Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

MỘT số BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG bảo HIỂM PHI NHÂN THỌ tại CÔNG TY bảo HIỂM AAA CHI NHÁNH hải PHÒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.04 KB, 88 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

UBND THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG

LÊ VĂN NGUYÊN

MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ TẠI CÔNG TY
BẢO HIỂM AAA CHI NHÁNH HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH

HẢI PHÒNG – 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

UBND THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG

LÊ VĂN NGUYÊN

MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ TẠI CÔNG TY
BẢO HIỂM AAA CHI NHÁNH HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH


CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH
MÃ SỐ: 60.34.01.02

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Minh Thụy

HẢI PHÒNG – 2015


i
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng đề tài trong luận văn là cơng trình nghiên cứu
của riêng tơi, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn trung
thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Các thông tin, tài
liệu trình bày trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc.

Hải Phòng, ngày

tháng

năm 2015

Tác giả

Lê Văn Nguyên


ii
LỜI CẢM ƠN
Trong q trình tham gia khóa học Thạc sỹ ngành Quản trị kinh doanh

của Trường Đại học Hải Phịng, tơi đã được các Thầy giáo và Cơ giáo là
giảng viên của Trường Đại học Hải Phòng đã hết lịng tận tình chỉ dạy, truyền
đạt vốn kiến thức lớn. Với khối lượng kiến thức được học tập tại trường đã
giúp tôi rất nhiều trong công việc hiện nay. Đặc biệt là ngành học này đã giúp
tôi phát triển tốt hơn năng lực trong công tác quản lý tại cơ quan hiện nay và
trong tương lai.
Để hoàn thành bài luận văn của mình, tơi xin gửi lời cảm ơn chân thành
đến các Thầy cô đã truyền đạt kiến thức cho tôi trong suốt thời gian học tập
tại Trường. Đặc biệt, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến Thầy giáo TS. Đỗ
Minh Thụy – người đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình giúp đỡ cá nhân tơi trong
suốt quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp này.
Mặc dù đã được sự tận tình giúp đỡ của Thầy giáo cùng các bạn đồng
nghiệp, nhưng sự hiểu biết của bản thân cịn hạn chế. Vì vậy bài luận văn tốt
nghiệp khơng thể tránh khỏi những thiếu sót. Tơi rất mong nhận được sự góp
ý chia sẻ của các thầy giáo, cô giáo và những người quan tâm đến lĩnh vực
Quản trị kinh doanh để đề tài nghiên cứu được hoàn thiện hơn.
Xin kính chúc Thầy giáo, Cơ giáo sức khỏe và thành công trong sự
nghiệp đào tạo những thế hệ tri thức cho tương lai.
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn!
Hải Phòng, ngày tháng

năm 2015

Tác giả luận văn

Lê Văn Nguyên


iii
MỤC LỤC

1.1.2. Đặc trưng của bảo hiểm phi nhân thọ.............................................................................7
1.2.3. Đặc điểm của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ [4, tr 57-61]......................................19
- Cuối cùng, trong su hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, các DNBH có xu hướng
liên kết với nhau để cùng nhau phát triển. Một mặt liên kết để tìm ra tiếng nói chung, tránh
gây thiệt hại cho nhau, tăng cường sức mạnh để cạnh tranh, liên kết để trao đổi kinh nghiệm
quản lý, công nghệ tiến tiến để cùng nhau phát triển. Mặt khác, liên kết để đảm bảo sự an
toàn trong kinh doanh thông qua việc đồng BH, tái BH. Đây là một trong những xu hướng
phát triển của các DNBH trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay............................19
1.4.Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường bảo hiểm phi nhân thọ...........................................24
- Bảo hiểm bắt buộc xe ô tô:....................................................................................................36
Bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do xe cơ giới gây thiệt hại về
người và tài sản đối với người thứ ba. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với
thiệt hại về thân thể và tính mạng của hành khách theo hợp đồng vận chuyển hành khách.. 36
- Bảo hiểm vật chất xe ô tô:.....................................................................................................37
Bảo hiểm mọi rủi ro tài sản..............................................................................................................37
3.2.1. Nâng cao trình độ và kỹ năng cho nhân viên.................................................................58
Sự thành công của một công ty bảo hiểm phụ thuộc rất lớn vào yếu tố con người. Đó là đội
ngũ nhân viên tiếp xúc, tư vấn với khách hàng. Nhân viên có am hiểu về sản phẩm thì mới có
thể tư vấn cho khách hàng về sản phẩm mình cần bán. Nhân viên có kỹ năng làm hài lịng
thỏa mãn người mua thì họ mới mua các sản phẩm của mình. Hiện nay bất kỳ ngành dịch vụ
nào cũng đang rất chú trọng phát triển đội ngũ nhân viên nâng cao trình độ chun mơn
nghiệp vụ. Ngồi ra cịn cần có kỹ năng mềm xử lý các tình huống trong quá trình bán hàng,
tiếp xúc với khách hàng. Bởi khách hàng chính là người trả lương cho chúng ta....................58
Cơng ty Bảo hiểm AAA chi nhánh Hải Phịng cần có những buổi tự đào tạo về cả nghiệp vụ lẫn
kỹ năng cho đội ngũ nhân viên và hệ thống đại lý trong thời gian tới.....................................58
3.2.2. Phân giao KPI cụ thể, có sự chun mơn hóa trong bán hàng.......................................59
Thực trạng hiện nay, đội ngũ bán hàng của công ty đang bán tất cả các sản phẩm mà cơng ty
có. Vì có q nhiều sản phẩm, nên nhiều khi họ bán mà không rõ về sản phầm mình bán. Vì
vậy nên phân giao nhóm bán hàng, tập trung bán ở những sản phẩm bảo hiểm nhất định. Đội
nhóm ấy sẽ được đào tạo và bán những nhóm sản phẩm chuyên sâu: bảo hiểm tài sản, bảo

hiểm TNDS, bảo hiểm con người.............................................................................................59
Cần xây dựng kế hoạch chỉ tiêu bán hàng cụ thể cho từng tư vấn viên. KPI hiện phân giao
chưa sát thực tế, chưa phù hợp với trình độ của từng nhân viên. KPI được giao cần cụ thể
như: doanh thu bảo hiểm tài sản, doanh thu bảo hiểm con người, số lượng khách hàng tư
vấn trong ngày, tỷ lệ bồi thường…...........................................................................................59
3.2.3. Phát triển nhiều sản phảm mới, đề xuất cải tiến các sản phẩm phù hợp với vùng miền.
.................................................................................................................................................59


