Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN MỘT SỐ KỸ THUẬT GUITAR CỔ ĐIỂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.15 KB, 6 trang )

SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
MỘT SỐ KỸ THUẬT GUITAR CỔ
ĐIỂN
Trải qua nhiều thế kỷ hình thành và phát triển, từ chức năng sử dụng
chủ yếu để đệm cho giọng hát hoặc đệm cho nhạc cụ khác độc tấu, các
nhạc sĩ, nghệ sĩ guitar châu Âu đã đưa cây đàn phát triển vượt bậc trở
thành một trong những nhạc cụ phổ biến nhất thế giới. Trong đó, sự tiến
bộ và sáng tạo về kỹ thuật chơi đã đóng vai trò quan trọng cho quá trình
hoàn thiện phương pháp diễn tấu, xây dựng khuôn mẫu chuẩn mực mà
sau này được gọi là phong cách guitar cổ điển.
Guitar cổ điển là cây đàn sáu dây nylon với dáng cong đều hình số 8. Âm
nhạc mang phong cách guitar cổ điển là những tác phẩm được sáng tác, chuyển
soạn dựa trên tính năng đặc trưng của cây đàn.
Bắt nguồn từ hai kỹ thuật cơ bản nhất trên đàn là các ngón gảy bàn tay
phải và ngón bấm bàn tay trái, các nhạc sĩ, nghệ sĩ guitar đã phát triển sáng tạo
thành nhiều loại kỹ thuật đa dạng. Có một số kỹ thuật cơ bản tạo nên cách chơi
đàn guitar cổ điển ngày nay, đó là: từ ngón gảy bàn tay phải tạo nên các kỹ
thuật chạy ngón, chơi hợp âm; các ngón bấm bàn tay trái tạo nên kỹ
thuật barre, luyến. Trong cách trình tấu, kỹ thuật gảy bàn tay phải mang tính
bao trùm cơ bản nhất, tạo nên âm thanh chủ yếu của toàn bộ tác phẩm.
Vào TK XVI, kỹ thuật này ảnh hưởng từ nhạc cụ họ hàng tiền thân là đàn
lute với ngón út thường tựa trên mặt đàn tạo ra tính cân bằng và sự ổn định cao.
Khoảng cách giữa các ngón tay phải là cố định, khi tìm được vị trí đặt ngón út
thuận lợi nhất sẽ giúp tay phải ổn định, có khả năng thực hiện các kỹ thuật dễ
dàng, thuận lợi, từ đó người chơi có thể dành sự tập trung, sức lực hơn cho tay
trái và để thể hiện âm nhạc.
Tác phẩm chuyển soạn cho guitar thời kỳ này chủ yếu sử dụng ngón cái
(p), ngón trỏ (i), ngón giữa (m). Đặc điểm này xuất phát từ hình thức cũng như
độ khó của âm nhạc thời kỳ này chưa phức tạp và phù hợp với việc sử dụng ba
ngón. Đây là cách lựa chọn hợp lý vì ba ngón này khỏe nhất trên bàn tay, có sự
độc lập riêng rẽ cao nên dễ điều khiển, thời gian luyện tập phát triển các kỹ


năng được rút ngắn. Và, khi biểu diễn, các nghệ sĩ sử dụng kỹ thuật gảy móc
dây là chính, chưa chú trọng về âm sắc.
Trong quá trình gảy các nốt liên tục, lần lượt theo chiều ngang với tốc độ
nhanh đã tạo nên kỹ thuật chạy ngón. Thời kỳ này thường sử dụng sự phối hợp
hai ngón để thực hiện những câu chạy liền bậc, ít nhảy quãng như trong tác


