Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

đề cương ôn thi môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.14 KB, 45 trang )

CĐ1: HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ

1. KTHH là gì? phân tích điều kiện ra đời của KTHH, vs nói muốn KTHH ra đời cần
hội tụ 2 điều kiện pclđxh và sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người
sản xuất? Hãy liên hệ với VN.
Khái niệm KTHH
Kinh tế hàng hóa (sản xuất hàng hóa) là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm được sản xuất ra để trao
đổi hoặc mua bán trên thị trường.
Sản xuất hàng hóa ra đời là bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển của xã hội loại người, đưa loài
người thoát khỏi tình trạng “mông muội”, xóa bỏ nền kinh tế tự nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng
sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế của xã hội.
Muốn KTHH ra đời cần hội tụ hai điều kiện:
Thứ nhất là phân công lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội một cách tự phát thành các ngành, nghề khác
nhau.
Do phân công lao động nên mỗi người sản xuất chỉ tạo ra một hoặc một vài loại sản phẩm nhất định.
Song cuộc sống của mỗi người lại cần đến rất nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để thỏa mãn nhu cầu, đòi
hỏi họ phải có mối liên hệ phụ thuộc vào nhau, phải trao đổi sản phẩm cho nhau.
Phân công lao động xã hội là cơ sở, là tiền đề của sản xuất hàng hóa. Phân công lao động xã hội càng phát
triển, thì sản xuất và trao đổi hàng hóa càng mở rộng và đa dạng hơn. Tuy nhiên, phân công lao động xã
hội mới chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ để sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại. Muốn sản xuất hàng hóa
ra đời và tồn tại phải có điều kiện thứ hai.
Thứ hai, sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất.
Trong lịch sử, khi xã hội xuất hiện các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất sẽ dẫn đến sự độc lập
tương đối về kinh tế giữa các chủ thể sản xuất. Khi đó người sở hữu tư liệu sản xuất là người sở hữu sản
phẩm lao động. Họ có toàn quyền chi phối sản phẩm do mình sản xuất ra
Quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã làm cho những người sản xuất độc lập với nhau, nhưng
họ lại nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội, vì vậy họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và tiêu
dùng. Trong điều kiện ấy, người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua sự mua –
bán hàng hóa, tức phải trao đổi dưới những hình thái hàng hóa.
Liên hệ Việt Nam


Đối với nước ta thì hai điều kiện vẫn còn
Phân công lao động ngày càng phát triển, từ phân công lao động trong nội bộ một nền kinh tế tức chia các
hoạt động của nền kinh tế thành các ngành riêng biệt như công nghiệp, nông nghiệp, vận tải, dịch vụ…


cho đến phân công lao động trong nội bộ một ngành thành các ngành hẹp như công nghiệp khai thác,
công nghiệp chế biến, ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi. Ngoài ra còn có phân công lao động trong
doanh nghiệp theo chức năng như chức năng tài chính, khoa học – công nghệ hay sản xuất, theo công
nghệ, theo mức độ phức tạp của công việc.
Sự tách biệt kinh tế dựa trên cơ sở nước ta có nhiều hình thức sở hữu tư liệu sản xuất. Trong nền kinh tế
của nước ta tồn tại 3 loại hình sở hữu cơ bản :sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Từ đó,
hình thành 5 thành phần kinh tế : kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà
nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

2. Phân biệt KTHH và KTTN. Phân tích ưu thế của KTHH so với KTTN. Cần làm gì
để phát triển mạnh kinh tế hàng hóa ở nước ta?
Phân biệt KTHH và KTTN
Kinh tế tự nhiên
Là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm do lao
động làm ra để thỏa mãn trực tiếp nhu cầu
của người sản xuất.
Trình độ phát triển lực lượng sx thấp, phụ
thuộc chặt chẽ vào tự nhiên.
Quy mô sx nhỏ lẻ, sản phẩm chỉ đủ cung
ứng cho một nhóm nhỏ các cá nhân.
Ngành sx chính: săn bắt, hái lượm, nông
nghiệp sx nhỏ.

Kinh tế hàng hóa
Là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm

được sản xuất dùng để trao đổi hay mua
bán trên thị trường.
Trình độ phát triển lực lượng sx: phát triển
đến một mức độ nhất định, bớt lệ thuộc vào
tự nhiên.
Quy mô sx mở rộng nâng cao, số lượng sản
phẩm vượt khỏi nhu cầu của người sản xuất
nảy sinh quan hệ trao đổi sản phẩm.
Ngành sx chính: thủ công nghiệp, công
nghiệp, nông nghiệp sản xuất lớn, dịch vụ.

Ưu thế của KTHH :
Thứ nhất, sxhh ra đời trên cơ sở phân công lao động trong xã hội, chuyên môn hóa sx làm cho năng suất
lao động tăng, sản phẩm tạo ra nhiều hơn. Đây là điều kiện tốt để khai thác có hiệu quả những lợi thế về
tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở, từng vùng, từng địa phương,từng quốc gia để phát
triển KT- XH.
Thứ hai, đặc trưng của sản xuất hàng hóa làm cho tính chất xã hội hóa ngày càng cao, quy mô, tính chất
tổ chức sản xuất không bị giới hạn chật hẹp, sản xuất ngày càng mở rộng phát triển, đáp ứng nhu cầu
ngày càng tăng của xã hội.
Thứ ba, trong nền sản xuất hàng hóa, sự tác động của những quy luật vốn có của nó như quy luật giá trị,
cung – cầu, cạnh tranh… buộc người sản xuất phải luôn luôn năng động, nhạy bén, tính toán, cải tiến kỹ
thuật, hợp lý hóa sx, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế.
Thứ tư, sản xuất hàng hóa phát triển trở thành một trong những điều kiện nâng cao đời sống vật chất, văn
hóa, tinh thần cho mọi người dân.


Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, sxhh cũng có những mặt hạn chế như : phân hóa giàu – nghèo giữa
những người sản xuất hàng hóa, tiềm ẩn những khả năng khủng hoảng kinh tế, phá hoại môi trường sinh
thái.
Để phát triển mạnh kinh tế hàng hóa ở nước ta:





Đẩy mạnh phân công lao động xã hội
Đảm bảo quyền độc lập, tự chủ của các chủ thể kinh tế trên cơ sở đa dạng hóa các hình thức sở
hữu.

Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất.

Nâng cao trình độ quản lý, trình độ của lao động

Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa.

Mở rộng thị trường, đẩy mạnh hoạt động marketing.
3. Phân tích ưu thế và hạn chế của KTHH. Hãy liên hệ với VN?
Ưu thế ( như câu 2)
Hạn chế: phân hóa giàu nghèo giữa những người sản xuất
Tiềm ẩn những khả năng khủng hoảng kinh tế, lạm phát, thất nghiệp
Phá hoại môi trường
Chạy theo lợi nhuận, tệ nạn xã hội
Liên hệ Việt Nam
Việt Nam đi lên từ một nước phong kiến thuộc địa lạc hậu, tiếp đó là chiến tranh kéo dài. Khi chiến tranh
kết thúc, thống nhất đất nước, nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa
nên cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém, lạc hậu , khả năng cạnh tranh còn hạn chế. Xuất phát từ nhu cầu
thực tế, nước ta muốn phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân phải xây dựng nền kinh tế hàng hóa
với nhiều thành phần, đa dạng hóa các hình thức sở hữu.
Ở nước ta, kinh tế hàng hóa mà đảng chủ trương xây dựng và phát triển trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước. Sự thành công của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN có

tốc độ tăng trưởng cao, nâng cao mức sống của nhân dân, giáo dục, y tế phát triển, khoảng cách giàu
nghèo được thu hẹp. Tuy nhiên, vì xuất phát điểm là một nước nông nghiệp nên cơ sở vật chất, khoa học
công nghệ còn lạc hậu, trình độ lực lượng sản xuất nước ta còn thấp so với mặt bằng chung.
Muốn phát triển nền kinh tế hàng hóa ở nước ta cần ( nội dung câu 2).
4. Hãy phân tích mặt chất, lượng của 2 thuộc tính hàng hóa? Hãy liên hệ thực tế.
Bất kỳ hàng hóa nào cũng có 2 thuộc tính cơ bản là giá trị sử dụng và giá trị.
Giá trị hàng hóa: là do lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa đó. Như
vậy
Về mặt chất, giá trị hàng hóa được xác định bởi hao phí lao động để sản xuất ra hàng hóa đó quyết định.
Giá trị hàng hóa =lao động vật hóa +lao động sống = lao động quá khứ + lao động hiện tại= giá trị tư liệu
sản xuất + giá trị mới do công nhân tạo ra.
Về mặt lượng, giá trị hàng hóa được tính theo thời gian lao động xã hội cần thiết.
Giá trị sử dụng : là công dụng của hàng hóa có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người. Như vậy
Về mặt chất, giá trị sử dụng của hàng hóa chính là công dụng ( tính có ích )của nó.
Về mặt lượng, giá trị sử dụng của hàng hóa được đo lường bằng các loại thước đo khác nhau như km, m 2,
m3, kg, g….


