SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO LÀO CAI
TRƯỜNG THPT SỐ 2 BẢO THẮNG
KINH NGHIỆM GIẢNG DẠY
HÓA HỌC THỰC TIỄN VÀ THÁI ĐỘ HỌC TẬP
TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH THPT
Môn: Hóa học
Tên tác giả: Trịnh Thanh Huyền
Giáo viên môn: Hóa học
Chức vụ: TTCM
Năm học 2013- 2014
1
MỤC LỤC
trang
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
2
B. NỘI DUNG
4
Chương I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC SỬ DỤNG CÁC HIỆN
4
TƯỢNG HÓA HỌC THỰC TIỄN VÀO BÀI DẠY NHẰM TĂNG
HỨNG THÚ, SAY MÊ VÀ Ý THỨC HỌC TẬP BỘ MÔN.
I.1. Cơ sở lí luận của vấn đề
6
I. 2: Một số các hình thức áp dụng hiện tượng thực tiễn trong tiết dạy
7
Chương II: HỆ THỐNG CÁC HIỆN TƯỢNG HÓA HỌC THỰC TIỄN
8
DÙNG CHO CÁC BÀI GIẢNG TRONG CHƯƠNG TRÌNH HÓA
HỌC THPT
II.1: Hệ thống các hiện tượng sử dụng trong những bài giảng: Các hợp
8
chất vô cơ
II.2: Hệ thống các hiện tượng sử dụng trong những bài giảng: Kim loại
17
II.3: Hệ thống các hiện tượng sử dụng trong những bài giảng: Phi kim
22
II.4: Hệ thống các hiện tượng sử dụng trong những bài giảng :
30
Hidrocacbon
II.5: Hệ thống các hiện tượng sử dụng trong những bài giảng Chương
33
Dẫn xuất Halogen- Polime
C. PHẦN KẾT THÚC:
36
TÀI LIỆU THAM KHẢO
37
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
2
Ngày nay sự bùng nổ của khoa học kĩ thuật và công nghệ thông tin không
chỉ đóng vai trò là nền tảng, là động lực to lớn cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, mà còn có tác động nhất định đến tiến bộ xã hội và đặc biệt là đến
sự phát triển nhân cách đạo đức của con người. Học sinh của chúng ta tìm được
những niềm đam mê qua mạng internet như: game; báo; phim; truyện…Có những
em bỏ quên cả việc học. Chúng ta không thể phủ nhận những hấp dẫn từ internet;
những lợi ích mà nó mang lại, nhưng thế giới ảo đó lại đang biến các em dần vô
cảm với mọi thứ; thụ động và mất hứng thú vơi những gì mà thực tế đang diễn ra;
ngay cả với việc học. Hiện nay việc tạo hứng thú học tập và rèn cho học sinh có một
thái độ học tập tích cực là việc không hề đơn giản.
Hóa học là một bộ môn khoa học thực nghiệm. Như tên của nó, đôi khi chúng
ta nghĩ đây là bộ môn khô khan, khó tiếp thu đối với học sinh . Có lúc học sinh học
lý thuyết trên sách giáo khoa, còn thực tế hiện tượng hoá học xảy ra như thế nào thì
không nhìn thấy được. Học sinh chỉ học thuộc lòng phương trình và hiện tượng hoá
học theo sách vở, điều này làm cho các em mau quên và dễ chán. Cũng có lúc các
em cảm thấy kiến thức hoá học thật trừu tượng nên không hiểu bài trong lớp. Mà đã
khó hiểu thì làm sao các em có thể yêu thích?
Môn hóa học ở trường phổ thông nếu không có những bài giảng và phương
pháp hợp lí phù hợp với thế hệ học trò dễ làm cho học sinh thụ động trong việc tiếp
thu, cảm nhận. Trước tình hình đó, hóa học phải đổi mới phương pháp dạy học đã
và đang thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy. Một trong những yếu tố để
đạt giờ dạy có hiệu quả và tiến bộ là phát huy tính thực tế.
Có những vấn đề hóa học giúp học sinh giải thích những hiện tượng trong
tự nhiên, tránh việc mê tín dị đoan, thậm chí hiểu được những dụng ý khoa học hóa
học trong những câu ca dao – tục ngữ, mà thế hệ trước để lại và có thể ứng dụng
trong thực tiễn đời sống thường ngày, chỉ bằng những kiến thức rất phổ thông mà
không gây nhàm chán, xa lạ, lại có tác dụng kích thích tính chủ động, sáng tạo, hứng
thú trong môn học.
3
Xuất phát từ những thực tế đó tôi nhận thấy để nâng cao hứng thú học bộ môn
Hóa học của học sinh, người giáo viên ngoài phát huy tốt các phương pháp dạy học
tích cực cần khai thác thêm các hiện tượng hóa học thực tiễn trong đời sống đưa
vào bài giảng bằng nhiều hình thức khác nhau nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo
của học sinh, tạo niềm tin, niềm vui, hứng thú trong học tập bộ môn.
Từ những lí do trên tôi chọn đề tài: “Hóa học thực tiễn và thái độ học tập tích cực
của học sinh”
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Vận dụng hệ thống các hiện tượng đã xây dựng để dạy học Hóa học trong
chương trình Hóa học phổ thông, nhằm giáo dục ý thức và tăng hứng thú học tập bộ
môn cho học sinh.
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
III.1. ĐỐI TƯỢNG:
Quá trình dạy học môn hóa học lớp 11A1. 11A2, 12A1 và Đội tuyển học sinh
giỏi của trường THPT số 2 Bảo Thắng năm học 2013- 2014.
Các phương pháp dạy học tích cực, phương pháp tích hợp môi trường, kĩ
năng vận dụng kiến thức trong học tập và liên hệ thực tiễn của bộ môn hóa học.
III.2. PHẠM VI:
Các bài dạy trong chương trình hóa học THPT và bồi dưỡng học sinh giỏi
IV. CƠ SỞ KHOA HỌC
Nếu vận dụng tốt hệ thống các hiện tượng hóa học thực tiễn vào bài giảng trong
chương trình dạy học bộ môn Hóa học ở trường phổ thông sẽ làm tăng ý nghĩa thực
tiễn của môn học, làm cho các bài học trở nên hấp dẫn và lôi cuốn học sinh hơn.
Đồng thời góp phần nâng cao năng lực nhận thức, tự học, tích cực chủ động học tập
của học sinh. Điều đó làm tăng hứng thú học tập mang lại kết quả học tập bộ môn
cao hơn.
V. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
4
Nghiên cứu cơ sở lí luận việc đổi mới chương trình giáo dục môn hóa,
phương pháp đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực, tích hợp
Nghiên cứu chương trình sách giáo khoa, sách giáo viên hóa học phổ thông.Mục
tiêu chương trình hóa học phổ thông ( chủ yếu là trung học phổ thông ) để sưu tầm
và xây dựng hệ thống một số hiện tượng hóa học phát huy tính tích cực, chủ động tư
duy cho học sinh nhằm tăng hứng thú, say mê học tập bộ môn.
VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu luật giáo dục về đổi mới chương trình, phương pháp dạy học,..
