ý gián tiếp.
b) Các dấu hiệu định khung hình phạt:
Xuất phát từ đặc điểm của đối tượng bị xâm hại của tội giết người là quyền
sống của con người - quyền thiêng liêng và cao quý nhất. Mỗi hành vi giết người
xảy ra đều gây đau thương, mất mát cho gia đình của nạn nhân, gây mất trật tự xã
hội và tạo tâm lý hoang mang, lo sợ trong quần chúng nhân dân. Vì vậy, đường lối
xử lý của Nhà nước ta đối với tội giết người rất nghiêm khắc. BLHS Việt Nam quy
định tội giết người với mức hình phạt cao nhất lên đến tử hình phản ánh tính chất
đặc biệt nguy hiểm của hành vi phạm tội đối với xã hội; bên cạnh đó BLHS Việt
Nam cũng quy định các trường hợp phạm tội giết người khác tương ứng với các
trường hợp thuộc khung hình phạt tăng nặng hoặc khung hình phạt cơ bản; đặc biệt
tại BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã bổ sung khung hình phạt mới
trong trường hợp chuẩn bị phạm tội giết người. Đây là điểm mới của BLHS Việt
Nam năm 2015.
Tại khoản 1 Điều 93 BLHS năm 1999 (nay là khoản 1 Điều 123 BLHS năm
2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định mức hình phạt tù từ mười hai năm đến
hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình nếu người nào giết người thuộc một trong
các trường hợp sau đây:
a) Giết hai người trở lên: Việc giết hai người trở lên có thể được thực hiện
một lần hoặc nhiều lần khác nhau. Trong trường hợp này cần phải xác định người

phạm tội có ý định giết từ hai người trở lên chứ không phải chỉ giết một người.
b) Giết người dưới 16 tuổi: Là trường hợp người phạm tội cố ý tước đoạt tính
mạng của người dưới 16 tuổi. Hành vi giết người dưới 16 tuổi theo quy định của
BLHS đều bị coi là tình tiết định khung tăng nặng, bất kể người phạm tội có nhận
thức được người bị hại là người dưới 16 tuổi hay không. Quy định này phù hợp với
14


luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Tuy nhiên, khi áp dụng tình tiết này chúng
ta cần chú ý đến cách tính tuổi của người bị hại theo các tài liệu liên quan đến ngày
sinh của bị hại. Trường hợp không có tài liệu để xác định và việc xác định cũng
không chính xác thì áp dụng cách tính tuổi của bị hại theo hướng có lợi cho người
phạm tội theo quy tắc tại mục 11 phần II Công văn số 81/2002/TANDTC ngày
10/6/2002 của TANDTC về việc giải đáp các vấn đề về nghiệp vụ như sau: Nếu chỉ
biết được tháng sinh của bị hại thì lấy ngày đầu tiên của tháng đó làm ngày sinh của
bị hại. Nếu chỉ biết được năm sinh của bị hại thì lấy ngày đầu tiên của tháng đầu
tiên của năm đó làm ngày sinh của bị hại.
c) Giết phụ nữ mà biết là có thai: Là trường hợp người phạm tội biết rõ người
mình giết là phụ nữ đang có thai. Tại mục 2.3 Nghị quyết 01 của HĐTPTANDTC
ngày 12 tháng 5 năm 2006 quy định “Bị cáo và mọi người đều nhìn thấy được hoặc
bị cáo nghe được, biết được từ các nguồn thông tin khác nhau về người phụ nữ đó
đang mang thai” [13]. Quy định này thể hiện chính sách bảo vệ của pháp luật đối
với phụ nữ và trẻ em. Bởi lẽ, hành vi của người phạm tội không chỉ xâm hại đến
tính mạng của người mẹ mà còn xâm hại đến sự sống của đứa bé ở trong bụng mẹ.
Có thể nói đây là hành vi vô nhân đạo cần phải xử lý một cách nghiêm khắc.
d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân: Giết
người đang thi hành công vụ là trường hợp nạn nhân là người đang thi hành nhiệm
vụ do cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội giao cho vì lợi ích của nhà nước, xã hội,
cộng đồng: Ví dụ cảnh sát giao thông đang làm nhiệm vụ, cảnh sát cơ động đang đi
tuần tra, cán bộ kiểm lâm đang bảo vệ rừng …

