Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

câu hỏi và trả lời đề cương môn Lý luận đảng cầm quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.74 KB, 47 trang )

MÔN: LÝ LUẬN ĐẢNG CẦM QUYỀN

1


Câu 1. Phân tích, làm rõ điều kiện xác lập và duy trì vai trò lãnh đạo của
Đảng?
Đều kiện xác lập vai trò lãnh đạo của Đảng
Điều kiện khách quan
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển mạnh sang giai
đoạn chủ nghĩa đế quốc. Đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa đế quốc là vơ vét lợi nhuận
độc quyền, bóc lột tàn tệ giai cấp vô sản và những người lao động trong nước, đồng
thời mở rộng việc xâm chiếm thuộc địa, áp đặt và thực hiện chế độ thực dân đối với
các nước nhỏ, nghèo, kém phát triển ở châu Á, châu Phi và nhiều nơi khác nhằm mở
rộng thị trường, khai thác sức người, sức của vì lợi ích kinh tế và mưu đồ chính trị tàn
bạo của giai cấp tư sản của các nước đế quốc, thực dân. Mâu thuẫn giữa các dân tộc
thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc, thực dân, phong trào yêu nước và cách mạng ở các
nước thuộc địa trở thành một nội dung lớn của thời đại.
Trong bối cảnh đó, loài người đã chứng kiến một sự kiện rung chuyển thế giới
- Cách mạng tháng Mười Nga 1917. Đó là cuộc cách mạng vô sản do Đảng Cộng sản
Bônsêvích và Lênin lãnh đạo đã chặt đứt mắt xích yếu nhất trong chuỗi xích của chủ
nghĩa đế quốc, mở ra thời đại mới của lịch sử nhân loại - thời đại quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, hiện thực hóa lý luận của chủ nghĩa Mác, biến chủ nghĩa xã hội từ khoa
học thành hiện thực.
Cách mạng tháng Mười Nga còn giải phóng các quốc gia, dân tộc vốn là thuộc
địa của đế quốc Nga, đưa họ phát triển theo con đường mới, gắn liền giữa giải phóng
dân tộc với giải phóng giai cấp, những người lao động giải phóng xã hội con người.
Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược từ năm 1858. Với việc ký hòa ước Patơnốt
(Patennôtre) với triều đình phong kiến nhà Nguyễn ngày 6/6/1884, thực dân Pháp đã
đặt được ách thống trị và biến Việt Nam thành thuộc địa của Pháp. Mâu thuẫn giữa
dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp ngày càng gay gắt, dẫn tới bùng phát nhiều


phong trào đấu tranh chống thực dân giành độc lập suốt từ cuối thế kỷ XIX và 30
năm đầu thế kỷ XX.

2


Tất cả các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp theo các xu hướng khác
nhau (phong kiến, nông dân, dân chủ tư sản và tiểu tư sản) trên đây, qua khảo nghiệm
lịch sử đều lần lượt thất bại.
Nguyên nhân thất bại là thiếu cơ sở tư tưởng, lý luận, thiếu học thuyết cách
mạng đúng đắn dẫn đường; thiếu cương lĩnh, đường lối chính trị phù hợp nhằm giải
quyết triệt để những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của xã hội; không tập hợp, đoàn
kết được lực lượng của toàn dân tộc để tạo nên sức mạnh cần thiết của một tổ chức
Đảng cách mạng có năng lực tổ chức và lãnh đạo phong trào của toàn dân tộc. Trong
bối cảnh lịch sử đó Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh vì Tổ quốc (5/6/1911) ra nước
ngoài xem người ta làm như thế nào để trở về giúp đồng bào mình, đó là sự khởi đầu
của quá trình đi tìm con đường cứu nước đúng đắn.
Người đến nước Pháp, rồi đi các nước châu Phi, châu Mỹ, đến nước Mỹ, nước
Anh và trở lại nước Pháp năm 1917. Suốt lộ trình đó, Nguyễn Ái Quốc được mở rộng
tầm nhìn, tiếp cận với nhiều giá trị văn hóa, văn minh của nhân loại, nhưng cũng
chứng kiến biết bao cảnh áp bức, bất công, sự cùng khổ của người dân lao động ngay
trong các nước tư bản và nhất là các nước thuộc địa. Tại Pari (Pháp), Nguyễn Ái
Quốc tìm hiểu về cách mạng tháng Mười và các cuộc cách mạng khác trên thế giới,
nghiên cứu chủ nghĩa Mác, tham gia Đảng xã hội Pháp, hiểu được tư tưởng của Lênin
về con đường và giải pháp để triệt để giải phóng các dân tộc thuộc địa bị áp bức, tin
theo Lênin và Quốc tế cộng sản, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp tìm thấy con
đường giải phóng đúng đắn gắn liền giải phóng dân tộc với giải phóng xã hội, giai
cấp, con người. Cả hai công cuộc giải phóng vĩ đại đó chỉ có thể là sự nghiệp của chủ
nghĩa cộng sản, của Đảng Cộng sản.
Con đường cách mạng của Nguyễn Ái Quốc cứu nước, giải phóng dân tộc

hướng vào quỹ đạo cách mạng vô sản, con đường xã hội chủ nghĩa là rất rõ ràng. Với
nhiều hình thức và thông qua các tờ báo L’Humanité (Nhân đạo), La Vie Ouvriere
(Đời sống công nhân) của Đảng Cộng sản Pháp, Le Paria (Người cùng khổ), báo
Thanh niên tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Đường Cách mệnh
(1927)....

Đồng.LL Đảng CQ.6.2012

3


Nguyễn Ái Quốc truyền bá lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin với con đường cách
mạng đó vào trong nước. Tư tưởng và con đường phát triển cách mạng đó được nhiều
thanh niên, trí thức và công nhân ở trong nước đón nhận và nhận thức rõ tính đúng
đắn của xu hướng hoàn toàn mới đó. Đương nhiên đi vào con đường đấu tranh mới,
theo Nguyễn Ái Quốc, cần phải nhận thức đúng đắn của xu hướng hoàn toàn mới đó.
Đương nhiên đi vào con đường đấu tranh mới, theo Nguyễn Ái Quốc cần phải
nhận thức đúng đắn về CNXH, chủ nghĩa cộng sản và năm 1921, Nguyễn Ái Quốc dự
báo rằng do đ.kiện về truyền thống lịch sử, văn hoá và tư tưởng mà chủ nghĩa cộng
sản có thể xâm nhập và thực hiện ở châu Á và Đông Dương dễ dàng hơn châu Âu, sự
nghiệp cách mạng của các dân tộc phương Đông có thể chủ động giành thắng lợi và
còn có khả năng giúp đỡ với những người anh em ở phương Tây.
Nhận thức về tư duy lý luận của Nguyễn Ái Quốc không giáo điều mà phản
ánh hiện thực sâu sắc và với một tầm nhìn chiến lược. Điều đó, không chỉ định hướng
đúng đắn cho đông đảo những người yêu nước mà còn thuyết phục được những nhà
yêu nước lớn đầu thế kỷ XX như Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu. Khi còn ở Pháp,
Phan Châu Trinh đã đặt niềm tin vào con đường của Nguyễn Ái Quốc.
Ngày 18/2/1922, trong thư gửi Nguyễn Ái Quốc, Phan Châu Trinh tự nhận
mình như "cây già" "hoa sắp tàn", còn Nguyễn Ái Quốc như "cây đương lộc", "nghị
lực có thừa, dày công học hỏi, lý thuyết tinh thông", và khuyên Nguyễn Ái Quốc trở