Các tài liệu về lí luận dạy học, phương pháp dạy học tích cực bộ môn hóa.
Sưu tầm, liệt kê các hiện tượng hóa học thực tiễn áp dụng cho một số bài dạy cụ
thể ở chương trình hóa học trung học phổ thông.
VII. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài này gồm 03 phần chính
A. Phần đặt vấn đề
B. Phần nội dung
C. Phần kết luận chung
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC SỬ DỤNG CÁC HIỆN TƯỢNG
HÓA HỌC THỰC TIỄN VÀO BÀI DẠY HÓA HỌC NHẰM RÈN CHO HỌC
SINH THÁI ĐỘ HỌC TẬP TÍCH CỰC
I.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ:
Đối với học sinh THPT các em chưa có được tư duy biện chứng giữa kiến
thức môn học với công việc của mình sau này, hầu hết các e chỉ định hướng học để
đi thi nên ý thức học tập các bộ môn chưa cao, hoặc học theo kiểu để thi cũng không
quan tâm nhiều đến bản chất thực tế của nó; dẫn tới kiến thức của các em còn mang
nặng tính lí thuyết ; thích môn nào mình học có kết quả cao hoặc thích giáo viên
dạy học môn đó. Người giáo viên dạy hóa học phải biết nắm tâm lý và đặc điểm lứa
5
tuổi của học sinh, trong đó phương pháp dạy học bằng cách khai thác các hiện tượng
hóa học thực tiễn trong tự nhiên và trong đời sống hàng ngày để các em thấy môn
hóa học rất gần gũi với các em. Giáo viên phải tổ chức được các hoạt động tự lực
học tập cho học sinh theo những cơ sở lí luận sau:
I.1.1: Tổ chức hoạt động hướng dẫn học sinh học tập theo hướng tích
hợp:
Khi dạy kiến thức hóa học bất kể từ lĩnh vực nào: cấu tạo nguyên tử, phương trình
hóa học, dung dịch…đều liên quan đến kiến thức vật lí hay nhiều hiện tượng thiên
nhiên, hoặc kiến thức hóa hữu cơ: gluxit, lipit, protein,…đều liên quan đến kiến
thức sinh học, nên khi sử dụng những câu hỏi mở rộng theo hướng tích hợp sẽ làm
cho học sinh chủ động tìm tòi câu trả lời, đồng thời thấy được sự liên hệ giữa các
môn học với nhau.
Ví dụ: Vì sao thức ăn nấu khê , cháy dễ gây ung thư ?
Theo các chuyên gia của tổ chức Y tế thế giới, nấu thức ăn quá cháy dễ gây ung thư.
Chất asparagin trong thực phẩm dưới nhiệt độ cao sẽ kết hợp với đường tự nhiên
trong rau quả, hay các thực phẩm giàu chất cacbohyđrat tạo thành chất acylamind,
tác nhân chính gây ra bệnh ung thư.
Ăn nhiều thịt hun khói và các chất bảo quản thực phẩm chứa nitrosamin có trong rau
ngâm, thịt hun khói làm gia tăng ung thư miệng, thực quản, thanh quản, dạ dày. Ăn
nhiều chất béo có liên quan đến ung thư vú, đại tràng, thực tràng, niêm mạc tử cung.
Thuốc trừ sâu nitrofen là chất gây ung thư và dị tật bào thai. Hoá chất độc đáo hại
ethinnylestradiol và bisphe – nol A có trong túi nilon và hộp nhựa tái sinh dùng
đựng thức ăn gây hại cho bào thai….
Tuy nhiên để dạy theo cách tích hợp như trên, người giáo viên phải biết chọn
những vấn đề quan trọng, mấu chót nhất của chương trình để giảng dạy còn phần
kiến thức dễ hiểu nên hướng dẫn học sinh về nhà đọc SGK hoặc các tài liệu tham
khảo. Ngoài ra giáo viên phải chọn lựa các hiện tượng thực tiễn phù hợp với nội
dung bài mới tăng hứng thú, say mê học tập, tìm hiểu bộ môn.
6
Nếu người giáo viên kết hợp tốt phương pháp dạy học tích hợp sử dụng các
hiện tượng thực tiễn, ngoài giúp học sinh chủ động, tích cực say mê học tập còn
lồng ghép được các nội dung khác nhau như: bảo vệ môi trường, chăm sóc và bảo
vệ sức khỏe con người thông qua các kiến thức thực tiễn đó. Đây cũng là hướng đi
mà ngành giáo dục nước ta đang đẩy mạnh trong các năm gần đây.
I.1.2: Tổ chức hoạt động hướng dẫn học sinh cách thiết lập sự liên hệ các
nội dung học với thực tiễn.
Học sinh thấy hứng thú và dễ ghi nhớ bài hơn nếu trong quá trình dạy và học
giáo viên luôn có định hướng liên hệ thực tế giữa các kiến thức sách giáo khoa với
thực tiễn đời sống hàng ngày. Rất nhiều kiến thức hóa học có thể liên hệ được với
các hiện tượng tự nhiên xung quanh chúng ta.
Hiện tượng: Axit nitric đặc lại làm thủng quần áo ?
Giải thích: Axit nitric đặc là một dung môi của xenlulozơ. Nếu bỏ một nhúm bông
vào axit nitric đặc lắc nhẹ một lúc, nhúm bông sẽ tan hết.
Khi axit nitric đặc dính vào quần áo nó sẽ hoà tan xenlulozơ ngay nên sẽ xuất hiện
lỗ chỗ các lỗ thủng.
Khi bị axit nitric loãng dây và quần áo, tuy quần áo không bị thủng ngay, nhưng khi
quần áo khô, nồng độ axit tăng và trở thành đặc sẽ làm thủng ngay. Nếu quần áo bị
dây axit nitric cần giặt ngay bằng một lượng lớn nước.
I.1.3: Tổ chức hoạt động hướng dẫn học sinh thông qua các tình huống
giả định bằng các hiện tượng thực tiễn.
Trong quá trình dạy học nếu ta chỉ áp dụng một kiểu dạy thì học sinh sẽ nhàm
chán. Giáo viên có thể áp dụng nhiều phương pháp dạy học lồng ghép vào nhau,
trong đó hình thức giảng dạy bằng cách đưa ra các tình huống giả định kèm vào các
phương pháp dạy để học sinh tranh luận vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo của
học sinh vừa tạo được môi trường thoải mái để các em trao đổi từ đó giúp học sinh
thêm yêu thích môn học hơn.
Ví dụ: Khi học về muối halogen, giáo viên có thể đưa ra tình huống:
7
*Vì sao thêm muối quá sớm thì đậu không nhừ ?
Các bà nội trợ thường nhắc nhở: Khi nấu đậu chớ cho muối quá sớm. Điều này có
thể giải thích một cách khoa học như sau: Trong đậu nành khô, nước rất ít. Do đó có
thể coi nó như một dung dịch đặc và lớp vỏ là một màng bán thấm. Khi nấu, nước
bên ngoài sẽ thẩm thấu vào trong đậu làm cho đậu nành nở to ra, sau một thời gian
các tế bào trong hạt đậu bị phá vở làm cho đậu mềm.
