Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Hãy phân tích mối quan hệ giữa triết học và khoa học với tư cách là một hình thái ý thức xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.25 KB, 18 trang )

HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG

KHOA QUỐC TẾ VÀ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN
Đề tài: Hãy phân tích mỗi quan hệ giữa triết học và khoa học với tư cách là
một hình thái ý thức xã hội

1


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
Triết học đóng vai trò rất to lớn trong quá trình phát triển của khoa học. Và ngược lại,
với mỗi gian đoạn phát triển của khoa học, triết học cũng có một bước phát triển. Như
Ph.Ăngghen đã từng nhận định: “Mỗi khi có những phát minh của khoa học tự nhiên thì chủ
nghĩa duy vật cũng thay đổi hình thức”. Do đó, việc nghiên cứu các tư tưởng Triết học
không thể tách rời các giai đoạn phát triển của khoa học. Có nhiều quan điểm khác nhau cho
rằng: Triết học chưa bao giờ và cũng chẳng bao giờ là khoa học. Quan điểm ngược lại cho
rằng: Triết học là khoa học. Như vậy, triết học và khoa học được hiểu như một lĩnh vực hay
hai lĩnh vực khác nhau, chúng ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của nhau ra sao? Giữa
triết học và khoa học có quan hệ với nhau như thế nào? Để trả lời những câu hỏi này, cần
thiết phải làm rõ mối quan hệ giữa triết học và khoa học xuyên suốt tiến trình lịch sử tồn tại
và phát triển của bản thân triết học và khoa học vì thực tế mối quan hệ giữa chúng phải gắn
với những điều kiện lịch sử cụ thể, thời gian và không gian cụ thể. Theo đó, bài viết gồm ba
phần chính: phần một, trình bày cơ sở lý thuyết về triết học và khoa học. Phần hai sẽ phân

2



tích mỗi quan hệ giữa triết học và khoa học với tư cách là một hình thái ý thức xã hội. Phần
ba tổng hợp những nội dung đã trình bày.

1.

CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1

Triết học là gì?

Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời gian
(khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước Công nguyên) tại một số trung tâm văn minh cổ
đại của nhân loại như Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp. Ở Trung Quốc, người Trung Quốc hiểu
triết học không phải là sự miêu tả mà là sự truy tìm bản chất của đối tượng, triết học chính là
trí tuệ, là sự hiểu biết sâu sắc của con người.
Ở Ấn Độ, thuật ngữ dar'sana (triết học) có nghĩa là chiêm ngưỡng, nhưng mang hàm
ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải.
Ở phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện ở Hy Lạp. Nếu chuyển từ tiếng Hy Lạp
cổ sang tiếng Latinh thì triết học là Philosophia, nghĩa là yêu mến sự thông thái. Với người
Hy Lạp, philosophia vừa mang tính định hướng, vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm
chân lý của con người.

3


Như vậy, cho dù ở phương Đông hay phương Tây, ngay từ đầu, triết học đã là hoạt
động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người, nó tồn tại với tư cách
là một hình thái ý thức xã hội.
Đã có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về triết học, nhưng đều bao hàm những
nội dung cơ bản giống nhau: Triết học nghiên cứu thế giới với tư cách là một chỉnh thể, tìm

ra những quy luật chung nhất chi phối sự vận động của chỉnh thể đó nói chung, của xã hội
loài người, của con người trong cuộc sống cộng đồng nói riêng và thể hiện nó một cách có
hệ thống dưới dạng duy lý.
Khái quát lại, có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con
người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. Triết học ra đời do hoạt
động nhận thức của con người phục vụ nhu cầu sống; song, với tư cách là hệ thống tri thức
lý luận chung nhất, triết học chỉ có thể xuất hiện trong những điều kiện nhất định sau đây:


Con người đã phải có một vốn hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng

rút ra được cái chung trong muôn vàn những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ.

Xã hội đã phát triển đến thời kỳ hình thành tầng lớp lao động trí óc. Họ
đã nghiên cứu, hệ thống hóa các quan điểm, quan niệm rời rạc lại thành học thuyết,
thành lý luận và triết học ra đời.
Tất cả những điều trên cho thấy: Triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực
tiễn; nó có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
1.2

Khoa học là gì?
1.2.1 Tồn tại xã hội và ý thức xã hội

Tồn tại xã hội là sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
Các yếu tố tạo thành tồn tại xã hội là phương thức sản xuất vật chất, điều kiện tự nhiên –
hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số, … trong đó sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản
nhất.
Ý thức xã hội là một tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm những quan điểm, tư
tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống… nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh
tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định. Lĩnh vực tinh thần của đời sống xã

