Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Skkn vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy tác phẩm chiếc thuyền ngoài xa của nguyễn minh châu trong chương trình ngữ văn 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.89 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
Nội dung
I. Mở đầu
II. Giải quết vấn đề
1. Cơ sở lí luận của vấn đề…………………………………………...
2. Thực trạng vấn đề…………………………………………………
3. Giải quyết vấn đề………………………………………………….
3.1. Lí luận về phương pháp dạy học tích cực……………………….
3.2. Một số phương pháp dạy học tích cực…………………………..
3.3. Giáo án thực nghiệm…………………………………………….
4. Kết quả…………………………………………………………….
III. Kết luận

Trang
1
1
1
3
4
4
5
9
17
18

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Việc đổi mới phương pháp dạy và học văn theo hướng tích cực đòi hỏi
người giáo viên không ngừng tìm tòi suy ngẫm để định hướng bài giảng làm sao
đạt hiệu quả tốt nhất nhằm đáp ứng những yêu cầu thực tế. Vấn đề dạy văn, học
1



văn vẫn đang là đề tài nóng bỏng của dư luận xã hội. Hàng năm sau mỗi kì thi
tốt nghiệp THPT và ĐH-CĐ, ta lại bắt gặp những bài văn ngây ngô, hẹp nghĩa,
ngôn từ chưa đúng với phong cách ngôn ngữ nghệ thuật,... Đó là một thực trạng
đau lòng khiến những nhà giáo, cụ thể là những giáo viên giảng dạy bộ môn
Ngữ văn không khỏi suy nghĩ, trăn trở.
Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu mở ra
nhiều chiều suy ngẫm và nhận thức, nào là mối quan hệ giữa nghệ thuật với
cuộc sống, nào là vấn đề dân số ở vùng sâu vùng xa, nào là nạn bạo hành nhức
nhối trong các gia đình hiện nay, nào là luật pháp khô cứng với thực tế cuộc
sống muôn màu,… Sự cam chịu nhẫn nhục với thái độ thản nhiên đến mức khó
hiểu của nhân vật người đàn bà với những lời trần tình mộc mạc của người phụ
nữ ấy nơi Tòa án huyện trong khi ai cũng tin rằng cuộc đời chị chắc chắn chẳng
bao giờ có được một ngày vui, ấy mà: “Có chứ…vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn
con tôi chúng nó được ăn no” (Chiếc thuyền ngoài xa- Nguyễn Minh Châu, Ngữ
văn 12 tập II, Nhà xuất bản giáo dục, trang 76) để rồi ánh mắt chị sáng lên khi
nói câu đó thì ta lại cảm thấy xúc động.
Từ những khám phá, phát hiện vẻ đẹp phẩm chất – thứ “chất ngọc tâm hồn”
bên trong cái vẻ ngoài xù xì gai góc của các nhân vật trong tác phẩm, tôi đã đạt
được một số hiệu quả nhất định khi giảng dạy truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài
xa của Nguyễn Minh Châu có vận dụng phương pháp dạy học tích cực, lấy học
sinh làm trung tâm. Đó là lí do tôi chọn đề tài sáng kiến “Vận dụng phương
pháp dạy học tích cực vào giảng dạy tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của
Nguyễn Minh Châu trong chương trình Ngữ văn 12”.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận của vấn đề
Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu lí luận văn học, phê bình văn học nhận
định, trong đó có M. Gor-ki:“Văn học là nhân học”. Văn là người. Vậy, dạy học
văn đề làm gì? Câu hỏi tưởng như đơn giản ấy đã dày vò bao thế hệ thầy cô giáo
dạy văn ở nhiều đất nước. Trước đến nay trong nhận thức người ta dễ dàng trả

lời là để giáo dục, để mở rộng tâm hồn học sinh, để mở rộng những nhận thức về
2


xã hội và thực hiện những mục đíc này, mục đích khác của hoạt động chính trị,
rồi nhận thức cái đẹp của con người, của chế độ,… Dạy học văn có mở rộng vốn
từ phát triển ngôn ngữ nhưng không phải là mục đích chính. Điều đáng chú ý là
mọi chức năng phong phú và đa dạng của văn chương đều quay quanh và thông
qua chức năng nhận thức cái đẹp. Cái đẹp trong nghệ thuật được xây dựng chấm
phá bằng chất liệu ngôn ngữ luôn luôn phát triển theo mỗi điều kiện của thời đại,
khách quan, chủ quan của mỗi người đọc.
Tác phẩm văn học là những gì gắn với với cuộc sống của con người, đặc
biệt là thế giới tinh thần. Từ thời phong kiến, Nguyễn Trãi - một anh hùng dân
tộc, nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn hóa lớn của nước ta thế kỉ XV đã bộc bạch
với vua Lê Thái Tông khi nhà vua cử ông định ra lễ nhạc cho triều đình mà theo
“gốc của nhạc” chính là “làm sao cho muôn dân” tận nơi “trong thôn cùng xóm
vắng không có một tiếng hờn giận oán sầu”. Môn văn đã góp phần quan trọng
hình thành trong tâm hồn người công dân trẻ những hình ảnh: dân tộc, đất nước,
tiếng mẹ đẻ, lòng nhân ái, trí tuệ của nhân loại,…
Nam Cao - nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại,
nhưng từ trước Cách mạng tháng Tám, trong truyện ngắn Giăng sáng ông đã
khẳng định: “Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng
lừa dối… nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm
than…”. Qua cái đẹp của nghệ thuật văn học, hình ảnh con người với tất cả mọi
quyền sống của nó lung linh hấp dẫn, người đọc đi tới chiến đấu giữ gìn vẻ đẹp
trong sáng của tâm linh và hình thể con người lao động, đấu tranh cho tự do, hòa
bình, bình đẳng.
Khi bàn về văn học, nhà thơ cách mạng Tố Hữu đã từng suy ngẫm: “Văn
chương không chỉ là chuyện văn chương mà thực chất là cuộc đời. Văn học se
chẳng là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là

