“SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY
TRONG DẠY HỌC LỊCH S Ở TRƯỜNG THPT”
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ 3
1. Lí do chọn đề tài 3
2. Mức độ nghiên cứu đề tài 8
3. Đối tượng, khách thể, phạm vị nghiên cứu 8
4. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài 9
5. Kết cấu của đề tài 12
NỘI DUNG 13
Phần I . Nêu thực trạng của vấn đề 13
1. Thuận lợi 13
2. Khó khăn 14
Phần II . Mô tả và giới thiệu các nội dung, biện pháp chính 15
1. Thực trạng và giải pháp 15
1.1 Giảng dạy sơ đồ tư duy nhằm tăng tính tích cực trong HS 15
1.2 GV trở thành người hướng dẫn hỗ trợ 16
1.3 Những lưu ý HS khi sử dụng sơ đồ tư duy 19
2. Giảng dạy và học tập với công cụ sơ đồ tư duy 20
2.1 Giới thiệu đôi nét về sơ đồ tư duy 20
2.2 Nguyên lý và ứng dụng sơ đồ tư duy trong dạy học 20
2.3 Giới thiệu một số phần mềm để tạo sơ đồ tư duy 22
3 Tiến trình một tiết dạy theo sơ đồ tư duy 24
Phần III. Kết quả và bài học kinh nghiệm và kiến nghị 37
1. Kết quả 37
2. Bài học kinh nghiệm 38
3. Kiến nghị 42
KẾT LUẬN 44
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 47
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài, thuận lợi và khó khăn
Từ lâu, dạy học theo kiểu “đọc – chép” được coi là một phương pháp
dạy học để truyền tải kiến thức cho học sinh và được sử dụng phổ biến ở nhiều
trường trong cả nước. Ngành Giáo dục và Đào tạo cũng đã có nhiều cuộc hội
thảo và cũng đã đưa ra nhiều phương pháp dạy học tích cực hơn… nhưng hiện
tại không ít giáo viên vẫn sử dụng cách dạy học theo kiểu “đọc – chép”
Phải nói rằng trong một tiết dạy, cũng có lúc giáo viên cần phải đọc
cho học sinh chép như môn chính tả ở bậc Tiểu học, đọc hoặc ghi lên bảng
các công thức toán học, bảng cửu chương, một sự kiện lịch sử, một số yếu tố
địa lý, đoạn thơ, các khái niệm ở bậc Trung học, điều này không có nghĩa là
giáo viên đã sử dụng phương pháp “đọc – chép”.
Cũng phải khẳng định rằng, trong giáo học pháp, chưa bao giờ trong
trường học có phương pháp dạy học mang tên “đọc – chép”. Do đó, “đọc” thế
nào và học sinh “chép” ra sao mới là quan trọng. Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ
trương chống việc dạy học “chủ yếu qua đọc chép – nhìn chép” nghĩa là chống
việc chỉ đọc chép, truyền thụ kiến thức một chiều trong cả một tiết lên lớp.
Với cách dạy này, người thầy đã máy móc, rập khuôn trong dạy học,
dễ có tư tưởng phó mặc, không hứng thú trong cập nhật kiến thức, không sáng
tạo trong việc tìm kiếm các phương án thiết kế bài dạy phù hợp với mọi đối
tượng học sinh trong lớp mình phụ trách để kết quả giảng dạy đạt mức tối ưu.
Người học theo cách này sẽ trở nên thụ động, chỉ biết thu nhận kiến thức một
2
chiều, không động não suy nghĩ, không biết tự mình chiếm lĩnh tri thức, trở
nên thui chột về tư duy, khó vận dụng kiến thức vào cuộc sống.
Hơn nữa, đã dạy theo kiểu “đọc – chép” thì đề thi phải ra theo kiểu học
thuộc. Học sinh khi học, chép được điều gì thì lúc thi, lại chép những điều ấy
vào bài làm, không có khả năng sáng tạo, học sinh hiểu bài một cách máy móc
không sáng tạo, không thể hiện được “cái riêng” của mình hoặc không dám thể
hiện “cái riêng” của mình. Bài dạy học đọc – chép tất yếu phải được tổ chức
theo phương thức diễn dịch, do đó tiết dạy “đọc – chép” sẽ nhàm chán và
mang tính áp đặt.
Việc giáo viên sử dụng cách dạy học theo kiểu đọc – chép, có thể kể
ra một số nguyên nhân sau:
Do một số bài học của chương trình có lượng kiến thức nhiều, trong
một tiết học chỉ có 45 phút, mà đã mất 10 đến 15 phút ổn định tổ chức, kiểm
tra bài cũ, dặn dò học, làm bài tập ở nhà…Như vậy, chỉ còn khoảng 30 phút
để giảng bài mới nên giáo viên chọn cách “đọc – chép”.
Học sinh hiện nay khả năng tự ghi bài là rất chậm, rất hạn chế, thụ
động trong học tập nên cũng có thầy cô chọn cách đọc bài, học trò chép bài.
Học sinh về nhà chỉ cần học thuộc nội dung đã được ghi, khi kiểm tra bài chỉ
cần đọc đúng, ghi đúng là được điểm cao…
Cũng còn một số giáo viên không chịu khó đầu tư cho việc thiết kế bài
dạy sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh mình đang phụ trách, sợ mất
sức, cứ sẵn giáo án mẫu đọc cho học sinh chép, khi cần thỉnh thoảng mới dừng
lại ghi vài chữ lên bảng. Như thế, vừa không sợ sai kiến thức cơ bản, lại vừa
không tốn sức.
Trang thiết bị và các phòng học chức năng không đủ hoặc không có
để đáp ứng nhu cầu dạy học theo hướng đổi mới, hiện đại hóa, học sinh không
có nhiều điều kiện để thực hành hoặc học theo phương pháp trực quan sinh
động.
Khắc phục tình trạng đọc – chép là một yêu cầu cần thiết để nâng cao
chất lượng dạy học đối với tất cả các môn học. Đó là một nhiệm vụ vô cùng
khó khăn phức tạp trong điều kiện hiện nay của nhiều trường. Thực hiện tốt
việc chống dạy học theo kiểu “đọc – chép” là cả một quá trình lâu dài với sự
cố gắng của nhiều đối tượng khác nhau trong đó sự tận tâm của thầy cô giáo là
điều hết sức quan trọng mới có thể có kết quả.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Chỉ thị bắt đầu từ năm
học này (2011 – 2012) chấm dứt việc dạy học chủ yếu qua đọc chép và nhìn
chép ở bậc trung học phổ thông.
Đây là chủ trương phù hợp với tiến trình đổi mới và nâng cao chất
lượng giáo dục, đáp ứng sự mong đợi bấy lâu nay của nhiều giáo viên tâm
huyết với giáo dục, giúp học sinh chủ động học tập và sáng tạo.
Có thể nói, nhiều năm qua việc giáo viên đọc cho học sinh chép bài đã
trở thành thói quen của phần lớn thầy – trò bậc phổ thông, kể cả đại học. Nhiều
nhà nghiên cứu giáo dục và dư luận lên tiếng không đồng tình, thậm chí phản
đối gay gắt và đề nghị chấm dứt việc dạy học theo kiểu đọc chép, nhưng có lẽ
3
do còn nhiều việc phải giải quyết, nên mãi đến năm học này, Bộ Giáo dục và
Đào tạo mới có ý kiến chính thức bằng văn bản.