iv
So với các công ty bảo hiểm hiện nay trên thị trường, danh mục sản phẩm bảo hiểm của bảo
hiểm AAA Hải Phịng cịn ít, chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Vì vậy mà đối tượng
khách hàng của cơng ty cịn bị bó hẹp. Chi nhánh nên tìm hiểu thực tế thị trường Hải Phịng,
đưa ra những sản phầm phù hợp với vùng miền, cải tiến những sản phẩm hiện có đáp ứng
tốt hơn nhu cầu của Hải Phịng, mà đặc biệt cần chú ý đó là bảo hiểm tài sản bao gồm bảo
hiểm xe cơ giới, bảo hiểm hàng hóa, bảo hiểm tàu…..............................................................59
3.2.4. Tăng hiệu quả chương trình Marketing, tìm hiểu thị trường.........................................60
- Đưa ra các cam kết về thời gian phục vụ ở từng khâu, từng quy trình. Có như vậy mới đẩy
nhanh thời gian giao dịch giúp cho khách hàng cảm thấy mình được phục vụ nhanh nhất,
hiệu quả nhất. Ngoài ra cũng nên đưa ra các cơ chế nhắc nhở, phạt khi nhân viên khơng đạt
cam kết SLA đó........................................................................................................................62
3.2.6. Chú trọng phát triển kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm qua các đại lý và môi giới bảo
hiểm.........................................................................................................................................62
3.2.7. Công tác tuyển dụng và đào tạo đội ngũ cán bộ, cơng nhân viên..................................68
3.2.8. Chính sách khen thưởng và kỷ luật................................................................................69
3.2.9. Công tác tuyên truyền quảng cáo..................................................................................69
3.2.10. Công ty Bảo hiểm AAA chi nhánh Hải Phòng cũng cần thiết lập một hệ thống tư vấn
bảo hiểm miễn phí riêng..........................................................................................................71
Hiện hệ thống chăm sóc khách hàng của AAA đặt tại TP Hồ Chí Minh, do âm giọng của từng
vùng miền nên khi khách hàng tại Hải Phịng cần tìm hiểu thơng tin hoặc phản ánh lại khơng

nghe rõ hướng dẫn..................................................................................................................71
Chính vì thế chi nhánh AAA Hải Phịng nên có một đường dây nóng riêng, nhân viên này phải
am hiểu tất cả các sản phẩm của công ty. Khi cần tư vấn thơng tin hoặc có thắc mắc sẽ được
trả lời một cách chính xác, rõ ràng...........................................................................................71
Chính vì những nguyên nhân nêu trên, ngành bảo hiểm rất cần được sự hỗ trợ từ phía Nhà
nước. Sau đây em xin đề xuất một số kiến nghị với cơ quan Nhà nước......................................72
3.3.2. Nhanh chóng triển khai có hiệu quả Luật kinh doanh bảo hiểm............................................72
3.3.3. Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý.................................................................................73
3.3.4. Hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm..................................................................74


v
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Giải nghĩa

BH

Bảo hiểm

BHNT

Bảo hiểm nhân thọ

BH PNT

Bảo hiểm phi nhân thọ

BHTM


Bảo hiểm thương mại

DNBH

Doanh nghiệp bảo hiểm

KDBH

Kinh doanh bảo hiểm

KH

Khách hàng

TNDS

Trách nhiệm dân sự

TTBH

Thị trường bảo hiểm


vi
DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng


Tên bảng

Trang

2.1

Doanh thu các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ
2010-2014

34

2.2

Bảng phân tích ma trận SWOT

49

2.3

Doanh thu các cơng ty bảo hiểm tại Hải Phịng
năm 2014

55

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, HÌNH


vii

Số hiệu

biểu đồ,

Tên bảng

Trang

hình
2.1

Slogan cơng ty Bảo hiểm AAA

28

2.2

Logo cơng ty bảo hiểm AAA

29

2.1

Sơ đồ cơ cấu tổ chức công ty

30

Doanh thu các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ năm

35

2010 – 2014

Thị phần các công ty bảo hiểm tại Hải Phòng năm

56

2.1
2.2

2014


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tại Việt Nam, thị trường bảo hiểm phi nhân thọ là một thị trường rộng
lớn đối với các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm với dân số trên 90 triệu, tốc
độ GDP trung bình 7,5%. Trong q trình phát triển, doanh nghiệp ln luôn
phải đối mặt những rủi ro phát sinh không thể tính tốn do ảnh hưởng của mơi
trường vi mơ và vĩ mô. Các doanh nghiệp thường đặt ra mục tiêu doanh thu, lợi
nhuận sau đó áp dụng mọi phương thức để đạt được nên chưa có định hướng
chiến lược kinh doanh rõ ràng, chưa có thói quen mua bảo hiểm để phịng ngừa
rủi ro. Vì vậy, mục tiêu của các công ty kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ là
mua lại các rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh của khách hàng, đánh
giá phân tích để chuyển rủi ro thành lợi nhuận. Hiện nay, thị trường bảo hiểm
Việt Nam đang phát triển rất nhanh, tuy nhiên các công ty kinh doanh bảo hiểm
chưa tập trung nghiên cứu phát triên các sản phẩm bảo hiểm mới để thu hút
khách hàng. Để đạt được mục tiêu này, công ty kinh doanh bảo hiểm cần có một
chiến lược kinh doanh cụ thể. Vì vậy, kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ là lĩnh
vực hấp dẫn tôi lựa chọn để thực hiện đồ án tốt nghiệp.
Từ thực tế nêu trên, để hiểu rõ hơn về quá trình phát triển của thị trường
bảo hiểm phi nhân thọ em chọn đề tài : “Một số biện pháp phát triển thị

trường bảo hiểm phi nhân thọ tại Cơng ty Bảo hiểm AAA chi nhánh Hải
Phịng” để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Hệ thống cơ sở lý luận về bảo hiểm phi nhân thọ và phát triển thị trường
bảo hiểm phi nhân thọ của doanh nghiệp. Đề ra những biện pháp góp phần phát
triển bảo hiểm phi nhân thọ tại Công ty AAA Hải Phịng trên cơ sở nghiên cứu
tình hình phát triển - phân tích thị trường và đánh giá hiệu quả kinh doanh của
Công ty trong những năm vừa qua.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài


2
Đối tượng nghiên cứu: Thì trưởng bảo hiểm phi nhân thọ của cơng ty bảo
hiểm AAA Hải Phịng.
Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi về thời gian: Các số liệu được sử dụng từ năm 2010 đến năm 2014.
- Phạm vị về khơng gian: Luận văn nghiên cứu tình hình phát triển thị trường
bảo hiểm phi nhân thọ và đánh giá thị trường bảo hiểm phi nhân thọ của công ty
AAA Chi nhánh Hải Phòng.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học sau:
- Phương pháp phân tích hệ thống.
- Phương pháp so sánh tổng hợp.
- Phương pháp duy vật biện chứng.
- Phương pháp thống kê xử lý số liệu.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Về mặt khoa học: Luận văn đã hệ thống hóa những vấn đế luận về việc
phát triển thị trường các doanh nghiệp.
Về mặt thực tiễn: Luận văn đã đi sâu phân tích và đánh giá thực trạng về
việc phát triển thì trưởng bảo hiểm phi nhân thọ của cơng ty bảo hiểm AAA Hải

Phịng trong giai đoạn năm 2010- 2014. Trên cơ sở đó luận văn đã đề xuất một số
biện pháp nâng cao việc phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ của cơng ty
bảo hiểm AAA Chi nhánh Hải Phịng trong giai đoạn tới.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, các phụ lục, các tài liệu tham khảo, đề tài
bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ
Chương 2: Thực trạng công tác phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân
thọ tại Công ty Bảo hiểm AAA chi nhánh Hải Phòng
Chương 3: Biện pháp phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ tại Công
ty Bảo hiểm AAA chi nhánh Hải Phòng


3

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ
1.1.

Khái quát về sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ

1.1.1. Khái niệm và và trò bảo hiểm phi nhân thọ
a. Bảo hiểm là gì?
Chúng ta đã từng nghe nói nhiều về bảo hiểm, nhưng khơng phải ai hiểu
đúng ý nghĩa hoạt động đó. Nội dung của phần này sẽ giải thích thế nào là bảo
hiểm.
“ Bảo hiểm là một sự thỏa thuận hợp pháp thông qua đó một cá nhân hay
tổ chức (Người tham gia bảo hiểm) chấp nhận đóng góp một khoản tiền nhất
định (Phí bảo hiểm) cho tổ chức khác (Người bảo hiểm) để đổi lấy những cam
kết về những khoản bồi thường hoặc chi trả khi có sự kiện quy định trong hợp

đồng xảy ra.”[3, tr 30-50]
- Thỏa thuận hợp pháp về chủ thể tham gia ký kết hợp đồng và hợp pháp
về các nội dung ký kết trong hợp đồng. Ví dụ các điều kiện bảo hiểm, mức phí
phù hợp với quy định của pháp luật. Các bên tham gia ký kết hợp đồng phải có
đầy đủ tư cách pháp lý. [3, tr 30-50]
- Người tham gia bảo hiểm và người bảo hiểm đại diện cho cả cá nhân hoặc
tổ chức (hội, nhóm, cơng ty…có đăng ký chính thức). Ở Việt Nam, chỉ có các cơng
ty có đăng ký và được cấp phép thì mới được kinh doanh bảo hiểm. Bởi vậy, người
bảo hiểm ở đây chỉ bao gồm các công ty bảo hiểm. [3, tr 30-50]
b. Bảo hiểm phi nhân thọ
Bảo hiểm phi nhân thọ là một trong hai loại hình bảo hiểm thương mại.
Bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm qua đó cơng ty bảo hiểm cam kết sẽ trả
một số tiền thỏa thuận khi có sự kiện quy định xảy ra liên quan đến sinh mạng
và sức khỏe của con người. Thì “ Bảo hiểm phi nhân thọ là các nghiệp vụ bảo
hiểm thương mại khác không phải là bảo hiểm nhân thọ, là loại hình bảo hiểm
qua đó cơng ty bảo hiểm cam kết sẽ chi trả bồi thường khi có sự kiện bảo hiểm


4
xảy ra liên quan đến tổn thất về vật chất và tai nạn con người, trách nhiệm của
người tham gia bảo hiểm”[7, tr 35-45]
c.Vai trò của bảo hiểm phi nhân thọ
Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh hàng
ngày dù đã luôn luôn chú ý ngăn ngừa và đề phịng nhưng con người vẫn có
nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro đó do nhiều ngun
nhân, ví dụ như:
- Các rủi ro do môi trường thiên nhiên: bão, lụt, động đất, sét, hạn, sương
muối, dịch bệnh v.v..
- Các rủi ro xảy ra do sự tiến bộ và phát triển của khoa học và kỹ thuật.
Khoa học và kỹ thuật phát triển, một mặt thúc đẩy sản xuất và tạo điều kiện

thuận lợi cho cuộc sống của con người: nhưng mặt khác cũng gây ra nhiều tai
nạn bất ngờ như tai nạn ô tô, hàng không, tai nạn lao động v.v..
- Các rủi ro do môi trường xã hội: đây cũng là một trong những nguyên
nhân gây ra rủi ro cho con người. Chẳng hạn, nếu xã hội tổ chức quản lý chặt
chẽ - mọi người làm việc và sống theo pháp luật thì sẽ khơng xảy ra hiện tượng
thất nghiệp, trộm cắp; nếu làm tốt cong tác chăm sóc sức khoẻ sẽ hạn chế được
các rủi ro không đáng có như hoả hoạn, bạo lực, v v...
Bất kể do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường đem lại cho con người
những khó khăn trong cuộc sống như mất việc hoặc giảm thu nhập, phá hoại
nhiều tài sản, làm ngưng trệ sản xuất và kinh doanh của tổ chức, doanh nghiệp,
cá nhân, v.v.. làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế - xã hội nói chung.
Để đối phó với các rủi ro, con người đã có nhiều biện pháp khác nhau
nhằm kiểm soát cũng như khắc phục hậu quả do rủi ro gây nên. Hiện nay, theo
quan điểm của các nhà quản lý rủi ro, có hai nhóm biện pháp đối phó với rủi ro
và hậu quả do rủi ro gây ra đó là nhóm các biện pháp kiểm sốt rủi ro và nhóm
các biện pháp tài trợ rủi ro.
+ Nhóm các biện pháp kiểm sốt rủi ro bao gồm các hiện tượng tránh né
rủi ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiếu rủi ro. Các biện pháp này thường được sử
dụng để ngăn chặn hoặc giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro.