nơi đi tới của văn học”. Bởi thế quan niệm “Nghệ thuật vị nhân sinh” như sợi
chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch sử sáng tác của nền văn học dân tộc.
Trong công cuộc đổi mới văn học sau 1975, truyện ngắn Chiếc thuyền
ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu càng thấm đẫm trang đời. Giúp người
3


đọc hiểu được giá trị của nghệ thuật, giá trị của cuộc sống và qua đó trân trọng
cuộc sống dù nó có nghiệt ngã, có phũ phàng.
2. Thực trạng vấn đề
Khoa học hiện đại cho rằng “Đáp số của một bài toán là quan trọng. Nhưng
quan trọng hơn cả đáp số là những con đường đi tới đáp số” Để đi đến một sự
kích thích có hiệu quả, để cho người đọc có khát vọng đi tìm “những con đường
tới đáp số” người dạy học phải đặt học sinh vào trong sự tương tá của những quy
luật xã hội và tự nhiên mà nó ra đời và đang tồn tại.
Giảng dạy trong nhà trường phổ thông nói chung, môn Ngữ văn nói riêng,
nhiệm vụ của người thầy không chỉ truyền đạt kiến thức mà thông qua những tác
phẩm văn học còn dạy các em cách sống, quan điểm sống, kĩ năng sống, cách
làm người. Phải gắn việc giảng dạy tác phẩm trong nhà trường với thực tế đời
sống thì việc học văn không còn là áp lực nặng nề, khô khan và se giảm bớt tình
trạng học sinh quay lưng lại với bộ môn Ngữ văn như thực trạng những năm gần
đây.
Để nâng cao chất lượng bộ môn, năm học 2013-2014 nhóm chuyên môn
Văn - Sử trường THPT số 2 Bảo Yên đã tích sinh hoạt chuyên môn theo nghiên
cứu bài học để tìm ra phương pháp dạy học hiệu quả, đào sâu những đơn vị kiến
thức mới, khó và tìm ra phương pháp dạy học hiệu quả giúp học sinh hiểu bài,
có hứng thú với môn học. Chúng ta tìm đến tác phẩm văn chương là giúp học
sinh thấy được các nhân vật cũng gần gũi, thân thuộc như hơi thở, như khí trời,
như bản thân các em đã bắt gặp, đã nhìn thấy đâu đó ngay trong cuộc sống của
chính mình. Bởi vậy, dạy học phải gắn việc giảng dạy tác phẩm văn học trong

nhà trường với thực tế đời sống vừa giúp học sinh tiếp cận bài học một cách nhẹ
nhàng vừa khắc sâu được kiến thức để làm tốt bài văn nghị luận văn học. Đồng
thời vừa bổ sung những thông tin cần thiết qua những ví dụ thực tế gọi là
phương pháp tích hợp để giúp các em vận dụng kiến thức vào bài văn nghị luận
văn học, nghị luận xã hội.
Đối tượng chung của văn học là cuộc đời, trong đó con người luôn giữ vị trí
trung tâm. Các nhân vật - cụ thể là gia đình người đàn bà hàng chài trong truyện
4


ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu là những con người như
thế. Và thông qua các nhân vật của mình, nhà văn muốn đưa đến cho người đọc
suy nghĩ chân thành mà hiện thực, cụ thể mà tinh tế. Thông qua nhân vật, nhà
văn muốn khẳng định vẻ đẹp của con người không phải ở vẻ bề ngoài xấu xí, thô
kệch kia mà là ở bản chất bên trong tiềm ẩn ở mỗi người, chúng ta phải tìm hiểu,
khám phá để thấy vẻ đẹp khuất lấp của con người ấy đặc biệt là người phụ nữ.
3. Giải quyết vấn đề
3.1. Lí luận về phương pháp dạy học tích cực
Phương pháp dạy học tích cực (PPDH tích cực) là một thuật ngữ rút gọn,
được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo
hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
"Tích cực" trong PPDH - tích cực được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ
động, trái nghĩa với không hoạt động, thụ động chứ không dùng theo nghĩa trái
với tiêu cực.
PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận
thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học
chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên
để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy
theo phương pháp thụ động.
Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách

học, nhưng ngược lại thói quen học tập của trò cũng ảnh hưởng tới cách dạy của
thầy. Chẳng hạn, có trường hợp học sinh đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt động
nhưng giáo viên chưa đáp ứng được, hoặc có trường hợp giáo viên hăng hái áp
dụng PPDH tích cực nhưng không thành công vì học sinh chưa thích ứng, vẫn
quen với lối học tập thụ động. Vì vậy, giáo viên phải kiên trì dùng cách dạy hoạt
động để dần dần xây dựng cho học sinh phương pháp học tập chủ động một cách
vừa sức, từ thấp lên cao. Trong đổi mới phương pháp dạy học phải có sự hợp tác
cả của thầy và trò, sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động dạy với hoạt động học thì
mới thành công. Như vậy, việc dùng thuật ngữ "Dạy và học tích cực" để phân
biệt với "Dạy và học thụ động".
5


