Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

KHÔNG THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT ĐẮM THUYỀN CỦA R. TAGORE

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.79 KB, 7 trang )

KHÔNG - THỜI GIAN NGHỆ THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT "ĐẮM
THUYỀN" CỦA R. TAGORE
Không - thời gian nghệ thuật là những phương diện quan trọng của thi
pháp học. Nó có thể giúp chúng ta khám phá ra quan niệm nghệ thuật về con
người cũng như những thành công khác ở tiểu thuyết Đắm thuyền - một trong
số 12 bộ tiểu thuyết của R. Tagore – tác phẩm được giới phê bình Bengan coi là
điểm mốc quan trọng trong sự phát triển và củng cố chủ nghĩa hiện thực trong
văn học Ấn Độ và cũng là một trong những tiểu thuyết xuất sắc viết về tình
yêu. Không gian tương thông, không gian con đường cũng như thời gian định
mệnh, thời gian thiên nhiên là những nét đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết của
R.Tagore.
1. Không gian nghệ thuật trong Đắm thuyền
Con người không thể tồn tại ngoài không gian. Tất cả mọi hành vi cho tới
những hành động, sự kiện lớn lao đều thực hiện trong không gian. Chính vì thế,
cùng với thời gian, không gian là một vấn đề quan trọng của thi pháp. Nó là
phạm trù của hình thức nghệ thuật, là phương tiện tồn tại và triển khai của thế
giới nghệ thuật để chiếm lĩnh đời sống.
Trước hết, nổi bật lên trong Đắm thuyền là không gian tương thông. Quan
điểm triết học cổ phương Đông coi con người là một bộ phận của vũ trụ, ngôi
nhà là một tiểu vũ trụ nên một trong những nguyên tắc của quan điểm triết học
này là đề cao sự gắn bó và giao lưu của con người với vũ trụ.
Nguyên tắc này đã ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống sinh hoạt hàng ngày
như một nét đặc trưng tư duy Á Đông, trong đó có cả Ấn Độ: làm nhà đã có
cửa tiền nhưng vẫn phải có cửa hậu, đã làm cửa chính đồng thời cũng phải làm
cửa sổ. Cửa tiền, cửa hậu, cửa chính, cửa sổ ngoài nhiệm vụ mở lối đi, đón
nắng, gió, không khí còn có nhiệm vụ quan trọng khác là tương thông với vũ
trụ lớn - ngôi nhà của tất cả mọi sinh vật.
Nguyên tắc đề cao sự gắn bó và giao lưu của con người với vũ trụ không
chỉ ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống sinh hoạt hàng ngày mà còn chi phối việc
sáng tạo không gian tương thông trong thơ trữ tình cổ xưa và cả trong những


ngôi nhà văn học hiện đại mà Đắm thuyền là một minh chứng. Vậy không gian
tương thông là gì? Không gian tương thông là không gian mở thông giữa
không gian đời tư (không gian nhỏ của con người) và không gian lớn của vũ
trụ.


Soi chiếu khái niệm không gian tương thông vào Đắm thuyền, có thể nhận
thấy nhà văn đã rất chú ý xây dựng ngôi nhà. Ngôi nhà xuất hiện dưới nhiều
hình thức đa dạng khi là ngôi nhà, khi là con thuyền, khi là toa tàu… Nhưng dù
ở dạng nào, R.Tagore đều không quên thiết kế cửa: cửa sổ (18 lần), cửa chính
(19 lần) tạo nên không gian tương thông với những đặc điểm độc đáo sau:
Thứ nhất, tất cả cửa sổ và cửa chính đều được mở tạo nên sự tương thông
giữa không gian sinh hoạt đời tư với vũ trụ. Sự tương thông này không chỉ để
ngôi nhà được đón nắng, gió, không khí mà còn để giúp con người từ trong
ngôi nhà có thể quan sát, chiêm ngưỡng thiên nhiên tạo vật ở bên ngoài mà thấy
“một màn sương trắng như tấm chăn mỏng phủ lên mặt nước tỉnh lặng”, “mặt
sông bắt đầu bừng sáng lên như suối vàng lóng lánh”. Đồng thời, không gian ấy
giúp các nhân vật khám phá ra những bí ẩn trong con người và thế giới tự
nhiên, nhờ vậy mà có cách ứng xử với cuộc đời, số phận một cách hợp lý. Ví
dụ, khi Ramesh nhìn qua cửa sổ, anh đã chìm vào suy tư suy tưởng khiến cho
“con người sâu thẳm trong anh như trôi dạt vào tận một vũ trụ, ở đó hết thảy
đều vĩnh hằng, yên tĩnh và cùng khắp”. Anh còn phát hiện ra những vấn đề lớn
lao của triết học: sinh - tử, khó nhọc - nghỉ ngơi, bắt đầu - kết thúc. Từ đó anh
xác lập trong mình một chân lý bất di, bất dịch và định hình được con đường
giải quyết vấn đề hiện tại: “Chỉ trong xung đột không ngừng của con người mới
không có tạm nghỉ, lúc thịnh cũng như lúc suy, đời người là cuộc đấu tranh
không ngừng chống lại những rủi ro”.
Thứ hai, không gian tương thông trong Đắm thuyền có quá trình tự hoàn
thiện. Biểu hiện ở chỗ, phần đầu tác phẩm, tác giả mới để cho cửa, đặc biệt là
cửa sổ, mở ra cái nhìn một hướng từ không gian sinh hoạt tới không gian vũ

