Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

quy luật giá trị của C.Mác trong bộ tư bản tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.4 KB, 24 trang )

LI M U
Thời đại ngy nay, khi tình hình kinh tế thế giới có nhiều thay đổi biến
chuyển ngy cng phức tạp, các mối quan hệ giao thơng ngày càng đợc phát
triển và mở rộng thì kinh tế v chính trị trong n ớc cũng đã vặn mình tiến lên để
thích nghi với xu thế của thời đại. Nền kinh tế chuyển từ nền kinh tế thủ công
lạc hậu sang kinh tế thị trờng, phát triển nền kinh t hàng hoá nhiều thành phần
với sự lãnh đạo chỉ đờng của Nhà nớc theo nh hng xó hi ch ngha. Toàn
Đảng, toàn dân tích cực hoàn thành công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất
nớc với mục tiêu dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng văn minh. Việt Nam là
nớc trải qua thời qua thời kì chiến tranh dài và chịu hậu quả nặng nề của chiến
tranh, nền kinh tế còn lạc hậu so với các nớc trên thế giới. Tuy nhiờn trớc xu thế
hiện đại với sự ủng hộ, hợp tác của các nguồn lực bên ngoài, đất nớc đã đang đổi
mới cơ cấu kinh tế, cơ sở kỹ thuật cùng với đội ngũ lao động bên trong dồi dào
với phẩm chất thông minh, sáng tạo đang chờ đợc khai thác, sử dụng,chúng ta
đang thật sự có những bớc tiến khởi sắc. Trớc tình trạng hiện nay, việc nắm bắt
và vận dụng các quy luật kinh tế hàng hoá là rất cần thiết, bởi chúng là những cơ
sở để kinh tế hàng hoá phát huy tác dụng. Một trong những qui luật cơ bản ấy là
quy luật giá trị.Quy lut giỏ tr l c s ca mi nn tng kinh t, th hin s
chi phi ca nú trong quỏ trỡnh sn xut, phõn phi, trao i, lm sao cho cỏc
quỏ trỡnh ú phự hp vi nhng c im tiờu dựng v tớch tr xó hi. Việc hiểu
rõ qui luật giá trị trong nền kinh tế hàng hoá là rất cần thiết, nó đòi hỏi việc sản
xuất hàng hoá phải lấy giá trị là thớc đo. Với chủ trơng phát triển kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần định hớng xã hội chủ nghĩa nh giai đoạn quá độ ở nớc ta
thì kinh tế thị trờng là yếu tố khách quan không thể thiếu đợc. ở đâu còn sản
xuất và trao đổi hàng hoá thì nơi đó còn quy luật giá trị. Do đó vai trò của nó
trong nền kinh tế thị trờng là rất quan trọng và không thể thiếu đợc.
Nghiên cứu quy luật giá trị có phạm vi nghiên cứu rất rộng bởi những tác
động, ảnh hởng của quy luật giá trị tới kinh tế hàng hoá là rất lớn.Với giới hạn
cho phép của một tiểu luận, em chỉ xin nêu những tác động chung nhất của quy
luật giá trị đến sự phát triển nền kinh tế hàng hoá cũng nh ý nghĩa vận dụng lý
luận này trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trờng định hớng Xã Hội Chủ


Nghĩa ở Việt Nam.

1


2


Chơng 1 :
1. Nội dung quy luật giá trị của C.Mac
Lần đầu tiên trong lịch sử giá trị đợc xem xét nh là quan hệ sản xuất xã hội của
những ngời sản xuất hàng hoá còn hàng hoá là nhân tố tế bào của xã hội t sản .