VD : đối với hàng hóa là một cái áo
Về giá trị sử dụng
Mặt chất : công dụng áo dùng để mặc
Mặt lượng : để may ra cái áo tiêu tốn hết 2m vải.
Về giá trị hàng hóa
Mặt chất: chính là lao động của người thợ may phải hao phí trí óc, sức tinh thần để tạo ra kiểu áo, sức cơ
bắp để may ra chiếc áo khi thực hiện các công đoạn đo,cắt, may để đi đến sản phẩm .
Mặt lượng: thời gian lao động xã hội cần thiết để người thợ may làm ra 1 chiếc áo là 4h.
5. Vì sao hai hàng hóa khác nhau lại trao đổi được cho nhau? Vì sao chúng lại trao
đổi theo một quan hệ tỷ lệ nhất định nào đó?.
Hai hàng hóa khác nhau lại trao đổi được với nhau vì hàng hóa đều là sản phẩm của lao động, đều có lao
động kết tinh trong đó. Chính hao phí lao động để tạo ra hàng hóa kết tinh trong hàng hóa làm cho chúng

có thể so sánh được với nhau khi trao đổi. chúng được trao đổi theo một quan hệ tỷ lệ nhất định do lượng
lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa là ngang bằng nhau. Như vậy lao động hao phí để sản xuất ra
hàng hóa ẩn dấu trong hàng hóa chính là giá trị của hàng hóa.

6. Vai trò của lao động cụ thể và lao động trừu tượng đối với các yếu tố cấu thành
lượng giá trị hàng hóa?
Cơ cấu của lượng giá trị hàng hóa

giá trị tư liệu lao động(c1)
giá trị cũ(c)
(giá trị tư liệu sản xuất)
Giá trị đối tượngl ao động(c2)

lượng giá trị hàng hóa
giá trị sức lao động
(v)
giá trị mới (v+m)
giá trị thặng dư
(m)

Trong cơ cấu đó thì lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa đóng vai trò bảo tồn và di chuyển
giá trị cũ (c ) còn lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hóa đóng vai trò tạo ra giá trị mới (v+m).

7. Phân biệt 2 thuộc tính hàng hóa, phân biệt 2 mặt của lao động SXHH


Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn một hoặc một số nhu cầu nào đó của con người,
thông qua trao đổi- mua bán.
Bất kỳ hàng hóa nào cũng có hai thuộc tính cơ bản là giá trị sử dụng và giá trị.
Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của nó có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người.vd:

cơm để ăn, áo để mặc… GTSD được phát hiện dần trong quá trình phát triển của tiến bộ KHKT, lực
lượng sản xuất => trình độ của llsx càng phát triển thì GTSD càng đa dạng.
Giá trị của hàng hóa.
Muốn hiểu được giá trị của hàng hóa, phải đi từ giá trị trao đổi. giá trị trao đổi là quan hệ tỷ lệ về lượng
mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị sử dụng khác. VD 1m vải =10kg thóc. Hai hàng hóa khác nhau
trao đổi được cho nhau thì giữa chúng phải có một cơ sở chung, đó đều là sản phẩm của lao động, đều có
lao động kết tinh trong nó. Chính lao động hao phí để tạo ra hàng hóa là cơ sở chung của việc trao đổi và
nó tạo thành giá trị hàng hóa.
Giá trị hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
Giá trị sử dụng
Giá trị của hàng hóa
• Là thuộc tính tự nhiên của hàng hóa
• Là thuộc tính xã hội của hàng hóa.
• Phạm trù vĩnh viễn.
• Phạm trù lịch sử, gắn liền với sxhh
• Phản ánh quan hệ của con người với
• Phản ánh quan hệ giữa những người
tự nhiên.
sản xuất hàng hóa.
• Là mục đích của người của người
• Là mục đích của người sản xuất
tiêu dùng
• Tạo ra trong quá trình tiêu dùng
• Tạo ra trong quá trình sản xuất.
• Được thực hiện sau- trong lĩnh vực
• Được thực hiện trước –trong lĩnh
tiêu dùng
vực lưu thông
Tính hai mặt của lao động SXHH vừa thống nhất vừa mâu thuẫn.
Thống nhất: cùng tồn tại trong lao động của người sản xuất hàng hóa.

Mâu thuẫn:
Lao động cụ thể
Lao động trừu tượng
• Là lao động có ích dưới hình thức cụ
• Là sự tiêu phí sức lao động nói
thể của những nghề nghiệp chuyên
chung( tiêu hao sức bắp thịt, thần
môn nhất định => xét về ngành nghề
kinh) của người sản xuất hàng hóa
chuyên môn.
=> xét về sự hao phí sức lao động
• Tạo giá trị sử dụng,bảo toàn, di
• Tạo giá trị mới.
chuyển giá trị cũ.
• Phạm trù vĩnh viễn.
• Phạm trù lịch sử
• Biểu hiện quan hệ giữa con người
• Biểu hiện quan hệ giữa những người


với tự nhiên.
• Mang tính cá biệt.

sản xuất hàng hóa.
• Mang tính xã hội

8. Phân tích lượng giá trị hàng hóa và những nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị
hàng hóa, nhân tố nào làm cho lượng giá trị của 1 hàng hóa giảm, vì sao?.
Phân tích lượng giá trị của hàng hóa.
Chất của giá trị hàng hóa là lao động trừu tượng, vì vậy lượng của giá trị là số lượng lao động trừu tượng

hao phí chứa đựng trong hàng hóa và được biểu hiện bằng thời gian hao phí lao động.
Trong thực tế, một loại hàng hóa đứa ra trên thị trường do rất nhiều người sản xuất, nhưng mỗi người sản
xuất do điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề là không giống nhau, nên thời gian hao phí lao động cá biệt
để sản xuất ra hàng hóa của họ khác nhau. Thời gian lao động cá biệt quyết định giá trị cá biệt của hàng
hoá mà từng người sản xuất ra.
Nếu căn cứ vào thời gian hao phí lao động cá biệt để xác định lượng giá trị của hàng hóa thì sẽ dẫn đến
việc lao động cá biệt nào càng lười biếng, vụng về, phải dùng nhiều thời gian hơn để làm ra hàng hóa, thì
hàng hóa càng có nhiều giá trị.
Theo C.Mác: chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết, hay thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra
một GTSD, mới quyết định đại lượng giá trị của GTSD ấy. Như vậy, thước đo lượng giá trị của hàng hóa
được tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất một hàng hóa trong điều kiện bình
thường của xã hội, tức là với một trình độ kỹ thuật trung bình, trinhg độ khéo léo trung bình và cường độ
lao động trung bình so với hoàn cảnh xã hội nhất định.
Thời gian lao động xã hội cần thiết hình thành tự phát trên thị trường qua cạnh tranh, thường là do thời
gian trung bình của người sản xuất và cung cấp đại bộ phận hàng hóa cho thị trường chi phối.
Những nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa:
Năng suất lao động: là năng lực sản xuất của lao động, được tính bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra
trong một đơn vị thời gian hoặc bằng số lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Khi năng suất lao động tăng lên thì thời gian hao phí lao động để sản xuất ra hàng hóa sẽ giảm, lượng giá
trị của một đơn vị hàng hóa sẽ giảm xuống và ngược lại. Do đó, giá trị hàng hóa tỷ lệ nghịch với năng
suất lao động.
Cần phân biệt năng suất lao động với cường độ lao động, cường độ lao động nói lên mức độ khẩn trương,
nặng nhọc hay căng thẳng của lao động. Tăng cường độ lao động thực chất cũng như kéo dài thời gian lao
động cho nên hao phí lao động trong một đơn vị hàng hóa không đổi. Tăng cường độ lao động không làm
thay đổi lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa.
Mức độ phức tạp của lao động: có 2 mức độ là lao động giản đơn và lao động phức tạp.


Lao động giản đơn là lao động mà 1 người lao động bình thường không cần phải trải qua đào tạo cũng có

thể thực hiện được.
Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện mới có thể tiến hành được. Trong
cùng một đơn vị thời gian như nhau, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn. Lao
động phức tạp là lao động giản đơn được nhân gấp bội lên. Trong quá trình trao đổi hàng hóa, mọi lao
động phức tạp đều được quy về lao động giản đơn trung bình.
Như vậy lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng thời gian hao phí lao động xã hội cần thiết giản đơn
trung bình.
Nhân tố làm cho lượng giá trị của 1 đơn vị hàng hóa giảm là nhân tố năng suất lao động, khi tăng năng
suất lao động thì số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng trong khi số lượng lao
động hao phí trong một đơn vị thời gian không đổi => thời gian hao phí lao động để sản xuất hàng hóa
giảm => giá trị của 1 đơn vị hàng hóa giảm => lượng giá trị của 1 đơn vị hàng hóa giảm.

9. Nội dung, yêu cầu của quy luật giá trị, sự biểu hiện của quy luật giá trị trong kinh
tế hàng hóa TBCN.
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa, ở đâu có sản xuất và trao đổi
hàng hóa thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị.
Nội dung quy luật
Trong nền sản xuất hàng hóa, mọi hoạt động sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở giá trị xã
hội của hàng hóa. Nghĩa là, căn cứ để tiến hành sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí
lao động xã hội cần thiết.
Yêu cầu quy luật
Đối với sản xuất: giá trị cá biệt của hàng hóa phải phù hợp với giá trị xã hội của nó. Giá trị cá biệt của
người sản xuất hàng hóa càng thấp hơn giá trị xã hội thì càng có lợi.
Đối với trao đổi: trao đổi hàng hóa phải tuân thủ nguyên tắc ngang giá. Các chủ thể trao đổi dựa trên cơ
sở hao phí lao động xã hội cần thiết khi tiến hành trao đổi - mua bán.
Biểu hiện của quy luật giá trị qua các giai đoạn phát triển trong nền kinh tế hàng hóa CNTB
Nền kinh tế hàng hóa là đặc trưng của phương thức sản xuất TBCN mà theo nguyên lý Mác- Lê nin,
phương thức sản xuất TBCN lại phát triển qua 2 giai đoạn cao thấp khác nhau : giai đoạn CNTB tự do
cạnh tranh và CNTB độc quyền.
Trong giai đoạn tự do cạnh tranh cơ chế cạnh tranh tự do đã chi phối toàn bộ nền kinh tế tư bản dưới các

hình thức cạnh tranh cụ thể như cạnh tranh trong nội bộ từng ngành và giữa các ngành sản xuất. Để tồn
tại và phát triển, các nhà tư bản phải đi thỏa thuận phân chia lợi nhuận theo nguyên tắc tỷ suất lợi nhuận
bình quân. Đến đây quy luật giá trị có hình thức biểu hiện mới đó là quy luật giá cả sản xuất( giá cả sản
xuất = chi phí sản xuất + lợi nhuận bình quân).


