Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

SKKN sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học vật lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 28 trang )

Phần 1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Quá trình đổi mới toàn diện trên nhiều lĩnh vực của giáo dục phổ thông mà
tâm điểm là đổi mới chương trình giáo dục để đáp ứng yêu cầu xây dựng đạt được
mục tiêu việc “dạy chữ, dạy người, dạy nghề”, định hướng nghề nghiệp cho học
sinh (HS) trong hoàn cảnh mới của xã hội Việt Nam hiện đại. Trọng tâm của đổi
mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông là tập trung đổi mới
phương pháp dạy học, thực hiện dạy học dựa vào hoạt động tích cực, chủ
động, sáng tạo của HS với sự tổ chức và hướng dẫn thích hợp của giáo viên
(GV), nhằm phát triển tư duy độc lập, góp phần hình thành phương pháp và nhu
cầu, khả năng tự học, tự bồi dưỡng hứng thú học tập, tạo niềm tin và vui thích
trong học hành.
2. Lí do chọn đề tài
Để thực hiện mục tiêu và nội dung dạy học, vấn đề đổi mới phương pháp
dạy học theo triết lý lấy người học làm trung tâm được đặt ra một cách bức thiết.
Bản chất của dạy học lấy người học làm trung tâm là phát huy cao độ tính tự giác,
tích cực, độc lập, sáng tạo của người học.
Để làm được điều đó thì vấn đề đầu tiên mà người GV cần nhận thức rõ ràng
là quy luật nhận thức của người học. Người học là chủ thể hoạt động chiếm lĩnh tri
thức, kĩ năng, kĩ xảo và thái độ chứ không phải là “cái bình chứa kiến thức” một
cách thụ động.
Trong thực tế hiện nay, còn nhiều HS học tập một cách thụ động, chỉ đơn
thuần là nhớ kiến thức một cách máy móc mà chưa rèn luyện kĩ năng tư duy. HS
chỉ học bài nào biết bài đấy, cô lập nội dung của các môn, phân môn mà chưa có
sự liên hệ kiến thức với nhau vì vậy mà chưa phát triển được tư duy logic và tư duy
hệ thống. Sử dụng bản đồ tư duy (SĐTD) giúp các em giải quyết được các vấn đề
trên và nâng cao hiệu quả học tập.
Từ những lí do trên, tôi hình thành ý tưởng đó là ứng dụng SĐTD trong các
nội dung bài học để có thể phát huy tối đa năng lực của mỗi cá nhân cũng như hiệu

5




quả học tập. Vì vậy tôi lựa chọn đề tài “Sử dụng SĐTD trong dạy học Vật lý”
trong các tiết dạy của mình nhằm nâng cao kết quả dạy-học.
3. Phạm vi và đối tượng áp dụng đề tài
- Đề tài này được viết trong quá trình tôi dạy học, rút ra một số kinh nghiệm
từ công tác giảng dạy tại trường Trung học phổ thông (THPT). Đối tượng được áp
dụng trong đề tài này rất rộng rãi, từ HS trung bình khá đến đối tượng HS giỏi các
lớp, vì đây là phương pháp dạy - học. Tuỳ theo đối tượng của HS mà việc tổ chức,
hướng dẫn, giao việc tìm ra kiến thức mới cho phù hợp, giúp các em hứng thú học
tập hơn khi học thực nghiệm với đề tài này.
4. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm tâm lí của HS THPT, khả năng tư duy
logic, khả năng ghi nhớ, phương pháp học bài thật tốt,… mà đề ra các biện pháp tổ
chức dạy và học nhằm phát triển sự ghi nhớ, vận dụng kiến thức cho HS.
- Giúp cho các em hiểu một cách sâu sắc hơn về khả năng ghi nhớ của bản
thân, đồng thời tìm ra phương pháp dạy và học thích hợp với chương trình học
hiện nay, phù hợp với xu hướng học tập ngày càng đổi mới và nâng cao chất lượng
của HS trong tương lai.
5. Các phương pháp nghiên cứu
- Phân tích – tổng hợp
- Đối chiếu – so sánh
- Khảo sát thực tế
- So sánh
- Phương pháp định tính
- Phương pháp định lượng
6. Điểm mới, tính sáng tạo của đề tài
- Đề tài áp dụng kinh nghiệm giảng dạy, ứng dụng công nghệ thông tin trong
hoạt động dạy và học ở trường THPT.
- Kết hợp với các phương tiện dạy học truyền thống, phương tiện hiện đại

cho hiệu quả rõ rệt. Đây là một chủ đề rất mới trong những năm học gần đây.

6


- HS hứng thú học tập, công tác giảng dạy, giáo dục của GV trở nên nhẹ
nhàng hơn vì phần chủ yếu hướng dẫn cho HS tìm ra kiến thức.
- Đề tài có thể áp dụng cho nhiều đối tượng, áp dụng rộng rãi cho nhiều
công việc (học tập, lập kế hoạch, …)
Từ những điểm nêu trên bản thân tôi khẳng định đề tài có tính khoa học và
thực tiễn cao:
Ý nghĩa khoa học:
Đề tài được thực hiện nhằm nâng cao nghệ thuật dạy học, cũng như phát huy
tính sáng tạo trong việc dạy và học. Kết quả của đề tài sẽ góp phần phát triển tư
duy của GV và HS .
Ý nghĩa thực tiễn:
Góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Vật lý nói riêng và các môn
học khác nói chung. Đề tài cũng góp phần phát huy tính chủ động, tích cực, sáng
tạo trong học tập của người học.

7


Phần 2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1. Sơ đồ tư duy
SĐTD là hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và đào
sâu các ý tưởng. SĐTD một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu tả nó
là một kĩ thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu
sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não, giúp con người

khai thác tiềm năng vô tận của bộ não.
Cơ chế hoạt động của SĐTD chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng
lưới liên tưởng (các nhánh). SĐTD là công cụ đồ họa nối các hình ảnh có liên hệ
với nhau vì vậy có thể vận dụng SĐTD vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố
kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương,... và
giúp cán bộ quản lí giáo dục lập kế hoạch công tác.
SĐTD giúp HS học được phương pháp học: Việc rèn luyện phương pháp
học tập cho HS không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là
mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số HS học rất chăm chỉ nhưng vẫn học
kém, nhất là môn Vật lý nói riêng và môn Khoa học Tự nhiên nói chung, các em
này thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần trước và không
biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó
vào những phần sau. Phần lớn số HS này khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp
không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ
của mình. Sử dụng thành thạo SĐTD trong dạy học HS sẽ học được phương pháp
học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
SĐTD giúp HS học tập một cách tích cực. Một số kết quả nghiên cứu cho
thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự
suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình vì vậy việc sử dụng SĐTD giúp HS
học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não.
Việc HS tự vẽ SĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của HS,
phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của HS, các em tự do chọn màu sắc (xanh,
8