5
- Tránh né được rủi ro là biện pháp được sử dụng thường xuyên trong
cuộc sống. Mỗi người, mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh đều lựa chọn những biện
pháp thích hợp để né tránh rủi ro có thể xảy ra, tức loại trừ cơ hội dẫn đến tổn
thất. Chẳng hạn, để tránh các tai nạn giao thông người ta hạn chế việc đi lại; để
tránh các tai nạn lao động người ta chọn những nghề không nguy hiểm… Tránh
né rủi ro chỉ với những rủi ro có thể né tránh được. Nhưng trong cuộc sống có
rất nhiều rủi ro bất ngờ không thể né tránh được.
- Ngăn ngừa tổn thất: Các biện pháp ngăn ngừa tổn thất đưa ra các hành

động làm giảm tổn thất hoặc giảm mức thiệt hại do tổn thất gây ra. Ví dụ, để
giảm thiểu các tai nạn lao động, người ta tổ chức các khóa học nâng cao trình độ
của người lao động hay nâng cao chất lượng các hoạt động đảm bảo an tồn lao
động; đề phịng chống hoả hoạn người ta thực hiện tốt việc phòng cháy chữa
cháy.
- Giảm thiểu tổn thất: người ta có thể giảm thiểu tổn thất thơng qua các
biện pháp làm giảm giá trị thiệt hại khi tổn thất đã xảy ra. Ví dụ, như khi có hoả
hoạn, để giảm thiểu tổn thất, người ta cố gắng cứu các tài sản còn dùng được; hay
trong một tai nạn giao thông; để giảm thiểu các thiệt hại về người và của người ta
đưa ra ngay những người bị thương đến nơi cấp cứu và điều trị.
Mặc dù các biện pháp kiểm sốt rủi ro rất có hiệu quả trong việc ngăn
chặn hoặc giảm thiểu rủi ro nhưng khi rủi ro đã xảy ra, người ta không thể lường
hết được hậu quả.
+ Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro bao gồm các biện pháp chấp nhận rủi
ro và bảo hiểm. Đây là các biện pháp được sử dụng trước khi rủi ro xảy ra với
mục đích khắc phục các hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra nếu có.
+ Chấp nhận rủi ro: Đây là hình thức mà người gặp phải tổn thất tự chấp
nhận khoản tổn thất đó. Một trường hợp điển hình của chấp nhận rủi ro là tự bảo
hiểm. Có rất nhiều cách thức khác nhau trong biện pháp chấp nhận rủi ro, tuy nhiên
có thể phân chia làm hai nhóm: chấp nhận rủi ro thụ động và chấp nhận rủi ro chủ
động. Trong chấp nhận rủi ro thụ động, người gặp tổn thất không có sự chuẩn bị
trước và họ có thể phải vay mượn để khắc phục hậu quả tổn thất. Đối với chấp


6
nhận rủi ro chủ động, người ta lập ra quĩ dự trữ dự phòng và quỹ này được sử dụng
để bù đắp tổn thất do rủi ro gây ra. Tuy nhiên, việc này dẫn đến việc nguồn vốn
không được sử dụng một cách tối ưu hoặc nếu đi vay thì sẽ bị động và còn gặp
phải các vấn đề gia tăng về lãi suất…
- Bảo hiểm: Đây là một phần quan trọng trong các chương trình quản lý

rủi ro của các tổ chức cũng như cá nhân. Theo quan điểm của các nhà quản lý
rủi ro, bảo hiểm là sự chuyển giao rủi ro trên cơ sở hợp đồng. Theo quan điểm
xã hội, bảo hiểm không chỉ là chuyển giao rủi ro mà còn là sự giảm rủi ro do
việc tập trung một số lớn các rủi ro cho phép có thể tiên đốn về các tổn thất khi
chúng xảy ra. Bảo hiểm là cơng cụ đối phó với hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra,
có hiệu quả nhất. Như vậy, bảo hiểm ra đời là đòi hỏi khách quan của cuộc sống,
của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Do đòi hỏi về sự tự chủ và sự an tồn về tài chính cũng như các nhu cầu
của con người, hoạt động bảo hiểm ngày càng phát triển và khôn thể thiếu đối
với mỗi cá nhân, doanh nghiệp và mỗi quốc gia. Ngày nay, sự giao lưu kinh tế,
văn hố giữa các quốc gia càng phát triển thì bảo hiểm cũng ngày càng mở rộng.
Vì vậy, khái niệm "Bảo hiểm" trở nên gần gũi, gắn bó với con người, với
các đơn vị sản xuất kinh doanh. Có được quan hệ đó vì bảo hiểm đã mang lại lợi
ích kinh tế xã hội thiết thực cho mọi thành viên, mọi đơn vị có tham gia bảo
hiểm.
Tác dụng đó được thể hiện:
- Người tham gia bảo hiểm (cá nhân hay tổ chức) được trợ cấp, bồi
thường những thiệt hại thực tế do rủi ro, bất ngờ gây ra thuộc phạm vi bảo hiểm.
Nhờ đó họ nhanh chóng ổn định kinh tế, khơi phục đời sống và sản xuất kinh
doanh…
- Nhờ có bảo hiểm những người tham gia đóng góp một số phí tạo thành
nguồn quỹ bảo hiểm lớn ngồi chi trả hay bồi thường còn là nguồn vốn để đầu
tư phát triển kinh tế…
- Bảo hiểm, nhất là bảo hiểm thương mại cịn đóng góp tích luỹ cho ngân
sách…


7
- Bảo hiểm cùng với người tham gia bảo hiểm thực hiện các biện pháp để
phòng ngừa tai nạn xảy ra nhằm giảm bớt và hạn chế hậu quả thiệt hại.