Nếu khi nấu đậu ta cho muối quá sớm thì nước ở bên ngoài có thể không đi vào
trong đậu, thậm chí nước trong đậu sẽ thẩm thấu ra ngoài do nồng độ muối trong
nước muối bên ngoài lớn hơn nhiều so với nồng độ muối trong đậu nếu cho muối
quá nhiều.
Thông thường khi nấu cháo đậu xanh, cháo đậu đỏ không nên thêm đường quá sớm
hoặc nấu thịt bò, thịt lợn không nên cho muối quá sớm vì cũng sẽ khó nấu nhừ.
Tình huống mang tính thách đố như vậy sẽ kích thích học sinh học tập và thi đua
nhau tìm câu trả lời. Các em sẽ nhớ kiến thức lâu hơn.
I. 2: MỘT SỐ HÌNH THỨC ÁP DỤNG CÁC HIỆN TƯỢNG THỰC
TIỄN TRONG GIẢNG DẠY:
I.2.1: ĐẶT TÌNH HUỐNG VÀO BÀI MỚI
Tiết dạy có gây sự chú ý của học sinh hay không phụ thuộc rất nhiều vào giáo
viên. Trong đó phần mở đầu đặc biệt quan trọng, nếu ta biết đặt ra một tình huống
thực tiễn hoặc một tình huống giả định yêu cầu học sinh cùng tìm hiểu, giải thích
qua bài học sẽ cuốn hút được sự chú ý của học sinh trong tiết dạy.
I.2.2: LỒNG GHÉP TÍCH HỢP MÔI TRƯỜNG TRONG BÀI DẠY
Vấn đề môi trường: nước, không khí, đất,...đang được con người nhắc đến rất
nhiều. Trong cuộc sống hằng ngày các hiện tượng thường xuyên bắt gặp như: nước
thải của một ao cá, chuồng heo, chuồng vịt...; khói bụi của các nhà máy, các lò gạch,
các cánh đồng sau thu hoạch,... có liên quan gì đến những diễn biến bất thường của
8
thời tiết hiện nay không. Giáo viên dạy học bộ môn hóa có thể lồng ghép các hiện
tượng đó vào phần sản xuất các chất, hay ứng dụng của một số chất... Ngoài việc
gây sự chú ý của học sinh trong tiết dạy còn giáo dục ý thức, trách nhiệm bảo vệ
môi trường cho từng học sinh. Tùy vào thực trạng của từng địa phương mà ta lấy
các hiện tượng cho cụ thể và gần gủi với các em.
I.2.3: LIÊN HỆ THỰC TẾ TRONG BÀI DẠY
Khi học xong vấn đề gì học sinh thấy có ứng dụng thực tiễn cho cuộc sống thì
các em sẽ chú ý hơn, tìm tòi, chủ động tư duy để tìm hiểu, để nhớ hơn. Do đó mỗi
bài học giáo viên đưa ra được một số ứng dụng thực tiễn sẽ lôi cuốn được sự chú ý
của học sinh.
Giáo viên cũng cần chú ý khi sử dụng các hiện tượng hóa học thực tiễn nên
khéo léo trong giải thích vấn đề, giáo viên phải biết lựa chọn cách giải thích cho phù
hợp, nếu học sinh tỏ ra tìm tòi hơn chúng ta có thể khích lệ, mở ra hướng giáo dục
vai trò quan trọng của bộ môn mà các em sẽ được tìm hiểu ở các cấp cao hơn.
Chương II: HỆ THỐNG CÁC HIỆN TƯỢNG HÓA HỌC THỰC TIỄN DÙNG
CHO CÁC BÀI GIẢNG TRONG CHƯƠNG TRÌNH HÓA HỌC THPT
II.1: Hệ thống các hiện tượng sử dụng trong những bài giảng: CÁC HỢP
CHẤT VÔ CƠ
Câu 1: Tại sao để cải tạo đất ở một số ruộng chua người ta thường bón bột vôi ?
Giải thích: Thành phần của bột vôi gồm CaO và Ca(OH)2 và một số ít CaCO3. Ở
ruộng chua có chứa axit, pH < 7, nên sẽ có phản ứng giữa axit với CaO, Ca(OH)2 và
một ít CaCO3 làm giảm tính axit nên ruộng sẽ hết chua.
Áp dụng: Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức các bài đã học
trước để trả lời dẫn vào Phản ứng Axit- Bazo - Hóa 11.
Câu 2: “Hiện tượng mưa axit” là gì ? Tác hại như thế nào ?
9
Giải thích: - Khí thải công nghiệp và khí thải của các động cơ đốt trong (ô tô, xe
máy) có chứa các khí SO2, NO, NO2,…Các khí này tác dụng với oxi O2 và hơi nước
trong không khí nhờ xúc tác oxit kim loại (có trong khói, bụi nhà máy) hoặc ozon
tạo ra axit sunfuric H2SO4 và axit nitric HNO3.
2SO2 + O2 + 2H2O → 2H2SO4
2NO + O2 → 2NO2
4NO2 + O2 + 2H2 O → 4HNO3
Axit H2SO4 và HNO3 tan vào nước mưa tạo ra mưa axit. Vai trò chính của mưa axit
là H2SO4 còn HNO3 đóng vai trò thứ hai.
- Hiện nay mưa axit là nguồn ô nhiễm chính ở một số nơi trên thế giới. Mưa
axit làm mùa màng thất thu và phá hủy các công trình xây dựng, các tượng đài làm
từ đá cẩm thạch, đá vôi, đá phiến (các loại đá này thành phần chính là CaCO3):
CaCO3 + H2SO4 → CaSO4 + CO2↑ + H2O
CaCO3 + 2HNO3 → Ca(NO3)2 + CO2↑ + H2O
Áp dụng: Ngày nay hiện tượng mưa axit và những tác hại của nó đă gây nên những
hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt là ở những nước công nghiệp phát triển. Vấn đề ô
nhiễm môi trường luôn được cả thế giới quan tâm. Việt Nam chúng ta đang rất chú
trọng đến vấn đề này. Do vậy mà giáo viên phải cung cấp cho học sinh những hiểu
biết về hiện tượng mưa axit cũng
như tác hại của nó nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường. Cụ thể giáo viên có thể
đặt câu hỏi trên liên hệ tích hợp môi trường trong các bài :Hợp chất của Nitơ- Hóa
11, Hợp chất của Lưu huỳnh - Hóa 10.
Câu 3: Axit clohiđric có vai trò như thế nào đối với cơ thể ?
Giải thích: Axit clohiđric có vai trò rất quan trọng trong quá trình trao đổi chất của
cơ thể. Trong dịch dạ dày của người có axit clohiđric với nồng độ khoảng chừng
0,0001 đến 0,001 mol/l (có độ pH tương ứng với là 4 và 3). Ngoài việc hòa tan các
10
muối khó tan, nó còn là chất xúc tác cho các phản ứng phân hủy các chất gluxit
(chất đường, bột) và chất protein (đạm) thành các chất đơn giản hơn để cơ thể có thể
hấp thụ được.