4


hội có cấu trúc hết sức phức tạp. Có thể tiếp cận kết cấu của ý thức xã hội từ những phương
diện khác nhau.
Theo nội dung và lĩnh vực phản ánh đời sống xã hội, ý thức xã hội bao gồm các hình
thái khác nhau: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức khoa học, ý thức
tôn giáo, ý thức thẩm mỹ, triết học,...
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội có mối quan hệ biện chứng. Chủ nghĩa duy vật lịch sử
chỉ rõ rằng: Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội,
phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Mỗi khi tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất thay đổi thì
tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, văn
hóa nghệ thuật, … sớm muộn cũng thay đổi theo.
1.2.2 Ý thức khoa học
Ý thức khoa học vừa là một hình thái ý thức xã hội, vừa là một hiện tượng xã hội đặc
biệt. Xem xét khoa học như một hình thái ý thức xã hội không thể tách rời xem xét nó như
một hiện tượng xã hội.
Ý thức khoa học - với tính cách là một hình thái ý thức xã hội - là hệ thống tri thức
phản ánh chân thực dưới dạng lôgic trừu tượng về thế giới đã được kiểm nghiệm qua thực
tiễn. Đối tượng phản ánh của ý thức khoa học bao quát mọi lĩnh vực của tự nhiên, xã hội và
tư duy. Đó là một trong những sự khác biệt giữa ý thức khoa học với các hình thái ý thức xã
hội khác.
Hình thức biểu hiện chủ yếu của tri thức khoa học là phạm trù, định luật, quy luật.
Tri thức khoa học thâm nhập vào các hình thái ý thức xã hội khác, hình thành các
khoa học tương ứng với từng hình thái ý thức đó. Thí dụ: ý thức chính trị và chính trị học, ý
thức đạo đức và đạo đức học, ý thức nghệ thuật và nghệ thuật học, ý thức tôn giáo và tôn
giáo học.
Nhờ tri thức khoa học, con người không ngừng vươn tới cái mới "sáng tạo ra một thế
giới mới" và ngày càng làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân mình.


5


Xét về đối tượng, các khoa học chia thành những khoa học tự nhiên - kỹ thuật, nghiên
cứu các quy luật của tự nhiên, các phương thức chinh phục và cải tạo tự nhiên; và những
khoa học xã hội nghiên cứu những hiện tượng xã hội khác nhau, các quy luật vận động, phát
triển của chúng và cả bản thân con người như là một thực thể xã hội. Cũng có khoa học
nghiên cứu những vấn đề chung, quy luật chung, đó là triết học.
Trong mỗi khoa học người ta phân thành các cấp độ: kinh nghiệm, tức là những tư
liệu hiện thực đã tích luỹ được - sự tổng kết các quan sát và thí nghiệm; lý luận là sự khái
quát kinh nghiệm thể hiện trong những lý thuyết về quy luật và nguyên lý tương ứng, cấp độ
lý luận của các khoa học cụ thể hợp lực với nhau trong sự giải thích các nguyên lý và quy
luật đã phát hiện trên bình diện lý luận chung - bình diện triết học, hình thành mặt thế giới
quan và phương pháp luận của toàn bộ nhận thức khoa học.
Nguồn gốc sâu xa của sự hình thành khoa học là do nhu cầu phát triển sản xuất. Cùng
với sự phát triển của sản xuất và thực tiễn xã hội, khoa học cũng không ngừng phát triển.
Trong quá trình đó, vai trò của khoa học trong đời sống xã hội ngày càng tăng lên.
Mối quan hệ giữa triết học và khoa học là mối quan hệ hai chiều, nghĩa là, triết học và
các khoa học đều có tác động biện chứng lẫn nhau. Nếu như sự tác động của triết học đến
khoa học có thể chia thành những giai đoạn và mỗi giai đoạn có những hình thức nhất định,
thì ngược lại, sự tác động của khoa học đến sự phát triển của triết học không phải khi nào
cũng rõ ràng và có khuynh hướng rõ rệt. Từ chỗ lúc đầu là một sự hòa trộn đan xen giữa tri
thức khoa học và triết học, dần dần là sự tách ra của khoa học và sau đó, khoa học bắt đầu
ảnh hưởng đến sự phát triển của triết học.

6


2. PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ KHOA
HỌC VỚI TƯ CÁCH LÀ MỘT HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI

2.1

Sự tác động của khoa học đối với sự phát triển của triết học

Như chúng ta đã biết, mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng đều gắn với điều kiện
lịch sử, thời gian và không gian cụ thể. Việc phân tích mối quan hệ giữa Triết học và khoa
học theo đó cũng sẽ được phân tích xuyên suốt chiều dài lịch sử tồn tại và phát triển của
chúng, điều này sẽ giúp chúng ta có một cái nhìn toàn diện hơn trong việc xem xét mối quan
hệ giữa triết học và khoa học. Triết học và khoa học tự nhiên xuất hiện, tồn tại, vận động và
phát triển trên cơ sở những điều kiện kinh tế - xã hội và chịu sự chi phối của những quy luật
nhất định. Đồng thời, giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn
nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Lịch sử quá trình hình thành và phát triển hơn hai nghìn
năm của triết học và khoa học tự nhiên đã cho thấy hai lĩnh vực tri thức này luôn luôn có
mối quan hệ mật thiết với nhau, đồng thời còn chứng minh rằng triết học tìm thấy ở khoa
học tự nhiên những cơ sở khoa học vững chắc để khái quát lên những nguyên lý, quy luật
chung nhất của mình, còn khoa học tự nhiên lại tìm thấy trong triết học duy vật biện chứng
thế giới quan, phương pháp luận đúng đắn, sắc bén để đi sâu nghiên cứu giới tự nhiên.
7