Mác phân tích tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá là lao động
cụ thể và lao động trừu tợng, lao động t nhân và lao động xã hội. Chỉ rõ lao động
trừu tợng tạo ra giá trị hàng hoá. Mác định nghĩa lợng giá trị hàng hoá đợc đo
bằng thời gian lao động xã hội cần thiết, phê phán các quan điểm đi trớc. Mác là
ngời đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá . Trên cơ
sở phát hiện này, Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng trong khoa học kinh tế
chính trị. Ông viết Tôi là ngời đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của lao động
sản xuất hàng hoá và khoa học kinh tế chính trị xoay quanh điểm này. Từ đó,
ông vạch ra trong quá trình sản xuất, lao động cụ thể bảo tồn và di chuyển giá trị
cũ (c) vào trong sản phẩm mới, lao động trừu tợng tạo ra giá trị mới (v+m). Và
toàn bộ giá trị hàng hoá bao gồm c+v+m. Điều này D.Ricardo, A.Smith( phân
biệt đợc giá trị sử dụng, giá trị trao đổi của giá trị hàng hóa là do hao phí lao
động để sản xuất ra nó quyết định song lại không nhất quán, có lúc đa ra định
nghĩa sai lầm về giá trị bỏ mất bộ phận t bản bất biến(c), chỉ còn v và m nên bị
bế tắc khi phân tích tái sản xuất) và nhiều nhà t tởng khác trớc Mác có quan
niệm về giá trị không vợt đợc. Trên cơ sở lý thuyết giá trị - lao động, Mác giải
quyết hệ thống các phạm trù và quy luật kinh tế khác.

1.1. Yêu cầu của quy luật giá trị.
Trớc hết để tìm hiểu về những yêu cầu của quy luật giá trị ta tìm hiểu quy
luật giá trị là gì ? Cùng với sự xuất hiện của nền kinh tế hàng hoá, đã có nhiều
những qui luật kinh tế ra đời. Nó hoạt động không phụ thuộc vào ý chí chủ quan
của con ngời mà hoạt động thông qua những hoạt động kinh tế của con ngời,
điều đấy chứng tỏ đấy không phải là những qui luật tự nhiên. Một trong những
quy luật kinh tế cơ bản của kinh tế hàng hoá đó là quy luật giá trị, sự xuất hiện
của nó ở bất kì nơi đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá. Vậy nó là cái gì?
Đấy là những qui luật của nền sản xuất hàng hoá, biểu hiện nhu cầu
khách quan của việc định hớng nền sản xuất và trao đổi hàng hoá theo các quan
hệ dựa trên cơ sở thời gian lao động xã hội cần thiết. Giá trị là hình thức biểu
hiện các hao phí lao động xã hội cần thiết trên cơ sở chuyển tất cả lao động cụ
thể thành lao động trừu tợng. Nó là phơng thức điều tiết các mối quan hệ giữa
những ngời sản xuất hàng hoá trong quá trình hoạt động.
3


Quy luật giá trị yêu cầu mọi hoạt động trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ
sở lợng giá trị của hàng hoá hay thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất
ra hàng hoá. Trong kinh tế hàng hoá vấn đề quan trọng là hàng hoá sản xuất ra
có bán đợc hay không? Để hàng hoá có thể bán đợc thì hao phí lao động cá biệt
để sản xuất ra hàng hoá phải phù hợp với mức hao phí lao động xã hội cần thiết,
tức là phải phù hợp mức hao phí mà xã hội có thể chấp nhận đợc. Hai hàng hoá
có giá trị sử dụng khác nhau có thể trao đổi đợc với nhau khi lợng giá trị của
chúng bằng nhau. Theo đó trao đổi phải theo nguyên tắc ngang giá giữa các loại
sản phẩm với nhau. Thấy đợc quá trình trao đổi hàng hoá là sự chấp nhận giá trị
của hàng hoá hay trên thị trờng thì đó là sự chấp nhận giá trên cả của hàng hoá
đó.
Với qui luật giá trị, sản xuất trao đổi hàng hoá dựa trên cơ sở lợng giá trị
hàng hoá hay thời gian lao động xã hội cần thiết. Trong kinh tế hàng hoá, mỗi

