Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Tiểu luận báo chí đề tài Thực trạng nguồn nhân lực trong cơ quan báo chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.76 KB, 23 trang )

B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
Kho¸ 6

HÖ C§LTBC

MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Đảng và nhà nước ta đã xác định: “Báo chí là tiếng nói của Đảng, là diễn đàn của
các tổ chức quần chúng và nhân dân lao động”. Vì thế mà trong công cuộc CNH – HĐH
đất nước, báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng đã đóng góp một phần không
nhỏ. Nghề làm báo ngày càng phát triển mạnh mẽ. Đội ngũ làm báo ngày càng trở nên
hùng hậu. Đến nay cả nước có gần 800 cơ quan báo chí ở Trung Ương và địa phương cùng
hơn 17.000 nhà báo được cấp thẻ hành nghề. Ngoài ra các trường, khoa đào tạo báo chí
đang có hàng nghìn nhà báo tương lai theo học.
Báo chí hiện nay đã không ngừng thay đổi, phát triển cả chất và lượng để đáp ứng
kịp nhu cầu thông tin của cho công chúng với các loại hình cơ bản: Báo in, phát thanh truyền hình, báo điện tử. Tuy nhiên để nâng cao chất lượng báo chí nước ta, đáp ứng đòi
hỏi của tình hình mới thì nhân tố quyết định là nguồn nhân lực cho cơ quan báo chí. Vì
vậy, đòi hỏi báo chí Việt Nam phải đổi mới toàn diện, nhất là các vấn đề về nguồn nhân
lực của cơ quan báo chí. Đội ngũ phóng viên, biên tập viên, kỹ thuật viên…Cần phải nâng
cao trình độ năng lực, phẩm chất chính trị, luôn phấn đấu vì mục tiêu lý tưởng của Đảng,
phục vụ nhân dân. Là cầu nối giữa Đảng – Nhà nước – Với quần chúng nhân dân. Nhưng
để biết và hiểu được nguồn nhân lực trong mỗi cơ quan báo chí có vai trò, nhiệm vụ, trình
độ năng lực phẩm chất chính trị như thế nào thì đòi hỏi mỗi chúng ta phải tự tìm tòi,
nghiên cứu, đi sâu vào thực tế, tự mình quan sát, đánh giá, để có cái nhìn tổng quát nhất về
hệ thống nguồn nhân lực trong mỗi cơ quan báo chí ở nước ta. Nghiên cứu, tìm hiểu nguồn
nhân lực trong cơ quan báo chí có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiểu biết và nhận
thức của mọi sinh viên đang theo học chuyên ngành báo chí. Nó giúp cho sinh viên có thể
thích nghi nhanh chóng với hoạt động tác nghiệp sau này.
Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Thực trạng nguồn nhân lực trong cơ quan báo chí”
để làm tiểu luận tốt nghiệp của mình. Hy vọng rằng tiểu luận của tôi sẽ góp phần bổ sung ý
kiến để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của cơ quan báo chí nói chung và của báo Bảo


vệ Pháp luật cuối tuần nói riêng.
2.Mục đích nghiên cứu đề tài:
Mục đích của đề tài này là nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề nguồn nhân
lực. Hiểu rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của từng phòng ban và vị trí công tác của từng
cán bộ, phóng viên trong cơ quan báo chí. Hệ thống lại kiến thức về chuyên ngành đã học
SV: §inh ThÞ Trang
6B

1

Líp: LTBC


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
Kho¸ 6

HÖ C§LTBC

đồng thời định hướng cho những người làm báo nói chung, những sinh viên đang theo học
chuyên ngành báo chí nói riêng có được nhận thức về vấn đề nguồn nhân lực trong cơ quan
báo chí. Thông qua kết quả nghiên cứu hy vọng rằng những giải pháp mà tôi nêu trong tiểu
luận này sẽ có thể ứng dụng trong việc nâng cao chất lượng nguồn năng lực trong báo Bảo
vệ Pháp luật cuối tuần. Đặt cơ sở cho việc xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực
cho hệ thống báo chí nước nhà trong tương lai gần. Ngoài ra, qua việc nghiên cứu đề tài
này tôi sẽ rút ra được những hiểu biết cho bản thân về vấn đề nguồn nhân lực trong báo
chí, tránh được sự bỡ ngỡ trong quá trình thực tiễn sau này.
3.Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài thực trạng nguồn nhân lực tại báo Bảo
vệ Pháp luật cuối tuần, tôi đã sử dụng các phương pháp sau: So sánh, phân tích, tổng hợp,
quy nạp, diễn dịch…

4.Phạm vị nghiên cứu:
Nghiên cứu vấn đề nguồn nhân lực tại báo Bảo vệ Pháp luật cuối tuần trong thời
gian thực tập (Từ ngày 10/10/2011 đến ngày 03/12/2011).
5.Nội dung nghiên cứu:
Tiểu luận của tôi tập trung nghiên cứu vấn đề nguồn nhân lực của báo Bảo vệ Pháp
luật cuối tuần. Bên cạnh đó tôi cũng nêu ra quan niệm và đặc điểm nguồn nhân lực báo chí.
Từ đó đi đến phân loại nguồn nhân lực trong cơ quan báo chí. Nêu ra những nguyên nhân,
hạn chế còn tồn tại trong cơ cấu nguồn nhân lực, đề ra những giải pháp mang tính bổ
khuyết, thiết thực nhất cho nguồn nhân lực tại báo Bảo vệ Pháp luật cuối tuần.
6.Kết cấu tiểu luận: Gồm ba phần
-

Mở đầu

Nêu lý do chọn đề tài, mục đích, phạm vi nghiên cứu.
-

Nội dung: Gồm hai chương

Chương I: Cơ sở lý luận chung về nguồn nhân lực.
Chương II: Vấn đề nguồn nhân lực tại báo Bảo vệ pháp luật cuối tuần. Thực trạng
và giải pháp.
Chương III: Một số giải pháp nâng cao nguồn nhân lực tại báo Bảo vệ Pháp luật
cuối tuần.
-

Kết luận

SV: §inh ThÞ Trang
6B


2

Líp: LTBC


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
Kho¸ 6

HÖ C§LTBC

NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUỒN NHÂN LỰC
1.1.Quan niệm nguồn nhân lực và nguồn nhân lực báo chí.
1.1.1

Quan niệm nguồn nhân lực.
Hiện nay có nhiều khái niệm về nguồn lực con người. Theo ( Giáo trình Chủ nghĩa

xã hội khoa học) thì nguồn nhân lực người là tổng thể các yếu tố thuộc về con người như :
đạo đức, tri thức, năng lực, chức vụ... tạo nên khả năng của con người, cộng đồng người.
Có thể sử dụng và phát huy trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Còn
theo (Beng, Fischer & Dornhusch, 1995) thì nguồn nhân lực được hiểu là toàn bộ trình độ
chuyên môn mà con người tích lũy được, có khả năng đem lại thu nhập trong tương lai.
Nguồn nhân lực, theo GS. Phạm Minh Hạc (2001), là tổng thể các tiềm năng lao động của
một nước hay một địa phương sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó.
Quan niệm của chủ nghĩa Mac-Lê Nin về nguồn nhân lực.
Nguồn lực là tổng thể các yếu tố thuộc về vật chất, tinh thần, đạo đức, phẩm chất,
trình độ học vấn, nhận thức xã hội…tạo thành năng lực của con người, của cộng đồng
người có thể sử dụng và phát huy trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Nguồn

nhân lực con người bằng một số lượng nguồn nhân lực cộng với chất lượng nguồn nhân
lực. Số lượng nguồn nhân lực xác định trên quy mô dân số, cơ cấu độ tuổi, sự tiếp nối các
thế hệ giới tính và phân bố dân cư, ở các vùng miền đất nước, giữa các ngành kinh tế, các
lĩnh vực đời sống xã hội. Yếu tố quyết định nguồn nhân lực con người là phẩm chất đạo
đức và trình độ học vấn vì nó nói lên mức độ trưởng thành của con người quyết định
phương pháp tư duy nhân cách lối sống của con người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nguồn nhân lực.
Hồ Chí Minh coi con người là vốn quý. Muốn xây dựng CNXH trước hết phải có
con người XHCN. Tiêu chuẩn của con người XHCN là phải có tư tưởng XHCN mình vì
mọi người và mọi người vì mình có ý thức và khả năng làm chủ, có đạo đức lối sống
XHCN, lao động có kỷ luật, có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh, phẩm giá, khả năng vươn
lên chân thiện mỹ của con người.