Lượng axit trong dịch dạ dày nhỏ hơn hay lớn hơn mức bình thường đều gây
bệnh cho người. Khi trong dịch dạ dày có nồng độ axit nhỏ hơn 0,0001 mol/l
(pH>4,5) người ta mắc bệnh khó tiêu, ngược lại nồng độ axit lớn hơn 0,001 mol/l
(pH<3,5) người ta mắc bệnh ợ chua. Một số thuốc chữa đau dạ dày chứa muối
hiđrocacbonat NaHCO3 (còn gọi là thuốc muối) có tác dụng trung hòa bớt lượng
axit trong dạ dày.
NaHCO3 + HCl → NaCl + CO2 + H2O
Áp dụng: Nhu cầu ngày càng cao của con người kéo theo nhu cầu ăn uống ngày
càng đa dạng, phong phú. Vấn đề ăn uống ảnh hưởng dạ dày ngày càng tăng. Giáo
viên có thể đưa vấn đề này trong phần ứng dụng của axit clohiđric bài : Axit HCl và
muối clorua - Hóa 10
Câu 4: Vì sao không nên đổ nước vào axit sunfuric đậm đặc mà chỉ có thể đổ axit
sunfuric đậm đặc vào nước ?
Giải thích: Trong bất kì quuyển sách hóa học nào cũng ghi câu sau để cảnh báo bạn
đọc: “ Trong bất kì tình huống nào cũng không được đổ nước vào axit sunfuric đậm
đặc, mà chỉ được đổ từ từ axit sunfuric đặc vào nước”. Vì sao vậy ?
Khi axit sunfuric gặp nước thì lập tức sẽ có phản ứng hóa học xảy ra, đồng
thời sẽ tỏa ra một nhiệt lượng lớn. Axit sunfuric đặc giống như dầu và nặng hơn
trong nước. Nếu bạn cho nước vào axit, nước sẽ nổi trên bề mặt axit. Khi xảy ra
phản ứng hóa học, nước sôi mãnh liệt và bắn tung tóe gây nguy hiểm.
Trái lại khi bạn cho axit sunfuric vào nước thì tình hình sẽ khác: axit sunfuric
đặc nặng hơn nước, nếu cho từ từ axit vào nước, nó sẽ chìm xuống đáy nước, sau đó
phân bố đều trong toàn bộ dung dịch. Như vậy khi có phản ứng xảy ra, nhiệt lượng
11
sinh ra được phân bố đều trong dung dịch, nhiệt độ sẽ tăng từ từ không làm cho
nước sôi lên một cách quá nhanh.
Một chú ý thêm là khi pha loãng axit sunfuric bạn luôn luôn nhớ là “ phải đổ
từ từ ” axit vào nước và không nên pha trong các bình thủy tinh. Bởi vì thủy tinh sẽ
dễ vở khi tăng nhiệt độ khi pha.
Áp dụng: Vấn đề an toàn khi làm thí nghiệm được đặt lên hàng đầu trong những tiết
dạy có sử dụng hóa chất. Đặc biệt khi tiếp xúc với axit H2SO4 đặc thì rất nguy hiểm.
Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho học sinh trả lời về cách pha loãng axit H2SO4
khi dạy phần tính chất vật lí của axit sunfuric đặc trong Axit sunfuric - Hóa 10.
Câu 5: Vì sao khi ăn trái cây không nên đánh răng ngay ?
Giải thích: Vì chất chua (tức axit hữu cơ) có trong trái cây sẽ kết hợp với những
thành phần trong thuốc đánh răng theo bàn chảy sẽ tấn công các kẽ răng và gây tổn
thương cho lợi. Bởi vậy người ta đợi đến khi nước bọt trung hòa lượng axit trong
trái cây nhất là táo, cam, nho, chanh…
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần mở rộng tính chất hóa học của
axit khi tác dụng với bazơ tạo phản ứng trung hòa bài3:Axit, Bazơ, muối - Hóa 11
Câu 6: Vì sao nước rau muống đang xanh khi vắt chanh vào thì chuyển sang
màu đỏ ?
Giải thích: Có một số chất hóa học gọi là chất chỉ thị màu, chúng làm cho dung
dịch thay đổi khi độ axit thay đổi. Trong rau muống (và vài loại rau khác) có chất
chỉ thị màu này, trong chanh có 7% axit xitric. Vắt chanh vào nước rau làm thay đổi
độ axit, do đó làm thay đổi màu của nước rau. Khi chưa vắt chanh nước rau muống
màu xanh lét là chứa chất kiềm.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần mở rộng tính chất hóa học của
axit khi tác dụng với quỳ tím ở Tính chất của Axit ở Hóa 10. Hóa 11, Hóa hữu cơ 12
Câu 7: Vì sao bôi vôi vào chỗ ong, kiến đốt sẽ đỡ đau ?
12
Giải thích: Do trong nọc của ong, kiến, nhện (và một số con khác) có axit hữu cơ
tên là axit fomic (HCOOH). Vôi là chất bazơ nên trung hòa axit làm ta đỡ đau.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần mở rộng tính chất hóa học của
bazơ ở Bài :Tính chất hóa học của axit cacboxylic- Hóa 11.
Câu 8: Tại sao khi bôi vôi lên tường thì lát sau vôi khô và cứng lại ?
Giải thích: Vôi là canxi hiđroxit, là chất tan ít trong nước nên khi cho nước vào tạo
dung dịch trắng đục, khi tô lên tường thì Ca(OH)2 nhanh chống khô và cứng lại vì
tác dụng với CO2 trong không khí theo phương trình:
Ca(OH)2 + CO2 → CaCO3 ↓ + H2O ↑
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần mở rộng tính chất hóa học của
canxi hiđroxit ở Bài :Một số hợp chất quan trọng của kim loại kiềm thổ- Hóa 12.
Câu 9: Tại sao những người có thói quen ăn trầu thì luôn có lợi và hàm răng
chắc khỏe?
Giải thích: Trong miếng trầu có vôi Ca(OH)2 chứa Ca2+ và OH- làm cho quá trình
tạo men răng (Ca5(PO4)3OH) xảy ra thuận lợi:
5Ca2+ + 3PO43- + OH- € Ca5(PO4)3OH
Chính lớp men này chống lại sâu răng.
Câu 10: Tại sao ăn trầu phải có đủ cau, trầu và vôi, nhất là không thể thiếu vôi ?
Giải thích: Trong lá trầu có chứa tinh dầu, trong hạt cau có chứa một chất gọi là
arecolin, chất này có tính độc. Không có vôi miếng trầu không thể chuyển sang màu
đỏ, vôi là chất kiềm khi tác dụng với arecolin làm chất này chuyển thành arecaidin
không độc mà có tác dụng gây hưng phấn, ấm áp làm cho da mặt hồng hào, môi đỏ
thắm, chống cảm cúm, diệt khuẩn làm sạch miệng, làm chặt chân răng.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt 2 câu hỏi trên cho phần tích hợp bảo vệ sức khỏe ở
Bài Hợp chất quan trọng của kim loại kiềm thổ - Hóa 12...
13
Câu 11: Bột nở là chất gì mà có thể làm cho bánh to ra và xốp được ?