phẩm The Frog Galliard của nhà soạn nhạc, ca sĩ, nghệ sĩ đàn lute người Anh
John Dowland. Cho đến nay, các tác phẩm của John Dowland vẫn thường được
các nghệ sĩ guitar cổ điển nổi tiếng thế giới trình diễn. Với nhiều lợi thế về tốc
độ, âm sắc, chạy hai ngón đã được ưa dùng từ TK XVI cho đến nay và trở
thành một kỹ thuật mẫu mực.
Khi gảy kết hợp các nốt cùng lúc theo chiều dọc đã tạo nên kỹ thuật chơi
hợp âm. Hợp âm trong các tác phẩm thời kỳ này chủ yếu từ 2 đến 4 bè, công
năng đi rất bình ổn, thường dùng âm sớm hoặc âm muộn, được chơi theo hai
cách là rải lần lượt, hoặc chơi tất cả nốt trong hợp âm cùng một lúc.
Kỹ thuật bấm bàn tay trái chiếm từ 90% trở lên trong các tác phẩm guitar,
nói cách khác, để chơi được các tác phẩm thì nhất định phải sử dụng kỹ thuật
này. Chính vì sự bao trùm và thông dụng như vậy, nên kỹ thuật này thường bị
quên trong vô thức hoặc bị xem nhẹ. Cùng với kỹ thuật gảy của tay phải, kỹ
thuật bấm ở tay trái có vai trò quyết định chất lượng âm thanh, thể hiện tầm cao
và tri thức âm nhạc của người chơi.
Do ảnh hưởng từ cần đàn vihuela và lute có chín phím thường dùng và ba
phím trên mặt đàn nên ban đầu, các bản nhạc chuyển soạn cho guitar trong TK
XVI, phạm vi các nốt nhạc được sử dụng trên cần đàn chủ yếu là đến phím 8
(tính từ đầu cần), sử dụng bốn ngón để bấm là ngón trỏ, ngón giữa, ngón nhẫn,
ngón út. Ngón cái để sau cần đàn, đối trọng với bốn ngón còn lại. Âm nhạc giai
đoạn này chủ yếu mang chức năng đệm cho giọng hát hay đệm cho nhạc cụ
khác, nên thường xuyên chơi hợp âm, đôi khi hợp âm nhiều hơn bốn nốt mà
các ngón tay trái có thể bấm. Chính nhân tố quan trọng này đã góp phần tạo nên

kỹ thuật barre (chặn ngón trỏ trên dây đàn làm đơn giản hơn động tác bấm hợp
âm, đồng thời tăng số lượng nốt được bấm). Kể từ đó đến nay, kỹ thuật này hầu
như mang tính cơ bản, nó xuất hiện trong mọi tác phẩm viết cho guitar.
Sang TK XVII, kỹ thuật chơi guita được mở rộng và phát triển. Việc sử
dụng nhiều các hình thức suite, sonat với mật độ hòa âm dày, có sự phân chia
cường độ rõ nét giữa bè đệm - bè giai điệu, sự phức tạp về nội dung nghệ
thuật… nhất là sự phổ biến của các tác phẩm phức điệu đã thúc đẩy kỹ thuật
móc dây phát triển mạnh mẽ. Khi thể hiện chuyển động của các bè, đáp ứng sự
phân chia cường độ theo nội dung tác phẩm trên cùng một bàn tay gảy, ngoài tư
duy hòa âm, người chơi phải luyện tập, phát triển sự kiểm soát lực của từng
ngón một cách độc lập, chính xác để thể hiện rõ ý đồ của tác giả. Khi chơi càng
nhiều tác phẩm, với nội dung nghệ thuật và yêu cầu đòi hỏi về bè và hòa âm đa
dạng, thì kỹ thuật gảy càng đạt đến trình độ cao hơn. Cũng có những trường
hợp phổ biến trong bản nhạc, cùng một ngón nhưng có lúc đảm nhận chơi giai
điệu, lúc lại chuyển qua chơi bè đệm. Điều này đòi hỏi nghệ sĩ phải nâng cao
khả năng kiểm soát đạt đến sự tinh tế cho mỗi ngón gảy bàn tay phải.
Ngoài kết hợp các ngón bàn tay phải, còn có cách chơi hợp âm bằng một
ngón. Kỹ thuật này khá phổ biến ở các tác phẩm âm nhạc đương thời như