Sang đến CNTB độc quyền nền kinh tế tư bản xuất hiện cơ chế độc quyền vì vậy các nhà tư bản có thể đề
ra giá cả độc quyền lớn hơn hoặc nhỏ hơn giá trị hàng hóa để trên cơ sở đó thu được lợi nhuận độc quyền.
Vì vậy , trong giai đoạn này quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả độc quyền.(giá cả độc quyền
=chi phí sx +lợi nhuận độc quyền cao ).

10. Qua nghiên cứu học thuyết giá trị hãy liên hệ Việt Nam.
Thực trạng sự vận dụng quy luật giá trị ở nước ta trong thời gian qua
Từ 1986 trở về trước: nước ta thực hiện nền kinh tế tập trung , quan liêu bao cấp, nhà nước điều khiển nền
kinh tế bằng hệ thống các pháp lệnh về số lượng, thu nhập, ngân sách. Giá cả do nhà nước quy định, thực
chất chỉ là một chỉ tiêu pháp lệnh mà giá cả lại là biểu hiện của quy luật giá trị nên trong thời kì này, quy
luật giá trị được áp dụng một cách cứng nhắc, áp đặt vào nền kinh tế thông qua việc định giá theo những
chỉ tiêu có sẵn mà không để ý đến thực trạng của nền kinh tế Việt Nam.
Từ 1986 đến nay: nước ta từng bước tiến hành chuyển dần từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp
sang thực hiện cơ chế thị trường . Đối với nền kinh tế thị trường thì quy luật giá trị là một quy luật rất
quan trọng, chủ động vận hành giá cả thị trường mà giá cả thị trường là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị
thị trường của hàng hóa. Nước ta đã có hàng loạt những cuộc cải cách nhằm phát triển nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, điều chỉnh giá để kích thích sản xuất, tiến đến tiến tới cải cách
toàn bộ hệ thống giá của Nhà nước theo hướng làm cho giá cả phản ánh đầy đủ chi phí hợp lý về sản xuất
và lưu thông, đảm bảo cho người sản xuất thu được lợi nhuận thoả đáng. Tiếp tục xây dựng nền kinh tế
nhiều thành phần và đổi mới quản lý kinh tế, nỗ lực phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế , vừa
cạnh tranh vừa hợp tác bổ sung cho nhau trong nền kinh tế quốc dân. Tiếp tục đổi mới và kiện toàn kinh
tế tập thể theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ , bình đẳng phát huy và kết hợp hài hoà sức mạnh của tập
thể. Bên cạnh đó kinh tế tư nhân vẫn tiếp tục phát triển trong các lĩnh vực sản xuất theo sự quản lý của
Nhà nước.

Giải pháp nhăm vận dụng quy luật giá trị tốt hơn trong thời gian tới:
Đẩy mạnh phân công lao động xã hội nhằm tăng lực lượng sản xuất phát triển giúp cho sản xuất càng
phát triển hơn.
Phải phát triển đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và cán bộ khoa học công nghệ cũng như công nhân có trình
độ cao
Nâng cao năng lực quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế thị trường
Phải tăng cường liên kết các quan hệ hàng hoá tiền tệ với các quan hệ xã hội
Đề ra các biện pháp nhằm thực hiện tốt các chính sách như :chính sách ruộng đất ,chính sách đầu
tư,chính sách thuế chính sách giá cả và sản lượn …Nhằm tạo điều kiện phát huy cao tác dụng của quy
luật giá trị trong kinh tế xã hội.
Phát triển đồng bộ các loại thị trường như thị trường tiêu dùng,dịch vụ…


Phải tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế,chỉ thực
hiện độc quyền một số nghành,một số lĩnh vực vì lợi ích của đất nước,hạn chế độc quyền,đặc lợi lũng
đoạn thị trường ,khắc phục tình trạng kinh doanh trái phép trốn lậu thuế,cần tăng cường kiểm tra,kiểm
soát và xử lý nghiêm các vi phạm làm lành mạnh thị trường
CHUYÊN ĐỀ 2 : HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ

1.

Phân tích sự chuyển hóa của tiền tệ thành tư bản : công thức chung của tư bản, hàng
hóa sức lao động.

Phân tích công thức chung của tư bản.
Phân biệt tiền thông thường( tiền trong lưu thông hàng hóa giản đơn) và tiền là tư bản( trong lưu
thông của tư bản): tiền trong lưu thông hàng hóa giản đơn vận động theo công thức (1)
H-T-H. Tiền là tư bản vận động theo công thức (2) T-H-T.
Điểm giống nhau giữa hai công thức:
Cả hai sự vận động đều do hai giai đoạn đối lập nhau là mua và bán hợp thành, đều có 2 yếu tố tiền

và hàng, đều có 2 người có quan hệ kinh tế với nhau là người mua và người bán. Nhưng đó chỉ là
điểm giống nhau về hình thức.
Điểm khác nhau về chất của 2 công thức:

• Điểm xuất phát và

điểm kết thúc của
quá trình vận động.
• Trình tự vận động

H-T-H (1)
• Đều là hàng hóa, tiền
đóng vai trò trung
gian

T-H-T (2)
• Đều là tiền, hàng hóa
đóng vai trò trung
gian.

• Bắt đầu bằng việc

• Bắt đầu bằng việc
bán,
kết
thúc
bằng
mua, kết thúc bằng
• Mục đích vận động
việc mua

việc bán.
• Là giá trị sử dụng để
• Là giá trị, hơn nữa là
• Giới hạn vận động
thỏa mãn nhu cầu
giá trị tăng thêm.
• Có giới hạn
• Không có giới hạn.
Tóm lại, công thức(2) phản ánh mục đích vận động là tiền với tư cách là tư bản, nên lượng giá trị
quay về phải lớn hơn lượng giá trị ban đầu, vậy công thức vận động đầy đủ của tư bản là T-H-T’,
trong đó T’=T+t, ( t là giá trị thặng dư, kí hiệu là m). Như vậu, công thức T-H-T’ là công thức chung
của tư bản, vì mọi tư bản đều vận động theo công thức này.
Phân tích hàng hóa sức lao động.
Sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực tồn tại trong con người sống mà con người có thể vận dụng
được trong quá trình lao động.


Sức lao động chưa phải là lao động mặc dù nó là tiền đề của quá trình lao động. Sức lao động được
sử dụng trong quá trình sản xuất mới là lao động.
+ hai điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa:
Thứ nhất, người có sức lao động phải được tự do về thân thể, làm chủ được sức lao động của mình
và có quyền bán sức lao động.
Thứ hai, người lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất, họ trở thành người “ vô sản”. Để
tồn tại, họ buộc phải bán sức lao động để sống.
Muốn sức lao động trở thành hàng hóa phải hội đủ cả 2 điều kiện trên. Trong lịch sử, chỉ đến CNTB
mới hội đủ hai điều kiện trên để cho sức lao động trở thành hàng hóa.
+ hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động:
Giá trị của hàng hóa sức lao động: do thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất
sức lao động quyết định. Muốn sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động, người công dân phải tiêu
dùng những tư liệu sinh hoạt cần thiết. Vì vậy, giá trị hàng hóa sức lao động được quy về giá trị của

toàn bộ các tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động, gồm các yếu tố cấu
thành sau:
Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết về vật chất và tinh thần để tái sản xuất sức lao động
cho bản thân người lao động.
Hai là, phí tổn đào tạo người công nhân.
Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cho con cái người công nhân.
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động: là công dụng của hàng hóa sức lao động, giá trị sử dụng
của hàng hóa sức lao động có tính chất đặc biệt, nó là nguồn gốc tạo ra giá trị và giá trị thặng dư cho
các nhà tư bản. Vì vậy, giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động là chìa khóa để giải thích mâu
thuẫn của công thức chung tư bản.

2.

Phân tích quá trình sản xuất giá trị thặng dư trong CNTB : nguồn gốc tạo m, tư bản
bất biến- tư bản khả biến, 2 phương pháp sx giá trị thặng dư tuyệt đối, tương đối, siêu
ngạch, quy luật sản xuất giá trị thặng dư.

Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư trong CNTB
Quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá
trình sản xuất ra giá tri thặng dư. Bởi vì mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị
sử dụng, mà là giá trị, hơn nữa cũng không phải là giá trị đơn thuần mà là giá trị thặng dư. Nhưng để
sản xuất giá trị thặng dư, trước hết, nhà tư bản phải sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó, vì giá trị
sử dụng là vật mang giá trị trao đổi và giá trị thặng dư.


Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên sở hữu tư bản tư nhân về tư liệu sản xuất, vì vậy quan hệ
phân phối và quản lý đều do nhà tư bản quyết định, biểu hiện qua các đặc điểm:
Một là, người công nhân làm việc dưới sự kiểm soát, quản lý của nhà tư bản.
Hai là, sản phẩm do lao động của người công nhân tạo ra thuộc sở hữu của nhà tư bản.
Để hiểu rõ quá trình sản xuất giá trị thặng dư, chúng ta lấy việc sản xuất sợi của một nhà tư bản làm

ví dụ.
Giả định, để sản xuất 10kg sợi, cần 10kg bông và giá 10kg bông là 10$. Để biến số bông đó thành
sợi, một công nhân phải lao động trong 6h và hao mòn máy móc là 2$, giá trị sức lao động trong 1
ngày là 3$ và ngày lao động là 12h, trong 1h lao động, người công nhân tạo ra một lượng giá trị là
0,5$, cuối cùng giả định trong quá trình sản xuất sợi đã hao phí theo thời gian lao động xã hội cần
thiết.
Với giả định như vậy, nếu nhà tư bản chỉ bắt công nhân lao động trong 6h thì nhà tư bản phải ứng ra
là 15$ và giá trị của sản phẩm mới( 10kg sợi) mà nhà tư bản thu được cũng là 15$. Như vậy, nếu quá
trình lao động chỉ kéo dài đến cái diểmđủ bù đắp lại giá trị sức lao động (6h) tức là bằng thời gian
lao động tất yếu thì chưa có sản xuất ra giá trị thặng dư, do đó tiền chưa biến thành tư bản.
Trong thực tế, quá trình lao động không ngừng ở điểm đó. Giá trị sức lao động mà nhà tư bản phải
trả khi mua và giá trị mà sức lao động có thể tạo ra cho nhà tư bản là hai đại lượng khác nhau, mà
như bản đã tính đến trước khi mua sức lao động. Nhà tư bản đã trả tiền mua sức lao động trong một
ngày (12h). Việc sử dụng sức lao động trong ngày đó là thuộc quyền của nhà tư bản.
Trong trường hợp công nhân lao động 12h trong ngày như đã thỏa thuận thì :
Chi phí sản xuất
Tiền mua bông (20kg) 20$
Tiền hao mòn máy móc 4$

Giá trị sản xuất mới
Giá trị của bông được chuyển vào sợi 20$
Giá trị của máy móc được chuyển vào sợi
4$
Tiền mua sức lao động 1 ngày(12h) 3$
Giá trị mới do lao động của công nhân tạo
ra trong 12h lao động 6$
Tổng cộng 27$
Tổng cộng 30$
Như vậy toàn bộ chi phí sản xuất mà nhà tư bản bỏ ra là 27$, còn giá trị của sản phẩm mới (20kg
sợi) do công nhân sản xuất ra trong 12h lao động là 30$. Vậy 27$ ứng trước đã chuyển hóa thành

30$, đã đem lại một giá trị thặng dư là 3$. Do đó, tiền tệ ứng ra ban đầu đã chuyển hóa thành tư bản.



Giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công
nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Vậy nguồn gốc của giá trị thặng dư là lao
động không công của công nhân làm thuê.

Tư bản bất biến và tư bản khả biến, căn cứ, ý nghĩa phân chia.


tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động không công của công nhân làm
thuê. Như vậy bản chất của tư bản thể hiện quan hệ sản xuất xã hội mà trong đó giai cấp tư sản
chiếm đoạt giá trị thặng dư do giai cấp công nhân sáng tạo ra.
Tư bản bất biến:bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất bao gồm nhà xưởng, máy móc,
các thiết bị , công cụ sản xuất, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu…Những tư liệu sản xuất này tham gia
vào quá trình sản xuất và được lao động cụ thể của công nhân bảo tồn và di chuyển giá trị của chúng
vào sản phẩm mới.
Như vậy, bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất, giá trị của nó không biến đổi về
lượng trong quá trình sản xuất gọi là tư bản bất biến, ký hiệu là c. Nó chỉ là điều kiện vật chất cần
thiết cho quá trình sản xuất, đóng vai trò gián tiếp sáng tạo ra giá trị thặng dư chứ tự bản thân không
sáng tạo ra giá trị thặng dư.
Tư bản khả biến: bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động. Trong quá trình lao động, xét về lao
động trừu tượng, công nhân tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động. Việc làm tăng giá trị này
đã làm cho bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động không ngừng chuyển hóa từ một lượng bất
biến thành một lượng khả biến, và tự tăng thêm trong quá trình sản xuất.
Bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động đã có sự biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất. Bộ
phận tư bản này được gọi là tư bản khả biến, ký hiệu là v. nó có vai trò trực tiếp sáng tạo ra giá trị
thặng dư.
Căn cứ phân chia: dựa vào vai trò khác nhau của các bộ phận của tư bản trong quá trình sản xuất ra

giá trị thặng dư. Tư bản bất biến chỉ là điều kiện vật chất cần thiết cho quá trình sản xuất sản xuất ra
giá trị thặng dư. Tư bản khả biến đóng vai trò quyết định trong quá trình đó.
Ý nghĩa phân chia: vạch rõ bản chất bóc lột của tư bản đối với lao động làm thuê, nó chỉ rõ , tư bản
khả biến là bộ phận trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
Phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư
Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất TBCN , khi kỹ thuật còn thấp, tiến bộ chậm chạp thì
phương pháp chủ yếu để tăng giá trị thặng dư là kéo dài ngày lao động của công nhân.



Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được bằng cách kéo dài ngày lao động,
hoặc tăng cường độ lao động trong khi thời gian lao động tất yếu, giá trị sức lao động và năng
suất lao động không thay đổi.

Giả sử ngày lao động là 8h, trong đó 4h là thời gian lao động tất yếu và 4h là thời gian lao động
thặng dư. Ta có tỷ suất giá trị thặng dư:
m’ = x 100%= 100%.


Giả sử ngày lao động kéo dài thêm 2h, trong đó thời gian lao động tất yếu không thay đổi, vẫn là 4h.
Ta có tỷ suất giá trị thặng dư:
m’= x 100% = 150%
như vậy khi kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không đổi thì
thời gian lao động thặng dư tăng lên. Trước đây, tỷ suất giá trị thặng dư là 100% thì bây giờ là
150%.
Các nhà tư bản tìm mọi cách kéo dài ngày lao động nhưng ngày lao động có những giới hạn nhất
định. Giới hạn trên của ngày lao động do thể chất và tinh thần người lao động quyết định, vì công
nhân phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khỏe. Việc kéo dài ngày lao động
còn vấp phải sự phản kháng của giai cấp công nhân. Còn giới hạn dưới của ngày lao động không thể

bằng thời gian lao động tất yếu, tức là thời gian lao động thặng dư bằng không. Như vậy, về mặt
kinh tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu nhưng không thể vượt quá giới hạn về
thể chất và tinh thần của người lao động.
Sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại công nghiệp cơ khí, kỹ thuật đã tiến bộ
làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, thì các nhà tư bản chuyển sang phương thức bóc
lột dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động.



Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thăng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất
yếu bằng cách tăng năng suất lao động xã hội, qua đó hạ thấp giá trị sức lao động và làm tăng
tương ứng thời gian lao động thặng dư, trong điều kiện độ dài ngày lao động và cường độ lao
động không đổi.

Giả định ngày lao động không đổi nhưng bây giờ công nhân chỉ cần 2h lao động đã tạo ra được một
lượng giá trị mới bằng giá trị sức lao động của mình. Do đó, bây giờ tỷ lệ phân chia ngày lao động sẽ
thay đổi thành 2h là thời gian lao động tất yếu và 6h là thời gian lao động thặng dư. Ta có tỷ suất giá
trị thặng dư:
m’= x 100% = 300%.
Như vậy tỷ suất giá trị thặng dư đã tăng từ 100% lên 300%.
Muốn rút ngắn thời gian lao động cần thiết phải hạ thấp giá trị sức lao động. Muốn hạ thấp giá trị
sức lao động phải giảm giá trị các tư liệu tiêu dùng để nuôi sống người công nhân và gia đình họ.
Điều này chỉ có thể thực hiện bằng cách tăng năng suất lao động,mà trực tiếp là trong các ngành sản
xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất ra các tư liệu tiêu dùng.
Sản xuất giá trị thặng dư siêu ngạch.
Muốn tăng năng suất lao động phải cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ nhằm giảm giá trị cá biệt
của hàng hóa thấp hơn giá trị xã hội của hàng hóa, nhờ đó thu được giá trị thặng dư siêu ngạch.





Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do giá trị cá biệt của hàng
hóa thấp hơn giá trị xã hội.

Để có giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội của hàng hóa, nhà tư bản cá biệt phải cải tiến kỹ thuật, áp
dụng công nghệ mới. Đối với mỗi nhà tư bản giá trị thặng dư siêu ngạch là một hiện tượng tạm thời
nhưng trong phạm vi toàn xã hội nó thường xuyên tồn tại. Giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực
mạnh mẽ thúc đẩy các nhà tư bản đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động cá biệt, đánh bại đối
thủ của mình trong cạnh tranh. Trình độ của năng suất lao động không chỉ ảnh hưởng đến độ dài của
ngày lao động, mà còn ảnh hưởng lớn đến phương thức sản xuất giá trị thặng dư.
Quy luật sản xuất giá trị thặng dư
Nội dung :
Giá trị thặng dư là phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và
bị nhà tư bản chiếm không, phản ánh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của chủ nghĩa tư bản – quan
hệ tư bản bóc lột lao động làm thuê.
Nội dung của nó là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa bằng cách tăng cường bóc lột công nhân làm
thuê bằng mọi phương pháp, mọi thủ đoạn, kéo dài thời gian lao động, tăng cường độ lao động, tăng
năng suất lao động… nhằm thu càng nhiều giá trị thặng dư.
Vai trò:
Quy luật giá trị thặng dư là dộng lực vận động, phát triển của chủ nghĩa tư bản, đồng thời nó cũng
làm cho mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản
ngày càng sâu sắc, đưa đến sự thay thế tất yếu chủ nghĩa tư bản bằng một xã hội cao hơn.
Để sản xuất ngày càng nhiều giá trị thặng dư, các nhà tư bản ra sức áp dụng nhiều tiến bộ khoa học
kỹ thuật, cải tiến sản xuất, từ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, nền sản xuất có
tính chất xã hội hóa ngày càng cao, mâu thuẫn có tính chất xã hội của sản xuất với hình thức chiếm
hữu tư nhân TBCN ngày càng gay gắt.
Vì sao sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của CNTB
Mỗi phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế tuyệt đối, quy luật phản ánh mối quan hệ kinh tế
bản chất nhất của phương thức sản xuất đó. Theo C.Mác, sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật kinh

tế tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Quy luật giá trị thặng dư ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Nó
quyết định các mặt chủ yếu, các quá trình kinh tế chủ yếu của chủ nghãi tư bản.
Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mà là sản xuất ra giá trị thặng
dư, là nhân giá trị lên. Theo đuổi giá trị thặng dư tối đa là mục đích và động cơ thúc đẩy sự hoạt
động của mỗi nhà tư bản, cũng như của toàn bộ xã hội tư bản.


Sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa không chỉ phản ánh mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa,
mà còn vạch rõ phương tiện, thủ đoạn mà các nhà tư bản sử dụng để đạt được mục đích như tăng
cường bóc lột công nhân làm thue bằng cách tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động, tăng
năng suất lao động và mở rộng sản xuất.



Như vậy sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản, là
cơ sở của sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản.

Trong điều kiện hiện nay, sản xuất giá trị thặng dư có những đặc điểm mới:
Một là, do kỹ thuật và công nghệ hiện đại được áp dụng rộng rãi nên khối lượng giá trị thặng dư
được tạo ra chủ yếu nhờ tăng năng suất lao động, làm cho chi phí lao động sống trong một đơn vị
sản phẩm giảm nhanh.
Hai là, cơ cấu lao động xã hội ở các nước tư bản phát triển hiện nay có sự biến đổi lớn. Lao động
phức tạp, lao động trí tuệ tăng lên và thay thế lao động giản đơn, lao động cơ bắp, đóng vai trò quyết
định trong việc sản xuất ra giá trị thặng dư làm cho tỷ suất và khối lượng thặng dư đã tăng lên rất
nhiều.
Ba là, sự bóc lột của các nước tư bản phát triển trên phạm vi quốc tế ngày càng được mở rộng dưới
nhiều hình thức: xuất khẩu tư bản và hàng hóa, trao đổi không ngang giá… Lợi nhuận siêu ngạch mà
các tư bản phát triển bòn rút từ các nước kém phát triển trong mấy chục năm qua đã tăng lên gấp
nhiều lần. Sự cách biệt giữa những nước giàu và những nước nghèo ngày càng tăng và đang trở

thành mâu thuẫn nổi bật trong thời đại ngày nay. Các nước tư bản phát triển đã bòn rút chất xám,
hủy hoại môi trường sinh thái, cũng như cội rễ đời sống văn hóa của các nước lạt hậu, chậm phát
triển.

3.

Phân tích tích lũy tư bản : thực chất, động cơ, nguồn gốc tích lũy tư bản, quy luật
tích lũy tư bản.
Thực chất, động cơ, nguồn gốc tích lũy tư bản
Do quy luật giá trị thặng dư chi phối, nên đặc trưng của sản xuất TBCN là tái sản xuất mở rộng,
đó là sự lặp lại quá trình sản xuất với quy mô lớn hơn trước. Muốn vậy, phải biến một bộ phận
giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm.

Tích lũy tư bản là sự chuyển hóa một phần giá trị thặng dư thành tư bản, hay thực chất
của tích lũy tư bản là tư bản hóa một phần giá trị thặng dư.
Nghiên cứu tích lũy và tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa cho phép rút ra những kết luận vạch rõ
hơn bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Nguồn gốc duy nhất của tư bản tích lũy là giá trị thặng dư, tư bản tích lũy chiếm một tỷ lệ ngày càng
lớn trong toàn bộ tư bản.
Quá trình tích lũy đã làm cho quyền sở hữu trong nền sản xuất hàng hóa biến thành quyền chiếm
đoạt tư bản chủ nghĩa, quyền chiếm đoạt lao động không công mà không vi phạm quy luật giá trị.


Động cơ thúc đẩy tích lũy và tái sản xuất mở rộng, một mặt là do quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ
nghĩa tư bản – quy luật giá trị thặng dư chi phối. Để thực hiện mục đích đó, các nhà tư bản không
ngừng tích lũy để mở rộng sản xuất, xem đó là phương tiện căn bản để tăng cường bóc lột công nhân
làm thuê. Mặt khác, canh tranh gay gắt buộc các nhà tư bản phải không ngừng làm cho tư bản của
mình tăng lên, để mở rộng quy mô sản xuất và đổi mới công nghệ bằng cách tăng nhanh tư bản tích
lũy.
Quy luật chung của tích lũy tư bản chủ nghĩa

Quá trình tích lũy tư bản là quá trình tích tụ và tập trung tư bản ngày càng tăng.
Quy mô tư bản cá biệt tăng lên thông qua hai con đường là tích tụ và tập trung tư bản.
Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách tư bản hóa giá trị thặng dư.
Tập trung tư bản là sự hợp nhất một số tư bản nhỏ thành một tư bản cá biệt lớn. Cạnh tranh và tín
dụng là những đòn bẩy mạnh nhất thúc đẩy tập trung tư bản.
Tích tụ và tập trung tư bản giống nhau ở chỗ đều làm tăng quy mô của tư bản cá biệt nhưng giữa
chúng cũng có những điểm khác nhau:
Tích tụ tư bản
• Nguồn tích tụ tư bản là giá trị thặng
dư tư bản hóa.
• Làm cho tư bản cá biệt tăng => tư
bản xã hội tăng.
• Biểu hiện mối quan hệ giữa tư bản
và lao động

Tập trung tư bản
• Nguồn tập trung tư bản là các tư bản
cá biệt trong xã hội.
• Chỉ là sự sát nhập tư bản cá biệt
trong xã hội=> quy mô tư bản xã hội
không đổi.
• Biểu hiện mối quan hệ giữa các nhà
tư bản với nhau.

Tích tụ tư bản đóng vai trò thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, ứng dụng khoa học kỹ thuật, tăng khối
lượng giá trị thặng dư trong quá trình phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa => tăng thêm quy mô
và sức mạnh của tư bản cá biệt=> cạnh tranh gay gắt hơn => tập trung nhanh hơn.
Tập trung tư bản có vai trò rất lớn đối với sự phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhờ tập
trung tư bản mà có được những tập đoàn tư bản lớn trong thời gian ngắn, tập hợp được sức mạnh của
các nhà tư bản , sử dụng công nghệ kỹ thuật hiện đại=> tạo điều kiện thuận lợi để tăng cường bóc lột

giá trị thặng dư => đẩy nhanh tích tụ tư bản.



Quá trình tích tụ và tập trung tư bản ngày càng tăng, do đó nền sản xuất tư bản chủ nghĩa
cũng ngày càng trở thành xã hóa cao đọ, làm mâu thuẫn kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản càng
sâu sắc thêm.

Quá trình tích lũy tư bản là quá trình tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản.


Cấu tạo kỹ thuật của tư bản là tỷ lệ giữa khối lượng tư liệu sản xuất và số lượng lao động cần thiết để
sử dụng các tư liệu sản xuất đó. Nó phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Cấu tạo giá trị của tư bản là tỷ lệ giá trị giữa tư liệu sản xuất và sức lao động cần thiết để tiến hành
sản xuất.



Cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo giá trị của tư bản do cấu tạo kỹ thuật quyết định và
phản ánh sự thay đổi của cấu tạo kỹ thuật.

Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, do tác động thường xuyên của tiến bộ khoa học- công
nghệ, cấu tạo hưu cơ của tư bản cũng không ngừng biến đổi theo hướng không ngừng tăng lên đặc
biệt nhanh chóng ở những thời kỳ nền kinh tế tư bản thay đổi cơ cấu, làm khối lượng tư liệu sản xuất
(c) tăng lên nhanh chóng còn giá trị sức lao động (v) tăng chậm hơn. Sự tăng lên đó biểu hiện ở chỗ
bộ phận tư bản bất biến tăng nhanh hơn bộ phận tư bản khả biến, tư bản bất biến tăng tuyệt đối và
tương đối trong khi tư bản khả biến tăng tuyệt đối nhưng giảm tương đối. Việc sử dụng kỹ thuật mới
đòi hỏi phải có lao động thành thạo được đào tạo với giá trị sức lao động cao nhưng số lượng lại
không đòi hỏi nhiều, làm cho nhu cầu về sức lao động ngày càng giảm xuống => gây hậu quả tiêu
cực đối với đội ngũ người lao động làm thuê.


4.

Phân tích các hình thái tư bản và các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư:p,p’,
CTTNBN, CTGCN, tỷ suất lợi nhuận bình quân, lợi nhuận bình quân, giá cả sản xuất.

5.

Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư là gì? vì sao nói chúng che giấu, bản
chất quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư
Trong nền sản xuất tư bản thì giá trị thặng dư được biểu hiện thành lợi nhuận, lợi nhuận bình quân.
Lợi nhuận( ký hiệu là p)
Giữa giá trị hàng hóa và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn luôn có khoảng chênh lệch, cho nên
sau khi bán hàng hóa, giả định giá cả = giá trị, thì nhà tư bản không những bù đắp đủ số tư bản ứng
ra, mà còn thu về được số tiền lời ngang bằng m. Số tiền này được gọi là lợi nhuận.



Giá trị thặng dư so với toàn bộ tư bản ứng trước, được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư
bản ứng trước, sẽ mang hình thức chuyển hóa là lợi nhuận.