SV: §inh ThÞ Trang
6B

3

Líp: LTBC


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
Kho¸ 6

HÖ C§LTBC

1.1.2 Quan niệm nguồn nhân lực báo chí.
Từ những quan niệm về nguồn nhân lực nói trên, chúng ta có thể hiểu nguồn nhân
lực báo chí là những người có đạo đức, phẩm chất, trình độ học vấn, nhận thức xã hội, hiểu
biết chính trị của những người hoạt động trong lĩnh vực báo chí. Họ lao động bằng việc

sáng tạo ra các tác phẩm báo chí nhằm phục vụ cho nhu cầu thông tin của công chúng.
Định hướng thông tin giúp dư luận hiểu đúng hơn bản chất của sự kiện.
1.2 Đặc điểm nguồn nhân lực trong cơ quan báo chí.
1.2.1. Về nhận thức, trình độ chính trị.
Đội ngũ cán bộ, phóng viên, biên tập viên phải được đào tạo qua các lớp sơ cấp,
trung cấp, cao cấp về chính trị. Bởi làm báo cũng là làm chính trị, mỗi nhà báo là một
chiến sĩ xung kích trên mặt trận văn hóa, tư tưởng. Có vai trò định hướng tư tưởng cho
công chúng để tạo ra sự thống nhất và ổn định chính trị - xã hội góp phần xây dựng bảo vệ
Tổ quốc. Vì vậy, trước hết nhà báo phải nắm vững quan điểm, đường lối, chính sách pháp
luật của Đảng và Nhà nước. Có lập trường vững vàng, trung thành với lý tưởng độc lập và
chủ nghĩa xã hội, đấu tranh bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước và nhân dân.
1.2.2. Về đạo đức, phẩm chất.
Nhà báo không thể không có đạo đức nghề nghiệp nếu như chưa có những phẩm
chất tối thiểu của đạo đức làm người. Đó là biết sống có ích, nhân ái, yêu nước, hiếu thảo,
trung thực…Đó là nền tảng để xây dựng nên đạo đức nghề nghiệp của người làm báo. Đạo
đức của người làm báo thể hiện ở hoạt động nghiệp vụ. Nhà báo phải đảm bảo tính khách
quan chân thực, chính xác, có trách nhiệm xã hội, phải là nhân chứng tin cậy của lịch sử.
Có phẩm chất, lập trường chính trị vững vàng. Thường xuyên học tập chính trị, nâng cao
nhận thức tư tưởng, nắm vững và tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và Nhà
nước, bảo vệ bí mật quốc gia, bảo đảm “tính quần chúng và tinh thần chiến đấu” trong hoạt
động báo chí của mình. Luôn rèn luyện đạo đức cách mạng, đạo đức nghề nghiệp. Tôn
trọng sự thật, trung thực, không sợ hãi trước những thế lực xấu. Vững vàng đứng trên lập
trường của giai cấp công nhân. Nhà báo luôn phải giữ phẩm chất trong sáng, không vụ lợi,
không lợi dụng uy tín nghề nghiệp để trục lợi.
Trong thời gian vừa qua đã có không ít những kẻ giả danh nhà báo và cũng có nhà
báo đã vi phạm vào đạo đức nghề báo đã được phơi bày và phải trả giá cho những hành
động sai trái của mình. Như trường hợp của phóng viên Nguyễn Đức Hiển, phó tổng thư
ký tòa soạn báo Pháp Luật TP. Hồ Chí Minh – Người đã từng bị tước thẻ nhà báo vì những
sai phạm trong quá trình tác nghiệp báo chí đã viết bài chỉ theo lời kể lại của người trong
cuộc cáo buộc một đồng nghiệp ở báo Đời sống & Pháp luật câu kết cùng một giảng viên

SV: §inh ThÞ Trang
6B

4

Líp: LTBC


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
Kho¸ 6

HÖ C§LTBC

Đại Học Sư Phạm Huế tống tiền cảnh sát giao thông. Biên tập Viên Lê Bình đã văng lời
khiếm nhã trên bản tin tài chính kinh doanh phát sóng lúc 7h sáng ngày 6 tháng 4, hay vụ
thông tin sai sự thật, không kiểm nghiệm rõ nguồn tin về vụ “Lượm” trong chương trình
Người xây tổ ấm… Tất cả là hồi chuông báo động cho làng báo chí nước nhà về vấn đề
đạo đức, phẩm chất của người làm báo. Chúng ta đang cần nhiều hơn nữa những phong
trào thi đua học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh – Một nhà báo lỗi lạc,
một cây bút sắc bén của báo chí cách mạng, của dân tộc Việt Nam.
1.2.3. Về năng lực chuyên môn.
Chuyên môn về lĩnh vực phụ trách: Mỗi cán bộ phóng viên được phân công phụ trách
mảng đề tài nào thì nhất thiết phải có hiểu biết sâu rộng về mảng đề tài đó, lĩnh vực đó.
Một số phóng viên hiện nay thường xông pha viết nhiều mảng đề tài chứ không cố định
một lĩnh vực nào cụ thể. Như vậy, với mỗi một mảng đề tài mà họ theo viết thì họ cần phải
tìm hiểu, trau dồi, nghiên cứu kỹ mọi vấn đề của đề tài đó trước khi nhập cuộc. Phóng viên
phụ trách chuyên mục Pháp luật thì phải am hiểu về luật pháp. Để từ đó mới có thể vận
dụng viết tin, bài liên quan đến pháp luật một cách đúng đắn, chính xác, góp phần giúp cơ
quan chức năng xử lý đúng người, đúng tội. Phóng viên phụ trách chuyên mục văn hóa thì
phải có kiến thức sâu rộng về lĩnh vực văn hóa, trên cơ sở đó mới có thể sáng tạo được

những tác phẩm báo chí hay, chất lượng để phục vụ cho nhu cầu của công chúng…
Chuyên môn về nghiệp vụ báo chí: Đã là nhà báo thì phải có chuyên môn về nghiệp vụ
báo chí, tuy nhiên không phải cứ là nhà báo thì phải tốt nghiệp chuyên ngành báo chí. Hiện
nay, qua khảo sát sơ bộ trình độ nghiệp vụ của các phóng viên, biên tập viên đang công tác
tại các cơ quan báo chí trên toàn quốc, số phóng viên có trình độ chuyên môn về báo chí
sau khi ra trường chỉ chiếm khoảng gần 30%, số còn lại là tốt nghiệp ở các chuyên ngành
khác. Các lĩnh vực chuyên sâu như kỹ năng viết về các vấn đề cấp thiết của xã hội như môi
trường, an toàn giao thông, kinh tế, thông tin kỳ họp Quốc hội…Đòi hỏi cán bộ, phóng
viên phải có chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng viết báo cao. Việc thiếu kỹ năng viết báo nói
chung và viết về các chủ đề cấp thiết trong xã hội của phóng viên dẫn đến thông tin thiếu
chính xác và đôi khi sai sự thật, tất yếu xảy ra những sai phạm đáng tiếc, ảnh hưởng không
nhỏ đến chất lượng thông tin của báo chí Việt Nam. Việc luôn cập nhật các kiến thức mới,
luôn được bồi dưỡng nghiệp vụ thường xuyên là nhu cầu rất lớn của đội ngũ nhà báo Việt
Nam và là một trong những yếu tố quan trọng để đảm bảo sự chính xác của thông tin.
Chuyên môn về kỹ thuật: Mỗi cán bộ, phóng viên dù ít hay nhiều cũng phải có chuyên
môn về kỹ thuật trong loại hình báo chí mình đang công tác. Như trong phát thanh thì phải
có chuyên môn về cách sử dụng bàn trộn, mic, xử lý âm thanh, cách chọn nhạc cho phù
SV: §inh ThÞ Trang
6B