đỏ, vàng, tím,…), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong…), các em tự “sáng tác” nên
trên mỗi SĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng HS và
SĐTD do các em tự thiết kế nên các em yêu quí, trân trọng “tác phẩm” của mình.
SĐTD giúp HS ghi chép có hiệu quả. Do đặc điểm của SĐTD nên người
thiết kế SĐTD phải chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp xếp, bố cục để “ghi” thông tin

cần thiết nhất và lôgic, vì vậy, sử dụng SĐTD sẽ giúp HS dần dần hình thành cách
ghi chép có hiệu quả.
Tác giả Stella Cottrell đã tổng kết cách “ghi chép” có hiệu quả trên SĐTD:
1. Dùng từ khóa và ý chính
2. Viết cụm từ, không viết thành câu
3. Dùng các từ viết tắt
4. Có tiêu đề
5. Đánh số các ý
6. Liên kết ý nên dùng nét đứt, mũi tên, số, màu sắc,…
7. Ghi chép nguồn gốc thông tin để có thể tra cứu lại dễ dàng
8. Sử dụng màu sắc để ghi.
Sử dụng SĐTD giúp GV chủ nhiệm, cán bộ quản lí nhà trường lập kế
hoạch công tác và có cái nhìn tổng quát toàn bộ kế hoạch từ chỉ tiêu, phương
hướng, biện pháp,…và dễ theo dõi quá trình thực hiện đồng thời có thể bổ sung
thêm các chỉ tiêu, biện pháp,…một cách rất dễ dàng so với việc viết kế hoạch theo
cách thông thường thành các dòng chữ.
2.1.2. Những kinh nghiệm khi lập SĐTD
* Các bước lập SĐTD
- Bước 1: Vẽ chủ đề ở trung tâm trên một mảnh giấy (đặt nằm ngang)
+ Chúng ta sẽ bắt đầu từ trung tâm với hình ảnh của chủ đề. Hình ảnh có thể
thay thế cho cả ngàn từ và giúp chúng ta sử dụng tốt hơn trí tưởng tượng của mình.
Sau đó có thể bổ sung từ ngữ vào hình vẽ chủ đề nếu chủ đề không rõ ràng.
+ Sử dụng màu sắc vì màu sắc có tác dụng kích thích não như hình ảnh, đặc
biệt là các màu sắc bản thân yêu thích.

9


+ Có thể dùng từ khóa, kí hiệu, câu danh ngôn, câu nói nào đó gợi ấn tượng
sâu sắc về chủ đề.

+ Không nên đóng khung hoặc che chắn mất hình vẽ chủ đề vì chủ đề cần
được làm nổi bật dễ nhớ
+ Chủ đề phải đủ to, rõ, nổi bật trọng tâm cần ghi nhớ.
- Bước 2: Vẽ thêm các tiêu đề phụ vào chủ đề trung tâm
+ Tiêu đề phụ có thể viết bằng chữ in hoa nằm trên các nhánh to để làm nổi
bật.
+ Tiêu đề phụ được gắn với trung tâm.
+ Tiêu đề phụ nên được vẽ chéo góc để nhiều nhánh phụ khác có thể được
vẽ tỏa ra một cách dễ dàng.
- Bước 3: Trong từng tiêu đề phụ vẽ thêm các ý chính và các chi tiết hỗ trợ
+ Khi vẽ các ý chính và các chi tiết hỗ trợ nên tận dụng các từ khóa và hình ảnh.
+ Nên dùng những biểu tượng, cách viết tắt để tiết kiệm không gian vẽ và
thời gian. Mọi người ai cũng có cách viết tắt riêng cho những từ thông dụng. Bạn
hãy phát huy và sáng tạo thêm nhiều cách viết tắt riêng.
+ Mỗi từ khóa, hình ảnh nên được vẽ trên một đoạn gấp khúc riêng trên
nhánh. Trên mỗi khúc chỉ nên có tối đa một cụm từ khóa.
+ Sau đó nối các nhánh chính cấp 1 đến hình ảnh trung tâm, nối các nhánh
cấp 2 đến các nhánh cấp 1, nối các nhánh cấp 3 đến các nhánh cấp 2…bằng đường
kẻ. Các đường kẻ càng ở gần trung tâm thì càng được tô đậm hơn.
+ Nên dùng các đường kẻ cong thay vì các đường kẻ thẳng vì đường kẻ cong
được tổ chức rõ ràng sẽ thu hút được sự chú ý của mắt nhiều hơn.
+ Tất cả các nhánh tỏa ra cùng một điểm nên có cùng một màu. Chúng ta
thay đổi màu sắc khi đi từ ý chính ra đến các ý phụ cụ thể hơn.
- Bước 4: Người viết có thể thêm nhiều hình ảnh nhằm giúp các ý quan
trọng thêm nổi bật cũng như giúp lưu chúng vào trí nhớ tốt hơn. Kiểm tra lại
SĐTD đã hoàn thành và diễn đạt, trình bày được các ý tưởng về kiến thức đã tạo lập.
* Phân loại SĐTD
- SĐTD theo đề cương.
10



- SĐTD theo chương.
- SĐTD theo đoạn văn.
* Ưu điểm của SĐTD
- Dễ nắm được trọng tâm của vấn đề .
- Đỡ tốn thời gian ghi chép hơn so với kiểu ghi chép cũ.
- Cải thiện sức sáng tạo và trí nhớ, nắm bắt cơ hội khám phá tìm hiểu.
- Hoàn thiện bộ não, tiếp thu linh hoạt và hiệu quả.
- Giúp người học tự tin hơn vào khả năng của mình.
- Trong giảng dạy và học tập: tạo hứng thú cho HS, GV tiết kiệm thời gian
soạn giáo án, HS hiểu và nhớ lâu vấn đề hơn....
2.2. Thực trạng của vấn đề
2.2.1. Thuận lợi
- Đây là phương pháp học tập mới thoải mái, vui vẻ và sáng tạo, thú vị ….
- Đây là xu thế chung của giáo dục Việt Nam nên đựơc sự ủng hộ từ các cấp,
xã hội, phụ huynh, HS…
- Chương trình môn Vật lý THPT có nhiều nội dung phù hợp với phương
pháp giảng dạy dùng SĐTD phát huy hiệu quả cao khi giáo viên tổ chức cho HS
lĩnh hội kiến thức
- Về cơ sở vật chất đã có một số đổi mới tạo điều kiện cho hoạt động học
tập: phòng công nghệ thông tin, đèn chiếu, bảng phụ…
- GV được đào tạo và tập huấn đổi mới phương pháp dạy học về sử dụng
SĐTD trong giảng dạy.
- Xã hội hiện nay tạo điều kiện cho con người (GV và HS) có điều kiện tiếp
cận nhiều nguồn thông tin từ nhiều phương tiện khác nhau.
- Phương pháp sử dụng SĐTD trong dạy học các kiểu bài phù hợp tâm sinh
lý lứa tuổi HS, khắc phục được sự nhàm chán của phương pháp dạy học truyền
thống. Vì vậy, gây hứng thú cho người học, kích thích HS tư duy tích cực.
2.2.2. Khó khăn