Giải thích: (NH4)2CO3 được dùng làm bột nở vì khi trộn thêm bột mì hoặc các bột
khác, lúc nướng bánh (NH4)2CO3 phân hủy thành các chất khí và hơi làm cho bánh
xốp và nở.
t
(NH4)2CO3
→ NH3 ↑ + CO2 ↑ + H2O ↑
0
Câu 12: Tại sao khi nấu nước giếng ở một số vùng, lâu ngày thấy xuất hiện lớp
cặn ở đáy ấm? Cách tẩy lớp cặn này như thế nào ?
Giải thích: Trong tự nhiên, nước ở một số vùng là nước cứng tạm thời - là nước có
chứa các muối axit như: Ca(HCO3)2 và Mg(HCO3)2.
Khi nấu nước lâu ngày thấy xảy ra phương trình hóa học:
Ca(HCO3)2 → CaCO3↓ + CO2↑ + H2O
Mg(HCO3)2 → MgCO3↓ + CO2↑ + H2O
Do CaCO3 và MgCO3 là chất kết tủa nên lâu ngày sẽ đóng cặn. Để tẩy lớp cặn này
thì dùng giấm (dung dịch CH3COOH 5%) cho vào ấm đun sôi để nguội khoảng một
đêm rồi rửa sạch.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần mở rộng bài : Nước cứng- Hóa
12). Mục
đích là cung cấp cho học sinh một số vấn đề có trong đời sống từ đó có thể giải thích
được
bản chất vấn đề nhằm kích thích sự hưng phấn trong học tập. Đây là hiện tượng mà
học sinh
có thể quan sát và thực hiện được dễ dàng.
Câu 13: Vì sao muối thô dễ bị chảy nước ?
Giải thích: Muối ăn có thành phần chính là natri clorua, ngoài ra còn có ít muối
khác như magie clorua …, Magie clorua rất ưa nước, nên nó hấp thụ nước trong
14
không khí và rất dễ tan trong nước. Muối sản xuất càng thô sơ thì càng dễ bị chảy
nước khi để ngoài không khí.
Câu 14: Muối ở biển có từ đâu ? Em hãy tìm xem nguồn gốc của muối có trong
nước biển?
Giải thích: Biển cả là quê hương của muối, trong đó NaCl chiếm 85%. Trong quá
trình lâu dài hình thành đại dương ban đầu đã hòa tan tất cả các loại muối khoáng.
Đồng thời nham thạch trong quá trình phong hóa (nham thạch bị tác động lâu ngày
của mưa, nắng, gió bão và vi sinh vật) đã không ngừng bị phân giải và sản sinh ra
các loại muối, sau đó theo các dòng sông để ra đại dương. Vậy sông ngòi, nham
thạch và các núi lửa dưới đáy biển chính là nguồn gốc cung cấp chủ yếu các loại
muối cho biển cả.
Câu 15: Tại sao người ta phải bỏ muối vào các thùng nước đá đựng kem que
hoặc trong các bể nước đông đặc nước đá ở các nhà máy sản xuất nước đá ?
Giải thích: Nhiệt độ của nước đá là 00C, nếu cho muối vào nhiệt độ sẽ giảm xuống
dưới 00C. Lợi dụng tính chất này để làm cho kem que hoặc nước nhanh đông thành
chất rắn.
Câu 16: Vì sao nước mắt lại mặn ?
Giải thích: Nước mắt mặn vì trong nước mắt có tới 6 gam muối. Nước mắt sinh ra
từ tuyến lệ nằm phía trên mi ngoài của nhãn cầu. Nước mắt có tác dụng bôi trơn
nhãn cầu làm cho nhãn cầu không bị khô, bị xước và vì có muối nên còn có tác dụng
hạn chế bớt sự phát triển của vi khuẩn trong mắt.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt 4 các câu hỏi trên cho phần liên hệ thực tế trong Axit,
Bazơ và muối - Hóa 11.
Câu 17: Tại sao phải ăn muối iot ?
Giải thích: Trong cơ thể con người có tồn tại một lượng iot tập trung ở tuyến giáp
trạng. Ở người trưởng thành lượng iot này khoảng 20-50mg. Hàng ngày ta phải bổ
sung lượng iot cần thiết cho cơ thể bằng cách ăn muối iot. Iôt có trong muối ăn dạng
15
KI và KIO3. Nếu lượng iot không cung cấp đủ thì sẽ dẫn đến tuyến giáp trạng sưng
to thành bướu cổ, nặng hơn là đần độn, vô sinh và các chứng bệnh khác.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên khi kết thúc Brom- Iot- Flo - Hóa 10
nhằm giúp cho học sinh hiểu được ích lợi của việc ăn muối iot và tuyên truyền cho
cộng đồng.
Câu 18: Người ta biết chất diệp lục trong cây xanh có công thức phân tử
C55H70O5N4Mg. Cây xanh tạo chất này nhờ CO2 (trong không khí), hiđro (từ nước
trong đất) và các chất vô cơ là nitơ, magie (từ đất lên). Khi cây bị vàng lá người
ta nghi là không đủ chất diệp lục. Vậy theo em nên bón loại phân nào giúp cây
tạo chất diệp lục hiệu quả nhất ?
Giải thích: Nên dùng phân đạm như phân magie sunfat và amoni sunfat (NH 4)2SO4
vì 2 loại phân này có Mg và N cung cấp cho cây.
Câu 19: Vì sao người ta dùng tro bếp để bón cho cây ?
Giải thích: Trong tro bếp có chứa muối K2CO3 cung cấp nguyên tố kali cho cây.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt 2 câu hỏi trên cho phần đặt vấn đề vào bài hoặc liên
hệ thực tế trong ở bài 11: PHÂN BÓN HÓA HỌC - Hóa 11
Câu 20: Tại sao khi nông nghiệp phát triển thì các vi khuẩn, nấm, giun tròn sống
trong đất, nước… giảm đi, nhiều nơi không còn nữa ?
Giải thích: Một số phân bón có thể tiêu diệt các loại sinh vật có hại này. Ví dụ
trước khi trồng khoai tây một tuần người ta đưa vào đất một lượng urê (1,5 kg/m 2)
thì các mầm bệnh bị tiêu diệt hoàn toàn. Hiện tượng dễ thấy là không còn đỉa trong
nước ở nhiều nơi như ngày trước nữa.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần tích hợp bảo vệ môi trường
trong bài 11: PHÂN BÓN HÓA HỌC - Hóa 11
Câu 21: Tại sao khi đi gần các sông, hồ bẩn vào ngày nắng nóng, người ta ngửi
thấy mùi khai ?
16
Giải thích: Khi nước sông, hồ bị ô nhiễm nặng bởi các chất hữu cơ giàu đạm như
nước tiểu, phân hữu cơ, rác thải hữu cơ… thì lượng urê trong các chất hữu cơ này
sinh ra nhiều. Dưới tác dụng của men ureaza của các vi sinh vật, urê bị phân hủy
tiếp thành CO2 và amoniac NH3 theo phản ứng:
(NH2)2CO + H2O
CO2 + 2NH3
NH3 sinh ra hòa tan trong nước sông, hồ dưới dạng một cân bằng động. Như vậy khi
trời nắng (nhiệt độ cao), NH3 sinh ra do các phản ứng phân hủy urê chứa trong nước
sẽ không hòa tan vào nước mà bị tách ra bay vào không khí làm cho không khí xung
quanh sông, hồ có mùi khai khó chịu.