trụ, nghĩa là các nhân vật đứng trong của sổ nhìn ra ngoài, chẳng hạn như
“Hemnalini đang đứng bên cửa sổ, lặng lẽ chăm chăm nhìn ra ngoài đường”.
Nhưng càng về sau sự tương thông hô ứng của không gian sinh hoạt riêng tư và
không gian vũ trụ càng rõ nét. Cửa sổ là nhân chứng chứng kiến sự hướng ra
của con người và sự hướng vào của ánh nắng. Điều này tạo nên sự chan hòa hô
ứng khiến cho ngôi nhà bừng sáng và con người ở trong đó như được tiếp một
nguồn năng lượng vô biên nên thường đạt tới trạng thái siêu thoát.
Thứ ba, không gian tương thông trong Đắm thuyền còn thực hiện nhiệm
vụ mở thông hai thế giới tinh thần qua cửa sổ tâm hồn làm cho tâm hồn người
này nắm bắt được những rung động và diễn biến tâm trạng phức tạp trong tâm
hồn người kia. Bằng chứng là đoạn R.Tagore viết về Ramesh và Hemnalini “…
thế là hai người yêu nhau đứng kề nhau bên ô của sổ vắng vẻ, bốn mắt nhìn
nhau. Dù không nói một lời nhưng cả hai đều cảm thấy bình ổn, hạnh phúc, họ
trải qua niềm sung sướng thần tiên trong trạng thái ngây ngất do sự yên lặng
đem lại”. Nhờ vậy các nhân vật hiểu nhau, tin tưởng vào nhau, từ đó có thêm
sức mạnh để vượt qua mọi trắc trở trong cuộc sống để đến với nhau.


Tóm lại, việc sáng tạo ra không gian tương thông trong Đắm thuyền là
thành công đáng ghi nhận của R.Tagore. Không gian này không chỉ giúp cho
R.Tagore biểu hiện thành công quan niệm về con người trong văn học cổ (con
người có thể xuất thể hay nhập thế nhưng bao giờ cũng ở trong vòng trời đất
cả, là một bộ phận của vũ trụ), mà còn giúp R.Tagore thể hiện quan niệm nghệ
thuật về con người hành động (con người muốn tồn tại và phát triển trước hết
phải hòa đồng với vũ trụ, không đối lập và xa rời thiên nhiên, hòa nhập vào
thiên nhiên để tìm quy luật tự giải phóng cho mình, phục vụ cuộc sống của
mình).
Thứ hai là không gian con đường. ở các tiêu chí, góc độ khác nhau, khái
niệm “Con đường” cũng có cách hiểu khác nhau. Từ điển Tiếng Việt có viết:
“Đường là lối đi nhất định được tạo ra để nối liền hai địa điểm, hai nơi”. Giáo