trong Sarabande của Robert de Visee người Pháp (nghệ sĩ đàn lute, guitar,
theorbo và đàn viol phục vụ cho các vị vua Luis XIV và Luis XV), hay
trong Folie của nhạc sĩ người Ý Francesco Corbetta (nghệ sĩ guitar, giảng viên
âm nhạc). Đây là nhân tố quan trọng cho sự xuất hiện cách chơi kỹ
thuật rasguedo, hoặc tremolo một ngón sau này.
Cũng giống như bàn tay phải, việc sử dụng nhiều hình thức âm nhạc lớn
với hòa âm phức tạp và sự phát triển mạnh mẽ của nhạc phức điệu nhiều bè, đã
làm cho kỹ thuật bấm phát triển. Những ngón tay trái độc lập với nhau hơn, kết
hợp tư duy hòa âm để có được các chuyển động tay trái chính xác, phù hợp với
yêu cầu của bản nhạc. Sự bấm (giữ nốt ngân vang) hay thả các nốt (ngắt âm)

không được tự do mà phải tuân thủ nghiêm khắc các ký hiệu nốt nhạc được ghi.
Thời kỳ này bắt đầu sử dụng phổ biến kỹ thuật luyến có nguồn gốc từ kỹ
thuật bấm. Cách chơi là dùng hai ngón bấm cùng lúc trên một dây. Gảy nốt
bấm thứ hai bằng tay phải rồi dùng chính ngón bấm tay trái đó kéo xuống, hoặc
ngược lại, chơi nốt thứ nhất rồi dùng ngón tay trái bổ mạnh vào nốt phía sau tạo
âm thanh. Kỹ thuật này được sử dụng theo nhiều cách, góp phần mở rộng về
phương thức thể hiện nghệ thuật trong tác phẩm. Có thể dùng để chơi những
nốt hoa mỹ trang trí cho giai điệu như trong tác phẩm Suite en La mayor, phần
Villanos của Gaspar Sanz, hay làm mềm hóa, tăng cường cảm xúc cho câu nhạc
như bản Chacona của Gaspar Sanz (nhạc sĩ, nghệ sĩ guitar, organ của vùng
Aragon Tây Ban Nha). Cho đến nay, kỹ thuật luyến trở thành một phần không
thể thiếu trong tác phẩm viết cho guitar cổ điển.
Từ kỹ thuật luyến, các nhạc sĩ, nghệ sĩ đã đạt được thành công lớn trong
việc tăng tốc độ cho các câu chạy. Đó là sự kết hợp giữa kỹ thuật ngón gảy bàn
tay phải với kỹ thuật luyến bàn tay trái tạo nên thủ pháp chạy câu mới, tốc độ
nhanh và chất lượng âm thanh đa dạng hơn TK XVI. Điều này được thể hiện rõ
ở phần allemande trong tác phẩm Allemande und Courante của Giovanni
Battista Granata (nhạc sĩ, nghệ sĩ guitar người Ý) . Trong một câu chạy chỉ
dùng tay trái để bấm, thì toàn bộ sức mạnh tạo nên tốc độ của câu đều dồn lên
ngón gảy, bắt ngón gảy phải làm việc hết công suất. Cách này làm người chơi
tốn nhiều thời gian trong tập luyện, và khi biểu diễn, nếu không có thể lực tốt
cộng với tâm lý thỏa mái thì khả năng mắc lỗi là điều sẽ xảy ra. Cho đến ngày
nay, cách chạy câu kết hợp với kỹ thuật hai bàn tay này vẫn được các nghệ sĩ
guitar ưa dùng.
Đến TK XVIII, đã định hình kỹ thuật guitar khuôn mẫu cổ điển. Do ảnh
hưởng của trào lưu âm nhạc cổ điển, nên các nhạc sĩ, nghệ sĩ guitar cũng đặt
được những dấu ấn và chuẩn mực trong cách chơi. Kỹ thuật bàn tay phải
chuyển từ 3 sang sử dụng 4 ngón. Lúc này ngón út đã rời khỏi mặt đàn. Tư thế
tay phải chuẩn của guitar cổ điển là 4 ngón gảy phải nằm trên khoảng không
hoặc tựa trên dây đàn. Trong tác phẩm, các nhạc sĩ chú trọng đến chất lượng,