5

Líp: LTBC


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
Kho¸ 6

HÖ C§LTBC


hợp với chương trình...Trong truyền hình thì phải am hiểu về bố cục hình ảnh, góc quay,
cách sử dụng ánh sáng trong tự nhiên…Trong báo in thì phải cách trình bày như thế nào
cho hợp lý, cách dùng ảnh và số lượng ảnh trong tin, bài, số báo đó như thế nào cho phù
hợp. Với báo mạng điện tử thì ngoài những hiểu biết trên còn phải học hỏi cách trình bày,
thiết kế trang báo sao cho gọn, đẹp, thuận tiện cho người truy cập, am hiểu về vấn đề an
ninh mạng để từ đó phòng tránh những tin tặc đột nhập và tấn công trang báo.
1.2.4. Hiểu biết về xã hội.
Nghề báo là nghề của nhiều nghề, liên quan đến mọi mặt, mọi đối tượng của đời
sống xã hội. Mặt khác hoạt động báo chí gắn liền với quyền lực. Dù không phải cơ quan
quyền lực, nhưng báo chí ở nước ta là tiếng nói của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính
trị, xã hội, là diễn đàn của nhân dân. Nên toàn bộ hoạt động sáng tạo ra tác phẩm báo chí
đều mang ý nghĩa đại diện cho ý chí và quyền lợi của nhân dân. Mọi thông tin của nhà báo
và báo chí tác động vào tiến trình phát triển xã hội, đều được đảm bảo bằng sức mạnh của
dư luận xã hội. Trong sự nghiệp đổi mới, báo chí nước ta có vai trò và uy tín lớn trong xã
hội, lại được Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ tham gia giám sát và phản biện xã hội. Vì
vậy, nhà báo phải không ngừng học hỏi, trau dồi, tự nghiên cứu và tích lũy kiến thức cho
mình về các vấn đề xã hội để có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
1.3.Phân loại nguồn nhân lực cơ quan báo chí.
1.3.1 Phân loại theo căn cứ theo loại hình báo chí.
Nguồn nhân lực trong cơ quan báo chí nói chung cơ bản là giống nhau. Tuy nhiên,
do đặc thù của từng loại hình báo chí có vai trò và chức năng riêng nên yêu cầu nguồn
nhân lực cho loại hình đó sẽ khác nhau về chuyên môn nghiệp vụ. Về số lượng nhiều hay ít
thì căn cứ theo mức độ công việc của từng cơ quan báo chí. Số lượng nguồn nhân lực trong
báo nguyệt san, bán nguyệt san sẽ khác với số lượng nguồn nhân lực trong tạp chí…
1.3.1.1.Nguồn nhân lực trong báo in:
Nguồn nhân lực trong báo in không yêu cầu quá cao về giọng nói hay ngoại hình
như hai loại hình báo Phát Thanh, Truyền Hình. Yêu cầu chung của phóng viên là ngoài
khả năng viết tin, bài tốt còn phải biết sử dụng thành thạo các trang thiết bị trong tác
nghiệp như máy ghi âm, máy ảnh, máy quay... Ngày nay, trước sự hỗ trợ về trang thiết bị
như máy ghi âm thì phóng viên báo in vẫn không thể thiếu bên mình quyển sổ ghi chép và

cây bút để họ có thể ghi lại những chi tiết mà máy ghi âm không thể làm được đó là sự
quan sát của họ. Vì vậy, với phóng viên báo in thì yêu cầu nhớ thông tin nhanh, chính xác
là vô cùng quan trọng. Ngôn ngữ của báo in là chữ viết vì vậy phóng viên báo in phải là
những người có vốn từ phong phú, biết sử dụng ngôn từ sắc sảo, cô đọng mà vẫn truyền
SV: §inh ThÞ Trang
6B

6

Líp: LTBC


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
Kho¸ 6

HÖ C§LTBC

đạt đủ nội dung thông tin đến công chúng một cách tốt nhất. Nói như thế không có nghĩa là
những phóng viên báo hình, báo nói, báo mạng điện tử thì không cần vốn từ phong phú mà
cơ bản là phóng viên ở loại hình nào thì phải mạnh ở chuyên môn của loại hình đó. Ở báo
hình thì phải mạnh ở quay phim, tư duy hình ảnh, kỹ sảo hình ảnh. Ở báo nói thì thì phải
mạnh ở cách sử dụng âm nhạc, giọng đọc…
1.3.1.2.Nguồn nhân lực trong Phát Thanh – Truyền Hình:
Trong phát thanh, đặc thù là lời nói “một người nói cho triệu người nghe” nên yêu
cầu của phát thanh đề ra ban đầu là chất giọng. Bởi hiện nay xu hướng 3 trong 1 (Phóng
viên, biên tập, phát thanh viên) đang ngày càng trở nên phổ biến. Nghĩa là một phóng viên
đi viết tin, bài về tự chỉnh sửa tin, bài của mình rồi tự thể hiện trên sóng sẽ sinh động và
hay hơn rất nhiều so với việc đưa cho một phát thanh viên đọc. Bởi cho dù phát thanh viên
có giọng tốt bao nhiêu thì cũng thể thể hiện tin bài đó một cách sống động, có hồn như
chính tác giả của bài viết. Biết sử dụng ngôn ngữ nói trên sóng là điều không thể thiếu.

Yêu cầu đầu tiên của truyền hình là ngoại hình. Bởi hình ảnh là ngôn ngữ của
truyền hình. Truyền hình không thể chọn 1 người không “ăn hình” để lên hình cho một
chương trình truyền hình. Hiện nay, ở nước ta truyền hình đang lên ngôi, bởi vậy việc
tuyển dụng nguồn nhân lực trong truyền hình cũng trở nên ngày càng khắt khe hơn. Không
chỉ yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ, sự nhanh nhạy trong cách xử lý tình huống, cách sử
dụng ngôn ngữ cơ thể, biểu cảm trên khuôn mặt, nhạy bén trước thông tin như những loại
hình báo chí khác mà ngoại hình cũng được đánh giá cao trong công tác tuyển dụng.
1.3.1.3.Nguồn nhân lực trong báo mạng điện tử:
Do đặc thù của công việc nên yêu cầu về nguồn nhân lực trong báo mạng điện tử
cũng nhiều hơn. Bởi do mức độ cập nhật thông tin trên báo mạng điện tử là liên tục, phi
định kỳ. Nguồn nhân lực trong báo mạng điện tử không những yêu cầu về độ tuổi trẻ, năng
động mà còn yêu cầu về khả năng nhạy bén trước thông tin cao hơn cả so với báo nói và
báo viết. Báo mạng điện tử luôn cần những người am hiểu về kỹ thuật, sử dụng máy tính
thành thạo. Bởi sự ra đời của máy tính và mạng là khởi nguồn cho sự ra đời của báo mạng
điện tử.
1.3.2.Phân loại theo căn cứ theo tính chất (đặc trưng) lao động.
1.3.2.1.Lãnh đạo quản lý: Tổng biên tập (giám đốc) và các Phó tổng biên tập (Phó giám
đốc)
+ Tổng biên tập: Là người giữ vai trò quan trọng trong cơ quan báo chí, là người
trực tiếp lên kế hoạch, tổ chức tin bài cho phóng viên, cộng tác viên. Chính vì vậy yêu càu
đối với tổng biên tập trong cơ quan báo chí là : Tổng biên tập là người phải có phẩm chất
SV: §inh ThÞ Trang
6B

7

Líp: LTBC


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp

Kho¸ 6

HÖ C§LTBC

tư tưởng chính trị vững vàng, người có chuyên mon nghiệp vụ, là người Việt Nam. Là chủ
tài khoản, là chủ tịch hội đồng thi đua khen thưởng kỷ luật. Là người có quan hệ rộng rãi
với chính quyền và các tổ chức xã hội, là người nhạy cảm, có khả năng phán đoán các tình
huống. Đồng thời là nhà quản trị kinh doanh kinh tế giỏi. Cần phải nghiên cứu nắm vững
đường lối, chính sách, tình hình thực tế, đầu mối công tác. Xây dựng chương trình, kế
hoạch đưa tin, gợi ý chủ đề cho phóng viên, tổ chức mạng lưới công tác viên, thông tin
viên. Tham gia làm phóng viên chuyên ngành, chuyên đề, tham gia vào tổ chức phóng viên
mũi nhọn của cơ quan báo chí. Phải thường xuyên kiểm tra, giám sát, động viên đội ngũ
phóng viên, biên tập viên. Thường xuyên rút kinh nghiệm về nghiệp vụ, tổ chức sinh hoạt
câu lạc bộ, tổ chức các cuộc thi sáng tác về đề tài, thể loại khác nhau. Để từ đó phát hiện ra
các nhân tài và lựa chọn những tin bài hay. Tổ chức các lớp học chuyên môn, chuyên đề
cho các cộng tác viên, thông tin viên để nâng cao trình độ nhận thức, trình độ nghiệp vụ.
+ Phó tổng biên tập (Phó tổng giám đốc, phó giám đốc): Phó tổng biên tập một
chức danh lãnh đạo do cơ quan chủ quản bổ nhiệm trên cơ sở đề đạt của tổng biên tập và
được sự đồng ý bằng văn bản của các cơ quan chỉ đạo và quản lý nhà nước về báo chí. Phó
tổng biên tập là trợ thủ đắc lực của tổng biên tập, có vai trò nhất định trong tòa soạn. Do
yêu cầu của công việc nên phó biên tập nếu trưởng thành từ phóng viên, biên tập viên, phó,
trưởng phòng, ủy viên bộ (ban) biên tập sẽ thuận lợi rất nhiều trong công việc. Và vì thế,
phó tổng biên tập cũng là người có phẩm chất chính trị, tư tưởng trình độ chuyên môn
nghiệp vụ cao, là nhà quản lý tốt và có quan hệ rộng rãi với Đảng, Nhà nước và nhân dân.
1.3.2.2 Thư ký tòa soạn: Là một trong những người giỏi về nghệ thuật “sử dụng kéo”
trong việc sử dụng tin, bài. Vì thế trong cơ quan báo chí nhân vật thư ký là người có trình
độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như am hiểu về tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
1.3.2.3 Phóng viên, biên tập viên, cộng tác viên:
+ Phóng viên: Là người hoạt động theo nghiệp vụ báo chí trong lĩnh vực truyền
thông đại chúng. Người xây dựng đề cương, thực hiện viết tin, bài theo sự phân công của

ban biên tập. Trước mỗi vấn đề mình viết, phóng viên phải tự chịu trách nhiệm về tác
phẩm của mình. Phóng viên thường xuyên đi cơ sở, xâm nhập thực tế, phản ánh kịp thời
thông tin thời sự về những vấn đề sự kiện, sự việc xảy ra trong đời sống xã hội, nắm bắt
chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước một cách kịp thời đến người dân.
Đồng thời tổ chức làm việc với cộng tác viên, thông tin viên cơ sở.
+ Biên tập viên: Là những người chọn lọc, cắt gọn, tổ chức sắp xếp các tin, bài
trong mỗi số báo cụ thể cho phù hợp. Đọc và phân tích bài viết, kiểm tra nội dung của nó.