về nước "hô hào đồng bào đồng tâm hiệp lực đánh đổ cường quyền áp chế". Và như
vậy Phan Châu Trinh đã thấy rõ con đường cải cách ôn hoà không thể thực hiện được
khi đất nước còn bị đế quốc, thực dân cai trị.
Với thực tế hoạt động trong Đảng Cộng sản Pháp và từ năm 1923 làm việc
trong Quốc tế cộng sản, năm 1924 về Quảng Châu (Trung Quốc) chứng kiến vai trò
và hoạt động của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc dân Đảng Trung Hoa, Nguyễn
Ái Quốc càng thấy rõ sự cần thiết phải có một Đảng cách mạng chân chính mới có
thể đưa sự nghiệp cách mạng của giai cấp và dân tộc đi đến mục tiêu giải phóng.
Nguyễn Ái Quốc kết luận: Cách mạng trước hết phải có Đảng cách mạng.
Thấy rõ sự cần thiết đó, với uy tín chính trị trong dân tộc và vai trò, trách nhiệm trong
Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ
4


chức cộng sản họp từ ngày 6/1 - 7/2/1930 tại Hương Cảng (Trung Quốc) để thành lập
ĐCSVN.
Đó là thời điểm có ý nghĩa bước ngoặt lịch sử, xác lập vai trò, vị trí lãnh đạo
duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vai trò, vị trí đó được không ngừng củng cố
và phát triển từ thực tiễn lãnh đạo đấu tranh cách mạng của Đảng suốt từ năm 1930
đến nay. Đó không chỉ là thành quả của sự sàng lọc, lựa chọn của chính lịch sử mà
thể hiện sứ mệnh và trách nhiệm nặng nề của Đảng trước vận mệnh của đất nước giai
cấp và dân tộc, trước toàn thể nhân dân Việt Nam.
Điều kiện chủ quan:
Vai trò, vị trí lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản đối với cách mạng Việt
Nam không phải tự nhiên được xác định. Đó là kết quả của quá trình chuẩn bị công
phu, khoa học về mọi mặt và sự trải nghiệm thực tiễn từ quá trình đấu tranh cách
mạng. Cương lĩnh chính trị đầu tiên được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng, do
Nguyễn Ái Quốc soạn thảo (3/2/1930) đã nhằm vào giải quyết triệt để mâu thuẫn dân
tộc và mâu thuẫn giai cấp, xác định mục tiêu đánh đổ sự thống trị của chủ nghĩa đế
quốc và chế độ phong kiến giành độc lập hoàn toàn cho dân tộc, ruộng đất cho dân

cày, đi tới xã hội cộng sản.
Cương lĩnh cũng xác định phải tập hợp đoàn kết lực lượng của toàn dân tộc,
nhất là công nhân, nông dân; xác định những mục tiêu bước ngoặt về dân sinh, dân
chủ, phương pháp đấu tranh, mối quan hệ quốc tế và nhấn mạnh vấn đề xây dựng
Đảng và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Tiếp đó là Luận cương chính trị tháng 10/1930, sự phát triển hoàn chỉnh đường
lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng qua các Hội nghị Trung ương (11/1939),
(11/1940) và nhất là Hội nghị Trung ương do Nguyễn Ái Quốc chủ trì (5/1941) đã tạo
nên cao trào cách mạng toàn quốc rộng lớn, mạnh mẽ dẫn tới thắng lợi của Cách
mạng tháng Tám năm 1945.
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp, Luận cương cách mạng Việt
Nam thông qua tại Đại hội II của Đảng (2/1951) đã dẫn tới thắng lợi của kháng chiến
mở đường để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đường lối cách mạng miền Nam và
kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã dẫn đến toàn thắng, 30/4/1975 hoàn thành cách
Đồng.LL Đảng CQ.6.2012

5


mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước. Không có Cương lĩnh, đường lối đúng
đắn không thể có được những thắng lợi vẻ vang đó.
Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc do Đại hội III của Đảng
(9/1960) đề ra và đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước được xác định tại
Đại hội IV của Đảng (12/1976) đã bước đầu thực hiện mục tiêu xây dựng chủ nghĩa
xã hội mà các cương lĩnh trước đây đã đề ra. Quá trình xây dựng đó có những thành
công nhưng cũng bộc lộ nhiều khuyết điểm.
Đại hội VI của Đảng (12/1986) đã phân tích những sai lầm, khuyết điểm, yếu
kém trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và đề ra đường lối đổi mới. Đại hội VII của
Đảng (6/1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.

Đường lối đổi mới và Cương lĩnh 1991 của Đảng đã đưa sự nghiệp đổi mới cuộc canh tân vĩ đại trong lịch sử dân tộc không ngừng phát triển, giành được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đảng Cộng sản Việt Nam một lần nữa thể hiện
trách nhiệm lớn lao trước dân tộc và lịch sử.
Vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng vẫn không ngừng được củng cố, phát triển từ
trong bản chất cách mạng, khoa học và tư tưởng, lý luận của Đảng, từ sự đúng đắn và
không ngừng hoàn thiện Cương lĩnh, đường lối chính trị, từ sự không ngừng đổi mới
phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, từ sự
rèn luyện, không ngừng theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Vị trí lãnh đạo duy nhất của Đảng không bao giờ thay đổi, vì ngoài lợi ích của
giai cấp, dân tộc và nhân dân Đảng Cộng sản Việt Nam không có lợi ích nào khác; vì
Đảng chính là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của
cả dân tộc; vì đạo cao nhất của Đảng là vì nước, vì dân.
Hoàn cảnh lịch sử đã tạo dựng và xác lập vị trí lãnh đạo duy nhất của Đảng
Cộng sản Việt Nam và chính trí tuệ, năng lực lãnh đạo, tổ chức thực tiễn của Đảng đã
không ngừng khẳng định, củng cố vị trí đó.
Điều kiện duy trì vai trò lãnh đạo của Đảng
Trong bối cảnh, thời cơ và thách thức đan xen như hiện nay, vai trò lãnh đạo
của Đảng càng cực kỳ quan trọng và luôn là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng
6


lợi của cách mạng nước ta. Để đảm đương và duy trì được vai trò lãnh đạo, Đảng
phải tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính
tiền phong để xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, có tầm trí tuệ cao, có
phương thức lãnh đạo khoa học... Muốn vậy, cần tập trung vào một số vấn đề trọng
tâm sau:
Một là, Đảng ta cần tiếp tục nâng tầm trí tuệ và đổi mới tư duy để lãnh đạo
toàn diện đất nước phù hợp với diễn biến nhanh chóng, mau lẹ của thực tế; phù hợp
với đường lối đổi mới của cách mạng Việt Nam. Mỗi đảng viên phải nhận thức đúng,
đầy đủ trách nhiệm của mình khi tự nguyện đứng trong hàng ngũ của Đảng và tuyên