sư Trần Đình Sử cho rằng: “Con đường là biểu tượng của sự thống nhất của
không gian và thời gian, là không gian vận động, không gian của con người đi
tới”. Còn trong tôn giáo Ấn Độ thì con đường là lối đi giải thoát khỏi sự đau
khổ của vòng luân hồi, dẫn đến sự yên tĩnh của tinh thần.
Kết hợp các cách hiểu khác nhau về không gian con đường được trình bày
ở trên, chúng tôi đã tiến hành khảo sát thống kê trong tác phẩmĐắm thuyền và
nhận thấy cụm từ con đường xuất hiện 25 lần. Làm phép so sánh với con đường
trong thơ Tố Hữu hay con đường trong văn hóa lễ hội Cacnavan, chúng tôi có
một số nhận xét như sau:
Một là, con đường trong Đắm thuyền là một không gian thực, không gian
công cộng, không gian vận động nhưng rất tĩnh lặng: không âm thanh, không
lời nói, chỉ có hình ảnh bước chân và những suy nghĩ miên man. Hình ảnh con
đường này gợi ra một đất nước ấn Độ huyền bí mà chứa đựng trong đó những
cá nhân, cá thể bị khép kín trong ốc đảo của mình.
Hai là, con đường trong Đắm thuyền còn là một không gian mang tính
biểu tượng. Với đại đa số người Ấn Độ, con đường đi của họ là con đường
phục tùng số phận mòn và hẹp mà có lúc Ramesh đã “ước gì số phận đặt mình
vào một con đường mòn nào đó như viên thư ký kia, con đường ấy hẹp nhưng
xác định rõ ràng”. Con đường mòn, hẹp này sẽ làm cho con người mất đi tinh
thần phản kháng, chỉ biết chấp nhận số phận, mong chờ sự thay đổi ở kiếp sau.
Còn với những người như Ramesh, sau nhiều băn khoăn day dứt, khám
phá, anh đã chọn con đường khác hẳn con đường mà nhiều người Ấn Độ đã,
đang và sẽ đi . Con đường ấy là đường đời đầy trở ngại, đầy niềm vui và đau
khổ, phức tạp vô cùng. Đi trên con đường ấy, anh phải chiến đấu chống lại định
mệnh và cả những hủ tục lạc hậu của phong tục Ấn Độ để mang lại hạnh phúc
cho mình và những người anh yêu quý. Nói một cách khái quát là Ramesh
chiến đấu để diệt cái cũ, cái lạc hậu vô nhân tính vì một thế giới nhân đạo. Như
vậy, con đường mà Ramesh lựa chọn là con đường của lương tâm, đạo đức,
bổn phận và tình yêu.



Có thể nói, con đường trong Đắm thuyền được tác giả miêu tả theo quá
trình trừu tượng hóa, từ con đường thực tĩnh lặng đến con đường biểu tượng; từ
con đường truyền thống Ấn Độ có nhiều bảo thủ, lạc hậu đến con đường văn
minh, tiến bộ và nhân đạo mà R.Tagore đề xuất. Ông đặt các nhân vật của mình
trên những con đường, đòi hỏi các nhân vật phải suy ngẫm, phát hiện và hành
động nhằm giải phóng cá tính, phát triển nhân tính để đến với tự do và tính
thiện.
2. Thời gian nghệ thuật trong Đắm thuyền
Có thể thấy, cũng như không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật là nhân
tố nằm trong mạng lưới nghệ thuật của tác phẩm văn học. Nó thể hiện cái nhìn
tâm lý chủ quan về thời gian, cách cảm nhận và ứng xử đối với cuộc sống theo
quan điểm, ý đồ riêng của tác giả một cách có hiệu quả nghệ thuật. Trước hết,
thời gian nghệ thuật trong Đắm thuyền là thời gian định mệnh. Thời gian định
mệnh là thời gian do một lực lượng huyền bí định sẵn, con người không cưỡng
lại được theo quan điểm duy tâm. Vì vậy “Đặc điểm của thời gian định mệnh là
tất cả mọi sự kiện chuyển biến kết cục của một đời người đều đã được định sẵn
từ trước như một tất yếu”.
Soi chiếu khái niệm thời gian định mệnh vào tác phẩm Đắm thuyền,
chúng tôi nhận ra sự xuất hiện của hai dòng thời gian định mệnh tồn tại song
song với nhau nhưng ở thế đối cực và đấu tranh với nhau:
Dòng thời gian định mệnh thứ nhất được thể hiện rõ qua lời của các nhà
tiên tri, qua suy nghĩ của các nhân vật về một lực lượng siêu nhiên vô hình nào
đó có quyền lực tối cao chi phối cuộc đời các nhân vật Ramesh, Kamala, cụ thể
là qua các từ ngữ như: cả một năm rủi ro, cái ngày định mệnh ấy, thời hạn ấy,
mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, con giao phó chuyện ấy vào tay trời, số
phận… Cùng với những từ ngữ trên, thời gian định mệnh còn được thể hiện
qua những từ ngữ có nét nghĩa chung thường gắn liền với những biến cố sự
kiện biểu hiện sự ngẫu nhiên, bất ngờ, đột ngột, không lường trước được
như: bỗng (10 lần), đột nhiên (9 lần), đột ngột (10 lần), thình lình (3 lần), tình