Áp dụng: Đây là hiện tượng thường gặp quanh hồ, ao, nhất là vào mùa khô, nắng
nóng. Giáo viên có thể nêu vấn đề trong bài giảng bài 11: PHÂN BÓN HÓA HỌCHóa 11
II.2: Hệ thống các hiện tượng sử dụng trong những bài giảng: KIM LOẠI
Câu 1: Vì sao ở các cơ sở đóng tàu thường gắn một miếng kim loại Kẽm Zn ở
phía sau đuôi tàu ?
Giải thích: Thân tàu biển được chế tạo bằng gang thép. Gang thép là hợp kim của
sắt, cacbon và một số nguyên tố khác. Đi lại trên biển, thân tàu tiếp xúc thường
xuyên với nước biển là dung dịch chất điện li nên sắt bị ăn mòn, gây hư hỏng.
Để bảo vệ thân tàu thường áp dụng biện pháp sơn nhằm không cho gang thép
của thân tàu tiếp xúc trực tiếp với nước biển. Nhưng ở phía đuôi tàu, do tác động
của chân vịt, nước bị khuấy động mãnh liệt nên biện pháp sơn là chưa đủ. Do đó mà
phải gắn tấm kẽm vào đuôi tàu.
Khi đó sẽ xảy ra quá trình ăn mòn điện hóa. Kẽm là kim loại hoạt động hơn
sắt nên bị ăn mòn, còn sắt thì không bị mất mát gì.
17
Sau một thời gian miếng kẽm bị ăn mòn thì sẽ được thay thế theo định kỳ.
Việc này vừa đở tốn kém hơn nhiều so với sửa chữa thân tàu.
Áp dụng: Sự ăn mòn kim loại đặc biệt là ăn mòn điện hóa hàng năm gây tổn thất
thật nghiêm
trọng cho nền kinh tế quốc dân. Con người luôn cố gắng tìm ra những phương pháp
chống ăn mòn kim loại. Phương pháp điện hóa ( dùng Zn) để bảo vệ vỏ tàu biển như
trên rất hiệu quả và được ứng dụng rất rộng răi. Giáo viên có thể nêu vấn đề sau khi
dạy xong bài : ĂN MÒN KIM LOẠI- Hóa 12...để cho học sinh giải thích nhằm giúp
cho học sinh biết cách vận dụng kiến thức để giải thích hiện tượng trong cuộc sống.
Câu 2: Tại sao dùng đồ dùng bằng bạc đựng thức ăn, thức ăn lâu bị ôi ?
Giải thích: Khi bạc gặp nước sẽ có một lượng rất nhỏ đi vào nước thành ion. Ion
bạc có tác dụng diệt khuẩn rất mạnh. Chỉ cần 1/5 tỉ gam bạc trong một lít nước cũng
đủ diệt các vi khuẩn nên giữ cho thức ăn lâu ôi thiu.
Câu 3: Tại sao không thể dập tắt đám cháy của các kim loại: K, Na, Mg bằng khí
CO2 ?
Giải thích: Do các kim loại trên có tính khử mạnh nên vẫn cháy được trong khí
CO2 :
t
Mg + CO2
→ MgO + C
0
Câu 4: Sử dụng đồ dùng bằng nhôm có ảnh hưởng gì không ?
Giải thích: Nhôm là kim loại có hại cho cơ thể nhất là đối với người già. Bệnh lú
lẫn và các bệnh khác của người già, ngoài nguyên nhân do cơ thể bị lão hóa còn có
thể do sự đầu độc vô tình của các đồ nấu ăn, đồ dựng bằng nhôm. Tế bào thần kinh
trong não người già mắc bệnh nào có chứa rất nhiều ion nhôm Al 3+, nếu dùng đồ
nhôm trong một thời gian dài sẽ làm tăng cơ hội ion nhôm xâm nhập vào cơ thể, làm
nguy cơ đến toàn bộ hệ thống thần kinh não.
18
Sử dụng đồ nhôm phải biết cách bảo quản, không nên đựng thức ăn bằng đồ
nhôm hoặc không nên ăn thức ăn để trong đồ nhôm qua đêm, không nên dùng đồ
nhôm để đựng rau trộn trứng gà và giấm…
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt 3 câu hỏi trên cho phần mở rộng về tính chất khác
của một số kim loại trong bài Nhôm- Hóa 12
Câu 5: Giải thích hiện tượng: “ Một nồi nhôm mới mua về sáng lấp lánh bạc, chỉ
cần dùng nấu nước sôi, bên trong nồi nhôm, chỗ có nước biến thành màu xám
đen ?”
Giải thích: Mới xem thì có vẻ lạ vì nồi nhôm mới, ngoài nước ra thì không tiếp xúc
với gì khác, chẳng lẽ nước lại làm cho nồi đen ?
Bình thường trông bên ngoài nước không có vấn đề gì, thực tế trong nước có
hòa tan nhiều chất, thường gặp nhất là các muối canxi, magiê và sắt. Các nguồn
nước có thể chứa lượng muối sắt ít nhiều khác nhau, loại nước chứa nhiều sắt “ là
thủ phạm” làm cho nồi nhôm có màu đen.
Vì nhôm có tính khử mạnh hơn sắt nên nhôm sẽ đẩy sắt ra khỏi muối của nó
và thay thế ion sắt, còn ion sắt bị khử sẽ bám vào bề mặt nhôm, nồi nhôm sẽ bị đen:
Để hoàn thành được điều trên phải có 3 điều kiện: Lượng muối sắt trong nước phải
đủ lớn; Thời gian đun sôi phải đủ lâu; Nồi nhôm phải là nồi mới
Áp dụng: Giáo viên có thể nêu hiện tượng trên để dẫn nhập vào Nhôm- Hóa 12 Sau
đó học sinh dựa vào những kiến thức đã học để giải thích hiện tượng nồi nhôm bị
đen.
Câu 6: Tại sao khi đánh phèn chua vào nước thì nước lại trở nên trong ?
Giải thích: Công thức hóa học của phèn chua là muối sunfat kép của nhôm và kali ở
dạng tinh thể ngậm 24 phân tử nước: K 2SO4.Al2(SO4)324H2O. Do khi đánh phèn
trong nước phèn tan ra tạo kết tủa Al(OH) 3, chính kết tủa keo này đã dính kết các
hạt đất nhỏ lơ lửng trong nước đục thành các hạt đất to hơn, nặng và chìm xuống
làm nước trong. Nên trong dân gian có câu:
19
“ Anh đừng bắc bậc làm cao
Phèn chua em đánh nước nào cũng trong”
Phèn chua rất có ích cho việc xử lí nước đục ở các vùng lũ để có nước trong dùng
cho tắm, giặc. Vì cục phèn chua trong và sáng cho nên đông y còn gọi là minh phàn
( minh là trongtrắng, phàn là phèn).