2.1.1 Thời kỳ cổ đại
Trước khi triết học và khoa học xuất hiện, thế giới xung quanh được phản ánh trong ý
thức nguyên thủy của loài người dưới hình thức thần thoại. Trong thần thoại bên cạnh niềm
tin vào các lực lượng thần thánh, siêu tự nhiên, thì các vấn đề về nguồn gốc, bản chất của thế
giới có một vị trí đáng kể. Triết học và thần thoại ra đời như một nỗ lực nhằm giải thích thế
giới. Thực chất triết học cũng tìm cách trả lời cho các vấn đề mà trước đó đã được đặt ra
trong thần thoại, nhưng bằng một phương thức khác. Triết học là sự phân tích lý luận các
vấn đề ấy dựa trên lôgíc, các tri thức khoa học và kinh nghiệm thực tiễn. Về mặt lịch sử, sự
ra đời của triết học trùng hợp với sự xuất hiện những mầm mống đầu tiên của tri thức khoa
học, với sự hình thành nhu cầu nghiên cứu lý luận. Chúng ta có thể thấy rõ điều này ở Hy

Lạp cổ đại. Triết học Hy Lạp cổ đại khi mới hình thành không độc lập với các tri thức khoa
học, mà thực chất là đồng nhất với chúng để hình thành nên môn khoa học tổng hợp. Các
nhà triết học đầu tiên ở Hy Lạp đồng thời cũng là các nhà khoa học, như Thalets,
Pithagore,... Triết học đặt nhiệm vụ tìm hiểu và giải thích tự nhiên, xem xét thế giới như một
chỉnh thể. Trong nền triết học tự nhiên, các khoa học nói chung bị đẩy xuống vị trí thứ yếu
và bị chi phối bởi triết học. Triết học tự nhiên thịnh hành ở phương Tây vào lúc khoa học
thực nghiệm chưa phát triển, không đủ để tìm ra quy luật của các hiện tượng tự nhiên. Chính
vì vậy mà trên thực tế, triết học tự nhiên là dòng triết học mang tính tư biện (speculation):
Những giải thích của nó về thế giới chủ yếu là dựa trên những phỏng đoán và giả định.
2.1.2 Thời kỳ trung cổ
Trong thời kỳ trung cổ, khoa học tự nhiên và triết học gần như không có sự phát triển
do những ảnh hưởng và tác động nặng nề của thế giới quan tôn giáo. Triết học phương Tây
thời trung cổ là triết học - thần học tồn tại trong điều kiện khi mà tôn giáo thống trị mọi mặt
đời sống tinh thần của xã hội, khi mà lý trí bị đánh bật và nhường chỗ cho niềm tin tôn giáo.
Do đó, triết học và khoa học không thể không phụ thuộc vào thần học. Triết học thời đại này
mang tính kinh viện, xa rời cuộc sống hiện thực, không gắn với thực tế. Chính vì vậy, mà
khoa học tự nhiên trong giai đoạn này gần như không có sự phát triển. Tư tưởng nổi bật
trong giai đoạn này phải kể đến Rô-giê Bê-cơn, Ông chủ trương phê phán triết học kinh
viện, đồng thời đề xướng khoa học thực nghiệm. Tư tưởng này là tiếng chuông báo hiệu sự
8


kết thúc của chủ nghĩa kinh viện giáo điều, mở đầu cho thời kỳ khoa học thực nghiệm. Ông
cho rằng, triết học mới phải là siêu hình học – khoa học lý luận chung giải thích mối quan hệ
giữa các khoa học bộ phận, cũng như đem lại cho các khoa học đó những quan điểm cơ bản.
Bản thân siêu hình học phải được xây dựng dựa trên thành quả của các khoa học đó. Tóm
lại, xã hội phương Tây thời trung cổ đã chịu ảnh hưởng bao trùm của hai thế lực là thế quyền
phong kiến và thần quyền Thiên chúa giáo. Dù chế độ phong kiến là một bước tiến so với
chế độ chiếm hữu nô lệ nhưng triết học thời kỳ này lại là một bước lùi so với triết học thời
kỳ cổ đại. Theo đó, khoa học tự nhiên thời kỳ này cũng không có gì nổi bật. Hay nói một