thệ dưới cờ Đảng để cố gắng phấn đấu thực hiện tốt các nhiệm vụ của người đảng
viên và mọi nhiệm vụ được giao. Đảng lãnh đạo thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên
của mình hoạt động trong mọi lĩnh vực. Do đó, cần xây dựng đội ngũ đảng viên có
bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và đường lối
đổi mới của Đảng; có phẩm chất đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, "cần kiệm
liêm chính, chí công vô tư"; có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ được giao và có khả năng tổng kết, giải đáp những vấn đề thực tiễn của thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; đồng thời mỗi đảng viên phải xây dựng cho
mình phương pháp và tác phong công tác, làm cho mỗi đảng viên và cán bộ phải thật
sự thấm thuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải
giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ
thật trung thành của nhân dân như căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc đi xa.
Hai là, nêu cao vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, nhất là người đứng
đầu cấp ủy. Điều lệ Đảng đã quy định rõ, cấp ủy là cơ quan lãnh đạo của Đảng giữa
hai kỳ đại hội. Như vậy, cấp ủy, nhất là người đứng đầu cấp ủy có vai trò, trách
nhiệm quyết định đối với hoạt động và hiệu quả lãnh đạo của Đảng và cũng là biểu
hiện tập trung Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng. Thực tế cho thấy vai trò của
người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng là cực kỳ quan trọng. Họ có quyền và trách
nhiệm thay mặt cấp ủy, tổ chức đảng. Trình độ, năng lực, sự trong sạch, gương mẫu
của các cấp ủy viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy là nhân tố hàng đầu bảo đảm hiệu
Đồng.LL Đảng CQ.6.2012

7


quả lãnh đạo của Đảng. Sự gương mẫu, tiên phong của cấp ủy viên, nhất là người
đứng đầu cấp ủy, ở cấp càng cao thì sự lan tỏa, sức thuyết phục đối với đội ngũ đảng
viên, nhân dân càng rộng lớn và còn có giá trị thuyết phục cao hơn nhiều những bài
thuyết giáo chung chung. Nhưng nếu người đứng đầu cấp ủy suy thoái đạo đức hoặc

lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng nhất là ở cấp
vĩ mô "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" thì điều đó là nguy hiểm khôn lường đối với
Đảng và chế độ mà sự tan rã của Đảng Cộng sản Liên Xô và các nước XHCN ở Đông
Âu đã cho ta bài học đắt giá. Cần quy định rõ trách nhiệm thông qua các tiêu chí cụ
thể đánh giá người đứng đầu cấp ủy trong lãnh đạo thực hiện công tác xây dựng Đảng
và nhiệm vụ chính trị, chuyên môn của cơ quan, đơn vị mình, đặc biệt cần tập trung
vào trách nhiệm trong công tác tổ chức cán bộ và phát triển đội ngũ kế cận. Đảng ta
thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, mà thực chất công tác
cán bộ là của cấp ủy và trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy. Nếu coi việc đề bạt,
bổ nhiệm cán bộ là một đặc ân, đặc quyền của Đảng thì sẽ là nguy cơ lớn đối với
Đảng. Do đó, việc lựa chọn đúng người, xếp đúng việc là việc quan trọng hàng đầu
trong tổ chức cán bộ.
Ba là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội một
cách toàn diện trên các mặt phong cách, nội dung, phương pháp. Về phong cách lãnh
đạo phải gần dân, nghe dân, học dân và trọng dân theo đúng tư tưởng "lấy dân làm
gốc" và "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát"; học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh bằng các hành động thiết thực, cụ thể trong công việc,
trong quan hệ với nhân dân, đồng chí, đồng nghiệp, gia đình... nhằm khắc phục triệt
để tình trạng quan liêu, xa dân, ngại tiếp xúc với dân, không nghe ý kiến phê bình,
phản biện của dân, thậm chí còn chèn ép dân của một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Điều đó làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Cần phân định rõ chủ thể lãnh
đạo với chủ thể quản lý để không có sự "lấn sân", bao biện làm thay của chủ thể lãnh
đạo, hoặc ngược lại, buông lỏng lãnh đạo và quản lý, xác định rõ nguyên tắc, nội
dung, phương pháp, hình thức và thẩm quyền, trách nhiệm của chủ thể lãnh đạo và
của đối tượng chịu sự lãnh đạo bằng các nguyên tắc, quy định, quy chế, quy trình,...
cụ thể.
8


Bốn là, mở rộng dân chủ ngoài xã hội; thực hành dân chủ thật sự trong Đảng.

Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân, biết kế thừa những tinh hoa dân chủ của các Nhà nước pháp quyền trong
lịch sử và đã, đang phát triển lên tầm cao mới, khác hẳn về bản chất và cao hơn gấp
vạn lần so với dân chủ tư sản, nhưng chưa tuyên truyền, giáo dục cho người dân hiểu
đúng về dân chủ đi liền với kỷ cương nên một số người đã cố tình lợi dụng dân chủ
để gây rối, chia rẽ làm tác động xấu đến trật tự, an toàn xã hội.
Năm là, tăng cường giữ gìn kỷ luật, tạo sự đoàn kết nhất trí của Đảng là sức
mạnh vô địch của Đảng. Đảng điều chỉnh hành vi của các tổ chức đảng, đảng viên
bằng kỷ luật của mình. Buông lỏng kỷ luật, sớm hay muộn Đảng sẽ bị suy yếu, tan rã.
C. Liên hệ vận dụng: Mỗi cá nhân tự làm.

Đồng.LL Đảng CQ.6.2012

9


Câu 2. Phân tích phương thức xác lập và điều kiện duy trì vai trò cầm
quyền của đảng?
1. Khái niệm Đảng cầm quyền
Khái niệm "Đảng cầm quyền" có nội dung rộng hơn "Đảng lãnh đạo chính
quyền". Có thể một Đảng nào đó thực tế đã lãnh đạo chính quyền, định hướng cho
việc xây dựng và hoạt động của chính quyền nhưng chưa trở thành Đảng cầm quyền.
Đảng cầm quyền lãnh đạo, điều khiển hoạt động của chính quyền một cách trực tiếp
và toàn diện bằng nhiều phương thức, trong đó bao hàm phương thức là đảng viên
của Đảng trực tiếp tham gia Bộ máy quyền lực Nhà nước và có vai trò quyết định đối
với bộ máy đó. Tiêu chí tối thiểu của một Đảng cầm quyền là phải đảm bảo nắm chắc
một đa số cần thiết trong cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, đồng thời là cơ quan
lập pháp duy nhất, đó là quốc hội, đa số này có thể bao gồm đảng viên và những
người ngoài Đảng ủng hộ đường lối của Đảng, được nhân dân tín nhiệm. Đối với
những cơ quan quyền lực Nhà nước cũng phải đảm bảo "người của Đảng" có ảnh