ngời sản xuất tự quyết định hao phí cá biệt của mình, nhng giá trị của hàng hoá
không phải đợc quyết định bởi hao phí lao động cá biệt của từng ngời sản xuất
hàng hoá, mà bởi hao phí lao động xã hội cần thiết. Giá trị là lao động xã hội
của ngời sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá nên lợng giá trị hàng hoá do
thời gian lao động quyết định. Năng suất lao động xã hội càng cao, thời gian cần
thiết để sản xuất hàng hoá càng ít, khối lợng lao động kết tinh trong một đơn vị
sản phẩm càng nhỏ, thì giá trị của sản phẩm càng bé và ngợc lại. Vì vậy muốn
bán đợc hàng hoá bù đắp đợc chi phí và có lãi, ngời sản xuất phải điều chỉnh sao
cho hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức chi phí mà xã hội chấp
nhận đợc.
Qui luật này thể hiện sự vận động thông qua sự biến động của giá cả
hàng hoá. Giá trị là cơ sở của giá cả, nên trớc hết giá cả phụ thuộc vào giá trị.
Hàng hoá nào nhiều giá trị thì giá cả của nó sẽ cao và ngợc lại, tuy nhiên trong
kinh tế hàng hoá còn nhiều nhân tố tác động tới giá cả của hàng hoá nh cạnh
tranh, quan hệ cung cầu, sức mua của đồng tiền hay tình trạng độc quyền Sự
tác động của các nhân tố này làm cho giá cả của hàng hoá trên thị trờng tách rời
với giá trị và lên xuống xoay quanh trục giá trị của nó. Sự vận động mà giá cả
thị trờng của hàng hoá xoay quanh trục giá trị của nó chính là cơ chế hoạt động
của qui luật giá trị. Với mỗi hàng hoá riêng biệt giá cả của nó có thể cao hơn,
thấp hơn hoặc phù hợp với giá trị của nó. Nhng cuối cùng tổng giá cả phải phù
hợp với tổng giá trị của chúng. Thông qua sự vận động của giá cả thị tr ờng mà
qui luật giá trị phát huy tác dụng. Vì thế với các nớc xã hội chủ nghĩa nói chung

4


và Việt Nam nói riêng phải lợi dụng triệt để qui luật giá trị để kích thích sản
xuất phát triển tốt nhất có lợi nhất cho chủ nghĩa xã hội..
1.1.1 Biểu hiện hoạt động của qui luật giá trị.
Qui luật giá trị xuất hiện ở bất kì hình thái xã hội nào và trong mỗi hệ

thống hinh tế khác nhau nó đóng vai trò phụ thuộc. Bởi vì các biểu hiện của qui
luật giá trị biểu hiện phụ thuộc vào qui luật kinh tế cơ bản của từng phơng thức
sản xuất nhất định. Quan niệm qui luật giá trị với t cách là nguồn gốc chỉ gây
nên những điều bất lợi về kinh tế, là nguyên nhân gây nên tình trạng cạnh tranh
hay lãng phí giữa những ngời sản xuất hàng hoá, Trong quá trình tự do cạnh
tranh, nhà t bản nào có thực lực mạnh ắt sẽ chiến thắng, những nhà t bản vừa và
nhỏ bị thua lỗ dẫn tới phá sản, tài sản xí nghiệp bị những nhà t bản lớn hơn thâu
tóm khiến qui mô vốn đã rộng lại càng rộng hơn.
Khi qui mô và trình độ phát triển đạt tới mức độ nhất định của t bản chủ
nghĩa thì ngay lập tức hình thành t bản độc quyền, đấy là thời kì mà phơng thức
sản xuất ở vị trí cao. ở giai đoạn này việc phân phối lợi nhuận không chỉ dựa
trên sở hữu t bản nói chung, mà trớc hết là dựa trên cơ sở quyền lực chi phối t
bản của ngời khác. ở giai đoạn phát triển này của t bản chủ nghĩa hình thành
mức siêu lợi nhuận hay gọi là lợi nhuận độc quyền. Thực ra nó chính là một hình
thức biểu hiện của giá trị thặng d hình thành trong giai đoạn t bản độc quyền.
Đồng thời xuất hiện cùng nó là giá cả độc quyền nó gồm cả lợi nhuận độc quyền
và chi phí sản xuất. Từ đó ta thấy một điều: đó là việc các tổ chức độc quyền
mua bán với giá độc quyền để thu lợi nhuận độc quyền thực chất chỉ là sự biểu
hiện mới cao hơn nó không làm giảm đi giá trị luận của quy luật, bởi qui luật giá
trị luôn đóng vai trò phụ thuộc, ở hình thái xã hội này là biểu hiện này, nhng với
các phơng thức sản xuất khác thì nó lại thay đổi theo các qui luật kinh tế của
thời kỳ khác.
Với giai đoạn cạnh tranh cùng với nó là sự chuyển đổi sang nền kinh tế
thị trờng có sự quản lý của nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Sự xuất
hiện của nó một mặt thúc đẩy sự phát triển hàng hoá một mặt gây ra hậu quả
đấy là bộc lộ những thủ đoạn không lành mạnh trong cạnh tranh. Tuy nhiên do
mục đích, con đờng đi khác với t bản, trong xã hội chủ nghĩa, sự hoạt động của
quy luật giá trị gắn liền với các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Trớc hết
việc vận dụng quy luật này nhằm mục đích không ngừng phát triển sản xuất để
nâng cao đời sống nhân dân phát triển kinh tế có kế hoạch và cân đối nền kinh tế