cách khác, triết học lùi bước khoa học thời kỳ này cũng không thể rộng đường phát triển.
2.1.3 Thời kỳ Phục hưng
Vào thời phục hưng (Thế kỷ XV – XVI), ở Tây Âu, phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa hình thành gắn liền với phong trào phục hưng văn hóa, hình thành từ Ý và lan sang
các nước phương Tây khác như: Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Đức… Sau Ý, chủ nghĩa tư bản
được hình thành ở Anh và các nước Tây Âu khác. Cùng với đó, sự ra đời và phát triển của
khoa học tự nhiên, những cải tiến kỹ thuật đã tạo điều kiện cho công – thương nghiệp tư bản
chủ nghĩa ra đời và phát triển vững chắc. Bên cạnh sự phát triển của nền công – thương
nghiệp tư bản chủ nghĩa là sự phân hóa giai cấp ngày càng rõ rệt. Theo đó, giai cấp tư sản
hình thành từ đội ngũ các chủ công trường thủ công, các chủ thầu, người cho vay nặng lãi…
và họ ngày càng có vai trò to lớn trong xã hội. Giai cấp vô sản ra đời bằng việc quy tụ những
người nông dân mất ruộng đất, những người nghèo khổ từ nông thôn di cư lên thành thị
kiếm sống trong các công trường, xưởng thợ của giai cấp tư sản. Chính sự biến đổi điều kiện
kinh tế - xã hội đã góp phần đẩy mạnh sự phát triển của khoa học tự nhiên. Các lĩnh vực như
toán học, cơ học, địa lý, thiên văn … đã đạt được những thành tựu đáng kể và bắt đầu tách ra
khỏi triết học tự nhiên – đã từng tồn tại trong thời cổ đại. Trong bối cảnh đó, triết học cũng
đã thay đổi đối tượng và phạm vi nghiên cứu của mình. Một loạt các khám phá khoa học đã
tạo điều kiện thuận lợi cho triết học phát triển. Tuy nhiên, những ngành khoa học này vẫn
còn ở giai đoạn đầu của sự phát triển. Trong từng lĩnh vực nghiên cứu khoa học đã thu được
nhiều tài liệu phong phú và có giá trị. Trong đó, cơ học là ngành phát triển nhất trong giai
đoạn này. Chẳng hạn, kết quả to lớn của Niutơn đạt được về cơ học đã ảnh hưởng đến
9


phương pháp nhận thức thế giới thời kỳ này. Nhìn một cách toàn diện, khoa học tự nhiên
thời kỳ này còn ở giai đoạn thu thập tài liệu; các ngành khoa học tự nhiên chỉ nghiên cứu
những bộ phận riêng biệt của thế giới và sử dụng phương pháp thực nghiệm, phương pháp
phân tích là chủ yếu. Vì vậy, quan điểm cơ học và phương pháp thực nghiệm đã thấm nhuần
vào các tư tưởng của con người lúc bấy giờ.
Kể từ thời kỳ Phục hưng trở đi, ảnh hưởng của khoa học đến triết học càng ngày càng

rõ rệt. Theo dõi sự phát triển của khoa học trong thời kỳ này, chúng ta thấy rằng quá trình
phân ngành diễn ra nhanh chóng: Cơ học, vật lý học, hóa học, sinh vật học, địa lý, thiên văn
học,... lần lượt trở thành các khoa học độc lập. Mỗi một khoa học tự xác định cho mình đối
tượng nghiên cứu riêng. Giới tự nhiên được chia thành nhiều lĩnh vực khác nhau và trở
thành đối tượng của những nghiên cứu độc lập. Việc này là cần thiết, đặc biệt trong giai đoạn
phát triển đầu tiên của khoa học, khi mà nhiệm vụ chủ yếu là phải sưu tập, tích lũy các tài
liệu. Nhưng phương pháp được coi là cần thiết và chính đáng ấy của khoa học tự nhiên cũng
đã ảnh hưởng đến và in dấu lên tư duy triết học đương thời - phương pháp tư duy siêu hình.
Mặt khác, trong các khoa học tự nhiên thời bấy giờ, chỉ có cơ học là môn khoa học được coi
là đạt đến mức độ hoàn thiện nhất định và vì thế, tư duy cơ học máy móc cũng đã ảnh hưởng
không nhỏ đến triết học. Chúng ta có thể nói rằng, trong thời kỳ Phục hưng và cận đại, khoa
học tự nhiên đã có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của triết học. Mỗi bước tiến mới
của khoa học đều bằng cách này hay cách khác tác động lên xu hướng phát triển và tư duy
của triết học.
2.1.4 Thời hiện đại
Đối với tình hình khoa học tự nhiên đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên có bước phát
triển mới, chuyển từ giai đoạn thực nghiệm sang giai đoạn khái quát lý luận. Các phát minh
trong khoa học tự nhiên như: định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng; quy luật về sự
bảo toàn của vật chất của Lômônôxốp; học thuyết tế bào của M. Slaiđen và học thuyết tiến
hóa của S. Đácuyn. Những phát minh đó chứng minh rằng tự nhiên có quá trình chuyển hóa
lẫn nhau một cách biện chứng, phủ định quan điểm siêu hình vẫn thống trị trong tư duy của
nhiều nhà khoa học tự nhiên. Từ đây, quan điểm siêu hình đã không còn thích hợp với sự
phát triển của khoa học tự nhiên, cản trở sự phát triển của khoa học tự nhiên, vì vậy để khoa
10


học tự nhiên thoát khỏi phương pháp tư duy siêu hình, tất yếu phải thay đổi quan niệm về
thế giới, cần phải khái quát những thành tựu mới của nó để xây dựng quan điểm biện chứng
duy vật trong nhận thức về tự nhiên, tức chuyển từ quan niệm siêu hình sang quan niệm biện
chứng. Điều này cho thấy sự ảnh hưởng của khoa học tự nhiên đến việc thay đổi những quan