Giá trị hàng hóa (w) bây giờ được biểu hiện : w=k+p
Nếu so sánh lợi nhuận và giá trị thặng dư thì
Giống nhau: cả lợi nhuận và giá trị thặng dư đều có chung một nguồn gốc là kết quả lao động không
công của công nhân.


Khác nhau:

Về chất:
Giá trị thặng dư là bản chất bên trong sản xuất, phản ánh đúng nguồn gốc và bản chất của nó là kết
quả của sự chiếm đoạt lao động không công của công nhân.
Lợi nhuận xuất hiện trong lưu thông, ngoài sản xuất, chỉ là một hình thái “thần bí hóa” của giá trị
thặng dư.
Về lượng: lợi nhuận có thể bằng giá trị thặng dư ( giá bán =giá trị)
lợi nhuận lớn hơn giá trị thặng dư ( giá bán > giá trị)
lợi nhuận nhỏ hơn giá trị thặng dư ( giá bán < giá trị)
lợi nhuận bình quân ( ký hiệu ) và tỷ suất lợi nhuận bình quân.
cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh giữa các nhà sản xuất ở các ngành khác nhau, sản xuất ra
những hàng hóa khác nhau nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi để thu được lợi nhuận cao dẫn đến
kết quả hình thành lợi nhuận bình quân, tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Cùng với một lượng tư bản đầu tư bằng nhau nhưng cấu tạo hưu cơ khác nhau nên tỷ suất lợi nhuận
khác nhau. Nhà tư bản không thể yên phận kinh doanh ở ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp => hiện
tượng di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác đã làm thay đổi tỷ suất lợi nhuận cá biệt vốn
có của các ngành, làm cho tỷ suất ở các ngành đều xấp xỉ bằng nhau, đó là tỷ suất lợi nhuận bình
quân (ký hiệu )



Tỷ suất lợi nhuận bình quân là tỷ số tính theo % giữa tổng giá trị thặng dư và tổng số tư
bản xã hội đã đầu tư vào các ngành của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
= x100%
Khi tỷ suất lợi nhuận bình quân đã hình thành thì số lợi nhuận của các ngành sản xuất đều được
tính theo tỷ suất lợi nhuận bình quân, và do đó nếu có số tư bản bằng nhau, dù đầu tư vào ngành
nào cũng đều thu được lợi nhuận bằng nhau, gọi là lợi nhuận bình quân.

Lợi nhuận bình quân là số lợi nhuận bằng nhau của những lượng tư bản bằng nhau khi
đầu tư vào các ngành khác nhau.
=xk

Vì sao nói các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư che giấu, bản chất quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa.
Phạm trù lợi nhuận làm cho người ta nhầm tưởng giá trị thặng dư không phải chỉ do lao động làm
thuê tạo ra mà còn do cả tư liệu sản xuất. Nguyên nhân của hiện tượng ấy là:
Thứ nhất, sự hình thành chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa xóa nhòa sự khác nhau giữa c và v, nên
việc m sinh ra trong quá trình sản xuất nhờ bộ phận v, được biểu hiện thành lợi nhuận(p). bây giờ thì
lợi nhuận được coi là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước.


Thứ hai, do chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn nhỏ hơn chi phí thực tế, có thể bán hàng hóa thấp
hơn giá trị hàng hóa nhưng cao hơn chi phí sản xuất là đã có lợi nhuận. Đối với nhà tư bản họ cho
rằng lợi nhuận là do việc mua bán , do lưu thông tạo ra, do tài kinh doanh của họ mà có, biểu hiện ở
chỗ các nhà tư bản định giá bán như thế nào so với giá trị hàng hóa dẫn đến lợi nhuận bằng, lơn hơn
hay nhỏ hơn giá trị thặng dư. Chính sự không đồng nhất về lượng giưa p và m càng che giấu nguồn
gốc lợi nhuận và thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản
Sự hình thành lợi nhuận bình quân đã che dấu hơn nữa thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản làm
người ta nhầm tưởng lợi nhuận bình quân xuất hiện trong lưu thông, là kết quả cạnh tranh của các
ngành chứ không phải bắt nguồn từ lao động không công của công nhân. Nhầm tưởng nhà tư bản
đầu tư một lượng tư bản như nhau sẽ thu được một lượng lợi nhuận như nhau.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành
Là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hóa nhằm
giành được những điều kiện thuận lợi nhất trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu lợi nhuận siêu
ngạch.
Biện pháp cạnh tranh: cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động làm cho giá trị cá biệt của hàng
hóa mà doanh nghiệp sản xuất ra thấp hơn giá trị xã hội để thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Kết quả của cạnh tranh nội bộ ngành: hình thành nên giá trị thị trường của từng loại hàng hóa.
Giá trị thị trường không chỉ chịu tác động của giá trị xã hội mà còn chịu tác động bởi giá trị cá biệt
của nhà sản xuất cung ứng đại bộ phận một loại hàng hóa trên thị trường.
Cạnh tranh giữa các ngành:
cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh giữa các nhà sản xuất ở các ngành khác nhau, sản xuất ra

những hàng hóa khác nhau nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi để thu được lợi nhuận cao.
Mục đích: tìm kiếm ngành đầu tư có lợi nhuận cao.
Biện pháp cạnh tranh: di chuyển tư bản từ ngàn có tỷ suất lợi nhuận thấp sang ngành có tỷ suất lợi
nhuận cao.
Kết quả cạnh tranh giữa các ngành :hình thành lợi nhuận bình quân, tỷ suất lợi nhuận bình quân và
giá cả sản xuất
Tỷ suất lợi nhuận ( ký hiệu p’)
Trên thực tế, các nhà tư bản thu được lợi nhuận trên cơ sở tỷ suất lợi nhuận đã xác định.



Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước.
P’= x100%


Tỷ suất lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh mức doanh lợi khi tiến hành đầu tư của các nhà tư bản.
Thông qua tỷ suất lợi nhuận giữa các ngành trong nền kinh tế, cũng cho thấy đầu tư vào ngành
nào có lợi nhất.
Tỷ suất lợi nhuận có mối quan hệ chặt chẽ với tỷ suất giá trị thặng dư đồng thời giữa chúng có sự
khác nhau cả về chất và lượng:
Về chất: m’ phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân làm thuê, còn p’ không
thể phản ánh được điều đó, mà chỉ nói lên mức doanh thu của việc đầu tư tư bản.
Về lượng:p’ luôn nhỏ hơn m’, vì:
P’= x100% còn m’= x 100%.
Những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận :

Tỷ suất giá trị thặng dư: tỷ suất lợi nhuận tỷ lệ thuận với tỷ suất giá trị thặng dư.

Cấu tạo hữu cơ của tư bản : trong điều kiện tỷ suất giá trị thặng dư không đổi nếu cấu tạo
hữu cơ của tư bản càng cao thì tỷ suất lợi nhuận càng giảm và ngược lại.


Tốc độ chu chuyển của tư bản: tỷ suất lợi nhuận tỷ lệ thuận với số vòng chu chuyển của
tư bản và tỷ lệ nghịch với thời gian chu chuyển của tư bản.

Tiết kiệm tư bản bất biến: trong điều kiện tỷ suất giá trị thặng dư và tư bản khả biến
không đổi, nếu tư bản bất biến càng nhỏ thì tỷ suất lợi nhuận càng lớn.

Bốn nhân tố trên đây đều được các nhà tư bản sử dụng, khai thác một cách triệt để để đạt
được tỷ suất lợi nhuận cao nhất. Đó cũng là những cách thức làm tăng tỷ suất lợi nhuận.
Sự chuyển hóa của giá trị hàng hóa thành giá cả sản xuất
Cùng với sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân thì giá trị hàng hóa
chuyển hóa thành giá cả sản xuất.

Giá cả sản xuất bằng chi phí sản xuất cộng lợi nhuận bình quân =k+
Tiền đề của giá cả sản xuất chính là sự hình thành lợi nhuận bình quân và tỷ suất lợi nhuận bình
quân.
Khi giá trị hàng hóa chuyển thành giá cả sản xuất thì giá cả sản xuất là cơ sở của giá cả thị trường,
điều tiết giá cả thị trường. Giá cả thị trường xoay quanh giá cả sản xuất. Xét trong toàn bộ xã hội thì
tổng giá cả sản xuất vẫn bằng tổng giá trị hàng hóa.
Như vậy trong giai đonạ tự do cạnh tranh của CNTB, quy luật giá trị thặng dư biểu hiện thành quy
luật lợi nhuận bình quân, quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả sản xuất.
CHUYÊN ĐỀ 3+4
Phân tích căn cứ, ý nghĩa việc phân chia tư bản cố định và tư bản lưu động.
Tư bản cố định: là bộ phận của tư bản sản xuất, tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá
trị được chuyển dầm từng phần một vào trong sản phẩm mới.Nó bao gồm máy móc, thiết bị, nhà
xưởng.
quá trình sử dụng tư bản cố định sẽ bị hao mòn dần, có hai loại hao mòn tư bản cố dịnh là hao mòn
hữu hình và hao mòn vô hình.
Hao mòn hữu hình:hao mòn vật chất do tác động của tự nhiên, hoặc tác động cơ học làm cho tư bản
cố định bị giảm dần giá trị và giá trị sử dụng, sau một thời gian nhất định sẽ bị hư hỏng phải được

thay thế. VD máy móc bị sét gỉ, hỏng hóc sau một thời gian sử dụng.
Hao mòn vô hình: hao mòn thuần túy về giá trị do tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật, làm cho tư
bản cố định mà chủ yếu là máy móc, thiết bị giảm giá trị trong khi giá trị sử dụng vẫn không đổi. chủ
yếu xảy ra do xuất hiện máy móc hiện đại hơn, rẻ hơn nhưng công suất cao hơn. Để tránh hao mòn