SV: §inh ThÞ Trang
6B

8

Líp: LTBC


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
Kho¸ 6

HÖ C§LTBC

Biên tập viên không chỉ đơn thuần là người đọc bài mà còn là người quyết định cuối cùng
về số phận mỗi bài viết.
+ Cộng tác viên: Là những người đa năng không phụ thuộc vào một phòng nào của
tòa soạn, trừ mặt hành chính. Họ gửi bài cho phòng này hoặc phòng kia tùy theo tính chất
của thông tin hay của đề tài. Có một số người hưởng lương, một số người khác thì hưởng
nhuận bút theo bài. Vai trò của họ là tìm kiếm và chuyển về các yếu tố thông tin và giải
thích những điều mà độc giả đặc biệt quan tâm nhưng chưa được các hãng thông tấn xử
lý.Hoặc giúp đỡ tờ báo làm rõ hơn mối liên hệ giữa các sự kiện thông tin mang sắc thái
riêng của người đưa tin.

1.3.2.4 Các trưởng phòng, phó phòng (ban):
+ Phòng ban chuyên môn: Các phòng ban chuyên môn trong một cơ quan báo chí
số lượng không cố định, tuỳ theo đặc điểm tình hình của cơ quan chủ quản mà người ta xây
dựng phòng ban chuyên môn. Với những cơ quan báo chí lớn thì thành lập các ban. Ở
những cơ quan có quy mô lớn hơn thì thành lập phòng ban, tiểu ban. Ví dụ: ĐTNVN, báo
Nhân Dân, Thông tấn xã Việt Nam... lập các ban. Trong ban có thể có phòng, tiểu ban. Tạp
chí cộng sản lập các vụ. Như vậy ban hay phòng là tên gọi tương đối, tùy thuộc vào quy
mô và nhiệm vụ chính trị của cơ quan báo chí cụ thể. Số lượng ban, phòng nhiều hay ít do
Tổng biên tập và ban (bộ) biên tập quyết định, tùy thuộc vào nhiệm vụ chính trị của cơ
quan báo chí đó .
Trưởng, phó phòng (ban) do Tổng biên tập bổ nhiệm sau khi có sự nhất trí của cấp
ủy tòa soạn. Trưởng ban chịu trách nhiệm trước Tổng biên tập về toàn bộ công việc của
ban do mình phụ trách. Trưởng một số ban quan trọng thường cơ cấu vào bộ (ban) biên
tập. Phó ban là người giúp việc cho trưởng ban. Như vậy, mỗi ban (phòng) chức năng có
nhiệm vụ đặc điểm riêng nhưng tất cả đều phục vụ cho mục đích chung là chuẩn bị đầy đủ
số lượng tin bài, ảnh đúng thời gian quy định để tòa soạn xuất bản ấn phẩm đúng định kỳ.
Phòng (ban) là mắt xích quan trọng là bộ phận không thể thiếu cấu thành bộ máy tòa soạn
nên không thể tách rời đơn lẻ trong quá trình hoạt động chung và xuất bản báo chí. Vì vậy,
củng cố, xây dựng nguồn nhân lực trong các phòng, ban chuyên môn vững mạnh hiệu quả
là công việc thường xuyên của ban lãnh đạo tòa soạn.
Phòng ban chỉ tên gọi là tương đối, tên gọi của phòng ban do Tổng biên tập quyết
định cho phù hợp với đối tượng phục vụ, thông thường tên gọi các phòng ban được dựa
trên cơ sở hoạt động chuyên môn hoặc tên chính của các hoạt động đó. Đối với các phòng
ban chuyên môn tồn tại đảm bảo 2 ý nghĩa: Ý nghĩa chuyên môn của tờ báo, ý nghĩa thể
hiện cơ cấu tổ chức của cơ quan báo chí.
SV: §inh ThÞ Trang
6B

9


Líp: LTBC


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
Kho¸ 6

HÖ C§LTBC

+ Phòng hành chính: Trưởng phòng là người trực tiếp điều hành các công việc của
phòng và chịu trách nhiệm trước ban lãnh đạo cơ quan theo quy định của pháp luật. Ủy
quyền và phân công công việc cho phó phòng và nhân viên trong phòng. Chủ trì trong việc
xây dựng kế hoạch và quản lý công tác tổ chức, hành chính, văn phòng. Quản lý công tác
văn thư, lưu trữ và bảo mật công văn giấy tờ theo quy định. Tổng hợp công tác thi đua,
khen thưởng đối với cán bộ, phóng viên, biên tập viên. Tiếp nhận và phát hành các loại
công văn đi và đến, các văn bản nội bộ, các bưu phẩm, giao báo cho người đặt mua và cho
các quầy báo cũng như thúc đẩy việc bán báo. Dự thảo, đánh máy, nhân bản các văn bản,
quyết định, kế hoạch chung của ban lãnh đạo cơ quan. Cấp giấy giới thiệu cho phóng viên
thử việc và sinh viên đi thực tập. Phụ trách công tác đưa đón, tiếp khách đến làm việc với
tòa soạn. Quản lý, điều động và sử dụng các loại ô tô cho cán bộ cơ quan đi công tác.
Chăm lo điều kiện làm việc và phục vụ các đồng chí lãnh đạo cơ quan. Báo cáo thống kê,
sơ kết, tổng kết các công tác chung của trường. Thực hiện các công việc phục vụ thuộc lĩnh
vực văn phòng.
+ Phòng kỹ thuật: Quản lý phòng kỹ thuật, phân công công việc cho các nhân viên
dưới quyền, chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện công việc của phòng. Quản lý nguồn
nhân lực đảm bảo đáp ứng nhu cầu kỹ thuật. Kiểm soát, chỉ đạo và điều hành nhân viên
phòng kỹ thuật chọn lọc, huấn luyện và đào tạo nhân viên. Chịu trách nhiệm về kỹ thuật
hoạt động của các máy móc, thiết bị trong tòa soạn. Sửa chữa, thay thế máy móc, thiết bị
và thay đổi nhân sự đảm bảo chất lượng để phục vụ cho công việc của tòa soạn. Làm các
công việc khác theo yêu cầu của ban lãnh đạo tòa soạn.
1.3.2.5 Kỹ thuật viên:

Là người có kiến thức, trình độ chuyên môn về kỹ thuật trình bày trang báo, là
người kiểm tra chất lượng máy móc, thiết bị. Chịu trách nhiệm về đổ bông, trình bày, thiết
kế hình họa, sắp xếp bố cục hài hòa cho trang báo, giúp đỡ phóng viên, biên tập viên trong
quá trình sửa bông trên máy tính.
1.3.2.6 Bộ phận hành chính tổng hợp: Kế toán, tạp vụ
+ Kế toán: Là người phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ về kế toán, có phẩm
chất đạo đức nghề nghiệp, liêm khiết, có ý thức chấp hành pháp luật. Có trách nhiệm tuân
thủ các quy định của pháp luật về kế toán. Chịu trách nhiệm trả lương, tiền nhuận bút cho
phóng viên, cộng tác viên, nhân viên trong cơ quan. Ngoài ra còn phải thống kê chi tiêu
của cơ quan như hội họp, tiền phát hành báo, bán báo…
+ Tạp vụ: Là bộ phận chuyên chịu trách nhiệm về tổ chức hội họp trong cơ quan,
dọn dẹp trang thiết bị phòng làm việc, giữ vệ sinh môi trường trong cơ quan, thực hiện
SV: §inh ThÞ Trang
6B

10

Líp: LTBC


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
Kho¸ 6

HÖ C§LTBC

công việc khóa mở cửa. Phối hợp với kế toán lập danh sách đồ dùng vệ sinh hàng tháng,
quản lý hệ thống nước uống…
1.4.Vai trò nguồn nhân lực cơ quan báo chí.
Báo chí có vai trò quan trọng trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi
báo chí là vũ khí sắc bén để tuyên truyền, tập hợp tổ chức và vận động nhân dân. Đông đảo