11


- Đây là phương pháp dạy học mới nên GV và HS không tránh khỏi lúng
túng trong một số kĩ năng như sử dụng lúc nào, như thế nào, sưu tầm, xử lý thông
tin, vẽ, ý tưởng…
- Nội dung môn Vật lý THPT, đặc biệt là Vật lý lớp 12 mới, khô, khó, trừu
tượng … nên GV khó dạy, HS khó học.
- Đòi hỏi GV phải có nhiều kĩ năng khác ngoài kĩ năng sư phạm.
- GV khó khăn trong việc đánh giá cụ thể hiệu quả làm việc của từng HS.
- Cơ sở vật chất có đổi mới nhưng chưa thực sự phù hợp: Số HS, không gian
lớp học, trang thiết bị, đồ dung dạy học, thời gian tiết học…
- Năng lực HS không đồng đều nên đôi khi việc vẽ SĐTD trong học tập là
sự máy móc không hiệu quả.
- Quan niệm của xã hội, gia đình, và đặc biệt là HS đối với bộ môn này đôi
khi còn lệch lạc: chưa đầu tư, dành sự quan tâm, chưa chú ý, xem thường hoặc học
cho xong.
2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
Là người GV trước tiên cần phải nắm vững chủ trương đối mới giáo dục phổ
thông thể hiện ở chương trình sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy, việc sử
dụng các phương tiện dạy học, các hình thức tổ chức dạy học phải phù hợp, thích
ứng với từng hoạt động giúp HS tích cực trong tìm tòi, tiếp thu lĩnh hội kiến thức.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, phải nhấn mạnh rằng SĐTD là một công cụ
phối hợp các phương pháp khác đã thực hiện thêm phần hiệu quả, không phải
là một giải pháp có thể thay thế tất cả các phương pháp khác. Vì vậy, tôi đã
đưa ra và áp dụng nhiều giải pháp có hiệu quả nhưng trọng tâm là sử dụng SĐTD;
với kinh nghiệm dưới đây để thực hiện cho các mục tiêu của từng phần có sự phối
kết hợp của nhiều phương pháp trên cơ sở phân tích những tồn tại và đưa ra những
lí luận, giải pháp, cách làm cùng thực hiện theo tôi là có hiệu quả nhất cho các
phần của bài học, các kiểu bài khác nhau.

2.3.1. Sử dụng SĐTD trong việc kiểm tra kiến thức cũ
* Việc chuẩn bị cho kiểm tra miệng:

12


- Công việc chuẩn bị trước hết là phải xác đinh thật chính xác cần kiểm tra
những gì. GV cần xác định được mức độ tối thiểu kiến thức và kĩ năng mà HS đã
thu nhận được trong quá trình học tập. Câu hỏi đặt ra cho HS phải chính xác, rõ để
HS không hiểu thành hai nghĩa khác nhau dẫn đến việc trả lời lạc đề.
- GV phải thiết kế lại các yêu cầu, bài tập trong sách giáo khoa hay ra các
bài tập tương tự để tránh việc các em sử dụng sự hướng dẫn trong các sách học tốt,
sách bài tập nhằm đối phó với GV
* Những yêu cầu sư phạm về cách tổ chức kiểm tra miệng:
- Tạo điều kiện thuận lợi để HS có thể bộc lộ một cách tự nhiên đầy đủ nhất
những hiểu biết của các em
- Dựa vào những câu trả lời miệng và hoạt động thực hành của HS mà phát
hiện được tình trạng thật của kiến thức và kĩ năng của các em
- Thái độ và cách đối xử của GV với HS có ý nghĩa to lớn trong khi kiểm tra
miệng. GV cần biết lắng nghe câu trả lời, biết theo dõi hoạt động của HS và trên cơ
sở đó rút ra kết luận về tình trạng kiến thức của HS. Sự hiểu biết của GV về cá tính
HS, sự tế nhị và nhạy cảm sư phạm trong nhiều trường hợp là những yếu tố cơ bản
giúp thấy rõ thực chất trình độ kiến thức và kĩ năng của HS được kiểm tra.
- Trong quá trình HS đang trả lời câu hỏi có thiếu sót hoặc sai, nếu không có
lí do gì cần thiết GV cũng không nên ngắt lời của HS. Cùng là một sai sót nhưng
GV phải biết sai sót nào nên sửa ngay và sai sót nào thì nên đợi HS trả lời xong.
- Nên phối hợp các cách kiểm tra và cùng một lúc có thể kiểm tra được
nhiều HS: trong lúc gọi một số HS lên bảng thì GV ra cho các HS ở dưới lớp câu
hỏi khác sau đó sẽ thu vở nháp của một số em để chấm.
- Khi tổ chức kiểm tra thì GV phải giải quyết các khó khăn lớn sau đây: khi

một hay vài HS được chỉ định lên bảng thì các HS khác trong lớp cần phải làm gì
và làm như thế nào. GV gọi nhiều em cùng một lúc, đưa ra yêu cầu khác nhau phù
hợp với trình độ của mỗi HS sau đó đặt các câu hỏi cho cả lớp sau khi các HS này
hoàn thành xong nhiệm vụ của mình như sau: “Bạn trả lời như vậy có đúng
không?” “Các em có đồng ý với câu trả lời đó của bạn không?” “Có điểm nào sai
hoặc thiếu không ?”… Ngoài những câu cơ bản, GV có thể sử dụng các câu hỏi
13