hưởng quyết định.
Lênin không phải là người đầu tiên đưa ra khái niệm “ Đảng chấp chính”"Đảng cầm quyền". Song, Lênin là người đầu tiên nêu rõ khái niệm "Đảng cầm
quyền". Trong một loạt tác phẩm: Làm gì?; Một bước tiến, hai bước lùi; Hai sách
lược của Đảng dân chủ - xã hội trong cách mạng dân chủ, một mặt Lênin đã tỏ rõ
thái độ không khoan nhượng trước "Chủ nghĩa kinh tế", mặt khác đã luận chứng về
vai trò "không thể có một lý luận nào ngoài chủ nghĩa Mác cả" đối với Đảng cách
mạng và đối với phong trào cách mạng. Người viết: "không thể có một Đảng xã hội
chủ nghĩa vững mạnh, nếu không có lý luận cách mạng để đoàn kết những người xã
hội chủ nghĩa lại, để họ rút ra từ trong lý luận đó tất cả những tín điều của họ và đem
áp dụng những tín điều đó vào những phương pháp tranh đấu và phương pháp hành
động của họ"(1) và "không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào
cách mạng… chỉ Đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả
năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong".
Là học trò xuất sắc của nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học, ngay khi
mới bắt đầu gặp chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã sớm ý thức được yêu cầu
10


của cách mạng Việt Nam, phải tổ chức một Đảng cách mạng chân chính, vững mạnh.
Người cho rằng: "Đảng có vững, cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái
có vững thuyền mới chạy". Vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết về Đảng kiểu
mới của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn Việt Nam vốn là một nước thuộc địa
nửa phong kiến, có bề dày truyền thống yêu nước, Hồ Chí Minh đã khẳng định Đảng
Cộng sản Việt Nam là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước; là Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam và đồng thời
là Đảng của dân tộc Việt Nam. Sau thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã trở thành Đảng cầm quyền. Trong "Di chúc", Người khẳng
định: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên là cán bộ phải thật sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn
Đảng ta thật trong sạch, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật sự trung

thành của nhân dân". Dùng khái niệm này với sự cân nhắc đầy đủ, Hồ Chí Minh nhấn
mạnh sự thay đổi về chất trong vai trò của Đảng, trong phương thức của Đảng, đặc
biệt nhấn mạnh trọng trách của Đảng trước vận mệnh của quốc gia, dân tộc, đời sống
của nhân dân.
Nói Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền là chỉ thời kỳ:
- Đảng đã giành được chính quyền, vai trò cầm quyền của Đảng đã được xác
lập;
- Đảng hoạt động công khai với tư cách là người lãnh đạo chính trị, định hướng
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội;
- Đảng có cả một hệ thống các tổ chức chính trị bao gồm Đảng, Nhà nước và
các đoàn thể quần chúng, trong đó Đảng là lực lượng lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính
trị tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Nhiệm vụ chính trị của Đảng không phải là đánh đổ, phá hoại mà là xây dựng
và xây dựng kinh tế trở thành nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ trọng tâm của Đảng.
Tóm lại, nói Đảng cầm quyền là nói thời kỳ Đảng đã nắm được chính quyền, xác lập
được vai trò lãnh đạo đối với chính quyền và sử dụng chính quyền đó như một công
cụ của giai cấp nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu chính trị của giai cấp.
2. Phương thức xác lập và điều kiện duy trì vai trò cầm quyền của Đảng:
Đồng.LL Đảng CQ.6.2012

11


2.1.phương thức xác lập:
Để trở thành Đảng cầm quyền điều cốt yếu là Đảng phải lãnh đạo nhân dân
giành lấy chính quyền. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ăngghen
viết: "Mục đích trước mắt của những người cộng sản cũng là mục đích trước mắt của
tất cả các Đảng vô sản khác: tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự
thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản phải giành lấy chính quyền…", "Giai cấp
vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự xây dựng thành một

giai cấp - dân tộc"(1). Và Lênin cũng từng nhấn mạnh: chính quyền là vấn đề cơ bản
của mọi cuộc cách mạng. Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành được chính quyền,
vai trò cầm quyền của đảng được xác lập.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời, Người cũng đã đặt vấn đề quyền dân tộc
tự quyết lên hàng đầu. Do đó, phải xây dựng ở Việt Nam một Đảng chân chính cách
mạng để lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập, tự do. Trong chương "Tư cách
của Đảng chân chính cách mạng", trong "Đường kách mệnh", đầu tiên Người xác
định: "Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm
vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng".
Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ 1930 đến 1975 đã chứng tỏ: Đảng Cộng sản
Việt Nam đã làm tròn nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân cả nước dấu tranh giành và giữ
chính quyền. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và ngày nay là nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là kết quả của cuộc đấu tranh anh dũng, ngoan cường của toàn
dân Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Lãnh đạo nhân dân giành chính quyền, Đảng trở thành Đảng cầm quyền, đồng
thời cũng là xác lập vai trò cầm quyền của Đảng, nghĩa là Đảng lãnh đạo trong điều
kiện nhân dân đã "tổ chức thành nhà nước", nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Đảng cầm quyền không có nghĩa là Đảng thay đổi bản chất và chức năng.
Đảng vẫn là đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam.
Điều kiện lịch sử mới đòi hỏi Đảng phải có sự thay đổi về nội dung, phương pháp và
hình thức hoạt động. Lãnh đạo toàn dân xây dựng và bảo vệ vững chắc một đất nước
Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh. Ngay sau khi giành
được chính quyền (8/1945), Đảng ta từ hoạt động bí mật đã trở thành Đảng cầm
12


quyền. Từ đó, Đảng lãnh đạo cách mạng trong điều kiện có chính quyền nhân dân
một cách trực tiếp toàn diện. Ngay cả khi trong tình trạng rối ren, phức tạp nhất của
đất nước trong những năm 1945-1946, khi mới giành được chính quyền, nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa non trẻ bị thù trong giặc ngoài uy hiếp nguy hiểm như "ngàn

cân treo sợi tóc", tuy phải tuyên bố tự giải tán nhưng thực chất là Đảng rút vào hoạt
động bí mật và vẫn cầm quyền. Từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II( tháng 21951), Đảng ta đã công khai hoạt động với tư cách là Đảng cầm quyền, lãnh đạo cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, đưa miền Bắc tiến lên CNXH, không hề
buông lơi vai trò trách nhiệm lãnh đạo "đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào" ở
miền Nam và đã được nhân dân hết lòng tin cậy và ủng hộ.
Mục đích lý tưởng cuối cùng của Đảng ta là tiếp tục hoàn thành cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và lãnh
đạo nhân dân xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội mà học thuyết Mác - Lênin đã
chỉ ra, đó là xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
Như vậy, để trở thành Đảng cầm quyền điều trước tiên là Đảng phải giành lấy
chính quyền, lập bộ máy nhà nước và điều hành đất nước thông qua bộ máy nhà
nước. Trở thành Đảng cầm quyền, Đảng phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về vận
mệnh phát triển của dân tộc, về sự phát triển toàn diện của xã hội, về sự phồn vinh
của đất nước, về sự tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Trước đây, khi chưa giành
được chính quyền thì nhiệm vụ hàng đầu của Đảng ta là nhiệm vụ quân sự. Khi giành
được chính quyền thì nhiệm vụ chủ yếu của Đảng là phải xây dựng, bảo vệ và phát
triển kinh tế. Đây là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải có nghệ
thuật và thời gian. Lênin đã chỉ rõ: "Sự xuất hiện một giai cấp mới trên vũ đài lịch sử,
với tư cách là người lãnh tụ và lãnh đạo xã hội, không bao giờ diễn ra mà lại không
có một thời kỳ "tròng trành" hết sức dữ dội, một thời kỳ chấn động, đấu tranh và trấn
áp, đó là một mặt; mặt khác, không bao giờ diễn ra mà lại không có một thời kỳ mò
mẫm, thí nghiệm, do dự, ngả nghiêng trong việc lựa chọn những phương pháp mới
đáp ứng đúng với tình thế khách quan mới".
2.2: Điều kiện duy trì vai trò cầm quyền của Đảng
Đồng.LL Đảng CQ.6.2012