3.2 Một số phương pháp dạy học tích cực
3.2.1. Phương pháp gợi mở - vấn đáp
- Là quá trình tương tác giữa giáo viên và học sinh được thực hiện qua hệ thống
câu hỏi và câu trả lời tương ứng về một chủ đề nhất định.
- Giáo viên không trực tiếp đưa ra những kiến thức hoàn chỉnh mà hướng dẫn
học sinh tư duy từng bước để tìm ra kiến thức mới
- Căn cứ vào tính chất hoạt động nhận thức, người ta phân biệt các loại phương
pháp vấn đáp:
+ Vấn đáp tái hiện: giáo viên đặt câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh nhớ lại kiến thức
đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ, không cần suy luận. Vấn đáp tái hiện không
được xem là phương pháp có giá trị sư phạm. Đó là biện pháp được dùng khi
cần đặt mối liên hệ giữa các kiến thức vừa mới học.
+ Vấn đáp giải thích – minh hoạ: Nhằm mục đích làm sáng tỏ một đề tài nào đó,
giáo viên lần lượt nêu ra những câu hỏi kèm theo những ví dụ minh hoạ để học
sinh dễ hiểu, dễ nhớ. Phương pháp này đặc biệt có hiệu quả khi có sự hỗ trợ của
các phương tiện nghe – nhìn.
- Ví dụ minh họa:

Khi dạy bài “Chiếc thuyền ngoài xa” (Tiết 1) để hướng dẫn học sinh tìm
hiểu về tình huống truyện, giáo viên xây dựng hệ thống câu hỏi như sau:
+ Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” xoay quanh những sự kiện nào?
+ Sự kiện ấy tác động đến tâm lí các nhân vật như thế nào?
+ Tại sao hình ảnh người phụ nữ bị chồng đánh kia lại là sự quan tâm đặc biệt
của người nghệ sĩ Phùng?
+ Em nhận xét gì về tình huống truyện trong truyện ngắn?
+ Ý nghĩa của tình huống truyện trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”?
3.2.2. Phương pháp dạy học giải quyết vấn đề
- Vấn đề là những câu hỏi hay nhiệm vụ đặt ra mà việc giải quyết chúng chưa có
quy luật sẵn cũng như những tri thức, kỹ năng sẵn có chưa đủ giải quyết mà còn
khó khăn, cản trở cần vượt qua.
6


- Một vấn đề được đặc trưng bởi ba thành phần:



Trạng thái xuất phát: không mong muốn



Trạng thái đích: Trạng thái mong muốn



Sự cản trở

- Tình huống có vấn đề xuất hiện khi một cá nhân đứng trước một mục đích

muốn đạt tới, nhận biết một nhiệm vụ cần giải quyết nhưng chưa biết bằng cách
nào, chưa đủ phương tiện (tri thức, kỹ năng…) để giải quyết.
- Ví dụ minh họa: Khi dạy bài “Chiếc thuyền ngoài xa”, giáo viên nêu vấn đề:
Theo em, nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn này đáng thương
hay đáng trách? Vì sao?
Với câu hỏi này, học sinh dựa vào hiểu biết của mình trả lời theo ý hiểu,
nêu được quan điểm của người viết về nhân vật và lí giải được vì sao.
3.2.3. Phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ
- Lớp học được chia thành từng nhóm nhỏ từ 4 đến 6 người. Tuỳ mục đích, yêu
cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hay có chủ định,
được duy trì ổn định hay thay đổi trong từng phần của tiết học, được giao cùng
một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau.
- Quy trình thực hiện
Bước 1: Làm việc chung cả lớp:
- Nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức.
- Tổ chức các nhóm, giao nhiệm vụ cho các nhóm.
- Hướng dẫn cách làm việc theo nhóm.
Bước 2: Làm việc theo nhóm
- Phân công trong nhóm, từng cá nhân làm việc độc lập.
- Trao đổi ý kiến, thảo luận trong nhóm.
- Cử đại diện trình bày kết quả làm việc của nhóm.
Bước 3: Thảo luận, tổng kết trước toàn lớp
- Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả.
7


- Thảo luận chung.
- Giáo viên tổng kết, đặt vấn đề cho bài tiếp theo hoặc vấn đề tiếp theo.
- Ví dụ minh họa:
Khi dạy bài «Chiếc thuyền ngoài xa », giáo viên chia nhóm cho học sinh

tìm hiểu hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài:
* Nhóm 1: Tìm hiểu hoàn cảnh, lai lịch của người đàn bà hàng chài.
* Nhóm 2: Tìm hiểu số phận, tính cách của người đàn bàn hàng chài.
* Nhóm 3: Tìm hiểu phẩm chất của người đàn bà hàng chài.
* Nhóm 4: Tìm hiểu những đặc sắc nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện
ngắn Chiếc thuyền ngoài xa.
Mỗi nhóm một nhiệm vụ tìm hiểu, sau đó các nhóm ghi lại và cử đại diện
báo cáo những nội dung vừa tìm hiểu. Các nhóm còn lại nhận xét, bổ sung
những nội dung còn thiếu và hoàn chỉnh thành dàn bài làm văn.
3.2.4. Phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy
a. Khái niệm
Theo Tony Buzan, người đầu tiên tìm hiểu và sáng tạo ra bản đồ tư duy
thì bản đồ tư duy là một hình thức ghi chép sử dụng màu sắc và hình ảnh để mở
rộng và đào sâu các ý tưởng. Ở giữa bản đồ là một ý tưởng hay một hình ảnh
trung tâm. Ý tưởng hay hình ảnh trung tâm này se được phát triển bằng các
nhánh tượng trưng cho các ý chính và đều được nối với các ý trung tâm. Với
phương thức tiến dần từ trung tâm ra xung quanh, bản đồ tư duy khiến tư duy
con người cũng phải hoạt động tương tự. Từ đó các ý tưởng của con người se
phát triển.
b. Phương thức tạo lập
- Bước 1: Ve chủ đề ở trung tâm trên một mảnh giấy (đặt nằm ngang)
+ Người ve se bắt đầu từ trung tâm với hình ảnh của chủ đề. Hình ảnh có
thể thay thế cho cả ngàn từ và giúp chúng ta sử dụng tốt hơn trí tưởng tượng của
mình. Sau đó có thể bổ sung từ ngữ vào hình ve chủ đề nếu chủ đề không rõ
ràng.