niệm triết học. Có thể lấy một số ví dụ như: - Vật lý học: đó là định luật bảo toàn và chuyển
hóa năng lượng trong vật lý học đã chứng minh rằng tất cả những cái gọi là lực vật lý, lực cơ
giới, điện, ánh sáng, điện, từ và ngay cả lực hóa học trong những điều kiện nhất định đều có
thể chuyển hóa từ cái nọ sang cái kia mà không mất đi một chút lực nào cả; điều đó chứng tỏ
tự nhiên có mối liên hệ thực sự với nhau. - Trong lĩnh vực sinh vật học, học thuyết tế bào
của M. Slaiđen và của T. Svannơ đã chứng tỏ mọi thực thể sinh vật đều do các tế bào cấu tạo
thành và sinh ra và do đó, mọi sinh vật trong giới tự nhiên đều có mối liên hệ bên trong, giữa
thực vật và động vật không còn là những lĩnh vực hoàn toàn cách biệt như quan niệm siêu
hình. - Học thuyết tiến hóa của Đácuyn đã chứng minh rằng dưới tác động của môi trường
sống biến đổi, các loài động vật trên trái đất có sự tiến hóa từ cấp thấp lên cấp cao. Học
thuyết này đã chứng minh rằng con người có nguồn gốc từ động vật; đây là một đòn giáng
vào quan niệm siêu hình cho rằng các loài vật không bao giờ thay đổi và vào quan niệm tôn
giáo cho rằng thế giới và con người do Thượng đế sáng tạo ra. Trong tác phẩm “Biện chứng
tự nhiên”, Ăngghen đã chỉ rõ đồng thời phân tích sự phát triển của khoa học không thể thiếu
được vai trò của triết học, bởi vì triết học tác động đến phương pháp tư duy của con người.
Bằng các dẫn chứng cụ thể của sự phát triển của khoa học tự nhiên và của triết học,
Ăngghen đã chỉ ra sự tác động của triết học đến sự phát triển của khoa học tự nhiên: Chẳng
hạn đối với giả thiết về khối tinh vân nguyên thủy của Cantơ, Ăngghen đã chỉ ra sự hạn chế,
bất lực của quan niệm siêu hình, đã không nhận thấy giá trị khoa học của nó và vì vậy sự
phát triển của khoa học tự nhiên bị chậm lại. Tương tự, do quan niệm siêu hình về tự nhiên
nên nhiều năm Laien cũng không tiến đến việc đề xuất học thuyết về sự biến dị của các loài.
Nghiên cứu tình hình khoa học tự nhiên nửa đầu thế kỷ XIX, Ăngghen chỉ ra rằng do lưu
hành chủ nghĩa duy vật tầm thường và chủ nghĩa chiết trung khác nhau trong các trường đại
học, tức là một tình trạng rời rạc, hỗn độn đang thống trị trong tư duy lý luận, nên khoa học
tự nhiên cũng rơi vào tình trạng không có lối thoát, không thể phát triển được. Để thoát ra
khỏi tình trạng đó, khoa học tự nhiên tất yếu phải quay về với tư duy biện chứng. Ăngghen
11


đã phân tích và đi đến khẳng định vai trò của phép biện chứng duy vật như sau: “Chính phép

biện chứng là một hình thức tư duy quan trọng nhất đối với khoa học tự nhiên hiện đại, bởi
vì chỉ có nó mới có thể đem lại sự tương đồng và do đó đem lại phương pháp giải thích
những quá trình phát triển diễn ra trong giới tự nhiên, giải thích những mối liên hệ phổ biến,
những bước quá độ từ một lĩnh vực nghiên cứu này sang một lĩnh vực nghiên cứu khác”[1].
Các phát minh của khoa học tự nhiên từ đầu thế kỷ XIX đã bác bỏ hoàn toàn quan niệm siêu
hình về tự nhiên, đòi hỏi phải có quan niệm mới và phản ánh đúng tự nhiên, đó chính là
quan niệm biện chứng duy vật. Điều đó khẳng định sự phát triển của khoa học tự nhiên ảnh
hưởng tới sự phát triển của triết học.
Sự phát triển của khoa học tự nhiên nhất định sẽ đưa đến những kết luận triết học
chung như là một sự tổng kết lý luận. Những kết luận triết học rút ra từ các phát minh của
khoa học tự nhiên thường do chính các nhà khoa học tự nhiên thực hiện. Ảnh hưởng của
khoa học đến sự phát triển của triết học có thể đưa đến những kết luận tích cực, nhưng cũng
có thể đưa đến những kết luận tiêu cực, phản khoa học. Những phát minh khoa học những
năm cuối thế kỷ XIX về sóng, về phóng xạ, về điện tử... đã khiến không ít nhà khoa học hoài
nghi về khái niệm “vật chất” - nền tảng của chủ nghĩa duy vật; rằng, cần từ bỏ chủ nghĩa duy
vật và thay thế chủ nghĩa duy vật bằng “chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”.([2])
Kết luận triết học được các nhà khoa học rút ra từ những kết quả của mình đa phần
mang tính tự phát. Chỉ khi được xem xét trên một nền tảng thế giới quan nhất định, chúng
mới thực sự trở thành định hướng tích cực cho sự phát triển khoa học.
2.2