quốc dân. Trình độ phát triển của nền kinh tế thị trờng có liên quan mật thiết với

5


các giai đoạn phát triển của lực lợng sản xuất, việc chuyển đổi sang nền kinh tế
thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc là điều hợp quy luật tự nhiên, mặc dù nó
xuất hiện yếu tố cạnh tranh. Nhng từ trên ta nhận thấy rõ một điều: cạnh tranh
là một quy luật trong nền kinh tế thị trờng. Một xã hội khi phát triển theo kinh tế
thị trờng thì sẽ xuất hiện nhiều sản phẩm khác nhau mà để phát triển đợc thì cần
phải cạnh tranh vì vậy các sản phẩm lần lợt xuất hiện với những u điểm về chất
lợng, hình thức, càng thúc đẩy kinh tế phát triển hơn nũa. Cạnh tranh xuất hiện
có xu hớng thúc đẩy tăng trởng kinh tế, điều chỉnh các nguồn lực phát triển của
đất nớc.
ở nớc ta nền kinh tế thị trờng ở giai đoạn kém phát triển, bởi lẽ cơ sở vật
chất kỹ thuật còn lạc hậu, thấp kém. Tuy nhiên nớc ta đã và đang đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hoá để phát triển nhanh chóng lực lợng sản xuất, trong một
thời gian ngắn xây dựng đợc cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại để nền kinh tế nớc
ta bắt kịp với nền kinh tế chung của thế giới. Việc thị trờng tự do cạnh tranh một
mặt sẽ làm cho hàng hoá bên ngoài tràn vào làm ảnh hởng thị trờng trong nớc
nhng mặt khác làm cho các doanh nghiệp nâng cao chất lợng, mẫu mã các sản
phẩm nội địa kích thích thị trờng trong nớc phát triển.
1.1.1.2.

Vai trò quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hoá.

Nền kinh tế hàng hoá.
Để nhận thức đợc vai trò của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hóa
trớc tiên ta phải hiểu đợc nền kinh tế hàng hóa là gì?
Trớc đây nền kinh tế tự cung, tự cấp đẫn tới có nhiều hạn chế. Nh cha

xuất hiện trao đổi hàng hoá nền kinh tế không phát triển, sản phẩm làm ra chỉ đủ
cung cấp tiêu dùng cho cá nhân ngời tạo ra. Việc làm ra sản phẩm lúc bấy giờ
đáp ứng những nhu cầu về điều kiện vật chất phục vụ đời sống con ngời nhng dới hình thức tự làm ra, tự tiêu thụ. Do không có quan hệ trao đổi giữa các chủ thể
kinh tế với nhau nên nó có tính bảo thủ, trì trệ, bị giới hạn bởi những nhu cầu
nhỏ trong phạm vi tiêu dùng nhỏ nên nó không kích thích phát triển kinh tế. Nhng thật sự sản xuất tự cung, tự cấp đã đáp ứng nhu cầu của con ngời trong một
khoảng thời gian dài từ thời kì công xã nguyên thuỷ tới chiếm hữu nô lệ rồi dần
thâm nhập trong thời kì phong kiến, đấy là giai đoạn mà lực lợng sản xuất còn ở
trình độ thấp, lao động chủ yếu là lao động thủ công.
Tuy nhiên cùng với sự phát triển chung của xã hôị về nhiều mọi mặt thì
xuất hiện sự phát triển của lực lợng sản xuất bằng việc xoá bỏ kiểu tổ chức tự
cung, tự cấp. Sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá là tất yếu khi trình độ phát triển