đội ngũ nhà báo có trình độ chính trị vững vàng, năng lực chuyên môn cao, kiến thức sâu
rộng, đạo đức nghề nghiệp trong sáng, gắn bó với sự nghiệp cách mạng của Đảng và của
nhân dân sẽ làm cho đất nước ngày càng phát triển.
Sau khi tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, trở thành thành viên chính thức của tổ
chức thương mại Thế giới WTO, sự cạnh trang thông tin ngày càng cao. Nguồn nhân lực
trong cơ quan báo chí đang rất cần những thế hệ trẻ năng động, sáng tạo. Vì thế, với sự
phát triển của công nghệ thông tin, lớp nhà báo trẻ ngày nay đã và đang được đào tạo chính
quy hơn, bài bản hơn. Đội ngũ này có sự nhanh nhạy hơn với các vấn đề xảy ra trong xã
hội, nên góp phần quan trọng trong quá trình tiếp tục xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Đội ngũ nhà báo ngày càng phải chủ động tích
cực tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong công cuộc công
nghiệp hóa hiện đại hóa. Truyền bá tri thức khoa học, nâng cao dân trí, tham gia quản lý,
giám sát xã hội, xây dựng đất nước. Để giành được thắng lợi trong sự nghiệp công nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước mà nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 13 đã đề ra. Tích cực tuyên
truyền giáo dục truyền thống cách mạng, những tri thức lịch sử văn hóa của đất nước, của
dân tộc và nhân loại, đưa con người đến với tiến bộ của xã hội, đồng thời phản ánh những
điển hình tiên tiến, cổ vũ nhân tố mới. Luôn đi đầu trong công cuộc đấu tranh chống tiêu
cực và các tện nạn xã hội, chống âm mưu “ Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Tóm lại, trong bất cứ hoàn cảnh nào dù thời chiến hay thời bình, đặc biệt trong giai
đoạn bùng nổ thông tin như hiện nay đội ngũ nhà báo luôn có ý nghĩa quan trọng, họ là đội
ngũ tiên phong trên mặt trận tư tưởng. Xứ mệnh của họ ngày càng to lớn trong việc thể
hiện tiếng nói của Đảng và Nhà nước, tổ chức xã hội nhằm thúc đẩy công cuộc đổi mới và
phát triển đất nước trong thời kỳ phát triển như hiện nay.

SV: §inh ThÞ Trang
6B

11

Líp: LTBC



B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
Kho¸ 6

HÖ C§LTBC

CHƯƠNG II: VẤN ĐỀ NGUỒN NHÂN LỰC TẠI BÁO BẢO VỆ PHÁP
LUẬT CUỐI TUẦN.
2.1.Quá trình phát triển và hoạt động của báo Bảo vệ Pháp luật và Bảo vệ Pháp luật
cuối tuần.
2.1.1 Quá trình phát triển và hoạt động vủa báo Bảo vệ Pháp luật.
Cơ quan của Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao. Thành lập đến nay được 18 năm.
Báo bảo vệ Pháp luật có 3 ấn phẩm: Báo Bảo vệ Pháp luật ra thứ 3 và thứ 6 hàng tuần;
Báo Bảo vệ Pháp luật cuối tuần ra thứ 7 hàng tuần; Báo bảo vệ Pháp luật cuối tháng ra 1
số/tháng. Báo có cơ quan đại diện ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Tổng biên tập là Phạm
Xuân Chiến, Phó tổng biên tập là Hoàng Thế Anh – Phan Thị Kim Hoa. Trụ sở chính ở
miền bắc là 44 Lý Thường Kiệt – Hoàn Kiếm – Hà Nội. Cơ quan đại diện tại miền Trung
là số 4 – Lý Tự Trọng TP. Đà Nẵng. Cơ quan đại diện phía Nam địa chỉ số 199 - Hoàng
Văn Thụ phường 8, quận Phú Nhuận, Tp Hồ Chí Minh. Tôn chỉ mục đích của báo là phản
ánh những thông tin chủ yếu liên quan đến việc xây dựng, phổ biến, tuyên truyền pháp
luật. Thông tin những vấn đề liên quan đến ngành kiểm sát, phản ánh những tiêu cực vi
phạm pháp luật trong xã hội với các chuyên mục như: Công tố kiểm sát, Công dân pháp
luật, Pháp luật & đời sống, Hồ sơ vụ án. Đồng thời để thông tin được đa dạng, nhiều chiều
Báo bảo vệ Pháp luật còn có chuyên mục như: Đời sống xã hội, Văn hóa thể thao, Văn hóa
xã hội, Vì bình yên cuộc sống, Chính sách pháp luật…
2.1.2 Quá trình phát triển và hoạt động vủa báo Bảo vệ Pháp luật cuối tuần.
Báo Bảo vệ Pháp luật cuối tuần là một trong những ấn phẩm của báo Bảo vệ Pháp luật.
Bảo vệ Pháp luật cuối tuần ra 1 số/ 1 tuần. Văn phòng tại số nhà 15, ngách 78 ngõ Giáp
Bát – Hoàng Mai – Hà Nội. Thư ký là đồng chí Trần Việt Dũng. Báo Bảo vệ Pháp luật

cuối tuần có các chuyên mục chính như đời sống pháp luật, công tố kiểm sát, chính sách
pháp luật, công dân pháp luật, kinh tế hội nhập, hồ sơ vụ án…Báo bảo vệ Pháp luật cuối
tuần hoạt động tách biệt, độc lập về cơ sở hạ tầng so với trụ sở chính tuy nhiên tôn chỉ mục
đích của ấn phẩm vẫn phải gắn liền với báo Bảo vệ pháp luật. Mọi tin, bài sau khi đã được
đổ bông, sửa bông, trình bày thì phải trải quá trình qua biên tập, chỉnh sửa của biên tập
viên, thư ký của văn phòng sau đó mới chuyển sang trụ sở chính để cho biên tập viên, thư
ký, phó tổng biên tập và tổng biên tập duyệt lần cuối trước khi có quyết định cuối cùng để
đăng phát tin, bài đó. Điều này cho thấy tin, bài của báo được kiểm duyệt rất kỹ lưỡng vì
vậy thông tin đã đăng trên báo là những thông tin có tính chất, mức độ thuyết phục rất cao.
SV: §inh ThÞ Trang
6B

12

Líp: LTBC


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
Kho¸ 6
2.1.3

HÖ C§LTBC

Cơ cấu tổ chức báo Bảo vệ Pháp luật cuối tuần.

Mô hình tờ Bảo vệ Pháp luật cuối tuần.
2.2. Vai trò, thực trạng nguồn nhân lực báo Bảo vệ Pháp luật cuối tuần.
2.2.1 Khái quát chung về nguồn nhân lực báo Bảo vệ Pháp luật cuối tuần.
Nguồn nhân lực tại báo Bảo vệ Pháp luật cuối tuần có vai trò quan trọng trong việc
truyền tải những thông tin liên quan đến ngành Kiểm sát, cũng như góp phần quan trọng

trong việc phối hợp với cơ quan công an thành phố Hà Nội phá những vụ án quan trọng,
bắt được nhiều tội phạm nguy hiểm đem lại bình yên cho cuộc sống. Ngoài ra còn là cầu
nối giữa công dân với pháp luật, đem lại công bằng pháp luật cho nhiều người cũng như
phơi bày nhiều vụ việc sai phạm pháp luật như thất thoát tài sản, lấn chiếm đất công…Mà
hơn hết là tham gia vào tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước
cùng với hơn 800 cơ quan báo chí trong cả nước.