- Bảo hiểm là chỗ dựa tinh thần cho mọi người, mọi tổ chức; giúp họ yên
tâm trong cuộc sống, trong sinh hoạt sản xuất kinh doanh; bảo hiểm thể hiện tính
cộng đồng, tương trợ, nhân văn sâu sắc.
- Bảo hiểm cịn góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế giữa các
nước, nhất là thông qua hoạt động tái bảo hiểm v.v..
- Cuối cùng, hoạt động bảo hiểm thu hút một số lao động nhất định, góp
phần giảm bớt tình trạng thất nghiệp cho xã hội (theo thống kê, bảo hiểm các
nước thu hút 1% lực lượng lao động xã hội).
1.1.2. Đặc trưng của bảo hiểm phi nhân thọ
a. Đặc điểm chung[7, tr 52-56]
Bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng và bảo hiểm nói chung có đặc trưng là
ngành dịch vụ đặc biệt. Nó đặc biệt bởi:
- Sản phẩm của bảo hiểm là sản phẩm vơ hình:
Sản phẩm bảo hiểm, về bản chất là một dịch vụ, một lời hứa, một lời cam
kết mà công ty bảo hiểm đưa ra với khách hàng. Khách hàng đóng phí để đổi lấy
những cam kết bồi thường hoặc chi trả trong tương lai.
Khác với sản phẩm vật chất mà người mua có thể cảm nhận được qua
cac giác quan, người mua sản phẩm bảo hiểm không thể chỉ ra mầu sắc, hình
dáng, kích thước hay mùi vị của sản phẩm. Họ cũng không thể cảm nhận được
bằng các giác quan như cầm nắm, sờ mó, ngủi hoặc nếm thử…
Để khắc phục những khó khăn đó, cũng là để củng cố lịng tin của khách
hàng, các doanh nghiệp bảohiểm tìm cách tăng tính hữu hình của sản phẩm: chú
ý những lợi ích có liên quan đến dịch vụ: sử dụng những người nổi tiếng, có uy
tín tun truyền dịch vụ; phát triển hệ thống đại lý chuyên nghiệp; xây dựng uy
tín của cơng ty bảo hiểm; tăng cường vai trị quan trọng của hoạt động
marketing. Như vậy, lòng tin và chất lượng dịch vụ khách hàng chính là chìa
khóa để bán sản phẩm bảo hiểm


8

- Bảo hiểm có chu trình kinh doanh ngược:[4, tr 79-83]
Khác với chu trình sản xuất hàng hóa thơng thường, khi giá cả được
quyết định sau khi đã biết được chi phí sản xuất ra hàng hóa đó. Như vậy, các
doanh nghiệp sản xuất hàng hóa hữu hình phải bỏ vốn ra trước, mua các máy
móc, nguyên vật liêu, thuê nhân cơng thì mới sản xuất ra sản phẩm và thực hiện
quy trình đưa sản phẩm đến người tiêu dùng, khi sản phẩm đó bán được doanh
nghiệp mới thu tiền về, trong khoản tiền này bao gồm cả vốn doanh nghiệp bỏ ra
và lãi doanh nghiệp nhận được. Còn doanh nghiệp bảo hiểm khơng phải bỏ vốn
trước, họ nhận phí bảo hiểm trước của người tham gia bảo hiểm đóng góp và
thực hiện nghĩa vụ sau với bên được bảo hiểm khi xảy ra sự cố bảo hiểm. Do
vậy, không thể tính được chính xác hiệu quả của một sản phẩm bảo hiểm vào
thời điểm bán sản phẩm.
Thông thường, hợp đồng bảo hiểm được coi là có hiệu lực ngay sau khi
có sự chấp nhận của Người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm đã đóng phí
bảo hiểm đầy đủ theo hợp đồng. Phí bảo hiểm mà khách hàng đóng khi ký hợp
đồng chính là giá bán một hợp đồng bảo hiểm.
Ví dụ: cơng ty bảo hiểm B bán bảo hiểm tai nạn con người. Người tham
gia bảo hiểm đóng phí để mua dịch vụ bảo hiểm vào ngày đầu năm. Cơng ty bảo
hiểm B có ngay doanh thu từ đầu năm. Các hợp đồng bảo hiểm này sẽ kết thức
vào ngày cuối năm, khi đó trách nhiệm của các công ty bảo hiểm B trước các tổn
thất theo như thỏa thuận trong hợp đồng sẽ chấm dứt. Đến ngày cuối năm, cơng
ty bảo hiểm B mới có thể tính được chi phí triển khai dịch vụ bảo hiểm này.
Tương tự như vậy là chi phí hoạt động của cơng ty. Chu trình kinh doanh của
bảo hiểm có đặc điểm là công ty bảo hiểm định giá bán dịch vụ của mình trước
khi tính tốn được chi phí mình bỏ ra.
Đặc điểm này ảnh hưởng rất lớn đến quyết định đưa loại sản phẩm nào
ra thị trường. Nếu một sản phẩm đưa ra được đông đảo người mua chấp nhận,
công ty bảo hiểm sẽ thu về một khoản tổng phí bảo hiểm rất lớn. Khi rủi ro xảy
ra cho một số khách hàng nào đó, cơng ty bảo hiểm có đủ khả năng chi trả mà
khơng bị bội chi. Ngược lại, nếu chỉ có một số ít khách hàng chấp nhận, tổng phí



9
thu được nhỏ bé. Công ty bảo hiểm sẽ dễ rơi vào tình trạng thu khơng đủ chi nếu
như nhóm khách hàng đó có tỷ lệ rủi ro quá cao trong khoảng thời gian các hợp
đồng bảo hiểm cịn có hiệu lực.
Mặt khác, chu trình kinh doanh ngược cịn có tác dụng chi phối trách
nhiệm đề phòng hạn chế tổn thất của người được bảo hiểm khi họ đã được một
hợp đồng bảo hiểm bảo vệ. Bởi lẽ nếu tổn thất xảy ra ít, giá bán của các hợp
đồng bảo hiểm năm sau đó sẽ được giảm đi ( hay nói cách khác, khách hàng sẽ
được giảm phí), ngược lại, nếu tỷ lệ tổn thất lớn, khách hàng sẽ phải trả phí cao
hơn vào những năm sau.
- Tâm lý người mua hàng không mưốn tiêu dùng dịch vụ này:[4, tr 79-83]
Người mua bảo hiểm khơng mong muốn có sự kiện rủi ro xảy ra để
được nhận quyền lợi bảo hiểm dù rằng quyền lợi đó có thể nhiều hơn gấp bội lần
so với số phí phải đóng.
Q trình mua sản phẩm bảo hiểm chịu sự chi phối của các yếu tố tâm
lý. Do chi phối bởi những tập tục, quan niệm có thể mang nặng yếu tố tâm linh,
nên nói chung người mua khơng muốn nói đến rủi ro, khơng muốn thấy cụ thể
những hậu quả của rủi ro có thể được bảo hiểm, điểm hình nhất trong bảo hiểm
tử vong hay thương tật.
Nhưng ngược lại, người mua coi việc mua một sản phẩm bảo hiểm như
một chiếc bùa hộ mệnh, giúp họ yên tâm hơn về mặt tinh thần đồng thời có sự
đảm bảo về mặt vật chất khi điều không may xảy ra. Người bán cũng dễ bị ý
nghĩ chiều lòng, thỏa mãn nhu cầu của khách hàng mà thiếu sự cân nhắc cần
thiết cho việc lực chọn và đánh giá những rủi ro có thế đảm nhận.
Trong khi tiến hành giao dịch chào bán dịch vụ, cán bộ bảo hiểm phải
chú ý tới đặc điểm này để thuyết phục khách hàng khi họ nói khơng quan tâm
đến rủi ro và không mong muốn rủi ro xảy ra đối với họ. Bởi lẽ, tất cả đều
không mong muốn những tai nạn, tổn thất xảy ra. Mặt khác, bảo hiểm là tấm lá

chắn cho những điều không mong muốn này. Thơng qua thực tế tình hình thiên
tai, tai nạn, cũng như giải quyết bồi thường tổn thất tại địa phương, để minh
chứng về lợi ích của bảo hiểm và sự cần thiết tham gia bảo hiểm.