Giết người vì lý do công vụ của nạn nhân là trường hợp nạn nhân bị giết do thi
hành công vụ. Có thể hành vi phạm tội xảy ra trước hoặc sau khi thực thi công vụ.
Như người phạm tội có thể nhằm ngăn cản nạn nhân thi hành công vụ hoặc có thể là
trả thù nạn nhân vì nạn nhân đã thi hành công vụ đó.
đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình: Đây
là trường hợp mà nạn nhân là người có quan hệ đặc biệt với người phạm tội. Hành
vi này không chỉ vi phạm pháp luật mà còn vi phạm đạo lý, truyền thống tốt đẹp của
nhân dân ta. Ông, bà ở đây bao gồm ông bà nội, ông bà ngoại. Cha mẹ được hiểu là
cha, mẹ đẻ. Cha, mẹ đẻ là người sinh ra người phạm tội và cha, mẹ đẻ của vợ hoặc
chồng của người phạm tội.
- Người nuôi dưỡng là người chăm sóc, giáo dục, quản lý người phạm tội như
vai trò của bố mẹ mình và được pháp luật thừa nhận.
15


- Thầy giáo, cô giáo là người trực tiếp giảng dạy mình về văn hóa, chuyên
môn, nghề nghiệp … nơi đào tạo người phạm tội.
e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội rất
nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng: Là trường hợp trước khi giết người
hoặc sau khi giết người, người phạm tội đã thực hiện hoặc lại tiếp tục thực hiện một
tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Ví dụ sau khi giết người, người
phạm tội lại cướp tài sản của nạn nhân. Hành vi phạm tội liên tiếp của người phạm
tội thể hiện người phạm tội là đối tượng nguy hiểm cho xã hội, ý thức pháp luật
kém. Điều đó tăng tính nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng như khả năng có thể
cải tạo, giáo dục người phạm tội.
g) Giết người để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác: Thứ nhất, giết người
để thực hiện một tội phạm khác. Thể hiện mục đích của người phạm tội muốn thực
hiện một tội phạm khác nhưng có người gây cản trở, khó khăn nên phải giết họ thì
mới có điều kiện để thực hiên tội phạm khác. Như vậy có nghĩa là việc giết người
phải thực hiện trước khi tiến hành tội phạm khác. Ví dụ như giết người để trộm cắp

tài sản … Thứ hai là giết người để che giấu một tội phạm khác là người phạm tội
sau khi phạm một tội nào đó nhưng sợ bị phát hiện, bị tố cáo nên đã giết người để
che giấu hành vi phạm tội của mình. Ví dụ như người phạm tội trộm cắp tài sản
nhưng bị nạn nhân phát hiện, sợ bị tố giác nên người phạm tội đã giết nạn nhân.
h) Giết người để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân: Hành vi giết người để lấy
bất kì bộ phận cơ thể nào của nạn nhân với bất kì mục đích gì đều phạm tội. Kể cả
mục đích nghiên cứu khoa học hoặc nhằm cứu sống người khác. Nhà nước nghiêm
cấm mọi hành vi mua bán, trao đổi bộ phận cơ thể người. Hành vi giết người để lấy
bộ phận cơ thể của người khác để đạt mục đích cá nhân của bản thân mình là hành
vi nguy hiểm cần phải trừng trị nghiêm khắc. Tuy nhiên, cần xác định rằng, nếu vì
quá căm tức mà người phạm tội sau khi giết người đã lấy bộ phận cơ thể của nạn
nhân để nhằm mục đích khác cho hả giận thì không thuộc trường hợp phạm tội này.
i) Thực hiện tội phạm giết người một cách man rợ: Là trường hợp giết người
một cách dã man, tàn ác, không có tính người làm cho nạn nhân đau đớn nhiều
trước khi chết hoặc gây ra sự phẫn nộ trong dư luận xã hội. Ví dụ như tra tấn nạn
nhân cho đến chết hay giết nạn nhân chết từ từ để họ cảm thấy đau đớn, giết người
sau đó chặt nạn nhân ra từng khúc,…
k) Giết người bằng cách lợi dụng nghề nghiệp: Là trường hợp người phạm tội
sử dụng khả năng chuyên môn, nghiệp vụ của mình để thực hiện việc giết người
16