SV: §inh ThÞ Trang
6B

13

Líp: LTBC


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
Kho¸ 6

HÖ C§LTBC

Hiện nay, văn phòng báo Bảo vệ Pháp luật cuối tuần có 1 Thư ký, 3 biên tập, 4 nhân
viên kỹ thuật và 7 phóng viên.
Trình độ chuyên môn:
- Thạc sĩ: 1 người
- Đại học: 5 người
- Cao Đẳng: 9 người
Tổng biên tập(bên trụ sở chính): Phạm Xuân Chiến. Trình độ chính trị: Trung cấp; Trình
độ học vấn: Thạc sĩ. Là người đứng đầu cơ quan báo chí, chịu trách nhiệm trước cơ quan
chủ quản về nội dung, kế hoạch hoạt động, công tác của báo theo chức năng, nhiệm vụ
được giao. Tổng biên tạp là người chịu trách nhiệm quản lý cán bộ, phóng viên trong phạm

vi báo. Trực tiếp điều hành công việc và hoạt động của báo. Chỉ đạo xây dựng các kế
hoạch hoạt động, công tác của báo theo nhiệm vụ chuyên môn và sự chỉ đạo của cơ quan
chủ quản, của Sở thông tin và truyền thông...Tổng biên tập đại diện cho báo giữ mối quan
hệ cộng tác với các phòng chuyên môn, các cơ quan báo chí khác. Chịu trách nhiệm duyệt
tin, bài trước khi đăng.
Phó tổng biên tập(bên trụ sở chính): Báo có 2 Phó tổng biên tập là Hoàng Thế Anh Phan Thị Kim Hoa: Trình độ chính trị: Trung cấp; Trình độ học vấn: Thạc sĩ. Là người
trực tiếp giúp Tổng biên tập truyền đạt, điều hành công việc hàng ngày, theo dõi nội dung
hoạt động kế hoạch, công tác của báo, chịu sự chỉ đạo của Tổng biên tập. Giúp Tổng biên
tập tổng hợp tình hình số liệu và chuẩn bị nội dung báo cáo tháng, quý, năm , báo cáo đột
xuất theo yêu cầu để gửi lên cấp trên theo quy định. Cùng vơi Tổng biên tập giữ mối quan
hệ với các cơ quan báo chí khác, các phòng ban đoàn thể của thành phố, quận, huyện.
Được Tổng biên tập ủy quyền ký một số văn bản và thay Tổng biên tập khi Tổng biên tập
đi công tác.
Thư ký: Trần Việt Dũng. Trình độ chính trị: Trung cấp; Trình độ học vấn Thạc sĩ. Là
người đứng đầu văn phòng, có trách nhiệm quản lý chung mọi hoạt động của văn phòng
báo Bảo vệ Pháp luật cuối tuần như chỉnh sửa biên tập tin, bài của biên tập viên gửi lên
trước khi chuyển sang trụ sở chính biên tập và phê duyệt lần cuối cùng để phát hành.
Biên tập viên: Văn phòng báo Bảo vệ Pháp luật cuối tuần bao gồm 3 người trong đó có 1
người trình độ Đại học, 1 người Cao Đẳng và 1 người đang theo học thạc sĩ. Họ có nhiệm
vụ đọc bản bông, soát lỗi, chỉnh sửa tít, câu, từ bài viết của phóng viên và cộng tác viên.
Phóng viên: Bùi Lương Việt – Trình độ Học viện, Bùi Quang Thu – Trình độ Đại học,…
Nói chung trình độ học vấn của phóng viên trong văn phòng báo hầu hết là Cao Đẳng, Đại
học. Đảm nhiệm việc viết tin, bài, yêu cầu đủ cả về chất và lượng. Hoàn thành tốt chuyên
SV: §inh ThÞ Trang
6B

14

Líp: LTBC



B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
Kho¸ 6

HÖ C§LTBC

trang, mảng đề tài được giao sau đó chuyển cho biên tập viên chỉnh sửa. Đồng thời phải
chịu trách nhiệm trực tiếp về chất lượng tin, bài cũng như độ xác thực về thông tin trong
bài viết của mình.
Kỹ thuật viên: Có 2 kỹ thuật viên chính là Kim Oanh – Trình độ Đại học, Quang Khải –
Trình độ Cao Đẳng. Quang Khải chuyên chịu trách nhiệm trình bày trang nhất và các tít
chính trong toàn bộ số báo, Kim Oanh chịu trách nhiệm trình bày ảnh và bố cục hài hòa
của tất cả số báo. Hai kỹ thuật viên còn lại chịu trách nhiệm đổ bản bông và sửa bông trên
máy khi biên tập viên sửa bản bông trên giấy và chuyển giao sang cho bên kỹ thuật hoàn
thiện.
Tóm lại, mỗi một cán bộ, phóng viên, nhân viên trong cơ quan đều đóng vai trò
quan trọng trong từng góc độ riêng mà họ đảm nhiệm. Nếu thiếu đi một trong những bộ
phận dù là nhỏ nhất thì cơ cấu của báo sẽ không thể hoàn thiện. Bởi nó là một tổng thể
thống nhất không thể tách rời. Khi kết hợp với nhau mới có thể hoàn thành nên một số báo
đảm bảo tính chính trị cũng như những thông tin để phục vụ cho nhu cầu của công chúng.
2.2.2.Đặc điểm nguồn nhân lực bảo Bảo vệ Pháp luật cuối tuần.
Về số lượng: Báo bảo vệ Pháp Luật cuối tuần có 15 người bao gồm cả thư ký,
phóng viên và nhân viên kỹ thuật. Cụ thể văn phòng báo bao gồm 1 thư ký, 3 biên tập viên,
4 kỹ thuật và 7 phóng viên. Như vậy với số lượng nguồn nhân lực này là khá hợp lý so với
mức độ công việc của cơ quan. Có thể thấy sức trẻ là đặc điểm nổi bật của báo Bảo vệ
Pháp luật cuối tuần, đây cũng là điểm mạnh của báo. Báo Bảo vệ Pháp luật không yêu cầu
phóng viên phải thường xuyên đến cơ quan. Vào hai ngày thứ 4, thứ 5 hàng tuần thì toàn
bộ phóng viên, biên tập, kỹ thuật phải có mặt đầy đủ để cùng nhau kết hợp chỉnh sửa, trình
bày số báo. Còn những ngày khác là thời gian giành cho phóng viên đi viết tin, bài để
chuẩn bị cho số báo vào cuối tuần. Với số lượng và cách phân công công việc hợp lý đã

đảm bảo cho phóng viên, nhân viên tại báo có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ, công việc được
giao. Hơn nữa, vẫn có thể tranh thủ làm thêm tại các cơ quan khác để tăng thêm thu nhập,
phục vụ cho cuộc sống vào những ngày không phải tới cơ quan.
Về chất lượng: Tại cơ quan báo Bảo vệ Pháp luật cuối tuần hiện có nhiều phóng
viên có trình độ Học Viện, Đại học chuyên ngành báo chí. So với những năm trước nói
chung là báo đã có nhiều đổi mới. Đội ngũ cán bộ, phóng viên không ngừng được nâng cao
về trình độ học vấn, nâng cao tay nghề do vậy chất lượng tin, bài cũng ngày được nâng
cao. Mặt khác, do đội ngũ phóng viên trẻ nên việc cập nhật thông tin nhạy bén hơn, kịp
thời hơn, đảm bảo được yêu cầu về tôn chỉ mục đích của Đảng và nhà nước cũng như của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Có nhiều bài đã tạo ra được sự định hướng tốt trong dư
SV: §inh ThÞ Trang
6B

15

Líp: LTBC


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
Kho¸ 6

HÖ C§LTBC

luận, xã hội. Tuy nhiên do đội ngũ này còn trẻ, kinh nghiệm còn ít nên vẫn còn một số tin,
bài chưa thực sự đạt được độ sâu, độ chín về nghiệp vụ.
2.2.3 Ưu điểm và nhược điểm nguồn nhân lực báo Bảo vệ Pháp luật cuối tuần.
2.2.3.1 Ưu điểm:
Đội ngũ nguồn nhân lực tại báo hầu hết ở độ tuổi trẻ (25 - 45), đều tốt nghiệp
chuyên ngành báo chí nên luôn có được sự nhất trí cao trong công việc. Báo hội ngộ nhiều
cây bút trẻ từng đạt giải báo chí quốc gia như Bùi Lương Việt, Nguyễn Thành Trung, Trịnh