cờ (2 lần)… Hệ thống từ ngữ này tạo ra khoảnh khắc thời gian gấp khúc có tốc
độ nên vừa có tác dụng thúc đẩy tiến trình của truyện vừa tạo ra những khúc
ngoặt cho cuộc đời nhân vật một cách ngẫu nhiên làm cho các nhân vật bị đặt
vào thế bị động: Ramesh đã tốt nghiệp Luật khoa đang yêu Hemnalini đột
nhiên cha ở quê gọi về lấy một người vợ chưa hệ biết mặt; trong đám rước dâu
về làng, đám cưới phải đi bằng thuyền đột ngột gặp bão nên thuyền bị đắm,
Ramesh bị sóng đẩy lên bờ; lúc tỉnh dậy đột nhiên nhìn thấy một cô dâu
(Kamala) sống sót nằm gần đó khiến Ramesh tưởng đó là vợ mình và Kamala
cũng ngỡ Ramesh là chồng mình; chung sống với nhau được vài ngày đột
nhiên, Ramesh phát hiện ra Kamala không phải người vợ mà cha cưới cho
mình… Chính những ngẫu nhiên này đã góp phần dệt thành thời gian định


mệnh, khẳng định sự định sẵn đầy nghiệt ngã của lực lượng siêu nhiên huyền
bí.
Dòng thời gian định mệnh thứ hai chủ yếu được thể hiện qua những cảm
nhận, suy ngẫm của các nhân vật về sự ràng buộc của sợi dây duyên phận mà
có thể tạm gọi là thời gian định mệnh tình yêu. Thực chất của dòng thời gian
này là thời gian con người được R. Tagore sáng tạo và biểu hiện cụ thể
qua nhịp điệu đặc biệt về thời gian với một lớp từ ngữ như: vội, vội vàng, lập
tức, hối hả, hấp tấp... nhằm làm nổi bật ý thức của con người trước thực tại, thể
hiện sự mong muốn chống lại định mệnh, số phận để giải phóng mình và cuối
cùng đã đến được với tình yêu và hạnh phúc.
Có thể nói, việc xây dựng thời gian định mệnh với hai lớp thời gian song
song tồn tại và đấu tranh với nhau cho thấy R. Tagore đã thành công trong việc
biểu hiện quan điểm của mình về con người. Đó là con người hành động với
thông điệp: con người muốn có tình yêu và hạnh phúc cần phải mạnh mẽ, dũng
cảm, chủ động vượt qua và đấu tranh với số phận, với những hủ tục lạc hậu
của Ấn Độ truyền thống. Đây là sự đổi mới đáng ghi nhận ở R. Tagore so với
quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học ấn Độ truyền thống.

Thứ hai là thời gian thiên nhiên trong Đắm thuyền. Đối với mỗi người
trong cuộc sống, thiên nhiên có vai trò vô cùng quan trọng. Đối với người Ấn
Độ, thiên nhiên đặc biệt cần cho sự yên tĩnh của tinh thần. Bởi, nó giúp người
ấn tách biệt khỏi mọi việc đời, tập trung tâm trí suy nghiệm chân lý.
Trong Đắm thuyền, thiên nhiên là một bộ phận hữu cơ “nhiều lúc là nhân
chứng, là người đồng cảm, hòa hợp trong quá trình diễn biến tâm trạng của các
nhân vật trong truyện”. Nó phục vụ đắc lực cho chủ trương con người hòa
đồng với vũ trụ, hòa nhập thiên nhiên, năng động xông pha tích cực đi tìm qui
luật để giải phóng con người. Vì vậy, trong Đắm thuyền, thiên nhiên gắn bó,
gần gũi với con người tới mức khi đó, xác định thời gian các nhân vật chủ yếu
dựa vào sự quan sát bằng trực giác hoặc cảm giác với một lớp từ ngữ chỉ thời
tiết, mùa màng dày đặc: mùa mưa, mùa thu, ban trưa, ban chiều, trăng, sao, ánh
nắng, bóng tối cùng với hệ thống từ ngữ chỉ màu sắc tự nhiên. Trong đó, trăng
(xuất hiện 21 lần), ánh nắng (15 lần), bóng tối (12 lần), mùa thu (10 lần), mặt
trời (6 lần).
Đặc biệt và ấn tượng nhất có lẽ là hình ảnh trăng. Trong Đắm thuyền,
trăng là đối tượng thưởng thức, đối tượng giao tiếp. Nó không đứng yên mà
luôn trong trạng thái vận động: mảnh trăng khuyết đã mọc, ánh trăng non nhợt
nhạt, mảnh trăng non tí xíu, trăng huy hoàng rực rỡ, trăng đã lặn… nên chỉ
cần nhìn trăng người ta có thể biết được thời gian trong tháng và thời điểm
trong đêm.
Tuy nhiên, các nhân vật ngồi dưới trăng không phải chỉ để ngắm trăng mà
quan trọng hơn là nhờ ánh trăng soi rọi vào thế giới tâm hồn để khám phá ra
mình, khám phá ra nhau. Chẳng thế mà mỗi khi ngồi dưới trăng, các nhân vật