hoặc che giấu hành vi giết người của mình. Ví dụ như thầy thuốc lợi dụng chuyên
môn chữa bệnh của mình đã cho nạn nhân uống thuốc gây chết người. Nếu người có
hành vi giết người bằng phương pháp có tính chất nghề nghiệp, nhưng đó không
phải là nghề nghiệp của họ mà lợi dụng người có nghề nghiệp đó rồi thông qua
người này thực hiện mục đích giết người của mình thì không thuộc trường hợp
phạm tội này.
l) Giết người bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người: Là trường
hợp người phạm tội sử dụng các thủ đoạn nguy hiểm cũng như dùng các loại công

cụ, phương tiện có khả năng gây nên cái chết cho nhiều người trong cùng một thời
gian. Ví dụ như bỏ thuốc độc vào bình đựng nước hoặc bể nước của gia đình, ném
lựu đạn vào nhà hay chỗ đông người … Hành vi này có thể gây ra cái chết cho
nhiều người, dù hậu quả chết người chưa xảy ra nhưng người phạm tội vẫn phải
chịu trách nhiệm trước pháp luật với tình tiết định khung này và được áp dụng Điều
18 BLHS năm 1999 (Điều 15 BLHS năm 2015) về trường hợp “phạm tội chưa đạt”.
m) Thuê giết người hoặc giết người thuê: Thuê giết người là trường hợp người
phạm tội dùng lợi ích vật chất thuê người khác thực hiện hành vi giết người theo ý
muốn của mình. Giết người thuê là trường hợp giết người chỉ vì tiền hoặc lợi ích vật
chất khác.
n) Giết người có tính chất côn đồ: Là trường hợp giết người có tính hung hăng
cao độ, coi thường tính mạng của người khác; giết người không có nguyên cớ hoặc
vì những mâu thuẫn nhỏ nhặt trong cuộc sống;…
o) Có tổ chức: Là trường hợp có từ hai người trở lên cùng tham gia thực hiện
tội phạm giết người có sự bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau từ trước; khi xác định
giết người có tổ chức thì tất cả những người cùng tham gia vụ giết người dù ở vai
trò nào thì đều bị coi là giết người có tổ chức. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt
phải căn cứ vào vị trí, vai trò của từng người tham gia vào vụ án.
p) Tái phạm nguy hiểm: Là trường hợp người phạm tội trước đây đã bị kết án
về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do lỗi cố ý chưa được xóa án tích
mà lại phạm tội giết người. Hoặc trường hợp đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà
lại phạm tội giết người; tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích
mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội
phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
q) Giết người vì động cơ đê hèn: Là trường hợp giết người có tính ích kỷ cao,
phản trắc, bội bạc…vv, tính chất của động cơ phạm tội đã làm cho mức độ nguy
17