Dạy theo kiểu “đọc cái có sẵn cho học sinh chép vào vở” cứ lặp đi lặp
lại nhiều năm, khiến công việc của các nhà giáo trở nên nhàm chán, không có
động lực để đổi mới. Còn với học sinh, dẫu biết rằng phải chép bài của thầy
đọc từ sách giáo khoa, cái mà các em có thể tự đọc – là một sự miễn cưỡng.
Nhưng biết làm sao, khi thầy yêu cầu trả bài phải đúng, thậm chí đúng nguyên
văn những lời thầy đọc.
Đã có những bài thi ngây ngô đến mức khó tin, bởi thiếu phương pháp
tư duy, rập khuôn máy móc do việc học lệ thuộc hoàn toàn vào thầy, còn thầy
thì lệ thuộc sách giáo khoa. Cách dạy và học này còn tiếp tay cho nạn quay
cóp, gian lận trong thi cử, tạo ra sự thiếu công bằng giữa những người học
nghiêm túc và những người thầy thực sự muốn đổi mới cách dạy học.
Thầy đọc, trò chép trên lớp, cộng với việc học quá tải liên miên khiến
các em không đủ thời gian suy ngẫm và tự học, thì lấy đâu ra việc tìm tòi, suy
luận để có kiến thức thực sự? Nhưng vấn đề đặt ra, thế nào là thầy không đọc,
trò không chép? Không đọc kiến thức đã có sẵn trong sách giáo khoa, thì thầy
sẽ nói gì để các em ghi lại và phát triển tư duy?
Chỉ thị không đọc – chép trên lớp sẽ thực hiện từ năm học này. Nếu
không chuẩn bị kỹ lưỡng với một tinh thần hưởng ứng nhiệt tình, có thể xảy ra
tình trạng, giáo viên photo bài giảng và bộ câu hỏi rồi phát cho học sinh tự
đọc, tự trả lời để tránh tiếng “thầy đọc, trò chép”. Và cũng không loại trừ xảy
ra chuyện, thầy cứ giảng, trò muốn ghi gì cũng được mà không biết đâu là nội
dung chính để tập trung học hỏi. Rồi khi thi kiểm tra chất lượng, thầy có chấp
nhận nội dung bài thi khác với ý của mình hay không.
Đội ngũ giáo viên hiện nay phần lớn cũng được đào tạo bằng phương
pháp “đọc – chép” nên để thay đổi cách giảng dạy cũng khó có thể đạt kết quả
một sớm một chiều. Trong khi đó, bộ sách giáo khoa bậc phổ thông đang tiếp
tục được thay đổi và nội dung còn khá nặng nề cũng là một lực cản trong quá
trình nói không với “đọc – chép”.
Thực tế những năm qua có nhiều giáo viên (kể cả bậc đại học) đã áp
dụng phương pháp giảng dạy không đọc chép cho học sinh, sinh viên và đem
lại hiệu quả rõ nét. Nhưng vì không có động lực, thiếu sự khuyến khích, động
viên và tiêu chí rõ ràng, nên cách làm này chỉ có tính tự phát ở một số ít
người.
Chấm dứt tình trạng không đọc chép sẽ trở thành hiện thực nếu đội
ngũ giáo viên được coi trọng, nếu đội ngũ giáo viên có động lực và sự đánh giá
nghiêm túc, công bằng từ các cơ quan quan quản lý.
Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng dạy học hiện đại với sự kết hợp
những thành tựu công nghệ thông tin đã và đang diễn ra một cách khá phổ biến
ở các ngành học, cấp học. Công nghệ thông tin với tư cách là một phương tiện
hỗ trợ cho việc dạy học đang chứng tỏ những ưu thế và hiệu quả trong quá
trình dạy học nói chung và đối với bộ môn lịch sử nói riêng.
4
Trong năm học 2007 – 2008 Sở GD&ĐT Bình Dương đã triển khai
cho các Trường THCS trong tỉnh thực hiện dạy học theo “Sơ đồ tư duy” và
mỗi trường THPT cử một giáo viên dự lớp tập huận đổi mới phương pháp dạy
học theo phương pháp mới do Microsoft tài trợ, nhưng hiện nay chưa triển
khai đến giáo viên các trường THPT.
Đầu năm học 2011 – 2012 Hiệu trưởng Trường THPT Dĩ An Vương
Văn Thanh triển khai chỉ thị năm học mới của Bộ GD&ĐT trong đó có nêu lên
chỉ thị “chấp dứt hoàn hoàn việc đọc – chép hoặc nhìn – chép ở trường THPT”
và thầy Hiệu trưởng có giới thiệu một phương pháp giảng dạy mà từ lâu các
nước tiên tiến trên thế giới đã áp dụng trong dạy học đó là sử dụng sơ đồ tư
duy và đã cho giáo viên xem một số hình ảnh minh họa các “sơ đồ tư duy” mà
học sinh các trường đã thực hiện.
Sự việc nầy đã làm tôi liên tưởng đến lớp học của chương trình đổi
mới phương pháp dạy học do chương trình Microsoft tài trợ và huấn luyện mà
tôi đã tham dự, tôi hỏi thăm một số thầy cô đã được cử đi tập huấn ở Singapor
và được biết các trường học ở Singapor cũng đã thực hiện cách dạy nầy rồi.
Tôi đến các lớp hỏi thăm học sinh lớp 10 có biết ghi bài bằng sơ đồ tư duy hay
không thì các em trả lời ở Trường THCS các em cũng đã được dạy rồi.
Từ đó tôi mới tìm hiểu và áp dụng theo phương pháp “Sử dụng sơ đồ
tư duy trong dạy học lịch sử ở trường THPT” và bài trả lời cho câu hỏi làm thế
nào để đổi mới phương pháp dạy học “không đọc – chép ; không nhìn – chép”
theo chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo mà tôi trăn trở băn khoăn bấy lâu nay
đã có cách để giải quyết
Qua một năm học áp dụng cho học sinh lớp 10 và lớp 12 ở Trường
THPT Dĩ An do tôi phụ trách ở bộ môn lịch sử, tôi nhận thấy đây là cách dạy
mang lại hiệu quả cao nếu giáo viên biết vận dụng các kĩ năng CNTT vào tiêt
dạy thì sẽ giúp học sinh hứng thú, yêu thích tiết học lịch sử hơn so với một tiết
dạy bằng giáo án điện tử thông thường.
5
2. Mức độ nghiên cứu đề tài
Năm học 2011 – 2012 là năm học đầu tiên Bộ GD – ĐT triển khai thực
hiện “Chấm dứt hoàn toàn việc đọc – chép; nhìn – chép ở các trường THPT”.
Vì trong năm học nầy tôi chỉ được phân công giảng dạy Lịch sử lớp 10
và lớp 12 nên tôi chỉ tập trung nghiên cứu hai khối lớp của mình phụ trách.
Trong phạm vi nghiên cứu đề tài nầy, mức độ nghiên cứu chỉ giới hạn trong
vấn đề lớn : “Hướng dẫn học sinh ghi bài theo sơ đồ tư duy”.
3. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu : “Soạn giảng bộ môn Lịch sử 10 và 12 theo sơ đồ tư
duy và chuẩn KTKN được điều chỉnh giảm tải trong năm học 2011 – 2012”.
+ Khách thể nghiên cứu : Môn LS lớp 10 và lớp 12 ở trường THPT.
+ Phạm vi nghiên cứu : Hướng dẫn học sinh ghi bài theo sơ đồ tư duy.
4. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Cuộc vận động chấm dứt cách dạy học “đọc chép” nếu thành công, sẽ
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Theo GS – TS Đinh Quang Báo,
nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội, để cuộc vận động này
thành công, thì đội ngũ giáo viên là yếu tố quyết định. Do vậy ngay từ khâu
đào tạo giáo viên ở các trường đại học, cao đẳng phải đào tạo họ biết cách
“không đọc chép”.