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần liên hệ thực tế trong bài
NHÔM- Hóa 12
Câu 7: Tại sao những đồ dùng bằng sắt thường bị gỉ tạo thành gỉ sắt và dần dần
đồ vật không dùng được ?
Giải thích: Trong không khí có oxi, hơi nước và các chất khác. Do tác dụng nhiệt
độ cao của ánh nắng mặt trời, hơi nước, oxi và nước mưa (thường hòa tan khí CO 2
tạo môi trường axit yếu) có phản ứng với sắt tạo thành một số hợp chất của sắt
(Fe2O3) gọi là gỉ sắt. Gỉ sắt không còn tính cứng, ánh kim, dẻo của sắt mà xốp, giòn
nên làm đồ vật bị hỏng. Do đó để bảo vệ đồ dùng bằng sắt, người ta thường phủ lên
đồ vật bằng sắt một lớp sơn, kim loại khác để ngăn không cho sắt tiếp xúc với nước,
oxi không khí và một số chất khác trong môi trường.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần liên hệ thực tế trong bài 19:
SẮT hoặc dùng đặt vấn đề vào bài 19: SẮT hoặc dùng đặt vấn đề vào bài :Sắt và
hợp chất của sắt- Hóa 12..
Câu 8: Chảo, môi, dao đều được làm từ sắt. Vì sao chảo lại giòn ? môi lại dẻo ?
còn dao lại sắc ?
Giải thích: Chảo xào rau, môi và dao đều làm từ sắt. Thế nhưng loại sắt để chế tạo
chúng lại không giống nhau.
Sắt dùng để làm chảo là “gang”. Gang có tính chất là rất gịn. Trong công
nghiệp, người ta nấu chảy lỏng gang để đổ vào khuôn, gọi là “đúc gang”.
20
Môi múc canh được chế tạo bằng “thép non”. Thép non không gịn như gang.
Người ta thường dùng búa để rèn, biến thép thành các đồ vật có hh nh dạng khác
nhau.
Dao thái rau không chế tạo từ thép non mà bằng “thép”. Thép vừa dẻo vừa dát
mỏng được, có thể rèn, cắt gọt nên rất sắc.
Áp dụng: Vấn đề từ sắt có thể điều chế những vật dụng có chức năng khác nhau
được sử dụng rất rộng rãi trong cuộc sống. Giải thích được điều này đòi hỏi học sinh
phải biết được tính chất của sắt cũng như hợp kim của nó. Giáo viên có thể đặt câu
hỏi này vào bài bài HỢP KIM SẮT- Hoá 12
Câu 9: Xung quanh các nhà máy sản xuất gang, thép, phân lân, gạch ngói,…cây
cối thường ít xanh tươi, nguồn nước bị ô nhiễm. Điều đó giải thích như thế nào ?
Giải thích: Việc gây ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí là do nguồn chất thải
dưới dạng khí thải, nước thải, chất rắn thải…
- Những chất thải này có thể dưới dạng khí độc như: SO2, H2S, CO2, CO, HCl,
Cl2…có thể tác dụng trực tiếp hoặc là nguyên nhân gây mưa axit làm hại cho cây.
- Nguồn nước thải có chứa kim loại nặng, các gốc nitrat, clorua, sunfat…sẽ có
hại đối với sinh vật sống trong nước và thực vật.
- Những chất thải rắn như xỉ than và một số chất hóa học sẽ làm cho đất bị ô
nhiễm, không thuận lợi cho sự phát triển của cây.
Do đó để bảo vệ môi trường các nhà máy cần được xậy dựng theo chu trình khép
kín, đảm bảo khử được phần lớn chất độc hại trước khi thải ra môi trường.
Áp dụng: giáo viên có thể đặt câu hỏi này khi dạy xong phần sản xuất gang, thép để
tích hợp bảo vệ môi trường, giúp học sinh ý thức được việc bảo vệ môi trường ở bài
HỢP KIM SẮT- Hóa 12
Câu 10: “Hiệu ứng nhà kính” là gì?
21
Giải thích: Khí cacbonic CO2 trong khí quyển chỉ hấp thụ một phần những tia hồng
ngoại
(tức là những bức xạ nhiệt) của Mặt Trời và để cho những tia có bước sóng
từ 50000 đến 100000 Å đi qua dễ dàng đến mặt đất. Nhưng những bức xạ nhiệt phát
ra ngược lại từ mặt đất có bước sóng trên 140000 Å bị khí CO 2 hấp thụ mạnh và
phát trở lại Trái Đất làm cho Trái Đất ấm lên. Theo tính toán của các nhà khoa học
thì nếu hàm lượng CO2 trong khí quyển tăng lên gấp đôi so với hiện tại thì nhiệt độ
ở mặt đất tăng lên 4oC.
Về mặt hấp thụ bức xạ, lớp CO 2 ở trong khí quyển tương đương với lớp thủy tinh
của các nhà kính dùng để trồng cây, trồng hoa ở xứ lạnh. Do đó hiện tượng làm cho
Trái Đất ấm lên bởi khí CO2 được gọi là hiệu ứng nhà kính.
Áp dụng: Ngày nay hiện tượng “Hiệu ứng nhà kính” trở thành một vấn đề có ảnh
hưởng mang tính toàn cầu. Mục đích vấn đề giúp học sinh biết được nguyên nhân và
tác hại của hiệu ứng nhà kính nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường. Giáo viên
có thể đặt vấn đề này khi dạy tích hợp môi trường ở bài HỢP KIM SẮT- Hóa 12:
hoặc bài: OXIT CỦA CACBON – Hóa 11
II.3: Hệ thống các hiện tượng sử dụng trong những bài giảng Chương
III: PHI KIM
Câu 1:
Kho quặng lớn nhất thế giới chứa hầu hết các nguyên tố hóa học nằm ở đâu ?
Giải thích: Nằm ở đại dương ( nước biển) vì nước biển bay hơi liên tục, trở lại dưới
dạng mưa và mang theo chất tan. Nước chảy càng xa mới đến biển sẽ càng hòa tan
nhiều muối. Nước chảy từ những vùng khác nhau thì mang theo những nguyên tố
khác nhau đổ ra biển.
Bài : BẢNG TUẦN HOÀN CÁC NGUYÊN TỐ HÓA HỌC- Hóa 10
Câu 2: Tại sao nước máy thường dùng ở các thành phố lại có mùi khí clo ?
22
Giải thích: Trong hệ thống nước máy ở thành phố, người ta cho vào một lượng nhỏ
khí clo vào để có tác dụng diệt khuẩn. Một phần khí clo gây mùi và một phần tác
dụng với nước:
Cl2 + H2O
HCl + HClO
Axit hipoclorơ HClO sinh ra có tính oxi hóa rất mạnh nên có tác dụng khử trùng, sát
khuẩn nước. Phản ứng thuận nghịch nên clo rất dễ sinh ra do đó khi ta sử dụng nước
ngửi được mùi clo.