hiểm xã hội của hành vi giết người tăng lên đáng kể so với trường hợp phạm tội

bình thường khác. Ví dụ: Giết người để lấy vợ, hoặc lấy chồng của nạn nhân; giết
người tình mà biết là có thai với mình để trốn tránh trách nhiệm; giết người đã giúp
đỡ mình, cho vay tiền, cho mượn đồ đạc trong những lúc khó khăn để khỏi phải trả
ơn, trả nợ…
Tại khoản 2 Điều 93 BLHS năm 1999 (nay là khoản 2 Điều 123 BLHS năm
2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định hình phạt tù từ bảy năm đến mười lăm
năm áp dụng đối với các trường hợp phạm tội không thuộc các trường hợp quy định
ở khoản 1 Điều luật này.
BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã quy định trường hợp mới tại
khoản 3, cụ thể “Người chuẩn bị phạm tội này thì bị phạt tù từ một đến năm năm”:
Là việc người phạm tội tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những
điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm giết
người (khoản 1 Điều 14 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Ngoài ra, tại khoản 3 Điều 93 BLHS năm 1999 (nay là khoản 4 Điều 123
BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017) còn quy định về hình phạt bổ sung:
người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một
đến năm năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm. Có điểm
khác so với BLHS năm 1999 là BLHS năm 2015 đã bỏ hình phạt bổ sung “cấm đảm
nhiệm chức vụ”.
Cấm làm những nghề hoặc công việc nhất định trong lĩnh vực cụ thể có điều
kiện để phạm tội; hoặc vì do họ có hành vi phạm tội đó cho nên nếu tiếp tục cho
làm những nghề hoặc công việc đó sẽ ảnh hưởng đến uy tín, danh dự chung.
Quản chế là buộc người bị kết án phải cư trú, làm ăn sinh sống và cải tạo ở
một địa phương nhất định, có sự kiểm soát, giáo dục của chính quyền và nhân dân
địa phương. Trong thời gian quản chế, người bị kết án không được tự ý ra khỏi nơi
cư trú, bị tước một số quyền công dân theo Điều 39 của BLHS năm 1999 (nay là
Điều 44 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Cấm cư trú là buộc người bị kết án phạt tù không được tạm trú và thường trú ở
một địa phương nhất định.
1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội phạm này theo pháp luật hình sự Việt Nam.

Xuất phát từ nhu cầu tồn tại và phát triển của Nhà nước, cũng như các yêu cầu
phát triển chung của xã hội, Nhà nước với tư cách là chủ thể đặc biệt của quyền lực
chính trị đã ban hành nhiều loại quy phạm pháp luật khác nhau. Trong đó, có những
18


quy phạm pháp luật xác định những điều cấm để ngăn ngừa, trừng phạt người có
hành vi gây nguy hại cho xã hội. Một phần lớn các quy phạm cấm đó thuộc phạm vi
của pháp luật hình sự. Khoa học luật hình sự trước đây và hiện nay đều xác định,
luật hình sự có ba chức năng cơ bản là chức năng bảo vệ; chức năng phòng, chống
tội phạm và chức năng giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật cho người dân. Trong
đó, chức năng bảo vệ đóng vai trò quan trọng và là nhiệm vụ đầu tiên của luật hình
sự [47, tr.50].
Pháp luật hình sự là một hệ thống các quy phạm pháp luật xác định những
hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là các tội phạm và hình phạt áp dụng cho người
phạm các tội phạm đó. Luật hình sự là một trong những công cụ pháp lý hữu hiệu
được sử dụng trong điều chỉnh, duy trì trật tự và ổn định xã hội, bảo vệ chế độ,
quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa các đồng bào dân tộc,
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ trật tự
pháp luật. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mang tính đồng bộ, tôn trọng và bảo
vệ quyền con người, cũng như thể hiện đúng đắn ý chí và nguyện vọng của số đông,
phù hợp với xu thế vận động của lịch sử và thực tiễn xã hội sẽ góp phần thúc đẩy sự
phát triển và tiến bộ xã hội, duy trì sự ổn định và trật tự trong xã hội. Tuy nhiên,
trong điều kiện nền kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu hóa và hội nhập hiện
nay, yêu cầu đặt ra đối với pháp luật nói chung, pháp luật hình sự nói riêng là phải
tác động tích cực đến hành vi, đến ý thức của mỗi công dân để không một ai trong
xã hội có hành vi xâm phạm đến tự do và an ninh cá nhân của người khác, ngược
lại, khi người khác xâm phạm đến tự do và an ninh cá nhân của mình, pháp luật sẽ
xử lý nghiêm khắc. Vì vậy, cần phải quy định một cách đầy đủ, rõ ràng và cụ thể
những dấu hiệu CTTP giết người cũng như quy định mức hình phạt tùy từng trường