Vai trò thế giới quan và phương pháp luận của triết học đối với sự phát triển

khoa học
2.2.1 Thế giới quan và phương pháp luận
Thế giới quan là hệ thống những quan điểm, tư tưởng khái quát của con người về thế
giới (bao gồm cả con người trong thế giới đó), về mối quan hệ giữa con người với thế giới.
Thế giới quan phản ánh hiện thực bên ngoài gián tiếp qua các nhu cầu, lợi ích, các lý tưởng
mang tính cá nhân hay xã hội. Tùy thuộc vào tính chất và phương thức biểu hiện có thể có
nhiều loại thế giới quan khác nhau, như: Thần thoại, tôn giáo, khoa học, đạo đức, mỹ thuật,

chính trị, triết học... Xét về phương thức biểu hiện, triết học là thế giới quan lý luận, là hệ
12


thống các tư tưởng được xây dựng trên cơ sở tổng kết thực tiễn và nhận thức. Xét về tính
chất, triết học là sự khái quát chung nhất, mang đặc trưng tư duy tổng hợp.
Những quan điểm, tư tưởng khi trở thành niềm tin của con người, sẽ tích cực tham
gia vào định hướng thái độ của con người đối với các hiện tượng, các sự kiện quan trọng
trong hiện thực và trong đời sống, xác định “chỗ đứng của con người trong thế giới”. Đối
với triết học, những quan điểm tư tưởng ấy còn giúp hình thành nên các nguyên tắc cơ bản
chỉ đạo con người trong các hoạt động của mình để đạt được mục đích; hay nói cách khác, là
chúng thực hiện chức năng phương pháp luận. Phương pháp luận triết học, do xuất phát từ
những quan điểm, quan niệm chung nhất về thế giới, con người và xã hội, nên cũng là
phương pháp luận chung nhất. Nó nêu lên những điều kiện chung cần thiết để giải quyết các
vấn đề, các nhiệm vụ cụ thể, chứ không phải trực tiếp giải quyết chúng.
2.2.2 Chức năng thế giới quan và phương pháp luận của triết học đối với sự
phát triển khoa học
Chức năng thế giới quan và phương pháp luận chung của triết học đối với khoa học,
được hầu hết các nhà khoa học thừa nhận. Vấn đề ở chỗ, nếu có ai đó cho rằng, mình không
cần đến một quan điểm triết học nào, thì như thế cũng đã là có một quan điểm triết học rồi,
song là một quan điểm triết học mơ hồ. Đây cũng chính là tư tưởng của Ph.Ăgghen khi ông
nói: “Những ai phỉ báng triết học nhiều nhất lại chính là những kẻ nô lệ của những tàn tích
thông tục hóa, tồi tệ nhất của triết học”([3]). Albert Einstein - một trong những nhà khoa học
xuất sắc nhất của thể kỷ XX không ít lần chỉ rõ các khái quát triết học cần dựa trên các kết
quả khoa học. Max Planck - nhà vật lý, cha đẻ của cơ học lượng tử đã khẳng định rằng, thế
giới quan của người nghiên cứu luôn tham gia vào việc xác định hướng nghiên cứu của
người đó.
Chức năng thế giới quan - phương pháp luận của triết học đối với các khoa học trước
hết là ở vai trò nhận thức của nó, làm gia tăng tri thức mới. Sự phân tích, lý giải triết học đối
với các dữ liệu khoa học cũng chính là sự nghiên cứu các hiện tượng ở mức độ khái quát

chung và sâu sắc hơn. Hàng loạt các phạm trù nền tảng của nhận thức được hình thành và
phát triển như là các phạm trù của triết học và các khoa học, ví dụ như các phạm trù “vật
chất”, “không gian”, “thời gian”, “vận động”, “nguyên nhân”, “lượng”, “chất”,... Triết học
13