Vấn đề càng tỏ ra bức xúc hơn khi Bộ trưởng Giáo dục – Đào tạo
Nguyễn Thiện Nhân phát động chiến dịch “Nói không với đọc chép” cùng với
việc “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”.
Nói thì dễ nhưng làm thật khó. Nhiều đồng nghiệp đã nhận thức được sự tai
hại của việc dạy học theo lối đọc chép, nhưng quả thực để “Nói không với đọc
chép”, có người chưa biết nên bắt đầu từ đâu, làm như thế nào, thậm chí còn
rất ái ngại, vì thay đổi một tập quán không dễ gì nếu thiếu một quyết tâm và sự
định hướng.
Để góp phần tạo nên sự chuyển biến trong dạy học bộ môn, đáp ứng
yêu cầu phát triển xã hội, và để “Nói không với đọc chép”, giáo viên lịch sử
cần lưu ý một số điểm sau đây:
Trước hết, giáo viên phải nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của việc
dạy học lịch sử là phải cung cấp cho học sinh một hệ thống kiến thức cơ bản
về lịch sử thế giới, lịch sử dân tộc và lịch sử địa phương, qua đó giáo dục tư
tưởng, tình cảm, đạo đức, truyền thống cho học sinh. Nghĩa là phải vừa khai
trí vừa khai tâm cho các em. Hai nhiệm vụ này luôn gắn chặt và hỗ tương với
nhau. Phải giúp cho các em am tường và biết cách vận dụng những tri thức
lịch sử vào cuộc sống.Trong sách giáo khoa, các nội dung sự kiện được trình
bày một cách cô đọng vốn đã rất cần sự phân tích diễn giải, minh hoạ, so sánh,
đối chiếu để giúp học sinh hiểu vấn đề một cách thấu đáo. Nếu dạy theo lối
đọc chép, có nghĩa giáo viên một lần nữa tóm tắt sách giáo khoa, đọc cho các
em chép rồi buộc các em phải học thuộc lòng. Làm như vậy, bộ môn lịch sử sẽ
trở nên giáo điều, nhồi nhét, vì học sinh chẳng thể nào hiểu nổi một vấn đề,
6
một sự kiện và như vậy việc học tập trên lớp trở nên vô bổ, thậm chí làm cho
các em có cảm giác như bị “tra tấn” trong học tập bộ môn.
Để “Nói không với đọc chép”, đòi hỏi giáo viên phải có tâm huyết với
nghề nghiệp, phải luôn thấy được trách nhiệm và uy tín cá nhân của mình
trước hết là đối với học sinh. Cần phải tích cực đầu tư chuyên môn và không
ngừng học tập nâng cao trình độ nghiệp vụ. Việc đầu tư chuyên môn đòi hỏi
phải tiếp cận với thông tin khoa học chuyên ngành. Điều kiện sách vở, tài liệu
tham khảo và các nguồn thông tin cần thiết hiện nay không đến nổi quá khó
khăn. Mỗi khi đã có sự hiểu biết sâu sắc về chuyên môn, giáo viên dễ dàng lựa
chọn phương pháp để giảng dạy, vì phương pháp là sự vận động của tri thức.
Mỗi phương pháp dạy học có một giá trị riêng, tuỳ theo nội dung kiến
thức và đối tượng mà lựa chọn phương pháp cho phù hợp nhằm tạo biểu
tượng, hình thành khái niệm, khắc sâu kiến thức cơ bản… cho học sinh. Để
phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập, phương pháp dạy học sử
dụng sơ đồ tư duy tỏ ra có ưu thế. Mỗi bài học chứa đựng một số vấn đề cơ
bản của lịch sử, bằng sự hiểu biết của mình, giáo viên nêu vấn đề, tổ chức cho
học sinh giải quyết bằng cách sáng tạo thành sơ đồ tư duy nhằm phát huy tính
tích cực và huy động bộ não các em làm việc hết công suất cho mỗi bài học, sẽ
không còn tình trạng học sinh ngồi im thụ động chỉ có vài em được phát biểu
và làm việc với giáo viên trong tiết học.
Việc học sinh tham gia trực tiếp vào việc giải quyết những yêu cầu
của bài học vừa có tác dụng phát triển tư duy vừa gây hứng thú học tập. Tất
nhiên vai trò dẫn dắt của người thầy là hết sức quan trọng. Dạy học là một
nghệ thuật, bằng tâm hồn, sự hiểu biết và nghệ thuật của giáo viên, những
“phần xác” lịch sử sẽ được “phả hồn” vào một cách sinh động và đẹp đẽ, giúp
các em cảm nhận tốt hơn, yêu thích hơn bộ môn lịch sử.
Phương tiện dạy học bằng sơ đồ tư duy ngày càng trở nên phóng phú
và được các nước tiên tiến trên thế giới sử dụng đạt hiệu quả cao. Nếu biết
khai thác tốt sơ đồ tư duy sẽ hỗ trợ đắc lực cho giáo viên trong quá trình giảng
dạy. Cùng với sự kết hợp các phương pháp, phương tiện trực quan và kỹ thuật
sẽ góp phần đẩy lùi hiện tượng “đọc chép” một cách có hiệu quả.Việc sử dụng
sơ đồ tư duy cùng phương tiện trực quan và kỹ thuật đòi hỏi giáo viên phải có
sự đầu tư công sức và trí tuệ cho bài giảng. Rõ ràng làm tốt công việc này sẽ
góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giờ dạy và hiên tượng “đọc chép” sẽ
không có cơ hội để tồn tại.
Lý luận dạy học đã chỉ ra rằng, học sinh vừa là đối tượng, vừa là chủ
thể của quá trình dạy học. Dạy học theo lối đọc chép có nghĩa giáo viên đã thủ
tiêu mất vai trò chủ thể của học sinh, đưa các em vào trạng thái hoàn toàn thụ
động, bị nhồi nhét một cách đáng thương. Việc tạo ra mô hình dạy học sử dụng
sơ đồ tư duy trong đó học sinh có điều kiện trao đổi với thầy với bạn, sẽ phát
huy tốt tính tích cực, chủ động của các em, giúp các em vươn lên chiếm lĩnh tri
thức.Thay đổi mô hình dạy học theo sơ đồ tư duy là một yêu cầu không thể
thiếu được. Nó vừa phát huy tốt ưu thế của bộ môn, vừa tạo được sự hấp dẫn,
7
hứng thú đối với học sinh. Cần chú ý mô hình dạy lịch sử theo sơ đồ tư duy,
giảm dần tính biên niên trong dạy học lịch sử.
Khả năng vận dụng tri thức đã học vào cuộc sống là cái đích của việc
dạy học bộ môn. Khả năng đó có được từ nghệ thuật truyền dạy và tổ chức rèn
luyện của giáo viên cho các em. Học lịch sử mà không liên hệ được thực tế,
không làm bài tập thực hành, sẽ không thể nào có được năng lục vận dụng và
như vậy sự học trở nên vô bổ. Cuộc sống đang đặt ra vô vàn những vấn đề
phức tạp, hiểu sâu sắc lịch sử để lý giải những vấn đề của cuộc sống hiện tại là
vô cùng cần thiết, nó tỏ rõ ưu thế của bộ môn. Không làm tốt điều này xem
như giáo viên lịch sử chưa hoàn thành nhiệm vụ.