13



- Đảng định ra đường lối, chiến lược, sách lược đúng.
Đây chính là điều kiện quyết định để đưa cách mạng đến thành công và trở
thành Đảng cầm quyền. Để có đường lối, chiến lược, sách lược đúng đòi hỏi:
- Biết xác định đâu là nhiệm vụ cơ bản lâu dài, đâu là nhiệm vụ và mục tiêu
trước mắt.
- Biết cách giải quyết đúng đắn, kịp thời mọi vấn đề thực tiễn cách mạng đề ra
trong quá trình vận động và phát triển của nó.
- Biết định ra hình thức tổ chức thích hợp và cách thức vận động để thu hút
đông đảo quần chúng nhân dân làm nhằm hiện thực hóa các quyết sách chính trị. Dựa
vào quần chúng để tổ chức, kiểm soát việc thực hiện các quyết sách đó trong thực tế.
Trong bất cứ một lĩnh vực nào, tất cả đều vì lợi ích của nhân dân. Cái gì có lợi
cho dân thì phải hết sức làm, cái gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh. Do đó, mọi
lĩnh vực hoạt động đều ở trong chính trị, chính trị đó là phục vụ con người, phục vụ
nhân dân. Ở nước ta, giành độc lập dân tộc, mưu tự do hạnh phúc cho toàn dân là đặc
trưng cơ bản nhất của cuộc cách mạng chân chính do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đó là
sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Một đường
lối, chính sách của Đảng và nhà nước chỉ có thể được coi là đúng đắn một khi nó phù
hợp với ý chí, nguyện vọng và trình độ chung của nhân dân và thích ứng với một
hình thức tổ chức quy tụ được đại đa số các tầng lớp dân cư xung quanh Đảng và Nhà
nước. Nó phải bảo đảm giữ vững được nguyên tắc "không một chút nào làm hại tới
lợi ích của công nông", nhưng không vì thế mà quên quyền lợi của các tầng lớp, giai
cấp khác. Quyền lợi chung của dân tộc phải được bảo vệ. "Đảng ta chẳng những là kẻ
bênh vực và lãnh đạo giai cấp vô sản… mà cũng là kẻ bênh vực và lãnh đạo dân
chúng nữa". Nó thực hiện được tính khả thi, đủ sức hiện thực hóa nó đem lại hiệu quả
cao, có tính dự báo chỉ ra những phương hướng và bước đi trong tương lai.
Định ra được đường lối, chiến lược đúng, có khả năng tổ chức để thực hiện
thắng lợi từng bước, tiến đến thắng lợi hoàn toàn trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể, dự
báo đúng và định hướng cho sự phát triển tiếp theo là yêu cầu bắt buộc đối với một
Đảng chân chính cách mạng là điều kiện và tiền đề bảo đảm cho uy tín chính trị, giữ
vững vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng.

14


- Đảng lãnh đạo xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Hồ Chí Minh từng nói: Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều nhân
dân, bao nhiêu quyền hạn đều của nhân dân, chính quyền từ xã đến chính phủ Trung
ương do dân cử nên. Nói tóm lại quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.
Nhà nước của dân nghĩa là "bao nhiêu quyền hạn đều là của nhân dân". Những
người ở trong bộ máy Nhà nước, bộ máy quyền lực, dù ở cấp nào cũng đều là "đầy tớ
của dân", đều do dân cử ra một cách trực tiếp hay gián tiếp để đại biểu cho dân mà
thực thi quyền lực. Dân có quyền giám sát, bãi miễn người trong bộ máy nhà nước do
mình bầu ra mà không làm tròn trách nhiệm đại biểu quyền lực cho dân.
Nhà nước do dân nghĩa là dân bầu ra người đại diện cho mình để cầm quyền,
đồng thời dân có quyền kiểm soát, giám sát người mình bầu ra và bãi miễn khi họ
không làm tròn sự ủy thác, đại diện. Có thể nói, nhà nước muốn điều hành, quản lý xã
hội có hiệu lực, hiệu quả, nhất định phải dựa vào dân. Hồ Chí Minh đã từng dạy rằng:
"Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân… chính phủ chỉ giúp kế hoạch, cổ
động"(4) chứ không phải bao cấp, làm thay dân để dân ỷ lại, chờ đợi.
Nhà nước vì dân là nhà nước phải coi việc đưa lại quyền lợi chính đáng cho
nhân dân là mục tiêu hoạt động của mình, đồng thời nhà nước đó phải thật sự trong
sạch. Dân là chủ thì mọi hoạt động của nhà nước đều phải hướng tới phục vụ nhân
dân chứ không phải để đè đầu cưỡi cổ nhân dân. Một nhà nước vì dân đòi hỏi phải là
nhà nước trong sạch, phải luôn luôn chống lại tiêu cực từ trong bộ máy của mình.
Như vậy, để có một nhà nước đúng nghĩa là của dân, do dân, vì dân, Đảng phải
chăm lo xây dựng và hoàn thiện nhà nước theo mục tiêu: việc gì lợi cho dân ta phải
hết sức làm, việc gì hại cho dân ta phải hết sức tránh. Có thể nói, sự lãnh đạo của
Đảng đảm bảo nhà nước ta là công cụ phục vụ lợi ích của nhân dân, thực hiện nhân
dân làm chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ ta, của nhà nước ta. "Nhà nước ta phát
huy dân chủ đến mức cao độ, đó là do tính chất nhà nước ta là nhà nước của nhân
dân. Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viện được tất cả lực lượng của

nhân dân đưa cách mạng tiến lên". Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, coi trọng xây
nền nhân dân là hai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề, muốn xây dựng

Đồng.LL Đảng CQ.6.2012

15


nền nhân dân phải có sự lãnh đạo của Đảng, phải củng cố nền nhân dân thật bền
vững.
Đảng phải gắn bó chặt chẽ với quần chúng nhân dân.
Một điểm nổi bật nữa là khi trở thành Đảng cầm quyền, Đảng có nhiều điều
kiện mới, công cụ mới cho việc tăng cường mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng.
Đồng thời trong Đảng cũng nảy sinh nhiều bệnh tật mới như quan liêu, mệnh lệnh,
một số cán bộ đảng viên rơi vào tình trạng thoái hóa biến chất, xa rời quần chúng. Để
khắc phục tình trạng trên từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII của Đảng ta đã khẳng định: "Trong điều kiện lãnh đạo chính quyền,
Đảng đặc biệt coi trọng đổi mới công tác quần chúng của Đảng theo quan điểm:
"cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; sức
mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời
nhân dân, làm suy yếu sức mạnh của Đảng, của cách mạng sẽ đưa đến những tổn thất
không lường được đối với vận mệnh của đất nước".
- Đảng phải phòng chống thoái hóa biến chất của một số cán bộ Đảng viên.
Đạo đức cách mạng là một bộ phận hợp thành của "tư cách của Đảng chân
chính cách mạng" và đối với mỗi đảng viên thì đó là một vấn đề thuộc về "tính Đảng"
không thể thiếu, đòi hỏi những ai hoạt động cứu nước đều phải có đạo dức cách
mạng. Việc giáo dục rèn luyện ấy cần căn cứ vào:
1, Yêu cầu chung của nền đạo đức xã hội mà thực tiễn cuộc sống đang đòi hỏi;
2, Yêu cầu về vai trò của một Đảng tiên phong chính trị, một Đảng cầm quyền
trong từng giai đoạn cách mạng cụ thể mà Đảng phải đáp ứng.