phụ trong quá trình kiểm tra miệng. Nhờ những câu hỏi bổ sung đó mà GV có thể
hình dung được chất lượng kiến thức của HS.
* Sử dụng SĐTD:
Như ta đã biết, kiểm tra miệng là việc diễn ra thường xuyên, liên tục trong
các tiết dạy. Vì vậy hoạt động này phải đa dạng để tránh sự nhàm chán đơn điệu,
tạo không khí sinh động trong lớp học và giúp HS học tập có hiệu quả hơn.
Tuỳ theo mỗi tiết học và tuỳ theo từng yêu cầu về kiểm tra kiến thức, kĩ
năng mà GV có thể áp dụng thêm cách kiểm tra miệng như sau bằng cách sử dụng
SĐTD. Sử dụng SĐTD vừa giúp GV kiểm tra được phần nhớ lẫn phần hiểu của HS
đối với bài học cũ. Vì thời gian kiểm tra bài cũ tương đối ngắn nên các SĐTD tôi
thường sử dụng ở dạng thiếu thông tin, yêu cầu HS điền các thông tin còn thiếu và
rút ra nhận xét về mối quan hệ của các nhánh thông tin với từ khóa trung tâm.
Ví dụ 1: Kiểm tra bài cũ trước khi dạy bài “Con lắc lò xo” Vật lý 12:
Hoàn thành SĐTD sau:
- Do bắt đầu từ một vài năm
nay, SĐTD mới được đưa vào
giảng dạy tại một số trường nên
bản đồ còn dừng lại ở mức đơn
giản ở những tiết học đầu năm.
Tôi thường chuẩn bị những sơ
đồ trên bảng phụ, viết nhanh

trên bảng, đưa trên phần mềm
PowerPoint… để không chỉ
những em được gọi lên mà các
em ở dưới lớp cùng hoàn thành
sau đó GV thu bài, nhận xét và
chấm điểm cho một số HS.
Ví dụ 2: Kiểm tra bài cũ trước khi học bài “Mạch có R, L, C mắc nối tiếp”
Vật lý 12.
14


Hoàn thành SĐTD sau:

- Tất nhiên, với kiểu kiểm tra bài cũ này để hoàn thành trọn vẹn thì tôi
thường xuyên hướng dẫn HS cách lập bản đồ, cách ghi chép, cùng HS hoàn thiện
những nội dung kiến thức đã học bằng SĐTD nhằm đưa ra đúng, đủ những tri thức
mà HS cần nắm vững. Sau đó, HS phải trình bày được những nội dung cần nắm
vững trong bài học, HS dưới lớp tham gia nhận xét bổ sung và GV là người chốt
lại kiến thức.
- Tùy theo lượng thời gian phân phối cho phần kiểm tra bài cũ và nội dung
kiến thức bài trước mà tôi còn cho HS hoàn thành trọn vẹn SĐTD dưới hình
thức cuộc thi (học mà chơi, chơi mà học), HS nào nhanh nhất, chính xác nhất sẽ
được tuyên dương và điểm cao.
Qua đó, tôi thấy rằng ngay từ đầu HS đã rất hào hứng và nhiệt tình tham gia,
làm cho phần trả bài không còn là áp lực với HS, các em không phải chỉ còn đọc
thuộc lòng từng câu chữ, công thức mà có sự thấu hiểu, biết phương pháp học.
2.3.2. Sử dụng SĐTD trong việc dạy kiến thức mới
* Những vấn đề tồn tại:
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển khả năng ghi nhớ, thông hiểu
và vận dụng kiến thức mới của HS, trong đó phương pháp dạy của thầy và cách

học của trò là yếu tố quyết định.
- Phương pháp dạy của GV:

15


- Sử dụng phương pháp truyền thống chủ yếu là GV độc thoại, độc quyền
đánh giá, thuyết giảng làm HS nhàm chán không tập trung, chú ý những gì GV
nói.
- Nội dung bám sát sách giáo khoa, ít liên hệ thực tiễn đời sống nên không
giúp các em ghi nhớ bài một cách tốt nhất.
- GV giữ vai trò chủ động điều khiển.
- Không phối hợp nhiều phương pháp dạy học trong một tiết dạy.
- Phương pháp, dụng cụ giảng dạy không khoa học.
- Gây áp lực đến với HS dẫn đến HS bị ức chế.
- Phương pháp học của HS:
- Chưa có sự chú trọng đến việc học bộ môn, học thuộc lòng một cách thụ
động, ít có sự liên tưởng, liên hệ, tìm hiểu những tập tính, quy luật Vật lý ngoài
thực tế nên dễ quên đi những kiến thức vừa học.
- Quan điểm các em học để đối phó, để kiểm tra, thi cử lấy điểm, thành tích.
- Trong quá trình học, đa số các em thụ động, ít phát biểu ý kiến, chỉ mải
nghe, ghi những gì mà GV ghi lên bảng. Khi về nhà thì học thuộc bài một cách
máy móc không cần hiểu rõ bài để hôm sau trả bài.
- Phần lớn các em đợi gần đến thi hoặc kiểm tra mới học.
- Các em chưa biết tổ chức cách học theo nhóm, theo tổ.
- Một số em không chịu khó làm những bài tập cơ bản để ghi nhớ các kiến
thức tốt hơn và lâu hơn.
* Sử dụng SĐTD và một số biện pháp nhằm phát triển sự ghi nhớ,
thông hiểu, vận dụng kiến thức mới của HS:
Để nâng cao sự ghi nhớ, thông hiểu, vận dụng kiến thức mới của HS tôi đã

tác động đến nhiều mặt. Ở đây tôi tập trung tác động đến hai đối tượng quyết định
của quá trình dạy - học để chuẩn bị và bổ sung phương pháp mới sử dụng SĐTD
hiệu quả mà tôi đã sử dụng
- Đối với GV:
+ Nắm được các yếu tố ảnh hưởng đến sự ghi nhớ cũng như nguyên nhân
dẫn đến sự quên của HS. Nắm được tâm sinh lý của HS THPT để có phương pháp
16


giảng day cho phù hợp với các em. Tạo bầu không khí học tập thoải mái, sôi động,
sinh động không gây áp lực cho các em để các em có thể ghi nhớ tốt hơn.
+ Trong giờ lên lớp, GV phải phối hợp nhiều phương pháp khác nhau nhằm
phát huy tối đa ưu điểm cũng như khắc phục khuyết điểm của từng phương pháp từ
đó giúp các em tiếp thu kiến thức mới được nhanh chóng. Cụ thể như phối hợp:
Phương pháp thuyết trình, vấn đáp, trực quan…
+ Ngoài những tài liệu trong sách giáo khoa, GV cần tìm hiểu cung cấp cho
HS nhiều tài liệu mới, tập tính, quy luật thực tế cuộc sống để giúp HS ôn tập và
củng cố những kiến thức học ngay trên lớp một cách tốt hơn. Trong giờ học trên
lớp, GV có thể những câu hỏi đơn giản mà thú vị nhằm kích thích HS tích cực học
tập và tư duy độc lập.
+ Tổ chức cho các em học theo nhóm để các em có cơ hội phát huy khả năng
độc lập của bản thân và tạo cơ hội cho các em có thể tự đánh giá, kiểm tra mức độ
nắm vững kiến thức lẫn nhau và của chính bản thân các em. Tạo mọi điều kiện
thuận lợi để các em có thể tự đánh giá, kiểm tra khả năng nắm tri thức của mình..
+ GV cho các em trình bày kiến thức mình có được, HS làm thí nghiệm,
thực hành để các em có thể vận dụng các kiến thức đã học vào thực tế.
- Đối với HS:
+ Chuẩn bị bài trước khi lên lớp.
+ Biết phân phối thời gian học tập hợp lý cho từng môn học.
+ Lựa chọn phương pháp học riêng cho mình để ghi nhớ bài thật tốt.