không đi sâu giải quyết các vấn đề khoa học cụ thể, mà đi sâu giải quyết các vấn đề thuộc về
lý luận nhận thức phổ quát. Phát triển song hành cùng các khoa học cụ thể, triết học vạch ra
lôgíc của các quá trình nhận thức, trở thành phương pháp luận của nhận thức khoa học.
Chức năng thế giới quan - phương pháp luận của triết học đối với các khoa học là ở
sự tổng kết các thành tựu đã đạt được của khoa học và làm sáng tỏ các nguyên lý chung của
chúng. Tất nhiên, trong mỗi khoa học đều có sự tổng kết, khái quát các tri thức thành các
nguyên lý, các quy luật nhất định. Nhưng những tổng kết, khái quát trong mỗi khoa học cụ
thể chỉ được giới hạn trong lĩnh vực mà nó nghiên cứu. Đặc điểm của khái quát triết học là
những khái quát chung nhất, có liên quan đến các hiện tượng và các quá trình của tự nhiên,
xã hội và tinh thần.
Triết học là công cụ tổng hợp tri thức. Thực tế cho thấy trong sự phát triển của tri
thức hiện đại cùng với xu hướng xuất hiện chuyên ngành mới, chuyên sâu là xu hướng
ngược lại: Xu hướng liên ngành kết hợp nhiều khoa học thành một hệ thống thống nhất.
Tính chất tổng hợp, liên ngành của khoa học hiện đại không chỉ thể hiện ở sự kết hợp của
các ngành khoa học truyền thống thành các khoa học mới như lý hóa, hóa lý, sinh hóa, sinh
tâm lý, sinh vật lý, địa vật lý..., mà còn là sự xích lại gần nhau của các ngành khoa học tự
nhiên, khoa học xã hội và khoa học nhân văn. Chính xu hướng liên kết này của các khoa học
cho phép các nhà nghiên cứu đưa ra một bức tranh khoa học chung về thế giới, tìm kiếm một
cơ sở phương pháp luận chung thống nhất, khắc phục tính chất phân tán manh mún của các
khoa học chuyên ngành, xác lập cơ sở cho sự hợp tác trong nghiên cứu khoa học. Ở đây, triết
học đóng vai trò là hạt nhân lý luận kết nối các ngành khoa học, là trung tâm phương pháp
luận đem lại khả năng thâm nhập vào các quá trình này một cách chủ động và tích cực.
Cuối cùng, sự phát triển nhanh chóng của khoa học và vai trò ngày càng tăng của nó
trong đời sống xã hội, mối liên hệ hữu cơ của nó với các nhân tố, điều kiện phát triển xã hội

và con người khiến cho vấn đề quản lý khoa học và định hướng giá trị của nó trở nên cần
thiết hơn. Quản lý và định hướng giá trị khoa học ở đây không phải là quản lý sự sáng tạo
khoa học, mà là quản lý các thiết chế khoa học, kế hoạch chương trình phát triển khoa học;
ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học vào sản xuất và đời sống. Việc quản lý và định
14


hướng ấy chắc chắn không thể không liên quan đến một thế giới quan nói chung, đến những
quan điểm triết học nhất định.
Mối quan hệ giữa triết học và khoa học có một quá trình phát triển lâu dài. Mối quan
hệ ấy không đơn giản, bất biến, mà phức tạp, thay đổi và trở thành một trong những “vấn đề
triết học”, nghĩa là xung quanh nó luôn tồn tại những quan điểm khác nhau. Có thể thấy hai
quan điểm nổi bật. Quan điểm thứ nhất, tuyệt đối hóa vai trò của triết học, hạ thấp, coi
thường vai trò của các khoa học. Quan điểm thứ hai, tuyệt đối hóa vai trò của các khoa học,
hạ thấp hoặc gạt bỏ vai trò của triết học. Cả hai quan điểm này thực chất là cực đoan, chúng
chỉ phản ánh và tuyệt đối hóa một xu hướng nhất định đã có trong lịch sử triết học và khoa
học mà chúng tôi đã đề cập ở trên. Có thể nói, cách tiếp cận như vậy về mối quan hệ giữa
triết học và khoa học là biểu hiện của lối tư duy siêu hình – lối tư duy, mà xét trong những
điều kiện nhất định có thể được coi là chính đáng, cần thiết, nhưng xét trong phạm vi phổ
quát thì nó bộc lộ những hạn chế nhất định.
Sự ra đời chủ nghĩa duy vật biện chứng đã đem đến một quan điểm mới, tích cực về
mối quan hệ giữa triết học và khoa học. Mối quan hệ giữa triết học và các khoa học là mối
quan hệ biện chứng, thống nhất của các mặt đối lập. Tính đặc thù của mối quan hệ này nằm
ở chỗ, tùy từng giai đoạn phát triển cụ thể mà mặt này hay mặt kia nổi trội, tác động của mặt
này lên mặt kia không phải chỉ theo một hướng duy nhất. Các kết luận triết học được rút ra
từ khoa học có thể là tích cực, nhưng cũng có thể là tiêu cực. Điều đó phụ thuộc vào lý luận
nhận thức của các nhà khoa học được định hướng bởi thế giới quan triết học nào. Trong
những năm cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, những phát minh mới của khoa học tự nhiên,
như phát hiện ra tia X, hiện tượng phóng xạ, điện tử,... đã làm bộc lộ những hạn chế của bức
tranh cũ về thế giới vật lý, tạo nên tình thế khủng hoảng. Phân tích “cuộc khủng hoảng của

vật lý học” ấy, V.I.Lênin đã chỉ ra rằng, chủ nghĩa duy tâm đã lợi dụng và xuyên tạc những
thành tựu có tính cách mạng nói trên của khoa học tự nhiên; rằng, các nhà khoa học - những
người xuất sắc trong các lĩnh vực của mình, nhưng lại bộc lộ các giới hạn nhận thức trong
lĩnh vực triết học. Họ, vì không nắm vững bản chất của tư duy biện chứng, cho nên đã dao
động và tìm đến chủ nghĩa hoài nghi mà bỏ qua vai trò thực chứng trong vật lý học của chủ

15


nghĩa duy vật biện chứng. V.I.Lênin khẳng định rằng, trong trường hợp này, chỉ có nắm
vững phép biện chứng duy vật mới có thể thoát khỏi “cuộc khủng hoảng vật lý” đó([4]).
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại với sự phát triển nhanh chóng của
khoa học cũng như những ứng dụng rộng rãi của nó trong thực tiễn đã và đang làm thay đổi
sâu sắc đời sống con người, góp phần làm bộc lộ những hạn chế của tư duy siêu hình. Con
đường duy nhất để khắc phục những giáo điều, những khuôn sáo, trì trệ trong nhận thức và
hành động là nắm chắc và vận dụng đúng phép biện chứng duy vật, vì phép biện chứng duy
vật là phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.