Dạy học “đọc chép” sẽ phải kiểm tra đánh giá theo kiểu “đọc chép”
và ngược lại. Đó là lẽ đương nhiên. Đổi mới phong cách dạy học phải đi liền
với việc thay đổi cách thức kiểm tra đánh giá. Giáo viên phải biết trăn trở, lựa
chọn hình thức và nội dung kiểm tra để đánh giá đúng thực lực học sinh, đồng
thời tự kiểm tra năng lực giảng dạy của mình một cách chính xác. Phải hết sức
nghiêm túc trong kiểm tra đánh giá thì mới tạo được sự chuyển biến về chất
lượng đào tạo và mới có thể “Nói không với tiêu cực trong thi cử”.
5. Kết cấu của đề tài sáng kiến kinh nghiệm
Ngoài phần đặt vấn đề, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tài gồm có 3
phần :
-Phần I : Nêu thực trạng của vấn đề.
-Phần II : Mô tả và giới thiệu các nội dung, biện pháp chính.
-Phần III : Kết quả, bài học kinh nghiệm và kiến nghị
8
NỘI DUNG
Phần I . Nêu thực trạng của vấn đề
1. Thuận lợi khi thực hiện đề tài SKKN
Năm học 2011 – 2012 Bộ Giaó dục và Đào tạo giảm tải nội dung sách
giáo khoa tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên trong việc dạy và học hơn nững
năm qua.
Tôi được Sở GD&ĐT Bình Dương cử tham dự lớp tập huấn “Phương
pháp dạy học mới” và những năm qua đã soạn giảng khá tốt bộ giáo án điện tử
lớp 10 và lớp 12 nên có thuận lợi hơn khi áp dụng đề tài hướng dẫn học sinh
bậc THPT thực hiện ghi bài theo sơ đồ tư duy.
Trường THPT Dĩ An được Sở GD&ĐT Bình Dương đâu tư xây dựng
thành đơn vị Trường THPT chất lượng cao của Tỉnh Bình Dương và được Sở
đầu tư lắp đặt mỗi phòng học đều có một bộ máy chiếu để giáo viên giảng dạy
tại lớp. Mỗi giáo viên chỉ cầng dùng một USB ghi nội dung bài dạy và đến lớp
để sử dụng ngay trong tiêt dạy tại lớp nên rất thuận tiện cho giáo viên và học
sinh khi áp dụng phương pháp giảng dạy mới sử dụng sơ đồ tư duy.
Học sinh các lớp THPT của Bình Dương bước đầu đã được làm quen
với cách ghi bài theo sơ đồ tư duy ở các trường THCS nên các em tiếp thu cách
học mới dễ dàng hơn ở bậc THPT.
Một số phần mềm sơ đồ tư duy được phổ biến rộng rãi nên đã hỗ trợ
cho giáo viên và học sinh khi trình bày sơ đồ tư duy trên máy chiếu.
2. Khó khăn khi thực hiện đề tài SKKN
9
Khi dự giờ các tiết dạy giáo viên còn theo bảng chấm điểm cũ, hầu
như đa số giáo viên của các trường THPT đều chưa giảng dạy học sinh theo
phương pháp sử dụng sơ đồ tư duy vào trong một tiết dạy.
Giáo viên ở các trường THCS không hướng dẫn kỹ cách thực hiện cho
học sinh và chưa nêu rõ tầm quan trọng của việc dạy học theo phương pháp
mới nầy nên tôi phải cho học sinh lớp 10 và lớp 12 xem phim minh họa, hướng
dẫn học sinh cách sử dụng phần mềm, cách vẽ sơ đồ tư duy lại từ đầu (xem
phim hướng dẫn sử dụng sơ đồ tư duy theo dĩa CD đính kèm).
Phần II . Mô tả và giới thiệu các nội dung, biện pháp chính
“SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG”
1. Thực trạng và giải pháp:
1.1 Giảng dạy theo sơ đồ tư duy tăng cường tính tích cực của học sinh
Năm học 2011-2012 là năm đầu tiên ngành Giáo dục và Đào tạo triển
khai giảng dạy theo sơ đồ tư duy ở bậc học THPT. Qua thực tế cho thấy việc
giảng dạy này đã tạo hứng thú cho học sinh. Mỗi học sinh có thể tự lập sơ đồ
tư duy cho mình dưới sự hướng dẫn của giáo viên để bài học trở nên dễ thuộc,
10
dễ hiểu, dễ nhớ hơn. Cùng một nội dung nhưng các em có thể thêm nhánh,
thêm chú thích dưới dạng hình vẽ nhiều màu sắc tùy vào cách hiểu, cách lĩnh
hội kiến thức trong bài học của mình.
Ngay từ đầu năm học, sau khi đăng kí đề tài SKKN tôi đã tìm hiểu, áp
dung dạy học lịch sử bằng sơ đồ tư duy. Từ đó tôi tự lập kế hoạch giảng dạy cho
từng tiết học. Nếu không sử dụng phần mềm, giáo viên có thể linh động sử dụng
hình vẽ tay với những màu sắc, hình ảnh, từ ngữ diễn đạt khác nhau nhằm giúp
học sinh có thể nắm bắt và nhớ được phần cốt lõi của bài giảng ngay tại lớp học.
Sơ đồ tư duy đặc biệt chú trọng về màu sắc, hình ảnh với từ ngữ ngắn
gọn thể hiện qua mạng liên tưởng (các nhánh trong bài giảng). Từ phần nội
dung chính, giáo viên vẽ ra từng nhánh nhỏ theo từng tiểu mục chính của bài
giảng và chú thích, giảng giải theo một ngôn ngữ dễ hiểu và gần gũi với học
sinh.
Như vậy, thay vì phải học thuộc lòng các khái niệm, định nghĩa hay cả
bài giảng đọc chép như lúc trước, giờ đây học sinh có thể hiểu và nắm được
khái niệm qua hình vẽ. Chính sự liên tưởng theo hướng dẫn của giáo viên
cũng giúp các em nhớ được phần trọng tâm của bài giảng.
Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng học sinh
không chỉ về trí tuệ, vẽ, viết gì trên sơ đồ tư duy, hệ thống hóa kiến thức chọn
lọc những phần nào trong bài để ghi, thể hiện dưới hình thức kết hợp hình vẽ,
chữ viết, màu sắc, vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống.
Để giảng dạy theo sơ đồ tư duy, giáo viên có thể chủ động vẽ hình trên
bảng rồi cho học sinh tiếp tục lên phân nhánh sơ đồ hay để học sinh chia thành
từng nhóm nhỏ rồi tự vẽ sơ đồ theo cách hiểu của mình sau đó giáo viên định
hướng lại từng nội dung cho học sinh.
Sơ đồ tư duy thực chất là một sơ đồ mở không theo một khuôn mẫu hay
tỷ lệ nhất định mà là cách hệ thống kiến thức tạo ra một tiết học sinh động, đầy
màu sắc và thực sự hiệu quả. Giảng dạy theo sơ đồ tư duy phát huy tính tích
cực nhiều nhất trong các giờ ôn tập. Khi học sinh trở thành chủ thể thành
nhân vật trung tâm trong mỗi tiết học, các em sẽ trở nên hào hứng và hăng
say hơn trong học tập.