+ Biết liên hệ, kết hợp tri thức đã học với thực tiễn.
+ Thường xuyên tổ chức học theo nhóm để trao đổi khả năng nắm vững các
kiến thức đã học.
+ Khi có những thắc mắc về bài học cần chủ động hỏi GV giảng dạy.
+ Vào lớp cần phải năng động, tự tìm tòi, học hỏi, học cách học…
- Sử dụng SĐTD:
Từ đầu năm học, theo định hướng của ngành chống đọc chép, tôi đã giới
thiệu đến HS các kiểu ghi chép theo kiểu đề mục, kiểu trích dẫn, kiểu luận đề, kiểu
tự do. Thực tế, các kiểu ghi chép này các em cũng đã thực hiện rồi nhưng ít được
17


biết đến tên và tác dụng cũng như hiệu quả của từng kiểu ghi. Thông thường, tôi
nhận thấy ở trường HS thường được hướng dẫn ghi chép bài học theo kiểu đề
cương, trích dẫn và luận đề còn cách ghi chép theo kiểu tự do dành cho việc dự hội
thảo hay chuyên đề… Nhưng điều đáng quan tâm là các kiểu ghi chép trên nếu
được kết hợp với việc hệ thống kiến thức bài học theo kiểu SĐTD sẽ giúp HS nhớ
lâu hơn, gây hứng thú và niềm đam mê học tập hơn cho HS, giúp cho các kiến thức
ấy "đi thẳng vào đầu" HS một cách nhanh chóng, hiệu quả hơn. Để cải thiện việc
ghi chép của mình, tôi đã yêu cầu HS cần lưu yùù:
+ Làm bài tập về nhà trước khi đến lớp, xem trước bài học mới.
+ Đi học đầy đủ, nếu bạn bỏ một buổi học thì bạn phải mượn vở của bạn
cùng lớp để ghi lại.
+ Ngoài các loại bút thông thường, HS cần trang bị thêm các loại bút dạ
quang, bút màu để làm nổi những thông tin quan trọng.
+ Dùng các ký hiệu để ghi bài nhanh hơn.
+ Chú ý lắng nghe những lời giảng của GV. Không cần ghi lại mọi lời giảng
của GV mà hãy tư duy để ghi những điều quan trọng nhất. Luôn động não chứ
đừng chỉ ghi chép như một cái máy.
+ Nếu bỏ lỡ thông tin nào, hãy cách ra vài dòng để bổ sung sau, bằng cách

hỏi lại GV hay các bạn khác.
+ Dành khoảng thời gian để xem xét lại những ghi chép.
+ Ghi chép khi đọc một thông tin, một bài học mới nào đó ở sách giáo khoa
sẽ giúp bạn nhớ được các thông tin đó.
Để sử dụng SĐTD trong khi dạy học kiến thức mới, tôi đã tổ chức các hình
thức sau cho HS:
Khi dạy HS hoàn toàn bằng bảng tôi thường dành một góc bảng bên phải để
cùng HS hoàn thiện SĐTD. Ví dụ khi dạy bài “Chất rắn kết tinh. Chất rắn vô định
hình” Vật lý 10, tôi đi theo tiến trình và cách trình bày như sau:
Bảng ghi được chia làm 2 phần chủ yếu
Chất rắn kết tinh.

(Ở bảng bên phải xuất hiện từ khóa “Chất

Chất rắn vô định hình

rắn” và hai nhánh “Chất rắn kết tinh” và
18


I. Chất rắn kết tinh

“Chất rắn vô định hình”)

1. Cấu trúc tinh thể
2. Đặc tính
3. Ứng dụng
(GV và HS cùng tìm hiểu phần I. Sau
khi học xong phần I, SĐTD xuất hiện
thêm 3 nhánh “Cấu trúc tinh thể”,

“Nhiệt độ nóng chảy”, “Phân loại” và
thêm các nhánh con)

Tương tự như vậy, sau khi học xong mỗi phần với các kiến thức cần ghi nhớ
thì SĐTD lại thêm những nhánh nữa. Khi kết thúc bài học mới cũng là lúc GV và
HS đã hoàn thành xong SĐTD cho bài học.
Khi dạy HS hoàn toàn bằng máy chiếu, tôi thường dùng bảng như một “bảng
nháp” để cùng HS hoàn thiện SĐTD. Ngược lại, khi dùng bảng, với những bài
giảng có nội dung kiến thức ngắn, những lần đầu khi HS làm quen với SĐTD tôi
vẽ trực tiếp trên phần mềm để HS dễ quan sát và định hướng những công việc cần
làm.
Bên cạnh đó, cũng có những tiết dạy tôi cho HS hoạt động nhóm: Sau khi đã
học xong nội dung kiến thức bài học, trước khi sang phần bài tập, củng cố tôi cho
HS hoàn thành SĐTD theo nhóm hoặc hoàn thành theo kĩ thuật “khăn phủ bàn”.
Tuy nhiên, quan trọng nhất là cho dù thực hiện theo cách nào thì sau đó HS
phải lên trình bày, thuyết minh thông qua SĐTD mà GV và HS hoặc nhóm
mình đã hoàn thành. HS khác nhận xét, bổ sung. GV sẽ là người cố vấn, là trọng
tài giúp HS hoàn chỉnh SĐTD từ đó dẫn dắt đến kiến thức trọng tâm của bài học.
GV giới thiệu SĐTD là một sơ đồ mở nên không yêu cầu tất cả các nhóm HS có
chung 1 kiểu SĐTD, tôi chỉ chỉnh sửa cho HS về mặt kiến thức và góp ý thêm về
đường nét vẽ và hình thức (nếu cần).