10
b. Đặc điểm riêng:
Ngoài những đặc điểm chung của bảo hiểm đã đề cập ở trên, bảo hiểm phi
nhân thọ cịn có những đặc điểm riêng cơ bản sau:
- Thứ nhất: Hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ là một hợp đồng có thời hạn
bảo hiểm thường là một năm hoặc ngắn hơn (như bảo hiểm cho một chuyến hoạt
động từ A đến B hoặc một chuyến du lịch ngắn ngày…)
- Thứ hai: Hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ chỉ bồi thường và chi trả tiền
bảo hiểm khi có rủi ro được bảo hiểm xảy ra trong thời gian hợp đồng cịn hiệu
lực
- Thứ ba: Phí bảo hiểm phi nhân thọ được tính cho thời hạn bảo hiểm,
thơng thường phí tính cho từng năm bảo hiểm hoặc từng chuyến. Phí bảo hiểm
cho những năm tiếp theo sẽ có sự thay đổi. Phí bảo hiểm phi nhân thọ cịn phụ
thuộc mức độ rủi ro. Ví dụ với điều khoản bảo hiểm nếu Người tham gia bảo
hiểm giới hạn phạm vi bảo hiểm một vài rủi ro khơng tham gia thì phí bảo hiểm
được xem xét giảm đi, ngược lại nếu mở rộng bảo hiểm thêm một số rủi ro phụ
khác thì phí bảo hiểm sẽ tăng lên. Hoặc cùng một thời gian đi du lịch là 2 ngày
nhưng nếu tới khu du lịch có mức độ rủi ro lớn hơn, như vùng núi rừng nguy
hiểm thì phí bảo hiểm cao hơn.
- Thứ tư: trừ các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ, còn các
nghiệp vụ khác như tài sản, trách nhiệm dân sự giữa Người bảo hiểm, Người
được bảo hiểm và Người thứ ba có liên quan tới rủi ro bảo hiểm đều có mối
quan hệ về quyền lợi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
1.1.3. Các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ[3, tr 66-90]
Để khơng ngừng phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của đất

nước, bảo hiểm phi nhân thọ đã luôn chú trọng phát triển các nghiệp vụ nhằm đa
dạng hoá sản phẩm bảo hiểm, đáp ứng được nhu cầu da dạng và phong phú của
con người. Hiện nay nếu căn cứ vào đối tượng bảo hiểm phi nhân thọ được chia
làm 3 loại:
- Bảo hiểm tài sản
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự


11
- Bảo hiểm con người phi nhân thọ.
Bảo hiểm tài sản
Đây là loại bảo hiểm mà đối tượng bảo hiểm là tài sản (cố định hay lưu
động) của người được bảo hiểm. Ví dụ như: Bảo hiểm cho thiệt hại vật chất xe
cơ giới, bảo hiểm cho hàng hoá của các chủ hàng trong bảo hiểm hàng hoá xuất
nhập khẩu, bảo hiểm tài sản của ông chủ nhà trong bảo hiểm trộm cắp.
Các bảo hiểm về tài sản đều có một số đặc điểm chung sau:
a) Áp dụng nguyên tắc bồi thường khi thanh toán chi trả bảo hiểm. Số tiền bồi
thường mà bên được bảo hiểm nhận được trong mọi trường hợp không được
vượt quá thiệt hại thực tế trong sự cố bảo hiểm. Ví dụ, một chủ xe máy tham gia
bảo hiểm cho toàn bộ chiếc xe của mình trị giá 20 triệu đồng. Trong một vụ tai
nạn, xe bị hư hỏng giá trị thiệt hại là 8 triệu đồng, số tiền bồi thường mà chủ xe
nhận được trong bất kỳ trường hợp nào cũng chỉ là 8 triệu đồng.
b) Áp dụng nguyên tắc thế quyền hợp pháp khi xuất hiện người thứ ba có lỗi và
do đó có trách nhiệm đối với thiệt hại của người được bảo hiểm. Theo nguyên
tắc này, sau khi trả tiền bồi thường, người bảo hiểm sẽ được hưởng các quyền và
hành động của người bảo hiểm để thực hiện việc truy địi trách nhiệm của người
thứ ba có lỗi. Ngun tắc thế quyền hợp pháp nhằm đảm bảo quyền lợi của
người bảo hiểm, chống lại hành vi rũ bỏ trách nhiệm của người thứ ba có lỗi,
đồng thời đảm bảo cả nguyên tắc bồi thường.
Lấy lại ví dụ trên, trong vụ tai nạn lỗi một phần là của xe ô tô đi ngược

chiều (70%). Lúc này, thiệt hại 8 triệu đồng của chủ xe máy sẽ được truy cứu
trách nhiệm 5,6 triệu đồng của ông chủ xe ô tô (70% x 8 tr.đ = 5,6 triệu đồng).
Sau khi bồi thường 8 triệu đồng theo hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cho chủ xe
máy, công ty bảo hiểm được thay quyền của chủ xe máy này truy đòi trách
nhiệm 5,6 triệu đồng đối với chủ xe ô tô. Nguyên tắc thế quyền được áp dụng,
và người được bảo hiểm trong ví dụ này (chủ xe máy) cũng không thể nhận số
tiền bồi thường vượt quá 8 triệu đồng thiệt hại, như vậy nguyên tắc bồi thường
được đảm bảo.