3, Chủ nghĩa cá nhân - căn bệnh dễ nảy sinh nhất khi Đảng trở thành Đảng cầm
quyền. Trong Đảng, trong đội ngũ cán bộ viên chức nhà nước, một số người lợi dụng
quyền lực để mưu lợi ích cho riêng mình. Mặt khác, khi đã có quyền lực trong tay
bệnh "kiêu ngạo cộng sản" cùng với sự thiếu hiểu biết về nhiều mặt đã gây ra sự bất
cập trước nhiệm vụ được giao; thậm chí còn gây trở ngại cho việc hoàn thành các
nhiệm vụ của Đảng. Nếu bệnh "kiêu ngạo cộng sản" cùng với sự dốt nát và các bệnh
hoạn của chủ nghĩa cá nhân hoành hành thì người đảng viên sẽ từ chỗ "đánh mất
mình" biến thành người tha hóa về đạo đức vừa phạm tội ác với nhân dân. Trong
16


"Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân", Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
"cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém
tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối chính sách của Đảng và của
nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân".
Để trở thành một Đảng cầm quyền chân chính, được nhân dân tin yêu quý
trọng thì đòi hỏi nội bộ Đảng, những người cán bộ, đảng viên phải là người có đạo
đức cách mạng. Bởi vì chỉ có những người có đạo đức cách mạng mới có thể vượt
qua được những cám dỗ của cuộc sống để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân..
- Đảng lãnh đạo phải phù hợp với xu thế phát triển của thế giới.
Trên cơ sở nắm vững những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về Đảng cầm quyền, chúng ta cần đặc biệt chú trọng làm tốt những điểm
sau:
- Nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ lí luận của Đảng;
- Kiện toàn và đổi mới hoạt động của tổ chức cơ sở Đảng, nâng cao chất lượng
đội ngũ đảng viên;
- Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; tăng cường
quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân; nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác
kiểm tra, giám sát;
- Đổi mới tổ chức, bộ máy và công tác cán bộ;

- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Trong bối cảnh hiện nay, cần làm tốt công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng để
Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, đảm bảo vị thế của Đảng cầm quyền:
Thứ nhất, phải phát huy truyền thống tốt đẹp, giữ vững và tăng cường bản chất
cách mạng và khoa học của Đảng.
Thứ hai, phải thường xuyên nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ và chất
lượng công tác tư tưởng - lí luận của Đảng, làm cho Đảng luôn là lực lượng tiên
phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc.
Thứ ba, thường xuyên chăm lo xây dựng về tổ chức, đảm bảo nội bộ Đảng
luôn đoàn kết, thống nhất, có sức chiến đấu cao.

Đồng.LL Đảng CQ.6.2012

17


Thứ tư, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ, thường xuyên chăm lo công
tác cán bộ cho cả hệ thống chính trị, trên tất cả các lĩnh vực.
Thứ năm, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, trước hết và quan trọng
nhất là phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước.

18


Câu 3: Sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản cầm quyền và phương thức
thực hiện
1. Sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản cầm quyền
1.1. Đảng cộng sản cầm quyền phải hoạch định được đường lối đúng đắn
+ Đảng là nhân tố quyết định nhất đảm bảo thắng lợi của cách mạng. Đảng
cộng sản có trách nhiệm như "người cầm lái", người dẫn đường nên Đảng có trách

nhiệm hoạch định đường lối đúng đắn.
+ Đảng phải đưa đường lối đó vào quần chúng để giác ngộ, tập hợp, tổ chức
nhân dân đứng lên đấu tranh thực hiện giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội mới.
+ Nguyên tắc để xây dựng đường lối đúng đắn
Lợi ích của Đảng là phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Đây là điều kiện
tiên quyết thể hiện bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong mọi thời kỳ lịch sử.
Đảng phải nắm vững, vận dụng trung thành, sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam định ra đường lối cách mạng đúng đắn.
Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình.
Đường lối chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật
khách quan, chống giáo điều, bảo thủ, hoặc nôn nóng chủ quan, duy ý chí. Lênin cho
rằng: “Người ta không thể chỉ dựa trên tình cảm cách mạng mà định ra một sách lược
cách mạng được. Khi định ra sách lược, phải trầm tĩnh, phải hết sức khách quan, tính
đến tất cả mọi lực lượng”.
Đảng phải nắm và dự báo đúng sự phát triển của tình hình, kịp thời phát hiện
và xử lý đúng những vấn đề mới nảy sinh, tránh lúng túng, bị động bất ngờ.
Đảng nắm vững xu thế của thời đại, nguyện vọng của nhân dân, phát huy
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, học tập có chọn lọc kinh nghiệm của cách mạng thế
giới để định ra đường lối cách mạng đúng.
Nâng cao năng lực hoạch định đường lối của Đảng, phát huy trí tuệ của toàn
Đảng, toàn dân trong hoạch định đường lối; thường xuyên tích cực phòng chống hai
nguy cơ lớn: Sai lầm về đường lối và quan liêu, thoái hóa biến chất trong Đảng.
1.2. Xác lập nhà nước của dân, do dân và vì dân
Đồng.LL Đảng CQ.6.2012