3.

KẾT LUẬN
Qua bài phân tích trên, mối quan hệ giữa khoa học và triết học đã được làm rõ xuyên

suốt tiến trình lịch sử tồn tại và phát triển của bản thân khoa học tự nhiên và triết học từ thời
cổ đại đến thời hiện đại. Khoa học tự nhiên mới hình thành ở thời kỳ cổ đại thì vẫn còn sơ
khai và nằm trong chính triết học – triết học tự nhiên, do vậy phụ thuộc vào triết học cho sự
phát triển của chính mình. Đến lượt mình, khoa học tự nhiên tác động đến sự phát triển của
các quan niệm triết học – khi mà những kiến thức của khoa học tự nhiên còn rời rạc, ít ỏi và
chưa có tính hệ thống đã hình thành một quan niệm thô sơ về thế giới - quan niệm duy vật tự
phát, về sau đã bị quan niệm siêu hình thế chỗ. Sự phát triển của triết học kinh viện vào thời

trung đại đã nâng cao sức mạnh của niềm tin tôn giáo, đánh gục lý trí – vốn được đề cao vào
thời cổ đại trước đó. Điều này đã làm thủ tiêu khoa học, trước hết là khoa học tự nhiên, mở
đường cho thần học phát triển. Qua đó, ta thấy rõ ảnh hưởng của quan niệm triết học lên sự
phát triển của khoa học. Vào thời phục hưng, quan niệm coi triết học là “người mẹ” của các
khoa học xuất hiện thời cổ đại, bị lãng quên thời trung cổ, bây giờ được khôi phục. Sau đó,
quan niệm này phát triển thành quan niệm coi triết học là “khoa học của các khoa học” trong
thời cận đại. Thời này, triết học phát triển nhanh, kéo theo sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học tự nhiên, một lần nữa lý trí triết học và hiểu biết khoa học vượt lên trên lý lẽ thần học và
16


niềm tin tôn giáo (phù hợp với nguyên tắc phủ định biện chứng trong triết học Mac-Lenin: lý
trí – niềm tin – lý trí). Nhưng sau đó, sự phát triển của khoa học vào cuối thế kỷ XVIII – đầu
thế kỉ XIX đã làm cho quan điểm triết học là “khoa học của các khoa học” và phương pháp
tư duy siêu hình không còn phù hợp nữa. Và đó chính là cơ sở cho chủ nghĩa duy vật biện
chứng ra đời. Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng luôn gắn liền với các
thành tựu của khoa học hiện đại, vừa là sự khái quát lại những thành tựu của khoa học hiện
đại, vừa đóng vai trò to lớn đối với sự phát triển của khoa học hiện đại. Thật vậy, trong tác
phẩm “Biện chứng của tự nhiên”, Ăngghen đã chỉ rõ vai trò của tư duy lý luận nói chung.
Theo ông, “một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có
tư duy lý luận”. Đồng thời ông cũng chỉ ra vai trò của tư duy lý luận trong việc giải thoát
khoa học tự nhiên khỏi những quan niệm duy tâm tôn giáo, thế giới thần linh. Cũng trong tác
phẩm “Biện chứng của tự nhiên”, Ăngghen đã chỉ rõ mối quan hệ giữa triết học và khoa học
tự nhiên trong tiến trình lịch sử của bản thân khoa học tự nhiên và của triết học. Theo đó,
khoa học tự nhiên có vai trò đối với sự phát triển của triết học và sự phát triển của triết học
tương ứng với sự phát triển của khoa học tự nhiên. Vì vậy “mỗi lần có một phát minh vạch
thời đại, ngay cả trong lĩnh vực khoa học lịch sử - tự nhiên thì chủ nghĩa duy vật lại không
tránh khỏi thay đổi hình thức của nó”. Tóm lại, sự hình thành và phát triển của triết học
không thể tách rời sự phát triển của khoa học cụ thể và ngược lại.


17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
([1]) Ph. Ăngghen, Biện chứng của tự nhiên, C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, tập 20, NXB.
Chính trị Quốc gia Hà Nội, 1994, tr. 488.
([2]) Ph.Ăngghen. Lút-vich Phoi-ơ-bắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức. Sđd.,
tr.99.
([3]) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.20. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.692 693.
([4]) V.I.Lênin. Toàn tập, t.18. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.318.
([5])

TS.



KIM

CHÂU,

Mối

quan

hệ

giữa

Triết


học



khoa

học,

/>([6]) Giáo trình Triết học mác – lênin (Dùng trong các trường đại học, cao đẳng), Bộ giáo
dục và đào tạo

18



×