hợp một cách phù hợp đảm bảo được mục đích giáo dục, cải tạo người phạm tội và
trừng trị, răn đe, phòng ngừa chung.
Xuất phát từ tầm quan trọng của khách thể cần bảo vệ là tính mạng, sức khỏe
của con người, BLHS hiện hành của nước ta đã có một chương quy định về các tội
xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, trong đó tội
giết người được quy định ở điều đầu tiên của chương. Chương này chỉ xếp sau
chương các tội xâm phạm về an ninh quốc gia trong phần các tội phạm của BLHS.
Tội giết người được quy định tại Điều 93 BLHS năm 1999 (nay là Điều 123 BLHS
năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017), là một trong những tội được quy định nhằm
bảo vệ trực tiếp tính mạng con người, có mức hình phạt cao nhất là tử hình. Đây là
19


loại tội phạm mà người phạm tội cướp đi quyền được sống là quyền thiêng liêng,
quý giá của con người, gây ra nhiều đau thương mất mát về tinh thần cho người
thân, bạn bè của người bị hại, gây mất trật tự trị an xã hội, gây ra tư tưởng hoang
mang, sợ hãi trong nhân dân; người phạm tội này thường bị xử phạt với loại và mức
hình phạt rất cao, có thể là tử hình nên cũng gây ra nhiều đau buồn cho người thân
của người phạm tội. Đối với đa số những loại tội phạm khác thì hậu quả của tội
phạm có thể khắc phục được, nhưng đối với tội phạm giết người thường dẫn tới hậu
quả là người bị hại chết, nên không thể khắc phục được hậu quả. Do đó, việc quy
định loại tội phạm này trong BLHS Việt Nam một cách đầy đủ, rõ ràng nhằm phát
hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh những hành vi phạm tội giết người, đồng thời giáo
dục ý thức tuân thủ pháp luật, ý thức tôn trọng quyền tự do, an ninh cá nhân của
người khác; góp phần rất quan trọng vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội
phạm nói chung, tội phạm giết người nói riêng, bảo vệ trật tự an toàn xã hội.
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển các quy phạm pháp luật hình sự Việt
Nam về tội giết ngƣời.
Trải qua quá trình phát triển của đất nước, sự hình thành và phát triển của các
quy phạm pháp luật hình sự về tội giết người gắn liền với sự hình thành và phát

triểu của hệ thống pháp luật ở nước ta từ thời phong kiến cho đến hiện đại là sự ra
đời của BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 đã đi qua các giai đoạn sau:
1.2.1. Giai đoạn từ thời kỳ phong kiến Việt nam đến trước Cách mạng tháng
tám năm 1945.
Triều đại phong kiến ở nước ta trải qua nhiều triều đại với sự thịnh vượng
khác nhau. Ở đây, tác giả chỉ đề cập đến hoạt động lập pháp của các triều đại phong
kiến thông qua hai bộ luật tiêu biểu là BLHĐ và BLGL.
*Quy định về tội giết người trong Bộ luật Hồng Đức (BLHĐ):
BLHĐ hay còn gọi là “Quốc triều hình luật” được biên soạn và ban bố dưới
triều Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức (1470 - 1497), (thế kỷ XV). Đây là bộ
luật quan trọng nhất, là đỉnh cao của thành tựu lập pháp phong kiến Việt Nam.
BLHĐ được chia thành 13 chương, ghi chép trong 6 quyển gồm 722 điều và điều
chỉnh các quan hệ khác nhau như: quan hệ hình sự, quan hệ dân sự và hôn nhân gia
đình, tố tụng... Trong bộ luật này tội giết người không được quy định ở một chương
mà được quy định trong nhiều chương, hành vi giết người nói chung được quy định
tại Điều 415 với hình phạt thấp nhất là lưu đi châu gần, cao nhất là chém. Qua
nghiên cứu có thể thấy: BLHĐ cũng đã sớm đề cập tương đối đầy đủ các hành vi
20