8


+ Nên sử dụng màu sắc vì màu sắc có tác dụng kích thích não như hình

ảnh.
+ Có thể dùng từ khóa, kí hiệu, câu danh ngôn, câu nói nào đó gợi ấn
tượng sâu sắc về chủ đề.
- Bước 2: Ve thêm các tiêu đề phụ vào chủ đề trung tâm
+ Tiêu đề phụ có thể viết bằng chữ in hoa nằm trên các nhánh to để làm
nổi bật.
+ Tiêu đề phụ được gắn với trung tâm.
+ Tiêu đề phụ nên được ve chéo góc để nhiều nhánh phụ khác có thể
được ve tỏa ra một cách dễ dàng.
- Bước 3: Trong từng tiêu đề phụ ve thêm các ý chính và các chi tiết hỗ
trợ.
+ Khi ve các ý chính và các chi tiết hỗ trợ chỉ nên tận dụng các từ khóa và
hình ảnh.
+ Nên dùng những biểu tượng, cách viết tắt để tiết kiệm không gian ve và
thời gian.
+ Mỗi từ khóa, hình ảnh nên được ve trên một đoạn gấp khúc riêng trên
nhánh. Trên mỗi khúc nên chỉ có tối đa một từ khóa.
+ Sau đó nối các nhánh chính cấp 1 đến hình ảnh trung tâm, nối các
nhánh cấp 2 đến các nhánh cấp 1, nối các nhánh cấp 3 đến các nhánh cấp 2…
bằng đường kẻ. Các đường kẻ càng ở gần trung tâm thì càng được tô đậm hơn.
+ Nên dùng các đường kẻ cong thay vì các đường kẻ thẳng vì đường kẻ
cong được tổ chức rõ ràng se thu hút được sự chú ý của mắt nhiều hơn.
+ Tất cả các nhánh tỏa ra cùng một điểm nên có cùng một màu. Chúng ta
thay đổi màu sắc khi đi từ ý chính ra đến các ý phụ cụ thể hơn.
- Bước 4: Người viết có thể thêm nhiều hình ảnh nhằm giúp các ý quan
trọng thêm nổi bật cũng như giúp lưu chúng vào trí nhớ tốt hơn.
3.3. Giáo án thực nghiệm
Minh họa giáo án Chiếc thuyền ngoài xa (tiết 1 và 2) như sau:
9



Ngày dạy: 14/2/2014
Tiết 70 +71:
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
Nguyễn Minh Châu
I. Mục tiêu bài học:
1. Kiến thức:
- Nắm được những nét khái quát về tác giả, tác phẩm
- Hiểu sâu sắc nội dung và nghệ thuật tác phẩm:
+ Suy nghĩ của nghệ sĩ nhiếp ảnh khi phát hiện ra mâu thuẫn éo le trong nghề
nghiệp của mình: mâu thuẫn giữa vẻ đẹp nghệ thuật và hiện thực cuộc sống của
một gia đình hàng chài.
+ Nghệ thuật kết cấu độc đáo, cách triển khai cốt truyện, khắc họa nhân vật.
2. Kĩ năng:
- Cảm nhận, đánh giá về cuộc sống con người, về giá trị tác phẩm.
- Phân tích nhân vật, phân tích các khía cạnh nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.
3. Thái độ: Thấu hiểu được: Mỗi con người trong cuộc đời nhất là người nghệ sĩ
không thể đơn giản, sơ lược khi nhìn nhận cuộc sống và con người.
4. GD kĩ năng sống: Kĩ năng nhìn nhận thấu đáo vấn đề, không thể nhìn nhận,
đánh giá vấn đề một chiều.
II. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh
- GV: Tìm hiểu những sách tham khảo có liên quan đến tác phẩm.
- HS: Chuẩn bị kĩ bài ở nhà theo hệ thống câu hỏi sgk.
III. Tiến trình tổ chức các hoạt động dạy và học
1. Ổn định lớp
2. Kiểm tra bài cũ: Tác phẩm những đứa con trong gia đình - Nguyễn Thi.
- Câu hỏi cho Hs yếu, Tb: Nêu ý nghĩa nhan đề truyện Những đứa con trong gia
đình?
- Câu hỏi cho Hs khá, giỏi: Truyền thống gia đình người nông dân Nam Bộ
trong tác phẩm được thể hiện như thế nào qua hai nhân vật Việt và Chiến?