12
Tuy nhiên, có một số ngoại lệ khi áp dụng nguyên tắc thế quyền hợp
pháp, đó là khi người thứ ba gây lỗi là trẻ em, hoặc là con cái, vợ chồng, cha
mẹ… của người được bảo hiểm.
c) Bảo hiểm trùng: Trong bảo hiểm tài sản, nếu một đối tượng bảo hiểm đồng
thời được bảo đảm bằng nhiều hợp đồng bảo hiểm cho cùng một rủi ro với
những người bảo hiểm khác nhau, những hợp đồng bảo hiểm này có điều kiện
bảo hiểm giống nhau, thời hạn bảo hiểm trùng nhau, và tổng số tiền bảo hiểm từ
tất cả những hợp đồng này lớn hơn giá trị bảo hiểm của đối tượng bảo hiểm đó
thì gọi là bảo hiểm trung.
Trong trường hợp có bảo hiểm trùng, tuỳ thuộc vào nguyên nhân xảy ra
để giải quyết. Thông thường, bảo hiểm trung liên quan đến sự gian lận của bên
tham gia bảo hiểm nhằm trục lợi bảo hiểm. Do đó, về nguyên tắc chung, cơng ty
bảo hiểm có thể huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm nếu phát hiện thấy gian lận. Ngược
lại, nếu các công ty bảo hiểm chấp nhận bồi thường thì lúc này, trách nhiệm của
mỗi cơng ty đối với tổn thất sẽ được phân chia theo tỷ lệ trách nhiệm mà họ đảm
nhận.
Trên thực tế, một trong số các công ty bảo hiểm đã cấp hợp đồng cho đối
tượng được bảo hiểm trùng này có thể sẽ đứng ra bồi thường theo số thiệt hại
thực tế, sau đó sẽ địi lại các cơng ty khác phần trách nhiệm của họ.

d) Một số chế độ bồi thường bảo hiểm áp dụng trong bảo hiểm tài sản
- Chế độ bảo hiểm theo nguyên tắc trách nhiệm vượt giới hạn (theo mức
miễn thường):
Người bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm đối với những tổn thất mà giá trị
thiệt hại thực tế vượt quá một mức đã thoả thuận (mức miễn thường). Miễn
thường là một hình thức từ chối bồi thường của cơng ty bảo hiểm dựa trên một
số tiền quy định. Có hai loại miễn thường: miễn thường có khấu trừ và miễn
thường khơng khấu trừ.
Trong chế độ bảo hiểm miễn thường có khấu trừ tổn thất được bồi thường
phải đảm bảo yêu cầu lớn hơn mức miễn thường quy định nhưng khi bồi thường
sẽ bị trừ đi mức miễn giảm này.


13
Chế độ bảo hiểm miễn thường không khấu trừ bảo đảm chi trả cho những
tổn thất vượt quá mức miễn thường nhưng số tiền bồi thường không bị khấu trừ
theo mức miễn thường:
Chế độ miễn thường được áp dụng nhằm loại trừ các hao hụt tự nhiên
thương mại thường phát sinh trong quá trình chuyên chở đối với một số loại
hàng hoá đặc biệt ra khỏi trách nhiệm của người bảo hiểm. Tránh cho người bảo
hiểm phải bồi thường những tổn thất quá nhỏ so với giá trị bảo hiểm đồng thời
dành một tỷ lệ không bồi thường để bên được bảo hiểm cùng chịu trách nhiệm
và có ý thức hơn trong đề phòng hạn chế rủi ro.
- Chế độ bảo hiểm theo tỷ lệ
Có hai loại bảo hiểm được áp dụng: Tỷ lệ số tiền bảo hiểm/giá trị bảo
hiểm (STBH/GTBH) và tỷ lệ số phí đã nộp. Tỷ lệ Tỷ lệ số tiền bảo hiểm/giá trị
bảo hiểm được áp dụng trong các trường hợp bảo hiểm dưới giá trị.
Còn trong trường hợp có sự khai báo có sự khai báo khơng chính xác rủi
ro, bên bảo hiểm thường áp dụng tỷ lệ thứ hai để thanh toán nếu chấp nhận bồi
thường:

- Chế độ bảo hiểm theo rủi ro đầu tiên:
Số tiền bồi thường bảo hiểm được trả sẽ dựa vào số tiền bảo hiểm được
thoả thuận , tức là:
Số tiền bồi thường ≤ số tiền bảo hiểm
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự
Bên cạnh các nghiệp vụ bảo hiểm tài sản cịn có các nghiệp vụ bảo hiểm
trách nhiệm dân sự như : bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới ,bảo hiểm TNDS
của chủ lao động , bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm , bảo hiểm trách nhiệm công
cộng, … Theo luật dân sự , trách nhiệm dân sự của một chủ thể (như chủ tài sản,
chủ doanh nghiệp, chủ nghề nghiệp…) được hiểu là trách nhiệm phải bồi thường
các thiệt hại về tài sản, về con người… gây ra cho người khác do lỗi của người
chủ đó. Trách nhiệm dân sự bao gồm trách nhiệm dân sự trong hợp đồng và
trách nhiệm dân sự ngồi hợp đồng. Thơng thường các dịch vụ bảo hiểm cung
cấp sự bảo đảm cho các trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng.


14
Vì đối tượng được bảo hiểm là phần trách nhiệm dân sự phát sinh của
Người được bảo hiểm đối với Người bị thiệt hại (một Người thứ ba khác) nên
trong loại bảo hiểm này Người được bảo hiểm là Người có trách nhiệm dân sự
cần được bảo đảm và cũng thường là Người tham gia bảo hiểm. Còn Người thụ
hưởng quyền lợi bảo hiểm lại là những Người thứ ba khác. Người thứ ba trong
bảo hiểm trách nhiệm dân sự là những người có tính mạng, tài sản bị thiệt hại trong
sự cố bảo hiểm và được quyền nhận bồi thường từ người bảo hiểm với tư cách là
Người thụ hưởng. Người thứ ba có quan hệ về mặt trách nhiệm dân sự với Người
được bảo hiểm nhưng chỉ có mối quan hệ gián tiếp với Người bảo hiểm.
Cần chú ý trong một số nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự, Người
thụ hưởng có thể xác định cụ thể hơn tên gọi của nghiệp vụ. Ví dụ, đó là người
lao động gặp tai nạn lao động trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ lao động
đối với người lao động.