giết người tương tự như các tình tiết tăng nặng định khung quy định tại BLHS hiện
hành. Ví dụ: Điều 416 BLHĐ quy định: “Những kẻ mưu giết những bậc tôn trưởng
vào hạng cơ thân, ông bà ngoại, chồng và ông bà, cha mẹ chồng, đều phải tội
chém...”; Quy định về hình phạt của BLHĐ đối với các hành vi giết người có phần
nghiêm khắc và bị ảnh hưởng bởi tư tưởng nho giáo, ví dụ: Điều 420 BLHĐ quy
định: “Kẻ giết tới ba người trong một gia đình, thì xử tội chém bêu đầu...” [12].
Mặc dù còn có một số hạn chế nhưng BLHĐ “thật là cái mẫu mực để trị nước,
cái khuôn phép để buộc dân”; bên cạnh đó còn là nền tảng cho các triều đại phong
kiến sau này vận dụng trong quá trình xây dựng, ADPL.
*Quy định về tội giết người trong Bộ luật Gia Long (BLGL):

BLGL hay còn gọi là Nguyễn Triều hình luật do Bắc thành Tổng trấn Nguyễn
Văn Thành soạn thảo và vua Gia Long cho ban hành vào năm 1815. Bộ luật có 398
điều, chia thành 22 quyển, điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc nhiều lĩnh vực khác
nhau, tất cả các điều khoản của BLGL đều được xây dựng dưới quy phạm pháp luật
hình sự và áp dụng các chế tài hình sự. Khác BLHĐ, BLGL không quy định tội giết
người trong nhiều chương mà quy định tập trung tại một phần - Phần “Nhân mạng”,
gồm các tội cụ thể[12].
So với BLHĐ, BLGL đã có sự phát triển đáng kể là đã bổ sung thêm nhiều
trường hợp phạm tội giết người bị xử phạt nặng hơn hoặc nhẹ hơn trường hợp giết
người thông thường. BLGL là Bộ luật đầu tiên đề cập đến chế định miễn TNHS cho
người phạm tội. Ví dụ: Khoản 2 Điều lệ của Điều 4 Quyển 14 Phần “Nhân mạng”
như sau: “Người chồng ruột ở ngay nơi xảy ra sự việc gian dâm, giết chết gian phu
liền đó, chiếu luật không cần xử...”. BLGL mang tính pháp trị nhiều hơn, quy định
điều luật nghiêm khắc với người phạm tội. Tại khoản 13 Điều lệ của Điều 11 Quyển
14 Phần “Nhân mạng” BLGL quy định: “Người bịnh điên giết một hơi hai mạng
người bình thường trở lên thì xử treo cổ giam chờ”...
Mặc dù thấy còn có một số hạn chế, nhưng với sự xây dựng, kế thừa và phát
triển những thành tựu khoa học lập pháp của nước nhà BLHĐ, BLGL đã trở thành
“bộ luật lớn nhất của chế độ phong kiến Việt Nam, là bộ luật đầy đủ và hoàn chỉnh
nhất của nền cổ luật Việt Nam”, là một phần của di sản văn hoá Việt Nam mà triều
Lê, Nguyễn đã có công đóng góp cho lịch sử lập pháp của Nhà nước ta.

21


×