Áp dụng: Vấn đề này đang được sử dụng làm sạch nước hiện nay ở các nhà máy
nước cung cấp nước cho các thành phố, thị xă, thị trấn. Giải thích được hiện tượng
này giúp học sinh hiểu được vai trò và ứng dụng của clo trong cuộc sống mà học
sinh có thể kiểm nghiệm thật dể dàng. Giáo viên có thể đặt câu hỏi cho học sinh suy
nghĩ để trả lời trong phần ứng dụng của clo trong bài Clo- Hóa 10
Câu 3:Vì sao trước khi luộc rau muống cần cho thêm một ít muối ăn NaCl ?
Giải thích: Dưới áp suất khí quyển 1atm thì nước sôi ở 100 oC. Nếu cho thêm một ít
muối ăn vào nước thì nhiệt độ sôi cao hơn 100 oC. Khi đó luộc rau sẽ mau mềm,
xanh và chín nhanh hơn là luộc bằng nước không. Thời gian rau chín nhanh nên ít bị
mất vitamin.
Áp dụng: Đây là một vấn đề rất quen thuộc mà nếu không chú ý thì học sinh sẽ
không biết. Học sinh dễ dàng làm thí nghiệm ngay khi nấu ăn. Từ đó góp phần tạo
nên kinh nghiệm nấu ăn cho học sinh, rất thiết thực trong cuộc sống. Giáo viên có
thể nêu vấn đề trên sau khi kết thúc bài 26: Clo
Câu 4: Vì sao than chất thành đống lớn có thể tự bốc cháy ?
Giải thích: Do than tác dụng với O2 trong không khí tạo CO2, phản ứng này tỏa
nhiệt. Nếu than chất thành đống lớn phản ứng này diễn ra nhiều nhiệt tỏa ra được
tích góp dần khi đạt tới nhiệt độ cháy của than thì than sẽ tự bốc cháy.
Câu 5: Tại sao khi cơm bị khê, ông bà ta thường cho vào nồi cơm một mẫu than
củi ?
23
Giải thích: Do than củi xốp, có tính hấp phụ nên hấp phụ hơi khét của cơm làm cho
cơm đỡ mùi khê.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt 2 câu hỏi trên cho phần liên hệ thực tế trong bài :
CACBON- Hóa 11
Câu 6: Nước đá khô được làm từ cacbon đioxit hóa rắn. Tại sao nó có thể tạo
hơi lạnh được như nước đá ?
Giải thích: Vì cacbon đioxit ở dạng rắn khi bay hơi thu nhiệt rất lớn, làm hạ nhiệt
độ của môi trường xung quanh nên tạo hơi lạnh. Đặc biệt là nước đá khô (không độc
hại), được ứng dụng thích hợp để bảo quản những sản phẩm kỵ ẩm và dùng làm
lạnh đông thực phẩm. Dùng đá khô để làm lạnh và bảo quản gián tiếp các sản phẩm
có bao gói nhưng có thể dùng làm lạnh và bảo quản trực tiếp. Chính chất tác nhân
làm lạnh này (CO2) đã làm ức chế sự sống của vi sinh vật, giữ được vị ngọt - màu
sắc hoa quả. Đồng thời hạn chế được tổn hao khối lượng tự nhiên của sản phẩm do
sự bay hơi từ bề mặt sản phẩm và các quá trình lên men, phân hủy.
Áp dụng: Bảo quản thực phẩm bằng cồn khô là cách rất tốt hiện nay. Giáo viên có
thể hỏi học sinh về ứng dụng của CO 2 khi dạy phần tính chất vật lí của CO2 ở bài :
OXIT CỦA CACBON- Hóa 11
Câu 7: Vì sao khi mở bình nước ngọt có ga lại có nhiều bọt khí thoát ra ?
Giải thích: Nước ngọt không khác nước đường mấy chỉ có khác là có thêm khí
cacbonic CO2. Ở các nhà máy sản xuất nước ngọt, người ta dùng áp lực lớn để ép
CO2 hòa tan vào nước. Sau đó nạp vào bình và đóng kín lại thì thu được nước ngọt.
Khi bạn mở nắp bình, áp suất bên ngoài thấp nên CO 2 lập tức bay vào không
khí. Vì vậy các bọt khí thoát ra giống như lúc ta đun nước sôi. Về mùa hè người ta
thường thích uống nước ngọt ướp lạnh.
Khi ta uống nước ngọt vào dạ dày, dạ dày và ruột không hề hấp thụ khí CO2.
Ở trong dạ dày nhiệt độ cao nên CO2 nhanh chóng theo đường miệng thoát ra ngoài,
nhờ vậy nó mang đi bớt một nhiệt lượng trong cơ thể làm cho người ta có cảm giác
24
mát mẻ, dễ chịu. Ngoài ra CO2 có tác dụng kích thích nhẹ thành dạ dày, tăng cường
việc tiết dịch vị, giúp nhiều cho tiêu hóa.
Áp dụng: Hiện tượng có nhiều bọt khí thoát ra từ bình nước ngọt có ga hay chai bia
thì chắc hẳn học sinh nào cũng biết. Nhưng khi giải thích khí đó là khí gì và có công
dụng ra sao ,tại sao người ta đưa khí đó vào bình được ? thì học sinh không biết
được. Giáo viên có thể nêu câu hỏi trên khi dạy bài: OXIT CỦA CACBON – Hóa 11
Câu 8: Làm thế nào để biết dưới giếng có khí độc CO hoặc khí thiên nhiên CH 4
không có oxi để tránh khi xuống giếng bị chết ngạt ?
Giải thích: Trong các giếng sâu ở một số vùng đồng bằng thường có nhiều khí độc
CO và CH4 và thiếu oxi. Vì một lí do nào đó mà ta xuống giếng thì rất nguy hiểm.
Đã có rất nhiều trường hợp tử vong do trèo xuống giếng gặp nhiều khí độc và chết
ngạt do thiếu oxi. Điều tốt nhất là tránh phải xuống giếng, nếu có xuống thì nên
mang theo bình thở oxi.
Trước khi xuống giếng cần thử xem trong giếng có nhiều khí độc hay không
bằng cách cột một con vật như gà, vịt rồi thả xuống giếng. Nếu gà, vịt chết thì
chứng tỏ dưới giếng có nhiều khí độc.
Áp dụng: Đây là hiện tượng hay xảy ra vào mùa khô. Mọi người không hề biết được
sự nguy hiểm khi xuống giếng sâu. Thực tế là đã có nhiều cái chết thương tâm xảy
ra mà báo đài đã nêu trong thời gian qua. Giáo viên cần đưa vào bài giảng để nhắc
nhở học sinh và mọi người. Vấn đề này có thể xen vào bài : OXIT CỦA CACBONHóa 11
Câu 9: Hiện tượng tạo hang động và thạch nhũ ở vườn quốc gia Phong Nha –
Kẻ Bàng với những hình dạng phong phú được hình thành như thế nào ?
Giải thích: Ở các vùng núi đá vôi, thành phần chủ yếu là CaCO 3. Khi trời mưa
trong không khí có CO2 tạo thành môi trường axit nên làm tan được đá vôi. Những
giọt mưa rơi xuống sẽ bào mòn đá thành những hình dạng đa dạng:
CaCO3 + CO2 + H2O → Ca(HCO3)2
25