19


- Xây dựng nhà nước vô sản là nhà nước kiểu mới: Xác lập chuyên chính vô

sản để tiến tới chủ nghĩa cộng sản là vì trong thời kỳ quá độ, xã hội còn tồn tại các
giai cấp bóc lột chống lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội khiến cho giai cấp
công nhân và nhân dân lao động phải trấn áp chúng bằng bạo lực. Đồng thời, sự tồn
tại các giai cấp và tầng lớp trung gian khác mà do địa vị kinh tế - xã hội của mình, họ
dễ dao động giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, họ không thể tự mình tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Vì vậy, chuyên chính vô sản đóng vai trò là thiết chế cần thiết để đảm
bảo sự lãnh đạo của giai cấp vô sản đối với nhân dân. Khi trở thành giai cấp cầm
quyền thì giai cấp vô sản phải nắm vững công cụ chuyên chính, kiên quyết trấn áp
những thế lực đi ngược lại lợi ích của nhân dân để bảo vệ thành quả cách mạng nhằm
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.. Đồng thời phải có chức năng tổ chức, xây
dựng toàn diện xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.
Chuyên chính vô sản, là một loại liên minh đặc biệt giữa giai cấp công nhân
với quần chúng lao động không vô sản. Nhà nước vô sản là nhà nước của dân, do dân
và vì dân nên chế độ dân chủ vô sản là chế độ dân chủ theo nghĩa đầy đủ nhất của từ
đó. Đó là nền dân chủ bao quát toàn diện mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, lấy dân
chủ trong lĩnh vực kinh tế làm cơ sở.
- Nhà nước của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam
+ Nhà nước của dân: xác lập tất cả mọi quyền lực trong nhà nước và trong xh
đều thuộc về nhân dân. Trong nhà nước của dân, người dân được hưởng mọi quyền
dân chủ. Bằng thiết chế dân chủ, nhà nước phải có quyền, nhà nước phải cố trách
nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của dân, để cho nhân dân thực thi quyền làm chủ của
mình trong hệ thống quyền lực của xh. Quyền lực của nhân dân được đặt ở vị trí tối
thượng. Điều này có ý nghĩa thực tế nhắc nhở những người lãnh đạo, những đại biểu
của nhân dân làm đúng chức chắc và vị thế của mình, không phải là đứng trên dân thì
coi khinh dân, "cậy thế'' với dân, " quên rằng dân bầu mình ra để làm việc cho dân".
Một nhà nước như thế là một nhà nước tiến bộ trên bước đường phát triển của nhân
loại. Nhà nước VNDCCH do HCM khai sinh 2/9/1945 chính là nhà nước tiến bộ
chưa từng có trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc VN bởi vì nhà nước đó là nhà
nước của dân, nhân dân có vai trò quyết định mọi công việc của đất nước.
20



+ Nhà nước do dân: nhà nước do dân lập nên, do dân làm chủ, dân ủng hộ.
Chính vì vậy, HCM thường nhấn mạnh nhiệm vụ của những người cách mạng là phải
làm cho dân hiểu, làm cho dân giác ngộ để nâng cao được trách nhiệm làm chủ, nâng
cao được ý thức trách nhiệm xây dựng nhà nước của mình. Xây dựng nhà nước Việt
Nam mới, nhân dân có đủ điều kiện, cả về pháp luật và thực tế để tham gia quản lý
nhà nước. Quyền của dân, nhà nước do dân tạo ra và tham gia quản lý là ở chỗ: Công
dân bầu ra quốc hội cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước. Mọi công việc của bộ
máy nhà nước trong việc quản lý xã hội đều thực hiện ý chí của dân.
- Nhà nước vì dân: Là nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục
tiêu, tất cả đều vì lợi ích của nhân dân, ngoài ra không có bất kỳ lợi ích nào khác. Đó
là một nhà nước trong sạch, không có bất kỳ một đắc quyền đặc lợi nào. MJọi đường
lối, chính sách đều chỉ nhằm đưa lại quyền lợi cho dân, việc gì có lợi cho dân dù nhỏ
cũng cố gắng làm, việc gì có hại cho dân dù nhỏ cũng cố gắng tránh.
1.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ cầm quyền mạnh
- Cán bộ là gốc của mọi công việc. Trong đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ chủ
chốt (cán bộ cầm quyền) là gốc của cái gốc đó, là lực lượng nòng cốt, là nhân tố quan
trọng nhất trong bộ máy tổ chức Đảng và Nhà nước. Cán bộ chủ chốt là những người
đứng đầu một ngành, một địa phương, một đơn vị công tác, sản xuất kinh doanh, chịu
trách nhiệm tổ chức thực hiện đường lối, nhiệm vụ chính trị ở đó, phân công nhiệm
vụ, chỉ đạo cán bộ công chức của mình hoàn thành nhiệm vụ được giao phó. Cán bộ
chủ chốt bao gồm cán bộ lãnh đạo từ cấp Trung ương đến cấp cơ sở, từ cấp vĩ mô cho
tới vi mô. Cán bộ chủ chốt ở mỗi cấp, mỗi khâu đều quan trọng, rất cần được xây
dựng vững mạnh và đồng bộ. Trước hết, rất cần những nhà lãnh đạo ở cấp vĩ mô,
tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với lý tưởng Chủ nghĩa Xã hội, kết tinh được trí
tụê của toàn Đảng, của nhân dân, nắm bắt được tri thức của thời đại, có tầm nhìn
chiến lược, đủ khả năng đặt ra và xử lý các vấn đề đường lối của Đảng một cách
chính xác và sáng tạo, bảo vệ vững chắc độc lập của Tổ quốc và đưa sự nghiệp cách
mạng Xã hội Chủ nghĩa đến thắng lợi trọn vẹn.

- Để xây dựng đội ngũ cán bộ cầm quyền tốt cần phải

Đồng.LL Đảng CQ.6.2012

21


Thứ nhất, công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt phải chăm lo
xây dựng đội ngũ cán bộ của cấp mình, đơn vị mình, nhất là cán bộ lãnh đạo quản lý.
Đồng thời với việc chuẩn bị đường lối, Nghị quyết cũng như chiến lược, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội phải chuẩn bị chiến lược cán bộ đáp ứng, trong đó chú
trọng đến cán bộ chủ chốt. Nội dung quan trọng là xây dựng được quy hoạch cán bộ
và chăm lo bồi dưỡng, đào tạo, giáo dục cán bộ.
Thứ hai, trên cơ sở quán triệt sâu sắc quan điểm giai cấp trong công tác cán bộ,
phải tăng cường đoàn kết, tập hợp rộng rãi các loại cán bộ, trọng dụng mọi nhân tài
cho đất nước. Cần thu hút những người có đủ đức, đủ tài, đủ năng lực trình độ vào
đội ngũ cán bộ chủ chốt, kể cả những người chưa phải là đảng viên. Có những cơ
quan, đơn vị mà người đứng đầu cũng có thể là người ngoài Đảng.
Thứ ba, phải nắm vững tiêu chuẩn cán bộ, nhất là tiêu chuẩn đối với cán bộ
chủ chốt, cán bộ đứng đầu các cơ quan đơn vị, giải quyết mối quan hệ giữa tiêu chuẩn
và cơ cấu cán bộ. Tiêu chuẩn chung của cán bộ là: Phẩm chất chính trị tốt, vững
vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng và con đường xã hội Chủ nghĩa, trung thành với
Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh; có đạo đức cách mạng trong sáng,
lối sống lành mạnh, có trình độ và khả năng thực hiện những nhiệm vụ công tác
chuyên môn được giao.
Thứ tư, đánh giá đúng và biết sử dụng cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt. Trước
hết, phải tìm hiểu kỹ và đánh giá cán bộ đúng đắn, đây là khâu đầu tiên và quan trọng
nhất của công tác cán bộ cũng như của việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt. Đánh
giá đúng thì mới sử dụng cán bộ đúng chỗ, đúng việc. Đánh giá cán bộ là hiểu cán bộ
trong sự vận động phát triển, từ hiện tượng tìm ra bản chất, từ biểu hiện bề ngoài tìm

ra thực chất bên trong, tìm hiểu về quá khứ và hiện tại thấy hướng phát triển tương
lai. Đã đánh giá đúng rồi thì cần mạnh dạn sử dụng đề bạt, cất nhắc và giao nhiệm vụ
đúng lúc; không chờ đợi quá chín có khi sẽ bị rụng, không để chậm trễ mất thời cơ
của cán bộ.
Thứ năm, chính sách cán bộ phải nhất quán, thực sự dân chủ, công bằng. Mọi
cán bộ đều được đối xử như nhau, đều được tạo điều kiện để phát huy năng lực sở
trường, cống hiến thật nhiều cho sự nghiệp chung. Đồng thời tất cả cán bộ đều được
22