vô hình, các nhà tư bản tìm cách kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động, tăng ca nhằm tận
dụng máy móc trong thời gian càng ngắn càng tốt.
Tư bản lưu động: là một bộ phận của tư bản sản xuất, khi tham gia vào quá trình sản xuất, giá trị của
nó được chuyển ngay một lần và toàn bộ vào trong sản phẩm mới. Nó bao gồm : nguyên, nhiên, vật
liệu và tiền công lao động ( tư bản khả biến). tư bản lưu động có tốc độ chu chuyển nhanh hơn tư
bản cố định. Căn cứ phân chia: dựa vào tính chất chuyển giá trị vào trong sản phẩm mới. Tư bản cố
dịnh chuyển giá trị dần dần, từng phần một vào trong sản phẩm mới. Tư bản lưu động chuyển giá trị
ngay một lần và toàn bộ vào trong sản phẩm mới sau quá trình sản xuất.
Ý nghĩa phân chia: có ý nghĩa to lớn trong quản lý kinh tế. Trong sản xuất cần có tác động phù hợp
với tính chất vận động của từng loại tư bản để nâng cao hệ số sử dụng tư bản. tăng tốc độ chu
chuyển của tư bản cố định là một biện pháp quan trọng để tăng quỹ khấu hao tài sản cố định, làm
lượng tư bản sử dụng tăng lên, tránh thiệt hại hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình gây ra => có
điều kiện đổi mới thiết bị nhanh. Việc đẩy nhanh tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động sẽ góp phần
tăng hiệu quả sử dụng vốn tư bản,tiết kiệm tư bản ứng trước đồng thời tăng tỷ suất và khối lượng giá
trị thặng dư cho nhà tư bản.
Thế nào là tuần hoàn và chu chuyển của tư bản? Liên hệ thực tế.
Tuần hoàn tư bản: là sự vận động của tư bản trải qua qua 3 giai đoạn lưu thông, sản xuất, lưu thông
lần lượt mang lấy ba hình thái là tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất và tư bản hàng hóa để rồi quay trở lại
hình thái ban đầu với giá trị được bảo tồn và tăng lên.
Giai đoạn 1 :GĐ lưu thông. TB mang hình thái TB tiền tệ, thực hiện chức năng chuẩn bị cho việc
SX giá trị thặng dư như mua các yếu tố tư liệu SX và sức lao động.
Giai đoạn 2: GĐ sản xuất. TB mang hình thái TB sản xuất, thực hiện chức năng kết hợp sức lao
động với tư liệu sản xuất tạo ra hàng hóa và tạo ra giá trị thặng dư.
Giai đoạn 3: GĐ lưu thông. TB mang hìn h thái TB hàng hóa, thực hiện chức năng thực hiện giá trị

và giá trị thặng dư.
Tổng hợp 3 giai đoạn có công thức
Tuần hoàn tư bản chỉ diễn ra trôi chảy và liên tục nếu thỏa mãn được 2 điều kiện:
Một là các giai đoạn vận động tuần hoàn phải được diễn ra liên tục , không bị gián đoạn.
Hai là, tại cùng một thời điểm tư bản phải đồng thời tồn tại cả 3 hình thái và được chuyển hóa đều
đặn.
Chu chuyển của tư bản là sự vận động tuần hoàn của tư bản, nếu xét nó là một quá trình định kỳ
được đổi mới và lặp đi lặp lại không ngừng. Nó bao gồm thời gian SX và thời gian lưu thông. Tuy
nhiên tùy theo tư bản ở từng ngành khác nhau mà thời gian và tốc độ chu chuyển khác nhau.
Thời gian sản xuất: là thời gian TB nằm ở trong lĩnh vực SX, bao gồm: thời gian lao động, thời gian
gián đoạn lao động và thời gian dự trữ sản xuất. Thời gian SX của TB dài hay ngắn là do tác động
của nhiểu nhân tố như: tính chất của ngành SX, quy mô hoặc chất lượng các sản phẩm, sự tác động
của quá trình tự nhiên đối với SX, năng suất lao động và tình trạng dự trữ các yếu tố SX.
Thời gian lưu thông : là thời gian TB nằm trong lĩnh vực lưu thông. Trong thời gian lưu thông, TB
không làm chức năng SX, do đó không sản xuất ra hàng hóa, cũng không SX ra giá trị thặng dư.
Thời gian lưu thông gồm có thời gian mua và thời gian bán hàng hóa. Thời gian lưu thông dài hay
ngắn phụ thuộc các nhân tố: thị trường xa hay gần, tình hình thị trường xấu hay tốt, trình độ phát


triển của vận tải và giao thông.Thời gian chu chuyển của TB càng rút ngắn thì càng tạo điều kiện cho
giá trị thặng dư được SX ra trong thời gian trực tiếp SX nhiều hơn, TB càng lớn nhanh hơn.
Tuần hoàn và chu chuyển của TB là hai mặt chất và lượng của sự vận động tư bản, luôn gắn bó
nhau, không tách rời nhau; là hai mặt đối lập trên một thể thống nhất, chúng đều chỉ sự vận động của
TB hay lưu thông của TB theo nghĩa rộng.
Liên hệ thực tế: ta thấy muốn đẩy nhanh tốc độ chu chuyển của tư bản nhằm thu được giá trị

thặng dư cao thì nhà tư bản phải đẩy nhanh thời gian sản xuất và lưu thông của tư bản. Muốn
rút ngắn thời gian sản xuất thì doanh nghiệp phải luôn mở rộng quan hệ liên doanh, liên kết
để bắt kịp với sự tiến bộ của thế giới, áp dụng khoa học kỹ thuật để tăng năng suất lao động,
tạo các khâu sản xuất liên hoàn để sử dụng hết chức năng của máy móc, giảm thiểu thời gian

chết đồng thời phải cải tiến bộ máy quản lý lao động, có chế độ khen thưởng và xử phạt xứng
đáng để khuyến khích người lao động làm việc có hiệu quả. Còn muốn rút ngắn thời gian lưu
thông, doanh nghiệp phải thường xuyên nghiên cứu thị trường, nắm bắt tâm lý, nhu cầu của
người tiêu dùng để quyết định mở rộng hay thu hẹp sản xuất mặt hàng của doanh nghiệp.
Thường xuyên cải tiến mặt hàng, làm phong phú chủng loại phù hợp với mọi đối tượng nhằm
thỏa mãn tối đa nhu cầu của người tiêu dùng, tận dụng những tư liệu sản xuất chưa sử dụng,
giảm rủi ro khi kinh doanh đồng thời áp dụng các hình thức thanh toán linh hoạt. Về phía nhà
nước cần có những chính sách hướng ngoại đúng đắn để tạo điều kiện cho nền kinh tế nước ta
hội nhập với nền kinh tế thế giới, tiếp thu các công nghệ khoa học hiện đại. Ra sức xây dựng
và nâng cấp cơ sở hạ tầng để tạo điều kiện tốt nhất cho lưu thông.
Các hình thái của tư bản công nghiệp
Trong sự vận động liên tục của tư bản công nghiệp, mỗi hình thái của tư bản đều có thể làm điểm mở
đầu và làm điểm kết thúc của tuần hoàn, tạo nên ba hình thái tuần hoàn khác nhau của tư bản công
nghiệp: Tuần hoàn của tư bản tiền tệ, tuần hoàn của tư bản sản xuất và tuần hoàn của tư bản hàng
hoá.
Tuần hoàn của tư bản tiền tệ:

Mở đầu và kết thúc đều là tiền, ở đây sự vận động của tư bản biểu hiện ra là sự vận động của tiền,
còn hàng hoá hay sản xuất chỉ là những yếu tố trung gian để tiền đẻ ra tiền. Hình thái tuần hoàn này
phản ảnh rõ rệt nhất mục đích, động cơ vận động của tư bản là làm tăng giá trị hay giá trị thặng
dư.Bởi vậy T - T' là hình thái biểu hiện phiến diện nhất, che giấu quan hệ bóc lột nhất, nhưng cũng
đặc trưng nhất cho sự vận động của tư bản.
Tuần hoàn của tư bản sản xuất:


Trong hình thái này, mở đầu và kết thúc là SX, còn hàng hoá và tiền tệ chỉ là những yếu tố trung
gian, toàn bộ quá trình lưu thông H' - T' - H chỉ là điều kiện cho SX.
Tuần hoàn của tư bản sản xuất không chỉ ra được mục đích và động cơ vận động của tư bản, nhưng
lại phản ảnh rõ nét nguồn gốc của tư bản và nguồn gốc của tích luỹ tư bản, vì giá trị thặng dư được
sinh ra và lớn lên trong quá trình tuần hoàn này.