màu sắc âm thanh bằng việc đưa ra các dấu nhấn, ký hiệu thể hiện sắc thái, tính


chất của câu, đoạn nhạc. Phát triển những cách chạy điển hình trong âm nhạc
cổ điển đó là chạy quãng tám, rải hợp âm 3 hoặc 4 nốt liên tục và chạy cromatic
rất được ưa dùng làm câu nối giữa các đoạn với nhau. Tác phẩm Sonata for
guitar của tác giả người Ý Mauro Giuliani đã thể hiện rõ điều này.
Cách chơi hợp âm không chỉ dừng lại ở việc sử dụng một hoặc nhiều ngón
như ở TK XVII, mà còn kết hợp với các kỹ thuật khác như luyến, chạy ngón
tạo nên sự phong phú đa dạng về màu sắc và tính hiệu quả. Thời kỳ này, nhiều
nhạc sĩ, nghệ sĩ đã tham gia đóng góp những tác phẩm viết riêng cho cây đàn
tạo nên sự phát triển mạnh mẽ, độc lập và có khuynh hướng tách ra từ hai nhạc
cụ tiền thân của guitar là vihuela và lute. Kỹ thuật bấm đã mở rộng phạm vi sử
dụng nốt nhạc từ phím I đến XII tính từ đầu cần đàn.
Kỹ thuật luyến được các nghệ sĩ rất yêu thích và sử dụng rộng rãi, xuất
hiện trong 98% số lượng tác phẩm hình thức lớn như sonat, biến tấu viết cho
guitar thời này. Xuất phát điểm từ cách chơi đơn thuần, kỹ thuật luyến đã được
nâng tầm chơi tự do ngẫu hứng như cadenza trong bản rondo thứ 3 (Tuyển
tập 3 bản rondo của Donisio Aguado). Dùng như thủ pháp biến tấu chủ đề
trong var.5 tác phẩm Biến tấu trên chủ đề Cây sáo thần của Mozart của tác
giả Fernando Sor. Cả hai tác giả này đều là nhạc sĩ, nghệ sĩ guitar người Tây
Ban Nha. Một biến thể của kỹ thuật luyến cũng được xuất hiện nhiều hơn trong
tác phẩm thời kỳ này, đó là glissando (vuốt) với cách chơi gảy một nốt nhạc rồi
dùng tay trái kéo lên hoặc trượt xuống nốt tiếp theo để tạo âm thanh.
Góp phần lớn trong việc mở rộng khả năng diễn tấu và phát triển kỹ thuật
tay trái ở TK XVIII, không thể bỏ qua kỹ thuật staccato. Cách chơi này dựa
trên sự thay đổi đột ngột chuyển động của động tác bấm. Quy trình thứ tự để
chơi bao gồm các chuyển động: bấm vào – gảy – ngắt âm ngay khi vừa gảy
xong. Kỹ thuật này đòi hỏi cảm giác tinh tế ở đầu ngón tay và khả năng phối
hợp chính xác giữa hai tay. Đặc biệt ở động tác ngắt âm, nếu tay trái rời hẳn