3. Bài mới:
10


HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS
NỘI DUNG CẦN ĐẠT
* Hoạt động 1: Tổ chức tìm hiểu chung
- Mục tiêu: H nắm được những nét khái quát về tác giả và tác phẩm.
- PPDH: Phương pháp gợi mở - vấn đáp.
- Thời gian: 8p
I. Tìm hiểu chung:
1. Tác giả
- Nguyễn Minh Châu (1930- 1989) quê
Quỳnh Lưu- Nghệ An.
- 1950 ông gia nhập quân đội, từ đó
ông chiến đấu và đóng góp nhiều cho
nền văn nghệ quân đội.
- Các tác phẩm chính:SGK
- Tư duy nghệ thuật: Trước 1975 tập
trung vào đề tài người lính, sau 1975
ông khai thác sự thật đời sống ở bình
-HS hoạt động cá nhân, tìm ý trả lời.
diện đạo đức, thế sự. Ông được coi là
1 Hs Tb trình bày -> Gv định hướng, một trong những cây bút tiên phong
nhấn mạnh một số thông tin liên quan của Việt Nam thời kì đổi mới.
đến tác giả, đồng thời ghi nhanh - Năm 2000 ông được tặng giải thưởng
những ý quan trọng trên bảng.
Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
GV: Yêu cầu học sinh dựa vào sgk tìm
ý trả lời các câu hỏi về tác giả:

CH1: Cuộc đời của Nguyễn Minh
Châu có những sự kiện chính nào?
Các tác phẩm chính của ông.
CH2: Tư duy nghệ thuật của Nguyễn
Minh Châu trước và sau 1975 có gì
khác biệt?

GV : Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa
được ra đời trong hoàn cảnh nào? Vị
trí của tác phẩm trong sự nghiệp của
tác giả?
Hs tìm ý nhanh, trả lời -> Gv chốt ý cơ
bản.

2. Tác phẩm:
- Tác phẩm tiêu biểu cho những đổi
mới của Nguyễn Minh Châu, mang
đậm phong cách tự sự và triết lí.
- Sáng tác 1983, kể lại chuyến đi thực
tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh và những
chiêm nghiệm sâu sắc của ông về nghệ
thuật và cuộc đời.

* Hoạt động 2: Đọc văn bản:
- Mục tiêu: H tóm tắt được văn bản
- Thời gian: 15p
- Gv hướng dẫn học sinh đọc văn bản, II: Đọc văn bản:
HS đọc một số đoạn.
1. Đọc.
- Hs tóm tắt: 2 học sinh Tb tóm tắt.

2. Tóm tắt.
- Lần lượt các học sinh khá nêu và bổ
sung các sự kiện chính theo diễn biến
cốt truyện, sắp xếp lại cho hợp lí.
-GV nhận xét chung và đinh hướng
11


các ý chính.
* Hoạt động 3: Đọc- hiểu văn bản
- Mục tiêu: H khai thác được văn bản để thấy được những giá trị nổi bật về nội
dung và nghệ thuật như mục tiêu bài đã đưa
- Phương pháp: nêu vấn đề, gợi mở - vấn đáp, phương pháp giải quyết vấn đề.
- Thời gian: 15p.
III. Đọc- hiểu văn bản:
1. Ý nghĩa nhan đề.
Chiếc truyền ngoài xa:
- Gv gợi ý một số ý cơ bản về nhan đề, + Nghĩa đen: con thuyền có thật trong
yêu cầu học sinh suy nghĩ về ý nghĩa cuộc đời.
của nhan đề truyện.
+ Nghĩa biểu trưng:
2 học sinh giỏi trình bày ý hiểu về * Là biểu thượng của nghệ thuật, ẩn dụ
nhan đề -> Gv nhận xét, định hướng cho cuộc sống , cho kiếp người đơn độc
kết luận nhanh các đơn vị kiến thức.
trên đại dương.
* Thể hiện suy nghĩ về cái đẹp nghệ
thuật:dễ phát hiện.
* Phản ánh tư tưởng của tác giả: cái
đẹp không chỉ có ở cảnh vật mà phải
quan tâm đến cuộc sống, đến con

người.
GV tổ chức cho HS Tìm hiểu tình 2. Tình huống truyện: Phát hiện của
huống truyện thông qua hai phát người nghệ sĩ nhiếp ảnh:
hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh a. Phát hiện thứ nhất về khung cảnh
qua hệ thống câu hỏi gợi mở: Phát thiên nhiên hoàn mĩ:
hiện thứ nhất:
- Để có tấm lịch nghệ thuật về thuyền
+ GV nêu câu hỏi:
và biển theo yêu cầu của trưởng phòng,
1. Nghệ sĩ phát hiện ra điều gì trong Phùng đã tới một vùng biển từng là
buổi sáng tinh sương? Cảnh được chiến trường cũ của anh.
miêu tả thế nào?
- Phùng đã dự tính bố cục, đã “phục
2. Vì sao Phùng gọi đây là một “cảnh kích” mấy buổi sáng để chụp được một
đắt trời cho”?
cảnh thật ưng ý.
+ Hs suy nghĩ, tìm những chi tiết trong - Người nghệ sĩ đã phát hiện ra một vẻ
sgk phần đầu văn bản để trả lời:
đẹp trên mặt biển mờ sương, như “một
bức tranh mực tàu của một danh hoạ
+ “Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè thời cổ”:
nhoè vào bầu sương mù màu trắng
sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh
mặt trời chiếu vào”
+ “Vài bóng người lớn lẫn trẻ con
ngồi im phăng phắt như tượng trên
chiếc mui khum khum, đang hướng
mặt vào bờ”
 Cảnh “đắt” trời cho, vẻ đẹp mà cả
+ “toàn bộ khung cảnh từ đường nét đời anh chỉ có diễm phúc bắt gặp được