19


Ví dụ: SĐTD hình thành sau khi học xong bài “Các loại quang phổ”

Qua việc hướng dẫn cách ghi, cách học bài nói trên, tôi nhận thấy HS dần
dần có những thay đổi đáng kể. Cụ thể, các em đã tự tin hơn trong việc ghi chép ở
lớp và chuẩn bị bài ở nhà thông qua sự hướng dẫn của tôi. Và, tôi nghĩ rằng việc hệ

thống kiến thức sẽ rất dễ dàng với các em khi các em đã quen với cách làm việc có
hệ thống như trên.
2.3.3. Sử dụng SĐTD trong việc củng cố kiến thức
Củng cố bài giảng là một khâu quan trọng của bài giảng, là một yếu tố dẫn
đến sự thành công của bài giảng. Củng cố bài giảng giúp HS nhớ lại và khắc sâu
kiến thức hơn. Ngoài việc xác định kiến thức trọng tâm, HS còn có thể tự đánh giá
kết quả học tập của mình. Từ đó các em có thể điều chỉnh lại phương pháp học sao
cho phù hợp.
Bằng các phương pháp củng cố bài giảng cụ thể, GV sẽ giúp HS phát huy
tính tích cực, chủ động trong việc tiếp thu nội dung bài, đồng thời mở rộng và phát
triển tư duy cho HS.
Củng cố bài giảng còn tạo điều kiện tương tác giữa GV và HS. Điều đó tạo
hứng thú học tập cho HS, nuôi dưỡng bầu không khí lớp học, tạo điều kiện để HS
phát biểu ý kiến.
Một số phương pháp củng cố bài thường dùng:
Củng cố bài giảng bằng thiết kế và sử dụng các sơ đồ, bảng biểu.

20


Biện pháp củng cố này giúp HS hiểu được kiến thức thông qua khả năng
phân tích, so sánh và móc nối các kiến thức.
Thường áp dụng với những bài mang tính so sánh hay tổng quát, có thể sử
dụng các sơ đồ, bảng biểu để hệ thống lại kiến thức.
Củng cố bài giảng bằng việc sử dụng hệ thống câu hỏi, bài tập.
Biện pháp này đánh giá việc học của HS, rèn cho HS khả năng diễn đạt.
Nhưng sẽ tạo áp lực cho các HS tiếp thu chậm và không hiểu bài ngay tại lớp.
Phương pháp áp dụng đối với những bài học nhiều lý thuyết.
Củng cố bài giảng bằng việc tổ chức các trò chơi.
Biện pháp này tạo sự vui vẻ, hứng khởi cho HS đối với môn học. Nhưng có

hạn chế là tốn nhiều thời gian để tổ chức cho lớp tham gia trò chơi. Nguyên tắc cơ
bản là trò chơi phải đơn giản, đi sâu vào vấn đề trọng tâm của bài.
Củng cố bài giảng bằng cách cho HS tự tổng kết kiến thức.
Biện pháp củng cố này rèn cho HS kĩ năng trình bày vấn đề trước đám đông
và kĩ năng tóm lược vấn đề Phương pháp áp dụng với những bài nội dung đơn
giản, dễ tổng kết lại kiến thức.
Trên đây là một vài phương pháp củng cố bài học mà tôi và các bạn chắc
chắn đã dùng trong các tiết dạy của mình. Mỗi phương pháp có một ưu nhược
điểm riêng và khi dùng SĐTD, chúng ta có thể khắc phục các nhược điểm, phát
huy tối đa các ưu điểm. Sử dụng SĐTD gần như là một biện pháp có thể kết hợp
các phương pháp trên với nhau một cách linh hoạt, hiệu quả (Đó là trò chơi, là
sơ đồ tổng kết, có những câu hỏi củng cố…). Tôi nhận thấy rằng SĐTD là công cụ
tư duy mang tính tự nhiên, nếu vận dụng vào dạy học sẽ gây cảm hứng và niềm say
mê học tập cho HS. Đặc biệt, SĐTD rất phù hợp cho việc đọc, ôn tập, ghi chú...
Có thể nói, đây là công cụ vô giá không những giúp cho HS mà cả GV trong
việc thu thập, phân loại thông tin. Từ đó, tôi đã mạnh dạn vạch ra kế hoạch để
hướng dẫn HS học tập theo SĐTD này. Khi mới áp dụng SĐTD vào việc củng cố
bài học ở lớp nói riêng và áp dụng cho các kiểu bài nói chung, tôi thông qua trò
chơi cho HS là sắp xếp các thẻ ôn bài, tóm tắt đề mục chính của bài học để tập dần
cho HS nhớ các từ khóa (nội dung chính cần nắm) của bài học. Cụ thể, tôi lấy ví
21


dụ sau khi học xong bài “Chất rắn kết tinh. Chất rắn vô định hình” Vật lý 10 tôi đã
thực hiện việc củng cố như sau:
Tôi cho HS chuẩn bị trước các thẻ ôn bài với các từ khóa:
Đơn tinh thể
Chất rắn
Cấu trúc tinh thể


Đa tinh thể

Nhiệt độ nóng chảy

Tính dị hướng

Chất rắn kết tinh

Chất rắn vô định hình
Tính đẳng hướng
Sau đó, tôi đảo các thẻ để 2 nhóm 3-5 em tổ chức thi đua hoàn thành bằng
cách dán trên bảng hoặc cá nhân (tùy vào đối tượng lớp) chọn lựa, sắp xếp và nối
các đường liên kết từ các thẻ lại sao cho hợp lí nhất. Kết quả thu được sau củng cố
bài là hai dạng sơ đồ như sau:
Dạng sơ đồ thứ nhất:

Chất rắn

Chất rắn kết tinh

Chất
rắn kết
tinh
Dạng sơ đồ thứ 2:

Chất rắn vô định hình

Cấu trúc
tinh thể
Nhiệt độ

nóng chảy

Chất rắn
22
Chất rắn vô định hình

Đơn tinh thể

Dị hướng

Đa tinh thể

Đẳng hướng


Mặc dù khi sắp xếp, các em chưa sắp xếp theo hệ thống kiến thức yêu cầu,
cần có sự góp ý của bạn, nhưng tôi nhận thấy các em rất hứng thú khi được học, tự
tin khi thuyết trình trước mọi người về SĐTD của nhóm mình hoặc của bản thân
hoặc của nhóm khác, bạn khác. Sau đó, tôi khuyến khích, gợi mở, hướng dẫn các
em đúng sơ đồ chuẩn. Bên cạnh đó, tôi cũng phát hiện ở các em có nhiều sáng tạo
rất hay trong việc sắp xếp các thẻ ôn bài ở ví dụ minh họa trên.
Tuy nhiên, sau khi HS đã nắm được cách thức, nguyên tắc xây dựng SĐTD
thì không phải tiết nào cũng củng cố qua các thẻ ôn bài vì như vậy sẽ gây nhàm
chán, mất thời gian. Vì vậy một biện pháp khác tôi đưa ra là sau khi HS đã làm bài
tập, trả lời các câu hỏi phần củng cố thì dùng máy chiếu cho hiển thị từ khóa trung
tâm sau đó phát vấn HS về những nội dung đã học trong bài, dùng hiệu ứng của
phần mềm PowerPoint lần lượt đưa ra theo mục đích giảng dạy.
Qua nhiều bài củng cố như cách thực hiện ở trên, tôi nhận thấy các em nhớ
bài nhanh hơn, từng bước xây dựng được kĩ năng diễn giải. Song song với việc
củng cố bài học, khi HS đã hoàn thành sơ đồ tóm tắt, tôi thường dành vài phút đề

phân tích nhằm khắc sâu kiến thức qua các từ khóa của sơ đồ, cũng như hướng dẫn

23


các em kết nối các từ khóa đó. Bởi mục đích cuối cùng của tôi là giúp các em có
thể liên kết các bài có kiến thức liên quan được hệ thống thành một SĐTD hoàn hảo.
2.3.4. Sử dụng SĐTD trong việc dạy tiết ôn tập, tổng kết kiến thức
* Những điểm cần chú ý về mặt phương pháp khi tiến hành bài ôn tập, tổng kết:
Bài ôn tập tổng kết không phải chỉ là sự tái hiện, giảng lại kiến thức cho
học sinh mà phải thể hiện được sự hệ thống hóa, khái quát hóa và vận dụng,
nâng cao toàn diện kiến thức của phần cần ôn tập cho học sinh. Vì vậy cần có
sự xác định mục tiêu rõ ràng cho bài ôn tập về kiến thức, kỹ năng cần hệ thống,
khái quát và mức độ phát triển kiến thức cho phù hợp với khả năng nhận thức của
học sinh.
Khi chuẩn bị bài ôn tập cần sắp xếp các kiến thức cần khái quát, hệ thống cho
một chương hay một phần theo hệ thống có logic chặt chẽ, theo tiến trình phát triển
của kiến thức, cùng các kỹ năng cần rèn luyện.
Phương pháp dạy học được sử dụng chủ yếu trong giờ ôn tập là đàm
thoại tìm tòi, sử dụng bài tập Vật lý. Việc khái quát hóa kiến thức, phát triển tư
tưởng, năng lực nhận thức của học sinh đựơc điều khiển bằng các câu hỏi dẫn dắt
giúp học sinh tìm ra mối liên hệ giữa các kiến thức và khái quát chúng ở dạng tổng
quát nhất. Vì vậy giáo viên cần chuẩn bị một hệ thống câu hỏi cho từng phần kiến
thức, mối liên hệ giữa các kiến thức, vận dụng kiến thức, đào sâu phát triển kiến
thức. Các câu hỏi nêu ra phải rõ ràng, có tác dụng nêu vấn đề để học sinh trình bày
suy luận, thể hiện được khả năng tư duy khái quát của mình.
Sự trình bày các bài tổng kết: Tùy theo nội dung cần tổng kết và sự phát
triển của kiến thức, bài tổng kết có thể trình bày theo các đề mục, các vấn đề của
nội dung mang kiến thức cần ôn tập. Đồng thời bài tổng kết cũng có thể trình bày ở
dạng các bảng tổng kết, các sơ đồ thể hiện mối liên hệ các kiến thức giúp học sinh

dễ nhìn, dễ nhớ và hệ thống hóa kiến thức ở dạng khái quát cao. Khi xây dựng các
bảng tổng kết cần rõ ràng các sơ đồ dễ nhìn, đảm bảo tính khoa học và thẩm mỹ.
GV, HS cần có sự chuẩn bị chu đáo tỉ mỉ cho giờ ôn tập tổng kết: Ngoài
việc chuẩn bị nội dung, kiến thức, câu hỏi cho bài ôn tập, hệ thống kiến thức đã
đựơc trình bày trong sách giáo khoa, GV cần chuẩn bị thêm một số kiến thức để
24


mở rộng, đào sâu kiến thức và một số dạng bài tập mang tính vận dụng sâu kiến
thức trong các sách tham khảo, sách bài tập Vật lý... Các kiến thức, bài tập được
lựa chọn cần đảm bảo trên cơ sở kiến thức phổ thông HS có thể hiểu vận dụng
được, có tính chất mở rộng, giải quyết được một phần thắc mắc học sinh đặt ra khi
đọc các sách tham khảo khác.
* Sử dụng SĐTD:
SĐTD là một công cụ khá mạnh trong những tiết bài tập, ôn tập. Thông
thường tôi tiến trình theo sơ đồ: 1. Sơ đồ hóa kiến thức  2. Nội dung cần ôn tập
 3. Ôn tập tổng kết.
Bước 1. Thông thường tôi thường giao cho HS về nhà hoàn thiện (Cách làm
này cũng được áp dụng dạy kiến thức mới khi HS đã thành thạo với SĐTD) Trước
khi vào nội dung 2 tôi dành thời gian kiểm tra sự chuẩn bị cũng như kiểm tra sự
ghi nhớ kiến thức của HS bằng cách gọi một vài HS lên bảng trình bày những nội
dung kiến thức mà mình đã thể hiện trong SĐTD. Riêng phần này tôi cho các em
thoải mái trình bày theo những ý tưởng đã sắp xếp, HS khác và tôi chỉ làm thêm
nhiệm vụ là bổ sung những nội dung còn thiếu trong những phần đã học trong
SĐTD.
Bước 2. Tôi hướng dẫn HS ôn tập theo những chủ điểm đã có trong SĐTD.
Bước 3. Tôi cho HS hoàn thiện SĐTD của mình như phần củng cố bài học:
Chú ý phân phối thời gian hợp lý: Thời gian 1 tiết học 45 phút, nên vấn đề
cần quan tâm để đạt hiệu quả là việc phân phối thời gian hợp lý. Do đó, tôi dùng
thời gian của những bài học ngắn khoảng 5 - 9 phút để thực hiện.