Phú Sơn…Bên cạnh đó còn có nhiều cộng tác viên, tác giả là nhà báo tham gia viết bài, gửi
bài cho tòa soạn. Với mục tiêu chất lượng là chính và quan trọng nhất, nên cơ quan không
yêu cầu phóng viên bắt buộc phải đến cơ quan thường xuyên mà có thể làm việc gián tiếp
qua mạng bằng cách gửi tin, bài và nêu ý tưởng trình bày tin, bài của mình cho biên tập
viên và kỹ thuật viên cũng có thể mang tin, bài về nhà trình bày và hôm sau mang đến cơ
quan để tổng hợp lại vào ngày thứ 5 hàng tuần. Nhất là mới đây, số 46+ 47 ra ngày thứ 7
ngày 12/11/2011 Báo bảo vệ Pháp luật cuối tuần đã có sự thay đổi về nội dung hoàn toàn
mới. Khiến bạn đọc không còn mệt mỏi khi tiếp nhận quá nhiều vụ án như cướp, giết, hiếp
– một trong những nội dung chính của báo trước kia. Thì giờ đây báo đã có nhiều chuyên
trang mới hơn, nội dung hấp dẫn hơn như mỗi tuần một chuyện có thể khiến bạn khóc,
thuốc lạ mẹo hay, khám phá vùng đất mới, phóng sự dài kỳ…Bài viết hay, thông tin đắt,
trình bày mới lạ, ý tưởng đọc đáo đã thu hút được nhiều độc giả hơn. Ngoài ra, cơ quan
cũng luôn tạo điều kiện cho phóng viên đi học thêm để nâng cao trình độ như tạo kiện về
thời gian. Luôn quan tâm đến những phóng viên xa nhà có hỗ trợ tiền ăn trưa, tiền xăng xe.
Do vậy, cán bộ phóng viên tại báo Bảo vệ Pháp luật luôn gắn bó hết mình với tòa soạn.
2.2.3.2 Nhược điểm:
Phóng viên ở cơ quan chủ yếu ở những nơi khác như Hòa Bình, Bắc Giang, Thái
Bình…nên không thuộc đường phố Hà Nội gây khó khăn trong việc tác nghiệp. Bên cạnh
đó vấn đề về trang thiết bị, máy móc tác nghiệp chưa đồng bộ, xuống cấp cũng là nguyên
nhân làm ảnh hưởng đến tốc độ làm việc và quá trình tác nghiệp của phóng viên. Hiện nay,
tại văn phòng của tờ Bảo vệ Pháp luật cuối tuần có tất cả 5 máy tính, 1 máy in màu, 1 máy
in đen trắng. Tuy nhiên, trong số 5 máy tính thì có 4 máy để kỹ thuật viên trình bày tin, bài
và sửa bản bông, còn 1 máy để cho phóng viên viết tin, bài. Nhưng hiện nay, chỉ có 3 máy
là hoạt động được nhưng tốc độ thì quá chậm. Nhiều phóng viên, nhân viên đã phải tự
mang máy tính xách tay đến cơ quan để làm việc cho kịp với tiến độ công việc. Cơ quan
chưa tổ chức được những cuộc hội thảo trao đổi nghiệp vụ giữa các phóng viên trong cơ
quan với nhau. Hơn nữa, giống như nhiều cơ quan báo in hiện nay do khủng hoảng kinh tế
SV: §inh ThÞ Trang
6B


16

Líp: LTBC


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
Kho¸ 6

HÖ C§LTBC

nên báo Bảo vệ Pháp Luật gần đây chậm trả lương, tiền nhuận bút cho phóng viên, nhân
viên, cộng tác viên nên có ảnh hưởng không ít đến đời sống sinh hoạt của họ.
2.3. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên.
2.3.1. Nguyên nhân khách quan
- Thiết bị máy móc hỗ trợ còn thiếu.
- Kinh phí hoạt động còn eo hẹp.
- Văn phòng làm việc chưa ổn định, phải thường xuyên di chuyển địa điểm.
- Chế độ đãi ngộ chưa hợp lý.
- Chưa có sự liên kết với các cơ sở đào tạo để có thể chọn ra nguồn nhân lực có chất lượng
tốt.
2.3.2. Nguyên nhân chủ quan
- Trình độ chuyên môn đào tạo còn nặng về lý thuyết nên một số phóng viên trẻ chưa theo
kịp công việc.
- Thời gian đến cơ quan không còn theo quy định nên khi có những việc độ xuất thì không
huy động được phóng viên đi làm ngay ngoài kế hoạch vì vậy gặp rất nhiều trở ngại.
- Thiếu đội ngũ phóng viên giàu kinh nghiệm.

SV: §inh ThÞ Trang
6B


17

Líp: LTBC


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
Kho¸ 6

HÖ C§LTBC

CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NGUỒN NHÂN LỰC
TẠI BÁO BẢO VỆ PHÁP LUẬT CUỐI TUẦN.
Trước tiên muốn có được nguồn nhân lực tốt đạt hiệu quả cả về chất và lượng thì
phải bắt nguồn từ công tác đào tạo. Vì vậy, các trường Cao Đẳng – Đại Học cũng cần tiếp
tục xây đổi mới, cập nhật chương trình đào tạo. Mở các ngành học mới trong lĩnh vực
truyền thông đại chúng. Nghiên cứu những vấn đề lí luận và thực tiễn cấp thiết của báo chí
truyền thông trong nước và trên thế giới. Liên kết đào tạo quốc tế và mở rộng hợp tác quốc
tế. Đổi mới phương pháp, tư duy đào tạo thiết thực, chất lượng, hiệu quả. Xây dựng cơ sở
vật chất, thiết bị xứng tầm đào tạo chất lượng cao nguồn nhân lực cho báo chí truyền thông
đất nước. Các hướng phát triển đó phải được thực hiện đồng bộ, quyết liệt cùng với sự hỗ
trợ hợp tác của các nhà báo, các cơ quan thông tấn báo chí trong nước và quốc tế mới có
thể trở thành hiện thực. Và sau đây là một số giải pháp chủ yếu để nâng cao nguồn nhân
lực tại cơ quan báo Bảo vệ Pháp luật cuối tuần.
3.1.Bồi dưỡng trình độ chính trị, nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ báo chí.
Khuyến khích, tạo mọi điều kiện để phóng viên, biên tập viên, kỹ thuật viên tham
gia các lớp đào tạo báo chí do một số cơ sở đào tạo báo chí tổ chức để nâng cao hơn nữa
trình độ, tiếp cận khoa học kỹ thuật, phương pháp thể hiện mới. Thường xuyên phát động
các phong trào thi đua trong đội ngũ cán bộ phóng viên của báo, để họ chứng tỏ năng lực
của mình, tạo môi trường thi đua lành mạnh cho cán bộ phóng viên học hỏi kinh nghiệm
của nhau trong quá trình tác nghiệp. Khuyến khích các cán bộ phóng viên tham gia các

cuộc thi do Trung Ương hội nhà báo Việt Nam tổ chức. Gửi các bài dự thi, qua đó trao đổi,
học hỏi kinh nghiệm của phóng viên báo bạn. Tổ chức cho cán bộ phóng viên tham gia các
lớp lý luận chính trị để củng cố, nắm bắt chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật của
Đảng và Nhà nước. Đồng thời tổ chức các lớp tìm hiểu, nghiên cứu chủ nghĩa Mac.Lenin,
tư tưởng Hồ Chí Minh để nâng cao trình độ lý luận trong đội ngũ phóng viên, biên tập
viên.
3.2.Đổi mới cơ chế quản lý phóng viên.
Phân công rõ nhiệm vụ cho từng phóng viên, biên tập viên, không để phóng viên
cùng một lúc giữ nhiều công việc dễ gây nên sự chồng chéo, không có điều kiện thuận lợi
để phóng viên thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Tổ chức giao ban thường xuyên theo tuần,
tháng, quý đánh giá kết quả đã làm được, chưa làm được của cán bộ phóng viên, biên tập
viên. Tạo điều kiện cho phóng viên, biên tập viên tự do đưa ra ý kiến của mình để tranh
luận về quá trình tác nghiệp, từ đó tổng kết lại và đưa ra hướng giải quyết. Tăng cường
SV: §inh ThÞ Trang
6B

18

Líp: LTBC


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
Kho¸ 6

HÖ C§LTBC

công tác chỉ đạo gắn với việc thường xuyên kiểm tra, đôn đốc. Hoàn thiện bộ máy tổ chức,
phân công lao động hợp lý, coi trọng chất lượng tuyển dụng con người theo hướng xuất
phát từ đòi hỏi nhu cầu công việc, để từ đó có một đội ngũ phóng viên chất lượng tốt nhất.
3.3.Chế độ đãi ngộ hợp lý.

Đưa công tác thi đua khen thưởng vào hoạt động có nề nếp. Luôn khuyến khích và
có chính sách ưu đãi hợp lý đối với cán bộ phóng viên, biên tập viên, giúp họ luôn yêu
nghề và tâm huyết với nghề. Chăm lo quan tâm đến đời sống riêng tư của phóng viên bằng
nhiều hình thức như: Cử cán bộ đến thăm hỏi, động viên, trò chuyện với họ hoặc người
thân của họ khi ốm đau. Trong công việc thì luôn tạo được không khí thân thiện nơi công
sở, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để phóng viên yên tâm công tác. Có chính sách khuyến
khích nghỉ hưu trước tuổi, nghỉ thôi việc cho cán bộ có sức khỏe yếu, hạn chế về năng lực,
góp phần tạo sự đồng bộ trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
3.4. Tăng ngân sách, cơ sở vật chất, trang thiết bị.
Nâng cấp, mở rộng, đầu tư cơ sở vật chất, nhất là những phương tiện kỹ thuật hiện
đại, cải thiện cơ sở làm việc.
3.5. Bố trí và phân công công việc thích hợp tại các bộ phận trong cơ quan.
Vị trí làm việc là một động lực thúc đẩy phóng viên vận dụng được khả năng trí tuệ
của họ vào công việc mà họ đang đảm nhiệm.
Phải xem xét, đánh giá trình độ chuyên môn của phóng viên, xem những người nào
phù hợp với mảng đề tài nào, từ đó bố trí họ để họ có thể phát huy hết mình trong mảng đề
tài, lĩnh vực đó. Phải bố trí sao cho khối lượng công việc mà mỗi cá nhân đảm đương phù
hợp với khả năng thực tế của họ. Bố trí sắp xếp các phóng viên, nhân viên làm việc ở các
bộ phận cùng tính cách, cùng tâm lý vào một phòng, ban, lúc đó họ sẽ thúc đẩy nhau làm
việc, cùng kết hợp, trao đổi để hoàn thiện công việc.
Trên cở sở đánh giá trình độ nhân viên thì cần mạnh dạn giao công việc cũng như
quyền hạn và trách nhiệm cho phóng viên để họ có thể độc lập tự chủ trong công việc.
Trên đây là một số giải pháp đưa ra nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại
báo Bảo vệ Pháp luật cuối tuần. Những giải pháp trên đều có mối quan hệ mật thiết với
nhau vì vậy phải thực hiện một cách đồng bộ mới đạt hiệu quả tốt nhất.