12


đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp”,
“một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn
bích”
1 hs Tb trả lời câu 1; 1 Hs khá, giỏi trả
lời câu 2
Gv nhận xét, kết luận kiến thức.
+ GV: Người nghệ sĩ đã có những cảm
nhận gì khi được chiêm ngưỡng bức
ảnh nghệ thuật của tạo hoá?
1 Hs Tb trả lời nhanh câu hỏi -> Gv
chốt kiến thức:
+ “bối rối”, cảm thấy “trong trái tim
như có cái gì bóp thắt vào”
+ “khám phá thấy cái chân lí của sự
toàn diện, khám phá cái khoảnh khắc
trong ngần của tâm hồn…”, “phát
hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo
đức”.

một lần.
- Tâm trạng, cảm nhận của người
nghệ sĩ: bối rối, thấy chân lí của sự
toàn thiện.

 hạnh phúc chất ngất, cảm nhận được
cái Thiện, cái Mĩ của cuộc đời, cảm
thấy tâm hồn mình như được thanh lọc,

trở nên trong trẻo, tinh khiết.

+ GV: Vì sao trong lúc cảm nhận vẻ
đẹp của bức tranh, anh lại nghĩ đến
câu nói: “bản thân cái đẹp chính là
đạo đức”?
- HS: Lần lượt đưa ý kiến trả lời 2 học
sinh Khá, Giỏi nhận xét, bổ sung.
- GV: Nhận xét, tích hợp giáo dục
thẩm mĩ: Vẻ đẹp con người không
phải ở hình thức mà chính là ở tâm
hồn con người.
4. Tổng kết và HDHT:
- G nhấn mạnh lại các kiến thức cần nắm vững trong tiết học; H nêu ấn
tượng với tác phẩm.
- G dặn dò H chuẩn bị bài mới: Tiết tiếp theo của tác phẩm:
+ Đọc kĩ các phần văn bản còn lại.
+ Phân tích phát hiện thứ hai, ý nghĩa của các phát hiện và câu chuyện của
người đàn bà ở tòa án huyện.Ngày dạy

Ngày dạy: 18/2/2014
Tiết 71: CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
(Tiếp)
13

Nguyễn Minh Châu


1. Ổn định lớp:
2. Kiểm tra bài cũ: Câu hỏi:

- Câu hỏi dành cho Hs Tb, Yếu: Nêu tình huống truyện trong tác phẩm?
- Câu hỏi dành cho hs khá, giỏi: Cảm nhận của em về phát hiện thứ nhất của
nghệ sĩ Phùng?
3. Bài mới:
HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ
NỘI DUNG CẦN ĐẠT
HS
* HĐ3: Đọc - hiểu văn bản (Tiếp theo):
- Mục tiêu: Học sinh nắm được phát hiện thứ 2 của người nghệ sĩ, phân tích
được nhân vật người đàn bà hàng chài.
- Phương pháp: nêu vấn đề, gợi mở - vấn đáp, phương pháp giải quyết vấn
đề; phương pháp thảo luận nhóm.
- Thời gian: 35’.
III. Đọc- hiểu văn bản:
2. Tình huống truyện:Hai phát hiện của
người nghệ sĩ nhiếp ảnh:
GV nêu vấn đề và đặt câu hỏi
b. Phát hiện thứ hai về hiện thực nghiệt
để H phát hiện và khai thác kiến ngã của con người:
thức về phát hiện thứ hai của
- Phùng đã chứng kiến cảnh tượng: một
nghệ sĩ phùng và ý nghĩa của người đàn ông đánh vợ dã man với điểm nhìn
hai phát hiện.
gần, trực diện, rõ nét.
+ GV: Người nghệ sĩ đã kinh - Cảnh chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ ><
ngạc phát hiện được điều gì khi gia đình thuyền chài:
thuyền cập bến?
+ Từ chiếc thuyền bước ra một người đàn
1 Hs Yếu, 1 Hs Tb trả lời.
bà: khắc khổ, xấu xí, mệt mỏi và chỉ biết

“cam chịu đầy nhẫn nhục”.
+ Lão đàn ông: thô kệch, dữ dằn, độc ác,
quật tới tấp vào lưng vợ như một cách để giải
toả uất ức, khổ đau.
+ Thằng bé Phác: “như một viên đạn trên
đường lao tới đích” nhảy xổ vào gã đàn ông,
đánh lại cha vì thương mẹ.
- Thái độ của người nghệ sĩ:
+ “Chết lặng”, không tin vào những gì đang
diễn ra trước mắt: “kinh ngạc đến mức, trong
+ GV: Vì sao anh lại kinh ngạc mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà
khi chứng kiến cảnh tượng trên? nhìn”
Hs suy nghĩ, trả lời nhanh câu  Anh không ngờ đằng sau cái vẻ đẹp của
hỏi.
tạo hoá lại có cái xấu, cái ác đến mức không
1 học sinh khá, Giỏi trả lời.
thể tin được
+ Không thể chịu được khi thấy cảnh ấy,
Phùng đã “vứt chiếc máy ảnh xuống đất, chạy
nhào tới”
 Bản chất của người lính khiến anh không
14


+ GV: Qua hai phát hiện của
nghệ sĩ Phùng, Nguyễn Minh
Châu muốn người đọc nhận
thức được điều gì về cuộc đời?
+ HS: suy nghĩ tìm ý trả lời.
- GV định hướng, nhận xét và

điều chỉnh, nhấn mạnh ý cơ
bản.