1.2 Giáo viên trở thành người hướng dẫn, hỗ trợ
Trước đây, giáo viên vẫn thường sử dụng sơ đồ để hệ thống kiến thức
cho học sinh nhưng học sinh vẫn là người tiếp thu một cách thụ động. Với
việc giảng dạy bằng sơ đồ tư duy, nhất là cho học sinh tự phát huy khả năng
sáng tạo của mình bằng cách tự vẽ, tự phân bố và thể hiện nội dung bài học qua
sơ đồ sau đó yêu cầu các bạn khác bổ sung những phần còn thiếu. Kết thúc bài
giảng, thay vì phải ghi chép theo cách truyền thống, học sinh có thể tự “vẽ” bài
học theo cách hiểu của mình với nhiều màu sắc và hình ảnh khác nhau. Đến tiết
học sau, chỉ cần nhìn vào sơ đồ, các em có thể nhớ được những phần trọng tâm
của bài học. Giảng dạy theo sơ đồ tư duy mang tính khả thi cao vì có thể vận
dụng được với bất kỳ điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường, có thiết kế
trên giấy, bìa, bảng bằng cách sử dụng bút chì màu, phấn màu hoặc cũng có thể
thiết kế trên phần mềm sơ đồ tư duy đã được triển khai đến từng trường. Việc vận
11
dụng sơ đồ tư duy trong dạy học sẽ dần hình thành cho học sinh tư duy mạch lạc,
hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa
học.
Sơ đồ tư duy hay bản đồ tư duy (Mind Map) là hình thức ghi chép sử
dụng màu sắc, hình ảnh nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, tóm tắt
những ý chính của một nội dung, hệ thống hoá một chủ đề. Nó là một công cụ
tổ chức tư duy được tác giả Tony Buzan (Anh) nghiên cứu kỹ lưỡng và phổ
biến rộng khắp thế giới.
Tony Buzan sinh năm 1942, chuyên gia hàng đầu thế giới về nghiên
cứu hoạt động của bộ não và là cha đẻ của Mind Map.
Phương pháp tư duy của ông được dạy và sử dụng ở khoảng 500 tập
đoàn, công ty hàng đầu thế giới; hơn 250 triệu người sử dụng phương pháp
Mind Map của Tony Buzan; khoảng hơn 3 tỷ người đã từng xem và nghe
chương trình của ông (ông đã từng sang Việt Nam năm 2007 để nói chuyện về
lĩnh vực nghiên cứu của mình).
Trong dạy học: Việc sử dụng sơ đồ tư duy huy động tối đa tiềm năng
của bộ não, giúp học sinh học tập tích cực, hỗ trợ hiệu quả các phương pháp
dạy học.
12
Vận dụng sơ đồ tư duy trong dạy học, giáo viên giúp học sinh có thói
quen tự tay ghi chép hay tổng kết một vấn đề, một chủ đề đã đọc – đã học,
theo cách hiểu của học sinh với dạng sơ đồ tư duy.
Sau khi cho học sinh làm quen với một số sơ đồ tư duy có sẵn, giáo
viên đưa ra một chủ đề chính, đặt chủ đề này ở vị trí trung tâm bảng (hoặc vào
trang vở, tờ giấy/ bìa) rồi đặt câu hỏi gợi ý để học sinh vẽ tiếp các nhánh cấp 1,
cấp 2, cấp 3 Mỗi bài học được tự vẽ kiến thức trọng tâm trên một trang
giấy, giúp học sinh dễ ôn tập, dễ xem lại kiến thức khi cần.
Đối với học sinh: Học sinh thường xuyên tự lập sơ đồ tư duy sẽ phát
triển khả năng thẩm mỹ do việc thiết kế nó phải bố cục màu sắc, các đường
nét, các nhánh sao cho đẹp, sắp xếp các ý tưởng khoa học, súc tích… Và đó
chính là để học sinh “Học cách học”: Học sinh được học để tích lũy kiến thức,
nhưng từ trước đến nay học sinh chưa biêt cách học cách để lĩnh hội những
kiến thức bộ môn lịch sử một cách hiệu quả.
Khái niệm của sơ đồ tư duy: Nguyên lý hoạt động theo nguyên tắc
liên tưởng “ý này gợi ý kia” của bộ não. Học sinh có thể tạo một sơ đồ tư duy
ở dạng đơn giản theo nguyên tắc phát triển ý: từ một chủ đề tạo ra nhiều nhánh
lớn, từ mỗi nhánh lớn lại tỏa ra nhiều nhánh nhỏ và cứ thế mở rộng ra vô tận.
(Cách vẽ cũng rất giản đơn và còn rất nhiều tiện ích khác khiến cho sơ đồ tư
duy ngày càng trở nên phổ biến toàn cầu).
1.3 Những lưu ý học sinh khi sử dụng sơ đồ tư duy
Màu sắc cũng có tác dụng kích thích bộ não như hình ảnh. Tuy nhiên,
học sinh cũng không cần phải sử dụng quá nhiều màu sắc. Học sinh có thể chỉ
cần dùng một hai màu nếu thích và muốn tiết kiệm thời gian.
Nếu học sinh thấy mất quá nhiều thời gian để tô đậm màu trong một
nhánh, thì học sinh có thể gạch chéo, đánh dấu cộng, hay chấm bi trong đó –
rất mới mẻ và tốn ít thời gian.
Vẽ nhiều nhánh cong hơn là đường thẳng để tránh sự buồn tẻ, tạo sự
mềm mại, cuốn hút.
Khi học sinh sử dụng những từ khóa riêng lẻ, mỗi từ khóa đều không
bị ràng buộc, do đó nó có khả năng khơi dậy các ý tưởng mới, các suy nghĩ
mới.
Nếu trên mỗi nhánh học sinh viết đầy đủ cả câu thì như vậyhọc sinh sẽ
dập tắt khả năng gợi mở và liên tưởng của bộ não. Não của học sinh sẽ mất
hết hứng thú khi tiếp nhận một thông tin hoàn chỉnh. Vì vậy, trên mỗi nhánh
học sinh chỉ viết một, hai từ khóa mà thôi. Khi đó, học sinh sẽ viết rất nhanh
và khi đọc lại, não của học sinh sẽ được kích thích làm việc để nối kết thông
tin và nhờ vậy, thúc đẩy năng lực gợi nhớ và dần dần nâng cao khả năng ghi
nhớ của học sinh.
Giáo viên nên thường xuyên cho học sinh sử dụng sơ đồ tư duy khi
làm việc nhóm và hệ thống kiến thức đã học trong môn học lịch sử, đặc biệt là
khi ôn tập cho các kỳ thi (dù là thi , học , đều sử dụng tốt). Sơ đồ tư duy cũng
giúp các học sinh và các thầy cô tiết kiệm thời gian làm việc ở nhà và trên lớp
13
rất nhiều với các phần mềm sơ đồ tư duy trên máy tính học sinh có thể làm tại
nhà và gửi email cho các thầy cô chấm chữa trước khi lên lớp.
2. Giảng dạy và học tập với công cụ sơ đồ tư duy
2.1 Giới thiệu đôi nét về sơ đồ tư duy
Việc phát triển tư duy cho học sinh và giảng dạy kiến thức về thế giới
xung quanh luôn là một trong những ưu tiên hàng đầu của những người làm
công tác giáo dục. Nhằm hướng học sinh đến một phương cách học tập tích
cực và tự chủ, giáo viên không những cần giúp học sinh khám phá các kiến
thức mới mà còn phải giúp học sinh hệ thống được những kiến thức đó. Việc
xây dựng được một “hình ảnh” thể hiện mối liên hệ giữa các kiến thức sẽ
mang lại những lợi ích đáng quan tâm về các mặt: ghi nhớ, phát triển nhận
thức, tư duy, óc tưởng tượng và khả năng sáng tạo…Một trong những công cụ
hết sức hữu hiệu để tạo nên các “hình ảnh liên kết” là sơ đồ tư duy.