lại phát hiện ra một điều mới mẻ như việc Ramesh nhận ra trong suy nghĩ của
anh không có chỗ nào dành cho Kamala; còn Kamala mơ hồ phát hiện ra những
điều bất ổn trong thế giới nội tâm của Ramesh và cô nhận thấy “cô không có
trong suy nghĩ của anh”, khoảng cách giữa anh và nàng là có thật… Vì vậy,

mỗi khi bức tranh trăng được khép lại, các nhân vật thường tìm được đường
hướng, triển vọng để giải bài toán cuộc đời.
Cùng với trăng, ánh nắng, màn đêm, bóng tối cũng góp phần tích cực để
thông báo thời gian và tiếp thêm sinh lực hoặc tạo động lực cho nhân vật khám
khá ra bản thân mình. Nắng mai xuất hiện thường tạo ra những khoảng khắc
thời gian có tốc độ làm sáng mà thường là bừng sáng những căn phòng vốn ảm
đạm tăm tối để tiếp thêm nguồn sống, nghị lực cho nhân vật, cổ vũ nhân vật
như Hemnalini, Kamala vững bước vào ngày mới với những dấu hiệu tốt lành.
Đối lập với nắng mai, nắng chiều, màn đêm, bóng tối được R. Tagore vẽ ra như
một bà già sức tàn lực kiệt kéo thời gian lê chầm chậm đưa nhân vật vào cái tôi
bề sâu, làm Ramesh nhận ra tình yêu đích thực của mình mà những ngày
qua anh mới chỉ đứng ở những cửa bên ngoài của tình yêu, thấy mình khát
khao yêu thương hơn bao giờ hết và thấy mình không thể bỏ rơi Kamala. Còn
Kamala nhận ra khát vọng về gia đình trong trái tim bé nhỏ của mình: Gia
đình! Tim nàng rộn lên với suy nghĩ ấy. Giá như nàng có một gia đình nhỏ ở
đâu đó ! Nhưng ở đâu ?
Nếu nắng mai tạo ra khoảnh khắc thời gian có tốc độ, nắng chiều cùng
với màn đêm và bóng tối làm cho thời gian kéo lê chầm chậm thìnắng thu rực
rỡ, dìu dịu lại tạo ra bức tranh thiên nhiên tuyệt mỹ với cảm giác phi thời
gian mang lại cho nhân vật sự siêu thoát, thăng hoa để được bồng bềnh trên
mặt biển niềm vui huyền bí: “Nắng thu làm miền quê phô ra muôn hình, muôn
vẻ mà dòng sông ánh vàng là cái nền chung”, “con tàu cứ rẽ sóng đều đều và
trong nắng thu rực rỡ sắc màu, đôi bờ lướt qua như một ảo ảnh bình yên song
luôn biến đổi…”.
Như thế, R.Tagore đã sử dụng một cách có ý thức và hiệu quả những từ
ngữ chỉ thời gian thiên nhiên để không chỉ vẽ ra bức tranh thiên nhiên đậm đà
phong vị Ấn Độ mà còn làm nổi bật hình ảnh con người hòa đồng với vũ trụ,
hòa nhập thiên nhiên, năng động xông pha tích cực đi tìm quy luật để giải
phóng con người.
Tóm lại, qua việc tìm hiểu không - thời gian nghệ thuật trong tác

phẩm Đắm thuyền của R.Tagore, chúng ta không chỉ có thêm hiểu biết về đặc
trưng tư duy của người Ấn Độ, là quan điểm duy tâm định mệnh, tư duy hướng
nội, tư tưởng thoát tục để suy nghiệm chân lý, mà còn thấy quan niệm nghệ
thuật về con người của R.Tagore rất mới mẻ và thấm đẫm tính nhân văn. Con
người phải luôn có sự gắn kết với truyền thống với cộng đồng và thiên nhiên
nhưng cũng phải biết hành động vì tình yêu, hạnh phúc của mình và vì tính
thiện. Đây chính là hình ảnh con người Ấn Độ mới có sự kết hợp giữa truyền


thống và hiện đại, giữa dân tộc và thời đại, có khả năng làm chủ cuộc sống của
mình và đất nước.



×