hưởng những chính sách về bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng, đề bạt cất nhắc, đãi ngộ...
một cách công bằng, hợp lý.
2. Phương thức lãnh đạo để thực hiện
2.1. phương thức lãnh đạo của đảng với nhà nước
Thước đo hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng phải được thể hiện ở sức mạnh, hiệu
lực thực tế của Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, nghị quyết, bằng
công tác tổ chức cán bộ và kiểm tra việc Nhà nước thực hiện chấp hành đường lối,
nghị quyết như thế nào, thông qua tổ chức Đảng trong các cơ quan Nhà nước và
thông qua các cơ quan chuyên trách của hệ thống Đảng.
Mục tiêu lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là phát huy vai trò của Nhà
nước trong việc thể chế hoá, tổ chức thực hiện có hiệu quả những quan điểm chỉ đạo
của Đảng đối với sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối
ngoại.
Đảng không trực tiếp giải quyết các công việc của Nhà nước. Nhà nước bằng
quyền lực của mình có nhiệm vụ “bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ
về mọi mặt của nhân dân, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc
và của nhân dân, xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội, mọi
người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.
Để bảo đảm thực hiện có hiệu quả phương thức lãnh đạo của Đảng cần đổi mới
tổ chức bộ máy Đảng và nhà nước cùng đội ngũ cán bộ, công chức, nâng cao mặt

bằng dân trí, nhất là tri thức pháp luật; nâng cao vai trò của các cơ quan có chức năng
thể chế hoá đường lối, quan điểm của Đảng, tổ chức thực hiện pháp luật
Nhu cầu thể chế hoá phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói
chung và hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước nói riêng xuất phát từ đòi hỏi khách
quan của nền kinh tế thị trường, xã hội công dân ngày càng phát triển, tổ chức hoạt
động của bộ máy nhà nước ngày càng trở nên chuyên nghiệp, hiện đại, nhu cầu dân
chủ hoá đời sống xã hội ngày càng cao… Thể chế hoá vai trò và phương thức lãnh
đạo của Đảng còn có ý nghĩa đề cao trách nhiệm của Đảng bằng pháp luật trước nhân
dân.
2.2. Phương thức lãnh đạo của đảng đối với đoàn thể chính trị xã hội
Đồng.LL Đảng CQ.6.2012

23


Mối quan hệ của Đảng với tư cách là tổ chức lãnh đạo Mặt trận và là tổ chức
thành viên của Mặt trận. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chính trị - xã hội phải bắt đầu từ chính các cơ quan tham mưu của Đảng trong
công tác vận động quần chúng. Các cấp ủy đảng đã phân công, giới thiệu cán bộ chủ
chốt để Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể hiệp thương, giới thiệu giữ các chức vụ lãnh
đạo chủ chốt trong các tổ chức của Mặt trận và đoàn thể; phát huy vai trò chủ động
tham mưu, hoạt động tích cực trong các phong trào thi đua, các cuộc vận động. Các
tổ chức đảng đã chăm lo bồi dưỡng cán bộ, đảng viên, giới thiệu những đảng viên có
phẩm chất, uy tín, năng lực làm công tác dân vận, Mặt trận, đoàn thể. Các cấp ủy
đảng đã chủ động tham mưu, phổ biến, trình bày những chủ trương, kiến nghị của
Đảng với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể; đồng thời lắng nghe ý kiến, nguyện
vọng, tâm tư, tình cảm của quần chúng nhân dân; trao đổi tọa đàm, đối thoại, thuyết
phục, hiệp thương dân chủ và thống nhất hành động, tạo ra sự đồng thuận rộng rãi
trong xã hội cả trong nhận thức và hành động cách mạng. Sự năng động, tích cực của
đội ngũ cán bộ dân vận của các cấp ủy, đồng thời với tính chủ động, sáng tạo của cán

bộ Mặt trận, đoàn thể trong việc phối kết hợp hoạt động dân vận đã tạo ra mạng lưới
liên kết ngang dọc, bền chặt ở các cấp, nhất là ở cơ sở, là nòng cốt của khối đoàn kết
toàn dân.

24


Câu 4. Phân tích mục đích, nội dung cầm quyền của Đảng cộng sản Việt
Nam
25 năm đổi mới vừa qua đã và đang đặt ra những đòi hỏi bức bách, cho phép
chúng ta có thể nhận thức đầy đủ hơn quan niệm về đảng cầm quyền, đảng lãnh đạo,
về đặc điểm cầm quyền, lãnh đạo của Đảng, trên cơ sở đó đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước và với xã hội một cách đúng đắn hơn.
Có quan điểm cho rằng, quyền lực của Đảng cầm quyền là một thứ siêu quyền
lực, bên trên quyền lực Nhà nước, mặc dù Đảng cầm quyền không phải là cơ quan
công quyền.
Như đã phân tích, đảng cầm quyền và nhà nước là các trung tâm quyền lực có
nguồn gốc khác nhau. Trong các xã hội dân chủ, quyền lực của Đảng là quyền lực
của một giai cấp, một lực lượng xã hội, còn quyền lực Nhà nước là quyền lực của
nhân dân được tổ chức thành nhà nước. Không thể đồng nhất quyền lực của đảng với
quyền lực Nhà nước. Quyền lực của Đảng cầm quyền là quyền lực về chính trị (vạch
chủ trương, đường lối), còn quyền lực Nhà nước là quyền lực cai trị xã hội, là tổ chức
và quản lý xã hội. Tuy nhiên, trong những hoàn cảnh lịch sử đặc biệt (giai đoạn chiến
tranh và cách mạng), khi nhiệm vụ chính trị là giữ và bảo vệ chính quyền nhà nước là
ưu tiên hàng đầu, thì cần phải thống nhất quyền lực đảng và quyền lực Nhà nước để
thực hiện nhiệm vụ chính trị trọng đại của thời kỳ đó. Đây cũng là đòi hỏi khách
quan, nhưng chỉ phù hợp trong giai đoạn ấy. Việc chuyển giai đoạn, cũng có nghĩa là
nội dung cách mạng có những điểm mới, cần phân định lại quyền lực giữa Đảng và
Nhà nước cho phù hợp với tính chất, đặc điểm, yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới.
Trong chế độ một Đảng cầm quyền, nội dung Đảng lãnh đạo về thực chất là

những nội dung đảng cầm quyền, nhưng sự cầm quyền của chỉ một Đảng cộng sản
được nhân dân thừa nhận bằng pháp luật. Đảng cầm quyền thông qua sự lãnh đạo cơ
quan công quyền chứ không tự mình biến thành nhà nước.
Về lý luận cũng như về nguyên tắc, Đảng không thể được coi là cơ quan công
quyền, do đó đảng cầm quyền lãnh đạo không được lấn sân vào các chức năng của cơ
quan quyền lực công. Điều đó có nghĩa là, không thể đồng nhất quyền lực của đảng

Đồng.LL Đảng CQ.6.2012

25


×