2.2 Nguyên lý và ứng dụng sơ đồ tư duy trong dạy học
Sơ đồ tư duy (Mind Map) là một hình thức ghi chép sử dụng màu sắc
và hình ảnh, để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Kỹ thuật tạo ra loại sơ đồ này
được gọi là Mind Mapping và được phát triển bởi Tony Buzan vào những năm
1960.
Ở vị trí trung tâm sơ đồ là một hình ảnh hay một từ khóa thể hiện một
ý tưởng hay khái niệm chủ đạo. Ý trung tâm sẽ được nối với các hình ảnh hay
từ khóa cấp 1 bằng các nhánh chính, từ các nhánh chính lại có sự phân nhánh
đến các từ khóa cấp 2 để nghiên cứu sâu hơn. Cứ thế, sự phân nhánh cứ tiếp
tục và các khái niệm hay hình ảnh luôn được nối kết với nhau. Chính sự liên
kết này sẽ tạo ra một “bức tranh tổng thể” mô tả về ý trung tâm một cách đầy
đủ và rõ ràng.
Những yếu tố đã làm cho sơ đồ tư duy có tính hiệu quả cao và nền
tảng của chúng là:
Sơ đồ tư duy đã thể hiện ra bên ngoài cách thức mà não bộ chúng ta
hoạt động. Đó là liên kết, liên kết và liên kết. Mọi thông tin tồn tại trong não
bộ của con người đều cần có các mối nối, liên kết để có thể được tìm thấy và
sử dụng. Khi có một thông tin mới được đưa vào, để được lưu trữ và tồn tại,
chúng cần kết nối với các thông tin cũ đã tồn tại trước đó.
Việc sử dụng các từ khóa, chữ số, màu sắc và hình ảnh đã đem lại một
công dụng lớn vì đã huy động cả bán cầu não phải và trái cùng hoạt động. Sự
kết hợp này sẽ làm tăng cường các liên kết giữa 2 bán cầu não, và kết quả là
tăng cường trí tuệ và tính sáng tạo của chủ nhân bộ não.
Sơ đồ tư duy là một công cụ hữu ích trong giảng dạy và học tập ở
trường phổ thông cũng như ở các bậc học cao hơn vì chúng giúp giáo viên và
học sinh trong việc trình bày các ý tưởng một cách rõ ràng, suy nghĩ sáng tạo,
học tập thông qua biểu đồ, tóm tắt thông tin của một bài học hay một cuốn
sách, bài báo, hệ thống lại kiến thức đã học, tăng cường khả năng ghi nhớ, đưa
ra ý tưởng mới, v.v…
14
2.3 Giới thiệu một số phần mềm dùng để tạo sơ đồ tư duy
Một sơ đồ tư duy có thể được thực hiện dễ dàng trên một tờ giấy với
các loại bút màu khác nhau, tuy nhiên, cách thức này có nhược điểm là khó
lưu trữ, thay đổi, chỉnh sửa. Một giải pháp được hướng đến là sử dụng các
phần mềm để tạo ra sơ đồ tư duy. Một số phần mềm tiêu biểu trong thể loại
“phần mềm mind mapping” (mind mapping software).
Phần mềm Buzan’s iMindmap™: một phần mềm thương mại, tuy
nhiên có thể tải bản dùng thử 30 ngày. Phần mềm do công ty Buzan Online
Ltd. thực hiện. Trang chủ tại www.imindmap.com
Phần mềm Inspiration: sản phẩm thương mại của công ty Inspiration
Software, Inc. Sản phẩm có phiên bản dành cho trẻ em (các em từ mẫu giáo
đến lớp 5) rất dễ dùng và nhiều màu sắc. Có thể dùng thử 30 ngày. Trang chủ
tại www.inspiration.com
Phần mềm Visual Mind: sản phẩm thương mại của công ty Mind
Technologies. Phần mềm dễ sử dụng và linh hoạt trong sắp xếp các nút chứa
từ khóa. Có thể dùng thử 30 ngày. Trang chủ tại www.visual-mind.com
Phần mềm FreeMind: sản phẩm hoàn toàn miễn phí, được lập trình
trên Java. Các icon chưa được phong phú, tuy nhiên chương trình có đầy đủ
chức năng để thực hiện mind mapping. Trang chủ tại:
/>Ngoài ra, chúng ta còn có thể tham khảo một danh sách các phần mềm
loại mind mapping tại địa chỉ sau:
/>15
Mind mapping – Sơ đồ tư duy
Trước nay, chúng ta ghi chép thông tin bằng các ký tự, đường thẳng, con
số. Với cách ghi chép này, chúng ta mới chỉ sử dụng một nửa của bộ não – não
trái, mà chưa hề sử dụng kỹ năng nào bên não phải, nơi giúp chúng ta xử lý các
thông tin về nhịp điệu, màu sắc, không gian và sự mơ mộng. Hay nói cách khác,
chúng ta vẫn thường đang chỉ sử dụng 50% khả năng bộ não của chúng ta khi ghi
nhận thông tin. Với mục tiêu giúp chúng ta sử dụng tối đa khả năng của bộ não,
Tony Buzan đã đưa ra sơ đồ tư duy để giúp mọi người thực hiện được mục tiêu này
16
P
3. Tiến trình một tiết dạy theo sơ đồ tư duy
Trước khi áp dụng phương pháp "Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy
học lịch sử ở trường THPT” giáo viên giới thiệu cho học sinh xem một số
đoạn phim ngắn (có gửi kèm theo đĩa CD gắn chung với SKKN) cho học sinh
thấy hiệu quả của việc sử dụng sơ đồ tư duy khi ghi bài, học bài và hướng dẫn
học sinh cách vẽ sơ đồ tư duy gồm nội dung cả bài học trên một trang giấy rất
dễ học, dễ thực hiện và học sinh sẽ rất thích thú với mỗi tác phẩm sơ đồ tư duy
17
của mình. (Xem phim hướng dẫn phần mềm sơ đồ tư duy đính kèm trong dĩa
CD)
Sơ đồ tư duy là một công cụ tổ chức tư duy. Đây là phương pháp dễ
nhất để chuyển tải thông tin vào bộ não của học sinh rồi đưa thông tin ra
ngoài bộ não. Nó là một phương tiện ghi chép đầy sáng tạo và rất hiệu quả
theo đúng nghĩa của nó là “Sắp xếp” ý nghĩ của học sinh.
Với cách thể hiện gần như cơ chế hoạt động của bộ não, Bản đồ tư duy
sẽ giúp học sinh:
• Sáng tạo hơn
• Tiết kiệm thời gian
• Ghi nhớ tốt hơn
• Nhìn thấy bức tranh tổng thể
• Tổ chức và phân loại suy nghĩ của học sinh
• và nhiều vấn đề khác trong quá trình học tập…
Lập sơ đồ tư duy (hoặc sơ đồ ý tưởng) là việc bắt đầu từ một ý tưởng
trung tâm và viết ra những ý khác liên quan tỏa ra từ trung tâm. Bằng cách tập
trung vào những ý tưởng chủ chốt được viết bằng từ ngữ của học sinh, sau đó
tìm ra những ý tưởng liên quan và kết nối giữa những ý tưởng lại với nhau
hình thành nên một sơ đồ tư duy. Tương tự, nếu học sinh lập một sơ đồ kiến
thức, nó sẽ giúp học sinh hiểu và nhớ những thông tin mới và nắm kiến thức
sâu hơn
Hướng dẫn học sinh sử dụng những đường thẳng, màu sắc, mũi tên,
nhánh rẽ hoặc những cách khác để thể hiện kết nối giữa những ý tưởng được
đưa ra trong bản đồ tư duy của học sinh. Những mối quan hệ này sẽ quan trọng
khi học sinh đang tìm hiểu những thông tin mới hoặc xây dựng cấu trúc của
một bài học. Bằng cách cá nhân hoá sơ đồ với những ký hiệu và thiết kế riêng
của mỗi học sinh, học sinh sẽ xây dựng được những mối quan hệ trực quan và
có ý nghĩa giữa những ý tưởng; điều này sẽ hỗ trợ học sinh rất nhiều trong việc
gợi nhớ và hiểu.