GV tổ chức cho HS tìm hiểu
Câu chuyện của người đàn bà
hàng chài ở toà án huyện qua
hệ thống câu hỏi:
- Giáo viên chia nhóm (4 nhóm)
cho học sinh tìm hiểu hình
tượng nhân vật người đàn bà
hàng chài:
* Nhóm 1: Tìm hiểu hoàn cảnh,
lai lịch của người đàn bà hàng
chài.
* Nhóm 2: Tìm hiểu số phận,
tính cách của người đàn bàn
hàng chài.
* Nhóm 3: Tìm hiểu phẩm chất
của người đàn bà hàng chài.
* Nhóm 4: Tìm hiểu những đặc
sắc nghệ thuật xây dựng nhân
vật trong truyện ngắn Chiếc
thuyền ngoài xa.
- Hs thảo luận trong 6 phút tìm
ý, trả lời câu hỏi vào bảng phụ
- Đại diện học sinh trình bày ->
Cho các nhóm nhận xét, rút
kinh nghiệm.
- Gv nhận xét, đưa ra ý kết luận.


thể làm ngơ trước sự bạo hành.
c. Ý nghĩa của hai phát hiện:
- Đằng sau cái đẹp "toàn bích, toàn thiện" mà
anh vừa bắt gặp trên mặt biển ngoài xa kia, lại
chẳng phải là đạo đức, là chân lí. Anh cay
đắng nhận ra những ngang trái, xấu xa, những
bi kịch của cuộc sống.
- Cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều,
không phải bao giờ cũng đẹp, mà chứa đựng
nhiều nghịch lí, mâu thuẫn giữa cái đẹp - xấu,
thiện - ác.
- Người nghệ sĩ phải tìm hiểu cuộc đời trong
mối quan hệ đa chiều, không thể đánh giá con
người và cuộc sống ở dáng vẻ bên ngoài mà
phải đi sâu tìm hiểu, phát hiện bản chất bên
trong.
3. Người đàn bà hàng chài và câu chuyện
đời tự kể:
- Tên gọi: “Người đàn bà”, “chị ta”, “mụ” ->
cách gọi phiếm định -> giống như bao người
phụ nữ ở miền biển: vô danh, nhỏ bé.
- Hoàn cảnh, lai lịch:
+ Người vùng biển, sống bằng nghề chài
lưới.
+ Nghèo, đông con, chồng vũ phu, cả gia
đình sống trên một chiếc thuyền.
-> Cuộc sống nghèo khổ, lam lũ, đầy bất trắc.
- Ngoại hình:
+ Trạc 40t, cao lớn, khuôn mặt tái ngắt mệt
mỏi.

+ Áo bạc phếch, rách rưới, nửa người dưới
ướt sũng…
-> Nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho
diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.
- Số phận: đau khổ cả về vật chất lẫn tinh
thần; một số phận bất hạnh, cay đắng: Dường
như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả
lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải
thường xuyên chịu những trận đòn roi của
người chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho
các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ...
+ Từ nhỏ đã là một đứa con gái xấu xí, rỗ
mặt.
+ Có mang với một anh hàng chài rồi thành
15


vợ chồng. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực
nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh.
+ Gia đình nghèo lại đông con, thuyền chật
+ Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ:
3 ngày một trận nhẹ, 5 ngày một trận nặng,
với lời le cay độc…
=> Số phận đầy bi kịch được tác giả tái hiện
đầy cảm thông và chia sẻ.
- Phẩm chất, tính cách:
+ Giàu lòng yêu thương, coi trọng hạnh
phúc gia đình và hết lòng vì con cái: Chị
cam chịu vì tình thương con vô bờ bến. "Đàn
bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con,

ko thể sống cho mình như trên đất được".
+ Người đàn bà vị tha, có tâm hồn sâu sắc,
thấu hiểu lẽ đời, có cái nhìn toàn diện với
cuộc sống:
> Thái độ, hành động khi được mời tới toà
án:
/ Sợ sệt, lúng túng, tìm đến một góc
tường để ngồi.
/ Rón rén ngồi ghé vào chiếc ghế mà
Đẩu mời.
/ Van xin chính quyền đừng bắt chị bỏ
người chồng vũ phu.
> Cách xưng hô: con, quý toà -> chị, các chú
=> thay đổi tương quan: bị động, yếu thế ->
chủ động, bình đẳng => con người có hiểu
biết nói với người đang lắng nghe.
+ Sống âm thầm, kín đáo, giàu lòng tự
trọng:
> Âm thầm chịu đựng việc chồng đánh
đập, hành hạ; đến khi con lớn thì xin chồng
mang lên bờ đánh, đừng đánh trước mặt
những đứa con.
> Đau đớn, xấu hổ, nhục nhã khi thấy con
chứng kiến cảnh bố đánh đạp, hành hạ mẹ.
> Đau đớn, xấu hổ khi bị người khác
(Phùng) chứng kiến cảnh chồng đánh đập.
Tóm lại: Nhân vật có sự đối lập giữa vẻ bên
ngoài và tâm hồn bên trong:
+ Người đàn bà thất học nhưng rất hiểu cuộc
đời: hiểu thiên chức làm mẹ, hiểu nỗi khốn