Mặc dù, đối tượng được bảo hiểm của loại bảo hiểm này là một khái niệm
trừu trượng khi hợp đồng được ký kết. Tuy vậy, trách nhiệm bồi thường của bảo
hiểm vẫn căn cứ vào các thiệt hại thực tế xảy ra cho Người thứ ba. Vì vậy, bảo
hiểm trách nhiệm dân sự cũng được coi là bảo hiểm thiệt hại như bảo hiểm tài
sản và cũng áp dụng một số nguyên tắc như: nguyên tắc bồi thường, nguyên tắc
thế quyền hợp pháp.
Bảo hiểm con người phi nhân thọ
Mặc dù cũng là loại hình bảo hiểm con người, nhưng bảo hiểm con người
phi nhân thọ trong BHTM có những đặc điểm chủ yếu sau đây:


Hậu quả của những rủi ro mang tính chất thiệt hại vì rủi ro bảo hiểm ở

đây là tai nạn, bệnh tật, ốm đau thai sản liên quan đến thân thể và sức khoẻ của
con người. Những rủi ro ở đây khác với 2 sự kiện “sống” và “chết” trong bảo
hiểm nhân thọ và vì thế tính chất rủi ro được bộc lộ khá rõ cịn tính chất tiết
kiệm khơng được thể hiện.


Người được bảo hiểm thường được quy định trong một khoảng tuổi nào

đó, các công ty bảo hiểm không chấp nhận bảo hiểm cho những có độ tuổi q
thấp hoặc q cao tình trạng rủi ro diễn biến phức tạp, xác suất rủi ro cao, việc


15
kiểm sốt và quản lý rủi ro rất khó thực hiện. Chẳng hạn ở nước ta, các công ty
bảo hiểm không chấp nhận bảo hiểm cho những em bé dưới 12 tháng tuổi và
những người trên 65 tuổi. Nhưng ở nước Anh lại quy định khác, những đứa trẻ
dưới 3 tuổi và những người trên 65 tuổi không được các cơng ty bảo hiểm chấp

nhận bảo hiểm.


So với bảo hiểm nhân thọ, thời hạn bảo hiểm con người phi nhân thọ ngắn

hơn và thường là 1 năm như: Bảo hiểm tai nạn 24/24, bảo hiểm trợ cấp nằm viện
phẫu thuật... Thậm chí có nghiệp vụ, thời hạn bảo hiểm chỉ trong vịng vài ngày, phí
bảo hiểm thường được nộp 1 lần khi ký kết hợp đồng bảo hiểm.


Các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ thường được triển khai

kết hợp với các nghiệp vụ bảo hiểm khác trong cùng một hợp đồng bảo hiểm.
Chẳng hạn: bảo hiểm tai nạn được lồng ghép trong bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp,
bảo hiểm tai nạn lái phụ xe được triển khai kết hợp với bảo hiểm trách nhiệm
dân sự và bảo hiểm vật chất thân xe trong trường hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới
v.v.... Việc triển khai kết hợp này sẽ làm cho chi phí khai thác, chi phí quản lý....
của cơng ty bảo hiểm giảm đi từ đó có điều kiện giảm phí bảo hiểm.


Ở hầu hết các nước trên thế giới, trong giai đoạn đầu của sự phát triển

ngành bảo hiểm con người phi nhân thọ được triển khai, vừa rút kinh nghiệm,
đến khi điều kiện kinh tế - xã hội đã chín muồi mới tổ chức triển khai bảo hiểm
nhân thọ. Chính vì vậy, bảo hiểm con người phi nhân thọ được coi là loại hình
bảo hiểm bổ sung hữu hiệu nhất cho các loại hình BHXH, BHYT. Ở Việt Nam,
hầu hết các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ đều ra đời trong những
năm cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90, mãi đến năm 1996 mới tổ chức triển
khai bảo hiểm nhân thọ.
Các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ

Bảo hiểm con người phi nhân thọ được triển khai rất đa dạng và linh hoạt
tùy theo tình hình cụ thể ở từng nước và ngay trong phạm vi một nước, cũng có
sự khác nhau giữa các thời kỳ, giữa các công ty bảo hiểm về một số nội dung cơ
bản như: phạm vi bảo hiểm, phí bảo hiểm và số tiền bảo hiểm, thủ tục trả tiền
bảo hiểm v.v.... Điều này cũng thật dễ hiểu vì BHTM là hoạt động mang tính


16
kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận. Tuy nhiên trong quá trình ký kết hợp đồng
hoặc triển khai một sản phẩm mới đều phải tuân thủ khung pháp lý của mỗi
nước. Vì thế nội dung của phần này chỉ xin được đề cập đến một số nghiệp vụ
chủ yếu mang tính phổ biến.
Bảo hiểm tai nạn con người 24/24.
Bảo hiểm tai nạn con người 24/24 là một nghiệp vụ của BHTM mà ở đây,
nhà bảo hiểm sẽ chi trả số tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm (hay người
được hưởng quyền lợi bảo hiểm) khi người được bảo hiểm bị tai nạn thuộc phạm
vị bảo hiểm đổi lại người được bảo hiểm (hay người tham gia bảo hiểm) phải
nộp phí bảo hiểm khi họ ký kết hợp đồng.
Bảo hiểm tai nạn hành khách
Đã trở thành quy luật , khi nền kinh tế - xã hội ngay càng phát triển, nhu
cầu đi lại của nhân dân ngày càng tăng và lưu lượng hành khách tham gai giao
thông ngày càng lớn. Kéo theo đó là số lượng các loại phương tiện tham gia giao
thông cũng ngày càng gia tăng và hết sức đa dạng, phong phú. Mặc dù các loại
phương tiện tham gia giao thông ngày càng được cải tiến và hiện đại, cơ sở hạ
tầng giao thông ngày càng được mở rộng, nâng cấp và hoàn thiện, song tai nạn
giao thông vẫn ngày một gia tăng đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng và
tình trạng sức khoẻ của mọi hành khách. Theo số liệu thống kê trên thế giới,
hàng năm có hơn 70% lượng hành khách tham gia giao thông đều là những
người chủ chốt trong trong gia đình, cơ quan và doanh nghiệp, mỗi khi tai nạn
giao thông không may đối với họ đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của

mỗi gia đình, người dân, cơ quan, doanh nghiệp và tồn xã hội. Vì thế, bảo hiểm
tai nạn hành khách ra đời là hết sức cần thiết mà ở nhiều nước trên thế giới đã
được triển khai dưới hình thức bắt buộc.
Bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật.
Các rủi ro ốm đau, bệnh tật phải nằm viện điều trị hoặc phẫu thuật thường
ít người tránh khỏi. Khi tình trạng này diễn ra đã làm phát sinh các chi phí điều
trị và phẫu thuật, đồng thời còn làm người bệnh phải ngừng lao động hoặc mất
khả năng lao động. Trong khi đó, chi phí cho các dịch vụ khám chữa bệnh, điều


×