Ý tưởng của bản đồ tư duy là suy nghĩ sáng tạo và liên kết bằng một
cách thức phi tuyến tính. Có rất nhiều thời gian để chỉnh sửa thông tin sau này
nhưng ở bước đầu tiên, việc đưa mọi khả năng vào bản đồ là rất quan trọng.
Đôi khi một trong những khả năng tưởng như là không thể ấy lại trở thành ý
tưởng chủ chốt đưa học sinh đến kiến thức đó.
Vài học sinh phát hiện rằng sử dụng những kí tự viết hoa sẽ thu hút
các em chỉ chú ý vào những điểm chính. Chữ viết hoa cũng dễ đọc hơn trong
một sơ đồ. Tuy nhiên, học sinh có thể viết vài ghi chú, giải thích bằng chữ viết
thường. Một số học sinh làm thế để khi cần xem lại bản đồ tư duy một thời
gian sau, trong lúc số khác lại dùng để ghi lại những đánh giá, phê bình.
Hầu hết học sinh đều thấy tiện dụng khi lật ngang trang giấy và vẽ sơ
đồ tư duy của các em theo chiều ngang. Đặt ý tưởng hoặc chủ đề chính vào
chính giữa trang giấy, ta sẽ có có không gian tối đa cho những ý khác tỏa ra từ
trung tâm.
18
Vài sơ đồ tư duy hữu dụng nhất thường được học sinh bổ sung hoàn
chỉnh trong một khoảng thời gian dài tiếp tục sau nầy trong quá trình học tập
của các em. Sau lần vẽ ban đầu, học sinh có thể muốn làm nổi bật vài thứ,
thêm thông tin hoặc thêm vài câu hỏi. Vì vậy, để trống nhiều chỗ trên bản đồ
là một ý hay để sau đó học sinh có thể thêm vào những ý tưởng mới.
Hướng dẫn học sinh làm sơ đồ tư duy
Đây là những thành phần cấu tạo nên một bản đồ tư duy, mặc dù
chúng có thể được chỉnh sửa tự do theo ý muốn cá nhân.
• Bắt đầu ở trung tâm với một bức ảnh của chủ đề, sử dụng ít nhất 3
màu.
• Sử dụng hình ảnh, ký hiệu, mật mã, mũi tên trong bản đồ tư duy
của bạn.
• Chọn những từ khoá và viết chúng ra bằng chữ viết hoa.
• Mỗi từ/hình ảnh phải đứng một mình và trên một dòng riêng.
• Những đường thẳng cần phải được kết nối, bắt đầu từ bức ảnh
trung tâm. Những đường nối từ trung tâm dày hơn, có hệ thống và
bắt đầu ốm dần khi toả ra xa.
• Những đường thẳng dài bằng từ/hình ảnh.
• Sử dụng màu sắc – mật mã riêng của bạn – trong khắp sơ đồ.
• Phát huy phong cách cá nhân riêng của học sinh.
• Sử dụng những điểm nhấn và chỉ ra những mối liên kết trong sơ
đồ tư duy của mỗi học sinh.
• Làm cho sơ đồ rõ ràng bằng cách phân cấp các nhánh, sử dụng số
thứ tự hoặc dàn ý để bao quát các nhánh của sơ đồ tư duy.
Sơ đồ tư duy của học sinh là tài sản riêng của học sinh: một khi học
sinh hiểu cách tạo ra những ghi chú trong sơ đồ tư duy, học sinh có thể phát
huy các quy tắc của riêng mình để làm cho nó tốt hơn. Những đề nghị sau đây
có thể giúp học sinh tăng hiệu quả của việc đó:
* Sử dụng những từ ngữ đơn giản thể hiện thông tin: Hầu hết các từ
trong cách viết bình thường đều là nhồi nhét, bởi vì chúng đảm bảo rằng thông
tin được chuyển tải đúng ngữ cảnh và trong một dạng thức dễ đọc. Trong sơ đồ
tư duy của học sinh, những từ khóa có ý nghĩa có thể chuyển tải cùng ý nghĩ
như thế một cách rõ ràng hơn. Những từ dư thừa chỉ làm sơ đồ lộn xộn
* Chữ in: Cách viết dính nhau hoặc không rõ ràng sẽ khó đọc hơn.
* Sử dụng màu sắc để tách các ý khác nhau: Điều này sẽ giúp học
sinh tách các ý ra khi cần thiết. Nó cũng giúphọc sinh làm sơ đồ trực quan hơn
để gợi nhớ lại. Màu sắc cũng giúp cho việc sắp xếp các chủ đề.
* Sử dụng những ký hiệu và hình ảnh: Khi một ký hiệu hoặc hình
ảnh có ý nghĩa gì đó với học sinh, hãy sử dụng chúng. Hình ảnh có thể giúp
học sinh nhớ thông tin hiệu quả hơn là từ ngữ.
* Sử dụng liên kết đan chéo: Thông tin trong một phần của sơ đồ có
thể liên quan đến phần khác. Khi đó, học sinh có thể vẽ những đường thẳng để
19
chỉ ra sự liên quan đan chéo. Việc này sẽ giúp cho học sinh thấy mức ảnh
hưởng một phần trong chủ đề đến các phần khác.
* Chú ý: Lập sơ đồ tư duy là một cách thức cực kỳ hiệu quả để ghi
chú. Các bản đồ tư duy không chỉ cho thấy các thông tin mà còn cho thấy cấu
trúc tổng thể của một chủ đề và mức độ quan trọng của những phần riêng lẻ
trong đó đối với nhau. Nó giúp học sinh liên kết các ý tưởng và tạo các kết nối
với các ý khác.
Kiểm tra bài cũ : giáo viên goi học sinh lên bảng thuyết trình sơ đồ tư
duy của bài học cũ trước lớp. Giáo viên và các bạn khác có thể đặt thêm câu
hỏi để học sinh trả lời. Bắt buộc 100% hoc sinh phải có sơ đồ tư duy bài học
cũ và các sơ đồ tư duy được học sinh lưu trong bìa giấy hoặc một túi hồ sơ để
sử dụng khi ôn tập và khi giáo viên kiểm tra thay cho vỡ ghi bài. Học sinh
cũng có thể có một tập nháp vẽ sơ đồ tư duy ngay tại lớp trong giờ học. Về nhà
học sinh sẽ tự chỉnh sửa sơ đồ tư duy bằng hình vẽ bằng tay hoặc bằng phần
mềm vẽ sơ đồ tư duy và lưu trên máy tính cá nhân để ôn tập các kì thi.
20
Dạy bài mới : Giáo viên giới thiệu bài mới và vẽ chủ đề chính của bài
học lên bảng bằng một hình vẽ bất kì trên bảng của lớp mà không ghi bài theo
kiểu cũ và giáo viên cho học sinh ngồi theo nhóm thảo luận sơ đồ tư duy của
mỗi học sinh đã chuẩn bị trước ở nhà để đối chiếu với sơ đồ tư duy của các
bạn trong nhóm.