SV: §inh ThÞ Trang
6B

19


Líp: LTBC


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
Kho¸ 6

HÖ C§LTBC

KẾT LUẬN
Hiện nay, trước yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và trong thời
kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Vấn đề về nguồn nhân lực mà cụ thể là nâng cao năng lực
nguồn nhân lực trong giai đoạn hiện nay đang trở thành một vấn đề cấp bách. Thực tiễn
cho thấy chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều vấn đề cần bàn. Trong các cơ quan báo chí
hiện nay tình trạng vừa thừa, vừa thiếu diễn ra thường xuyên nhưng chưa khắc phục được.
Đó là việc thiếu phóng viên được đào tạo chuyên nghiệp bài bản hoặc có những phóng
viên đã được đào tạo bài bản nhưng lại có không ít người là thiếu tâm huyết với nghề.
Nhận thức là vậy, nhưng thực hiện thì vô cùng khó khăn. Trong các năm qua thành
phố Hà Nội nói chung và các cơ quan báo chí tại Hà Nội nói riêng cũng đã có nhiều cố
gắng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực bằng nhiều giải pháp nhưng kết quả chưa được
như mong muốn. Để có được đội ngũ "biết việc" cần phải có cả một quá trình công phu,
kiên trì, nỗ lực của từng cán bộ, phóng viên, nhân viên và của cơ quan trong việc nâng cao
trình độ về mọi mặt, nhưng chỉ nhìn vào trình độ cán bộ, phóng viên thì chưa đủ. Bởi năng
lực thực tiễn còn yêu cầu cao hơn nhiều và đó cũng là mục tiêu thành phố cũng như của
các cơ quan báo chí đang tập trung hướng tới. Hơn nữa, hoạt động báo chí là hình thức
hoạt động chính trị xã hội. Vì vậy đòi hỏi đội ngũ người làm báo phải thấm nhuần đạo đức
chính trị, có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp tốt thì mới có thể đảm nhiệm tốt vai trò là
tiếng nói của Đảng, là diễn đàn của các tổ chức quần chúng và nhân dân lao động.
Vai trò nguồn nhân lực tại cơ quan báo chí ngày càng trở nên quan trọng hơn do
vậy các cơ quan báo chí, báo Bảo vệ Pháp luật nói chung và Bảo vệ Pháp luật cuối tuần nói

riêng cần phải có những chế độ đãi ngộ hợp lý cho đội ngũ phóng viên, nhân viên tại cơ
quan như tạo điều kiện cho phóng viên tác nghiệp một cách tốt nhất, có môi trường học tập
và nâng cao trình độ, nghiệp vụ... Đội ngũ báo Bảo vệ Pháp luật cuối tuần đã và đang là
lực lượng xung kích song song với báo Bảo vệ Pháp luật trên mặt trận văn hoá tư tưởng
của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội. Sự quan tâm lãnh đạo sâu sắc của Đảng,
của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội là nguyên nhân chủ yếu quyết định cho sự
trưởng thành của báo Bảo vệ Pháp luật cuối tuần.

SV: §inh ThÞ Trang
6B

20

Líp: LTBC


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
Kho¸ 6

HÖ C§LTBC

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo chí - Những vấn đề lý luận và thực tiễn - Nxb Quốc gia Hà Nội.
2. Cơ sở lý luận báo chí truyền thông (Dương Xuân Sơn - Đinh Văn Hường - Trần
Quang) - Nxb ĐH Quốc gia Hà Nội, 2007.
3. Công việc của người viết báo (Hữu Thọ) - Nxb Giáo dục Hà Nội, 1998.
4. Nghiệp vụ báo chí lý luận và thực tiễn - Nxb Thông tấn.
5. Nghề làm báo - Nxb Thông tấn.
6. Người làm báo - Nxb Hội nhà báo Việt Nam.
7. Tổ chức hoạt động tòa soạn (Đinh Văn Hường) - Nxb ĐH Quốc gia Hà Nội.

8. Các trang web: Nghebao.com và Vietnam journalism.com

SV: §inh ThÞ Trang
6B

21

Líp: LTBC


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
Kho¸ 6

HÖ C§LTBC

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.............................................................................................................................1
1.Lý do chọn đề tài:.............................................................................................................1
2.Mục đích nghiên cứu đề tài:.............................................................................................1
3.Phương pháp nghiên cứu:.................................................................................................2
4.Phạm vị nghiên cứu:.........................................................................................................2
5.Nội dung nghiên cứu:.......................................................................................................2
6.Kết cấu tiểu luận:..............................................................................................................2
NỘI DUNG..........................................................................................................................3
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUỒN NHÂN LỰC...............................3
1.1.Quan niệm nguồn nhân lực và nguồn nhân lực báo chí................................................3
1.1.1.Quan niệm nguồn nhân lực.........................................................................................3
1.1.2.Quan niệm nguồn nhân lực báo chí............................................................................4
1.2.Đặc điểm nguồn nhân lực trong cơ quan báo chí..........................................................4
1.2.1.Về nhận thức, trình độ chính trị..................................................................................4

1.2.2.Về đạo đức, phẩm chất...............................................................................................4
1.2.3.Về năng lực chuyên môn...........................................................................................5
1.2.4.Hiểu biết về xã hội......................................................................................................6
1.3.Phân loại nguồn nhân lực cơ quan báo chí....................................................................6
1.3.1.Phân loại theo căn cứ theo loại hình báo chí..............................................................6
1.3.2.Phân loại theo căn cứ theo tính chất (đặc trưng) lao động.........................................7
1.4. Vai trò nguồn nhân lực cơ quan báo chí.......................................................................11
CHƯƠNG II: VẤN ĐỀ NGUỒN NHÂN LỰC TẠI BÁO BẢO VỆ PHÁP LUẬT CUỐI
TUẦN..................................................................................................................................12
2.1.Quá trình phát triển và hoạt động của báo Bảo vệ Pháp luật và Bảo vệ Pháp luật cuối
tuần......................................................................................................................................12
2.1.1 Quá trình phát triển và hoạt động vủa báo Bảo vệ Pháp luật.....................................12
2.1.2 Quá trình phát triển và hoạt động vủa báo Bảo vệ Pháp luật cuối tuần......................12
2.1.3 Cơ cấu tổ chức báo Bảo vệ Pháp luật cuối tuần.........................................................13
2.2. Vai trò, thực trạng nguồn nhân lực báo Bảo vệ Pháp luật cuối tuần............................13
2.2.1 Khái quát chung về nguồn nhân lực báo Bảo vệ Pháp luật cuối tuần........................13
2.2.2.Đặc điểm nguồn nhân lực bảo Bảo vệ Pháp luật cuối tuần........................................15
2.2.3 Ưu điểm và nhược điểm nguồn nhân lực báo Bảo vệ Pháp luật cuối tuần.................16
2.3. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên...........................................................................17
SV: §inh ThÞ Trang
Líp: LTBC
22
6B


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
Kho¸ 6

HÖ C§LTBC


2.3.1. Nguyên nhân khách quan..........................................................................................17
2.3.2. Nguyên nhân chủ quan..............................................................................................17
CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NGUỒN NHÂN LỰC TẠI BÁO
BẢO VỆ PHÁP LUẬT CUỐI TUẦN.................................................................................18
3.1.Bồi dưỡng trình độ chính trị, nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ báo chí.........18
3.2.Đổi mới cơ chế quản lý phóng viên...............................................................................18
3.3.Chế độ đãi ngộ hợp lý....................................................................................................19
3.4. Tăng ngân sách, cơ sở vật chất, trang thiết bị..............................................................19
3.5. Bố trí và phân công công việc thích hợp tại các bộ phận trong cơ quan......................19
KẾT LUẬN.........................................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................21

SV: §inh ThÞ Trang
6B

23

Líp: LTBC



×