Khoảng 2 - 4 phút: Các em bổ sung yù tưởng riêng của mình và trao đổi với
các bạn cùng nhóm.
Khoảng 2 - 3 phút tiếp theo: Đại diện nhóm lên trình bày sơ đồ của nhóm
mình.
Thời gian còn lại, tôi cùng các HS góp yù, đánh giá, trình chiếu sơ đồ mà tôi
đã vẽ sẵn bằng phần mềm và cả bản vẽ SĐTD trên giấy để các em đối chiếu, so
sánh, chỉnh sửa lại cho hợp lí.
Ví dụ SĐTD ôn tập “Chương III. Dòng điện xoay chiều” Vật lý 12
25


Qua SĐTD hệ thống kiến thức, tôi chốt lại những kiến thức cần nhớ, đặc
biệt là các từ khóa và để HS hiểu và nắm vững kiến thức nhờ hình ảnh trên sơ đồ.
Có thể nói, đây là một phương pháp giúp người học lưu kiến thức trong trí nhớ
được sâu và dài hơn so với các phương pháp khác.

26


Phần 3. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Với những biện pháp trên tôi đã áp dụng vào các kiểu bài dạy: Dạy bài học
tìm hiểu kiến thức mới, tiết ôn tập tổng kết… và áp dụng trong các phần như: kiểm
tra bài cũ, củng cố kiến thức hoặc xuyên suốt quá trình của một tiết học.
HS tiếp cận kiến thức một cách nhẹ nhàng hơn, nắm vững kiến thức sâu hơn
và có khả năng nhớ lâu hơn nhờ tác dụng của sơ đồ tạo hình sinh động và khoa
học. Theo chủ quan tôi phân ra 5 cấp độ cho HS khi học theo SĐTD
Cấp độ 1: HS quan sát SĐTD theo mẫu đã vẽ sẵn
Cấp độ 2: HS tái hiện lại SĐTD sau khi đã quan sát, đã học về kiến thức cần
trình bày trong SĐTD

Cấp độ 3: HS tự vẽ được SĐTD sau khi đã học xong nội dung kiến thức
Cấp độ 4: HS tự đọc kiến thức mới và tự tổng kết được bằng SĐTD
Cấp độ 5: HS trình bày được các nội dung kiến thức đã học, đã tìm hiểu mà
không cần bất kì tài liệu nào.
Bên cạnh đó, vẫn có những vấn đề còn bỏ ngỏ chưa được nghiên cứu trong
đề tài như: Sử dụng SĐTD trong các tiết thực hành, tiết bài tập, rèn khả năng ghi
chép (kiểm tra viết) đầy đủ dựa trên SĐTD và tái hiện SĐTD (khi không có bất kì
tài liệu nào) tránh trường hợp HS chỉ nhớ ý, nhớ có mấy ý mà không biết diễn tả
đầy đủ… rất mong được sự góp ý, đánh giá của các thầy cô.
Kết quả cụ thể
Kết quả bài khảo sát của hai lớp 12A1 (Sử dụng SĐTD) và 12A4 (Không sử
dụng SĐTD) cụ thể qua bảng so sánh sau:
Sĩ số
12A1
12A4
Nhận xét

Giỏi

Khá

T. Bình

35
37
Áp dụng

8,0-10
6,5-7,9
5,0-6,4

1
12
17
0
5
20
HS từ TB trở lên tăng,

SĐTD

đặc biệt điểm khá
27

Yếu

Kém

3,0-5,0
0,0-3,0
5
0
7
5
HS yếu, kém giảm


- Tôi hi vọng các GV, HS sẽ sử dụng SĐTD để hệ thống kiến thức một cách
vững vàng hơn không những ở bộ môn Vật lý mà có thể vận dụng được cho tất cả
các bộ môn khác. Ngoài ra, có thể áp dụng dạng SĐTD này vào trong cuộc sống
hằng ngày như lập kế hoạch, thời gian làm việc hay vẽ ra những lựa chọn cho

tương lai…
- Bằng những kinh nghiệm tôi đã rút ra sau nhiều năm giảng dạy ở trường,
qua những bài học thu được trong việc dự giờ các đồng nghiệp, đặc biệt là sự giúp
đỡ tận tình của Ban giám hiệu nhà trường, của tổ chuyên môn trường. Tôi đã hoàn
thành sáng kiến kinh nghiệm "Sử dụng SĐTD trong dạy học Vật lý" .
- Tôi rất mong nhận được sự đóng góp của các đồng nghiệp chuyên môn để
vốn kinh nghiệm giảng dạy của tôi được phong phú hơn.
2. Kiến nghị
Để đáp ứng được mục tiêu của đổi mới phương pháp dạy học đặc biệt là với
môn Vật lý tôi có một số kiến nghị sau:
- Vận dụng SĐTD vào việc hệ thống hóa kiến thức các chương trong
chương trình Vật lý THPT.
- Cũng giống như SĐTD, bản thân nó đã là một sơ đồ mở, có thể thêm bớt,
thay đổi linh hoạt mềm dẻo sao cho khả năng ghi nhớ vận dụng là tốt nhất. Phương
pháp dạy học cũng vậy, ta không nên tuyệt đối hóa cũng như phủ định bất kì một
phương pháp nào cho dù là truyền thống hay hiện đại vì bao giờ nó cũng bao gồm
ưu điểm và nhược điểm. Vậy nên, trên đây tôi đã nêu ra những cơ sở lí luận,
phương hướng, biện pháp thường dùng thông thường đã mang lại hiệu quả và đan
xen vào nó là sử dụng SĐTD để cho tiết học thêm phần sôi nổi, GV linh hoạt trong
các phương pháp dạy học giáo dục, tiết học không nhàm chán, HS hứng thú tiếp
thu bài học, vận dụng sáng tạo vào bài tập và thực tiễn.
- Cần tổ chức cho GV dạy Vật lý, đồng chí phụ trách thiết bị được học bồi
dưỡng sử dụng thiết bị, sử dụng phần mềm từ đầu năm học.
- Vì các giờ dạy Vật lý thường có nhiều thiết bị, đồ dùng thực hành khi dạy
bằng phương pháp mới cũng đòi hỏi có sự đầu tư cơ sở vật chất nên cần sắp xếp
thời khóa biểu cho gọn, đầu tư máy tính máy chiếu cho lớp học.
28


- Nhà trường, tổ chuyên môn cần có những chuyên đề, thảo luận về sử dụng

SĐTD và xây dựng thư viện SĐTD để GV và HS có thể khai thác, sử dụng.
Trên đây là một số ý kiến của tôi, kính mong các cấp lãnh đạo nghiên cứu và
xem xét để đề tài được áp dụng rộng rãi nhằm thực hiện tốt mục tiêu đổi mới giáo
dục và giảng dạy bộ môn đạt hiệu quả cao.

29


×