Tuần hoàn của tư bản hàng hoá:

Trong hình thái tuần hoàn này, điểm mở đầu và kết thúc đều là hàng hoá và sự vận động của nó biểu
hiện ra là sự vận động của hàng hoá. Còn SX và tiền tệ chỉ là những hình thức trung gian, chỉ là điều
kiện cho sự vận động của hàng hoá. Hình thái tuần hoàn này phản ánh rõ vai trò của lưu thông hàng
hoá và tính liên tục của lưu thông hàng hoá.
Mở đầu tuần hoàn là tư bản hàng hoá (H'), sự chuyển hoá H' - T' bao gồm cả tiêu dùng sản xuất và
tiêu dùng cá nhân. Do đó, hình thái tuần hoàn này không chỉ là hình thái vận động của tư bản công
nghiệp cá biệt, mà còn là hình thái thích hợp để phân tích sự vận động của tư bản xã hội.
Tóm lại, sự vận động của TB dựa trên nền tảng nền đại công nghiệp cơ khí hóa theo lối kinh doanh
TBCN mà 3 chức năng của nó là chiếm lấy và tạo ra giá trị thặng dư. Còn 3 hình thái: TB tiền tệ, TB
sản xuất, TB hàng hóa chỉ là những hình thái chức năng đặc thù của TBCN. Sự thống nhất của ba
hình thái tuần hoàn trên là tuần hoàn của tư bản công nghiệp. Tính thống nhất này phụ thuộc vào
những điều kiện bảo đảm cho tính liên tục không gián đoạn của các giai đoạn, các hình thái tư bản và
tỷ lệ phân chia tư bản thành ba hình thái tuần hoàn nói trên. Tỷ lệ phân chia này phụ thuộc nhiều yếu
tố, nhiều hoàn cảnh khác nhau ở từng ngành khác nhau. Trong những thập niên gần đây ở nhiều
nước tư bản chủ nghĩa xuất hiện những yếu tố làm cho quy mô tư bản ứng trước ngày càng tăng như:
do cạnh tranh, do công nghệ hiện đại, do khó khăn về tiêu thụ và việc vươn tới những thị trường
ngày càng xa và với yêu cầu chất lượng cao. Nhưng cũng có những yếu tố làm giảm quy mô tư bản
ứng trước như công nghệ mới, tổ chức quản lý khoa học, quan hệ tín dụng, tốc độ chu chuyển tư bản.
Phân biệt TBĐQ và TBĐQ nhà nước.
Giống nhau
- Đều sinh ra trong 1 giai đoạn.
- Biểu hiện của quy luật giá trị là quy luật giá cả độc quyền (Gđq = K + Pđq) và biểu hiện của quy
luật giá trị thặng dư là quy luật lợi nhuận độc quyền.
- Đều có sự can thiệp, thống trị của các tổ chức độc quyền vào kinh tế.
- Dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Khác nhau
Sự khác nhau căn bản giữa CNTBĐQ và CNTBĐQNN là: Trong nền kinh tế CNTBĐQNN có sự
thâm nhập của các nhà TBĐQ vào bộ máy nhà nước và ngược lại. Ngoài sở hữu độc quyền tư nhân

còn hình thành và phát triển sở hữu nhà nước. Trong giai đoạn CNTBĐQ nhà nước, nhà nước tham
gia tích cực vào việc điều tiết các hoạt động kinh tế.
Phân tích các đặc điểm kinh tế của TBĐQ. Đặc điểm nào là quan trọng nhất, vì sao?
Phân tích các đặc điểm kinh tế của TBĐQ
Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền


Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hính thành các tổ chức độc quyền là đặc trưng kinh tế cơ
bản của chủ nghĩa đế quốc. Tổ chức độc quyền là liên minh giữa những nhà tư bản lớn tập trung vào
trong tay một phần lớn( thậm chí toàn bộ) sản phẩm của một ngành, cho phép liên minh này phát
huy ảnh hưởng, quyết định đến quá trình sản xuất và lưu thông của ngành đó, để thu lợi nhuận độc
quyền cao.
Những hình thức tổ chức độc quyền cơ bản:








Cartel: là hình thức tổ chức độc quyền dựa trên sự ký kết hiệp định giữa các xí nghiệp
thành viên để thỏa thuận với nhau về giá cả, quy mô sản lượng, thị trường tiêu thụ… còn việc
sản xuất và tiêu thụ vẫn do bản thân mỗi thành viên thực hiện.
Syndicat: là hình thức tổ chức độc quyền trong đó việc lưu thông và tiêu thụ sản phẩm do
một ban quản trị chung đảm nhiệm, nhưng sản xuất vẫn là công việc độc lập của mỗi thành
viên.
Truts : là một hình thức độc quyền cao hơn cartel và syndicat, nhằm thống nhất cả việc
sản xuất, tiêu thụ, tài vụ đều do một ban quản trị quản lý. Các nhà tư bản tham gia truts trở
thành những cổ đông thu lợi nhuận theo lượng cổ phần đóng gớp và hiệu quả kinh doanh.

Consortium là một hình thức độc quyền có trình độ và quy mô lớn hơn các hình thức độc
quyền trên. Tham gia Consortium không chỉ có các nhà tư bản lớn mà còn cả các Syndicat,
Cartel thuộc các ngành khác nhau nhưng liên quan với nhau về kinh tế, kỹ thuật. Với kiểu liên
kết dọc như vậy, một Consortium có thể có hàng trăm xí nghiệp liên kết trên cơ sở hoàn toàn
phụ thuộc về tài hình vào một nhóm tư bản kếch sù.
Conglomerate: là liên minh độc quyền mang tính quốc tế, nó hoạt động và chi phối ở
nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau và ảnh hưởng đến nhiều nước. ngày nay nó chính là
các tập đoàn tư bản tài chính quốc tế, có khả năng chi phối và ảnh hưởng đến nền kinh tế của
nhiều nước.

Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính
Tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng dẫn đến sự hình thành các tổ chức độc quyền trong ngân
hàng. Ngân hàng bắt đầu có vai trò mới, từ chỗ làm trung gian trong việc thanh toán và tín dụng, nay
do nắm được phần lớn tư bản tiền tệ trong xã hội, ngân hàng đã trở thanh tổ chức độc quyền có
quyền lực to lớn chi phối các hoạt động kinh tế-xã hội, cho vay và nhận tiền gửi từ các tổ chức độc
quyền công nghiệp trong thời gian dài nên có gắn kết lợi ích với nhau, tìm cách thâm nhập vào nhau
=> hình thành tư bản mới gọi là tư bản tài chính.Tư bản tài chính là kết quả của sự hợp nhất giữa
một số tổ chức độc quyền ngân hàng với một số tổ chức độc quyền trong công nghiệp.
Sự phát triển của tư bản tài chính dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ những tập đoàn tư bản tài
chính lớn, có khả năng chi phối toàn bộ đời sống kinh tế và chính trị của toàn bộ xã hội tư bản gọi là
bọn đầu sỏ tài chính.
Xuất khẩu tư bản: là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư và
các nguồn lợi khác ở các nước nhập khẩu tư bản. là công cụ chủ yếu để bành trướng sự thống trị bóc
lột, nô dịch của tư bản tài chính trên phạm vị toàn thế giới.


Được thực hiện dưới hai hình thức chủ yếu là xuất khẩu tư bản trực tiếp( đưa tư bản ra nước ngoài để
trực tiếp đầu tư, kinh doanh thu lợi nhuận.) và xuất khẩu tư bản gián tiếp ( cho vay hoặc mua cổ
phiếu để thu lợi tức).
Thực hiện các hình thức xuất khẩu tư bản trên, xét về chủ thể sở hữu tư bản có thể phân thành:

Xuất khẩu tư bản nhà nước: nhà nước TBĐQ dùng nguồn vốn từ ngân quỹ của mình để đầu tư vào
nước nhập khẩu tư bản, hoặc viện trợ có hoàn lại hay không hoàn lại để thực hiện những mục tiêu về
kinh tế chính trị và quân sự.
Xuất khẩu tư bản tư nhân do tư bản tư nhân thực hiện. thường được đầu tư vào các ngành có vòng
quay tư bản ngắn, thu được lợi nhuận độc quyền cao dưới hình thức chi nhánh của các công ty xuyên
quốc gia.
Sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc quyền.
Nghĩa là phân chia lĩnh vực đầu tư tư bản dẫn đến sự phân chia thị trường thế giới giữa các tổ chức
độc quyền. Sự phân chia này được thực hiện thông qua các cuộc đấu tranh gay gắt giành lợi nhuận
cao trên thị trường thế giới => cuộc đấu tranh khốc liệt=> tất yếu dẫn đến xu hướng thỏa hiệp, ký kết
hiệp định để củng cố địa vị độc quyền trong các lĩnh vực và những thị trường nhất định từ đó hình
thành các liên minh tư bản độc quyền quốc tế, các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia.
Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc.
Sự phân chia thế giới về kinh tế được củng cố và tăng cường bằng việc phân chia thế giới về lãnh
thổ. Các cường quốc đế quốc ra sức xâm chiếm thuộc địa, bởi vì thuộc địa là nơi bảo đảm nguồn
nguyên liệu và thị truờng thường xuyên; là nơi tương đối an toàn trong cạnh tranh, bảo đảm thực
hiện đồng thời những mục đích về kinh tế, quân sự và chính trị. Sự phân chia lãnh thổ và phát triển
không đều của chủ nghĩa tư bản tất yếu dẫn đến cuộc đấu tranh đòi chia lại thế giới. Đó là nguyên
nhân chính dẫn đến cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất 1914 -1918 và cuộc Chiến tranh thế giới thứ
hai 1939- 1945.
Đặc điểm nào là quan trọng nhất, vì sao?
Đặc điểm quan trọng nhất là đặc điểm thứ nhất: tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền vì



Phản ánh quan hệ thống trị và bóc lột của CNTB trong tất cả các ngành kinh tế của xã hội
tư bản và trên toàn thế giới từ cuối thế kỉ XIX đến nay.

Thể hiện sự thống trị của tự do cạnh tranh được thay thế bằng sự thống trị của độc quyền,
là biểu hiện tập trung nhất bản chất kinh tế của CNTBĐQ.


Biểu hiện được đặc trưng của CNTB trong giai đoạn mới, phân biệt sự khác nhau giữa
CNTB tự do cạnh tranh và CNTB độc quyền.

Đặc điểm này là tiền đề, quyết định các đặc điểm khác, có đặc điểm này mới có các đặc
điểm khác.


×