khổ và sự bế tắc của người chồng.
+ Giàu đức hy sinh, giàu lòng vị tha, nhân
16


hậu – chắt chiu hạnh phúc đời thường – nhìn
đời một cách sâu sắc .
+ Thấp thoáng vẻ đẹp truyền thống của
người phụ nữ VN trong quá khứ
=> Qua câu chuyện trên, nhà văn gửi đến
người đọc thông điệp: đừng nhìn cuộc đời và
con người một cách đơn giản, phiến diện, mà
phải đánh giá sự vật, hiện tượng, con người
+ GV: Tổng kết, khắc sâu, GD trong các mối quan hệ đa chiều.
tích hợp cho Hs: Qua câu
chuyện của người đàn bà, ta
càng thấy rõ: Không thể dễ dãi,
đơn giản trong việc nhìn nhận
mọi sự vật, hiện tượng của cuộc
sống, không thể có cái nhìn một
chiều, phiến diện với con người
và cuộc sống. Đây cũng ;là nét
mới trong văn xuôi sau năm
1975 mà NMC chính là vị "khai
quốc công thần của triều đại
văn học mới".
4. Tổng kết và hướng dẫn học bài:
- Tích hợp giáo dục kĩ năng sống: GV cho HS liên hệ thực tế về việc nhìn nhận,
đánh giá mọi sự vật trong cuộc sống: mọi sự vật hiện tượng không hề đoan giản,
mỗi chúng ta cần nhìn nhận sự việc theo cảm nhận từ nhiều chiều, đánh giá sự

vật sung các sự vật hiện tượng khác.
- Tác phẩm thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa cuộc sống với nghệ thuật. Cái đẹp
là bản thân của cuộc sống, là bản thân của đạo đức. Qua đó, rút ra được bài học
đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người.
- Xây dựng hình ảnh giàu giá trị biểu tượng.
- Nghệ thuật tự sự độc đáo thể hiện ở: Điểm nhìn trần thuật, ngôn ngữ đa dạng,
ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật được cá thể hóa.
- Hs hệ thống hóa kiến thức về tác phẩm theo sơ đồ:

17


Chiếc thuyền ngoài xa

Tác giả

Tác phẩm

Ý nghĩa nhan đề

Tình huống truyện
Vẻ đẹp của bức tranh
thiên nhiên toàn mĩ

Nhân vật người đàn bà
hàng chài

Hiện thực nghiệt ngã của
cuộc sống
Nghệ thuật


Ý nghĩa của văn bản

4. Kết quả
Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu khi được đưa vào
chương trình Ngữ văn 12, đã được thử thách trong kì thi tốt nghiệp THPT với
câu hỏi 2 điểm (tái hiện kiến thức). Tuy nhiên, dù ra đề dạng nào thì tác phẩm
cũng được lưu ý cho bài viết số 6 trong phân phối chương trình.
Năm học 2012-2013 với đề bài: “Cảm nhận của anh/chị vể nhân vật người
đàn bà hàng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh
Châu”. Kết quả bài làm đạt trung bình trở lên ở lớp 12A1 là 85.8%, 12A5 là
87.5%, 12A6 là 95,2%.
Đề văn nghị luận xã hội vận dụng tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa trong
bài số 6 vừa qua như sau: “Qua câu chuyện về người đàn bà hàng chài trong tác
phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, anh/chị có suy nghĩ gì
về nạn bạo hành trong gia đình những vùng quê nghèo hiện nay?”. Kết quả đạt
được ở tổng cả ba lớp là 85,7% trên trung bình.
Từ một vấn đề được đặt ra trong tác phẩm văn chương, dẫn dắt để ra đề
nghị luận xã hội cũng là cách thức gián tiếp cho học sinh nhận thấy thực chất
văn chương cũng là cuộc đời. Từ đó học sinh hiểu rộng hơn những vấn đề nhân
bản của cuộc đời, sự tương đồng giữa văn chương nghệ thuật và cuộc đời.

18


III. KẾT LUẬN
Sau khi áp dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy tác phẩm
Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, với cách triển khai cấu trúc bài
giảng trên đây tôi đã thu được những kết quả nhất định, đặc biệt là cách hướng
dẫn học sinh khám phá những đặc điểm tính cách của nhân vật vừa phát huy

được khả năng độc lập suy nghĩ, khả năng tư duy sáng tạo của các em, tránh tình
trạng giáo viên áp đặt và học sinh học theo một cách máy móc. Mặt khác, cách
khai thác kiểu này se giúp các em nhớ kĩ, nhớ sâu tác phẩm. Qua những vấn đề
mang tính chất xã hội đặt ra trong tác phẩm, giúp các em nhận thức bản chất của
sự việc, biết xử lý trước những tình huống có thể xảy ra không ở đâu xa mà có
thể ngay trong gia đình của chính các em.
Chiếc thuyền ngoài xa là một tác phẩm còn nhiều suy nghĩ, cảm nhận, trải
nghiệm mới có thể hiểu hết vấn đề. Tôi hi vọng bài viết này se có ích cho đồng
nghiệp trong việc tham khảo để soạn giảng tác phẩm thuận lợi hơn. Đây chỉ là
những suy nghĩ, định hướng của cá nhân nên chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Tôi
mong các đồng nghiệp góp ý, trình bày quan điểm, cách cảm nhận của mình về
tác phẩm để chúng ta được trao đổi học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau nhằm không
ngừng nâng cao chất lượng dạy và học, đặc biệt đáp ứng yêu cầu đổi mới môn
thi Ngữ văn THPT theo hướng đọc hiểu.

19


20



×