Giáo viên đặt câu hỏi chủ đề nội dung chính hôm nay có mấy nhánh
lớn cấp số 1 và gọi học sinh học sinh lên bảng vẽ nối tiếp chủ đề chia thành
các nhánh lớn trên bảng có ghi chú thích tên từng nhánh lớn.
Sau khi học sinh vẽ xong các nhánh lớn cấp số 1, giáo viên đặt câu hỏi
tiếp ở nhánh thứ nhất có mấy nhánh nhỏ cấp số 2 tương tự học sinh đã hoàn
thành nội dung sơ đồ tư duy của bài học mới ngay tại lớp. Học sinh tự chỉnh
sửa điều chỉnh bổ sung những phần còn thiếu vào sơ đồ tư duy của từng cá
nhân.
Để minh họa cho sơ đồ tư duy giáo viên sẽ cho học sinh xem những
hình ảnh , đoạn phim ngắn minh họa cho rõ ý hơn của từng nhánh cấp độ 1,
cấp độ 2 Khi cho học sinh xem hình ảnh và phim minh họa giáo viên phải
giáo dục tư tưởng tình cảm học sinh khi có liên quan đến phần tích hợp tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, đến lịch sử địa phương của huyện Dĩ An và tỉnh
Bình Dương theo tài liệu hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo và tài liệu
Lịch sử địa phương của Sở Giáo dục và Đào tạo Bình Dương đã phổ biến đến
giáo viên.
Củng cố : Giáo viên gọi học sinh lên bảng trình bày nội dung sơ đồ tư
duy mà các em đã thực hiện. Gọi một vài em đã vẽ sơ đồ tư duy bằng phần
mềm www.mind-map.com dùng USB gắn vào máy tính trình chiếu và thuyết
trình trước lớp cho các bạn theo dõi nội dung bài học. Giáo viên nhận xét đánh
giá cho điểm và dặn dò học sinh chuẩn bị bài học lần sau.
Lưu ý khi đặt câu hỏi cho học sinh trả lời giáo viên nên hỏi những
câu liên quan đến sự thông hiểu để học sinh vận dụng khi làm bài bài kiểm tra.
21
Khi học sinh trả lời giáo viên nên động viên khuyến khích và có thể hỏi tiếp
những câu có liên quan đến kiến thức của bài học cũ để học sinh vừa học kiến
thức mới, vừa ôn tập kiến thức cũ đã học.
Ví dụ minh họa : Sơ đồ tư duy bài 23 lịch sử 12 của học sinh
Nguyễn Trần Thúy An lớp 12 B5
Sơ đồ tư duy, là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng
một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức,… bằng cách
kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với
sự tư duy tích cực. Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết
chặt chẽ như bản đồ địa lí, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ
một kiểu khác nhau, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau,
cùng một chủ đề nhưng mỗi người có thể “thể hiện” nó dưới dạng sơ đồ tư duy
theo một cách riêng, do đó việc lập sơ đồ tư duy phát huy được tối đa khả năng
sáng tạo của mỗi người.
Sơ đồ tư duy chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới
liên tưởng (các nhánh). Có thể vận dụng sơ đồ tư duy vào hỗ trợ dạy học kiến
thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hóa kiến thức
sau mỗi chương, mỗi học kì
22
Giáo viên có thể tổ chức một số hoạt động khác sau đây khi sử dung
sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử ở trường THPT:
Hoạt động 1: Lập sơ đồ tư duy : Mở đầu bài học, giáo viên có thể cho
học sinh lập sơ đồ tư duy theo nhóm hay cá nhân với các gợi ý của giáo viên.
Hoạt động 2: Báo cáo, thuyết minh về sơ đồ tư duy : Cho một
vài học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo, thuyết minh về
sơ đồ tư duy mà nhóm mình đã thiết lập. Qua hoạt động này vừa biết rõ việc
hiểu kiến thức của các em vừa là một cách rèn cho các em khả năng thuyết
trình trước đông người, giúp các em tự tin hơn, mạnh dạn hơn, đây cũng là một
trong những điểm cần rèn luyện của học sinh hiện nay.
Hoạt động 3: Thảo luận, chỉnh sửa, hoàn thiện sơ đồ tư duy : Tổ
chức cho học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện sơ đồ tư duyvề
kiến thức của bài học. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh
hoàn chỉnh sơ đồ tư duy về hình thức, từ đó dẫn dắt đến kiến thức trọng tâm
của bài học.
Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một sơ đồ tư duy : Giáo viên
cho học sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức bài học thông qua một sơ
đồ tư duy do giáo viên đã chuẩn bị sẵn (vẽ ở bảng phụ hoặc ở bìa), hoặc sơ đồ
tư duy mà các em vừa thiết kế và cả lớp đã chỉnh sửa, hoàn thiện. Giáo viên có
thể giới thiệu sơ đồ tư duy khác của học sinh chuẩn bị ở nhà bằng phần mềm
mind – map (vì sơ đồ tư duy là một sơ đồ mở nên không yêu cầu tất cả các
nhóm học sinh có chung 1 kiểu sơ đồ tư duy, Giáo viên chỉ nên chỉnh sửa cho
23
học sinh về mặt kiến thức và góp ý thêm về đường nét vẽ và hình thức – nếu
cần).
Khi học sinh đã thiết kế sơ đồ tư duy và tự “ghi chép” phần kiến thức
như trên là các em đã hiểu sâu kiến thức và biết chuyển kiến thức từ sách giáo
khoa theo cách trình bày thông thường thành cách hiểu, cách ghi nhớ riêng
của mình.
Ví dụ minh họa : Sơ đồ tư duy của hoc sinh Lê Thị Hà Xuyên lớp 12
A1 (trình bày khác với sơ đồ tư duy của học sinh Nguyễn Trần Thúy An lớp
12 B5 nhưng nội dung bài học vẫn giống nhau)
24
Có thể tóm tắt một số hoạt động dạy học trên lớp với sơ đồ tư duy:
Hoạt động 1: học sinh lập sơ đồ tư duy theo nhóm hay cá nhân với gợi
ý của giáo viên.
Hoạt động 2: học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo
cáo, thuyết minh về sơ đồ tư duy mà nhóm mình đã thiết lập.
Hoạt động 3: học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện sơ
đồ tư duy về kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng
tài giúp học sinh hoàn chỉnh sơ đồ tư, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
Hoạt động 4: củng cố kiến thức bằng một sơ đồ tư duy mà giáo viên
đã chuẩn bị sẵn hoặc một sơ đồ tư duy mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn
chỉnh, cho học sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó.
Lưu ý: Sơ đồ tư duy là một sơ đồ mở nên không yêu cầu tất cả các
nhóm học sinh có chung một kiểu sơ đồ tư duy, Giáo viên chỉ nên chỉnh sửa
cho học sinh về mặt kiến thức, góp ý thêm về đường nét vẽ, màu sắc và hình
thức (nếu cần).
Sử dụng sơ đồ tư duy sẽ dễ dàng hơn trong việc phát triển ý tưởng, tìm
tòi xây dựng kiến thức mới. Nhờ sự liên kết các nét vẽ cùng với màu sắc thích
hợp và cách diễn đạt riêng của mỗi người, Sơ đồ tư duy giúp bộ não liên
tưởng, liên kết các kiến thức đã học trong sách vở, đã biết trong cuộc sống…
để phát triển, mở rộng ý tưởng. Sau khi học sinh tự thiết lập sơ đồ tư duy kết
hợp việc thảo luận nhóm dưới sự gợi ý, dẫn dắt của giáo viên dẫn đến kiến
thức của bài học một cách nhẹ nhàng, tự nhiên.
25