khỏi dây đàn sẽ tạo thành những âm thanh thừa. Do vậy, tay trái vẫn tiếp xúc
với dây đàn khi thực hiện động tác ngắt âm. Đây là chuyển động cần tập luyện
rất công phu, nhưng làm chủ nó, có nghĩa là bàn tay trái sẽ kiểm soát tốt các vị
trí trên cần đàn.
TK XIX, có thể coi kỹ thuật guitar đã đạt tới mức độ hoàn chỉnh. Đã có
cây đàn chuẩn về kích thước, hình dáng, số dây, gắn liền với thuật
ngữ classical. Ngoài cách gảy móc dây là sự du nhập cách gảy ép dây từ nhạc
flamenco của Tây Ban Nha. Ngay khi xuất hiện, kỹ thuật này đã chứng tỏ là
một phần không thể thiếu trong cách chơi của mỗi nghệ sĩ. Với vai trò quan
trọng như vậy, Andrew Segovia (nghệ sĩ guitar Tây Ban Nha), người đưa âm
nhạc guitar cổ điển nổi tiếng trên khắp thế giới viết Cuốn sách guitar của tôi,
đã đặt kỹ thuật ép dây lên vị trí hàng đầu.
Kỹ thuật chạy ngón được phát triển từ các thế kỷ trước tạo nên cách
chơi tremolo. Về cơ bản, đây là một dạng kỹ thuật chạy bốn ngón, nhưng ngón


cái luôn nằm ở bè bass, 3 ngón còn lại chơi trên cùng một dây. Về nghệ thuật,
kỹ thuật góp phần mở rộng thủ pháp thể hiện âm nhạc trên đàn guitar. F.
Tarrega sử dụng kỹ thuật này để nhấn mạnh sự ngân vang không ngừng của
giai điệu, tạo nên những cảm xúc mới cho người nghe mà trước đây chưa từng
có. Kỹ thuật chơi hợp âm kết hợp với các loại kỹ thuật khác tạo những màu sắc
và cách thể hiện mới.
Trong thế kỷ này, kỹ thuật luyến được các nhạc sĩ sử dụng để phô diễn
sức mạnh, độ dẻo dai và chính xác của bàn tay trái như trong variation 10
bản Grand jota của Francisco Tarrega.
Trước đây, sự phối hợp kỹ thuật hai bàn tay được hình thành, phát triển từ
đơn giản đến phức tạp, thì trong quá trình tìm tòi cách thể hiện mới, các nghệ sĩ
đã tạo thêm một xu hướng là tách hai tay độc lập, một bàn tay đảm nhận cả hai
nhiệm vụ gảy và bấm.
Đã xuất hiện nhiều sách nghiên cứu phương pháp chơi của các tác giả Tây

Ban Nha như Metodo de Guitarra của Antonio Cano (1811 - 1897), A modern
method for the guitar (School of Tarrega ,3 volumns) của Francisco Tarrega
(1852 - 1909). Các sách của tác giả Đức:Instruction for the Spanish guitar của
Johann Kaspar Mertz (1806 - 1856), Gitarre - Solopiel Studien của Heinrich
Albert (1870 - 1950), hay Schule fur die Guitare của Johann Kaspar Mertz
(1806 - 1856). Việc tổng hợp, củng cố chắc chắn các kỹ thuật có từ thế kỷ
trước, nghiên cứu cách chơi ngón phổ biến thường gặp trong các bản nhạc, để
xây dựng nên hệ thống phát triển kỹ thuật cơ bản riêng theo nhiều lối tư duy
khác nhau, đã góp phần hoàn thiện kỹ thuật trong phong cách âm nhạc guitar cổ
điển.
TK XX, guitar đạt được sự phổ biến, lan rộng, những tài liệu nghiên cứu,
sáng tác cho guitar được in ấn trên khắp thế giới. Bên cạnh sách xây dựng phát
triển kỹ thuật theo nhiều cách khác nhau, còn có những sách đề cập đến tính
khoa học, nâng cao trình độ chuyên nghiệp và tính nghệ thuật trong cách chơi
đàn guitar. Chẳng hạn, nghiên cứu chuyển động của tay có trong cuốn Science
et Methode de la Technique Guitaristique của Cardoso Jorgo (bác sĩ, nhạc sĩ
người Argentina), rất có giá trị về mặt học thuật.
Thế mạnh của guitar là sự tiếp xúc trực tiếp giữa người chơi và nhạc cụ,
tạo nên những đặc trưng âm sắc riêng biệt với sự biến hóa không thể đoán trước
khi biểu diễn. Trong tác phẩm Filicidace (chuyển soạn từ nhạc hát blue của
Moraes Jobim) của tác giả Roland Dyens, giai điệu chính được chơi trên lỗ đàn
mô phỏng sự mềm mại, ngân nga của chất giọng. Nhưng sau nốt giai điệu, ngay
lập tức tay phải chuyển xuống gần phía ngựa đàn dưới để chơi mô phỏng dàn
nhạc đệm với tính chất cứng, nghiêm khắc, chính xác của hòa âm đệm, càng
làm nổi bật lên sự ngọt ngào của giai điệu chính (giọng hát). Tay phải luôn
chuyển động, thay đổi vị trí gần như trong cả tác phẩm. Mỗi lần biểu diễn khác


nhau, kỹ thuật gảy tạo nên những vòng chuyển động không giống nhau, làm
cho tác phẩm không bao giờ cũ, luôn hấp dẫn khán giả

Sự kết hợp giữa các nốt bấm và dây buông được khai thác triệt để tạo nên
những cách chơi hợp âm độc đáo, như chơi đồng âm trong tác phẩm Etude
№11 của Heitor Villa Lobos. Không những vậy, khi kết hợp nốt bấm, dây
buông và kỹ thuật luyến đã thoát khỏi giới hạn về tốc độ và giải phóng tư duy,
khả năng thể hiện âm nhạc, tạo nên những chuỗi âm thanh dài, gam màu đặc
biệt như khi độ vang của 32 nốt được hòa trộn ngẫu nhiên với tốc độ móc tam
(tốc độ nhanh của guitar cổ điển), chẳng hạn trong Paisaje cubano con
campanas của Leo Brouwer là một ví dụ điển hình.
Kỹ thuật bấm tiếp tục được mở rộng hết chiều dài dây đàn, đến những vị
trí như khoảng trống giữa ngựa trên cần đàn và khóa. Đi đầu trong thủ pháp
khai thác những cách chơi mới này là tác giả người Pháp gốc Thổ Nhĩ Kỳ
Roland Dyens. Ông đã khai thác các âm thanh ở khoảng giữa các khóa căng
dây và ngựa đàn phía trên đầu nhạc cụ, tận dụng việc vặn khóa đàn để tạo các
nốt nhạc có cao độ đúng tương đối.
Khái niệm cao độ tương đối trong âm nhạc cổ điển so với khả năng nhấn
nhá của cây đàn guitar phím lõm hay đàn nguyệt là không mới, nhưng với nhạc
cụ phương Tây là mới. Và có thể, đây là một yếu tố quan trọng trong việc giải
quyết vấn đề kết hợp hài hòa giữa tính năng chuyên nghiệp bác học phương
Tây với những đặc trưng âm nhạc dân gian để mở đầu cho một thời kỳ mới, với
những khuynh hướng phát triển guitar vượt trội không thể đoán trước.
Trải qua nhiều thế kỷ, các nhạc sĩ, nghệ sĩ đã xây dựng, phát triển các kỹ
thuật guitar rồi tổng hợp, đúc kết trở thành hệ thống kỹ thuật cơ bản mẫu mực
trong phong cách guitar cổ điển. Không chỉ dừng ở đó, TK XX bên cạnh việc
củng cố khuôn mẫu nghiêm khắc cổ điển, có một bộ phận các nhạc sĩ, nghệ sĩ
đã phá vỡ những ranh giới hạn chế để tìm đến với khả năng tiềm ẩn của cây đàn
để viết nên những tác phẩm mang đặc trưng riêng của guitar. Có thể khẳng
định, việc tạo dựng được hệ thống kỹ thuật cơ bản và đạt đến sự tự do trong thể
hiện đã giúp hoàn thiện lối chơi, đưa guitar trở thành một trong những nhạc cụ
có tính chuyên nghiệp bác học cao và phổ biến khắp thế giới.




×