6


của lực lợng sản xuất ở mức độ cao. Các điều kiện nh sản xuất hàng hoá nh phân
công lao động xã hội và sự tách biệt về sở hữu đã đợc đảm bảo cho quá trình
chuyển sang nền kinh tế hàng hoá.
Nhu cầu về vật chất của con ngời không ngừng gia tăng trong khi nền sản
xuất tự cung, tự cấp thì không đủ đáp ứng để phục vụ nhu cầu của bản thân. Bản
thân mỗi cá nhân không thể có đủ những điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật để
phát triển sản xuất. Đấy chính là nguyên nhân để xuất hiện sự phân hoá lao động
với những nhóm ngời chuyên sản xuất trên một số lĩnh vực nhất định kế đấy hị
sẽ dùng trao đổi với nhau giữa các chủ thể kinh tế nhằm thoả mãn nhu cầu của
mỗi ngời. Khoa học càng phát triển khả năng nhận thức và tự thoả mãn càng lên
cao, dần dần họ trao đổi với nhau không chỉ là đơn thuần hàng của ngời này đợc
đổi lấy hàng của ngời kia mà nó đợc đem ra giao bán. Những ai cần nó họ sẽ
mua bằng một thứ đợc coi là vật ngang giá chung, bù lại những ngời bán hàng
hoá sẽ thu đợc những khoản lợi nhuận chính là vật có giá trị ngang giá chung ấy.
Chính điều đó càng thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá càng phát triển. Tuy nhiên

nếu chỉ có phân công lao động không thì cha phải là điều kiện duy nhất phát
triển nền kinh tế hàng hóa mà cần phải có sự tách biệt về sở hữu thì quá trình
trao đổi mới đợc thực hiện. Chỉ khi có sự tách biệt về sở hữu hàng hoá thì mới
đảm bảo ngời này cần sản phẩm của ngời kia và khi đó quá trình trao đổi đợc
thực hiện. Sản phẩm lúc đấy làm ra mới thật sự trở thành hàng hoá.
Tóm lại nền kinh tế hàng hoá là nền kinh tế mà sản phẩm của lao động đợc bán trên thị trờng : loại sản phẩm, quy cách sản xuất, mục đích bán cho ai
đều thông qua hệ thống thị trờng và do thị trờng quyết định.
Tuy nhiên hàng hoá xuất hiện trên thị trờng rồi thì vấn đề đặt ra là phải
tiêu thụ nó nh thế nào, điều đó còn phụ thuộc vào chính sản phẩm. Liệu nó đã
đáp ứng đợc nhu cầu của khách hàng hay cha, sản phẩm ấy có những thiếu sót gì
mà tại sao không đợc khách hàng chấp nhận, hay u điểm gì khiến nó tự nhiên
tiêu thụ nhanh đến nh vậy. Tất cả điều ấy phải đợc chủ thể kinh tế ghi nhận để
tìm cách khắc phục hay phát huy điểm mạnh. Xã hội càng phát triển nhu cầu
con ngời đòi hỏi về hàng hoá càng cao lên, điều đấy càng thúc đẩy quá trình xã
hội hoá sản xuất, mọi ngời điều làm việc để tự đáp ứng nhu cầu của bản thân
cũng nh nhu cầu của xã hội. Tuy nhiên để sản phẩm lao động của mình đợc chấp
nhận trên thị trờng thì mỗi ngời sản xuất phải không ngừng cải tiến kĩ thuật ,
công nghệ làm cho sản phẩm có chất lợng ngày càng cao, nâng cao tính cạnh
tranh của sản phẩm hàng hoá, thúc đẩy lc lợng sản xuất phát triển.

7


ở trên ta đã nói tới nền kinh tế hàng hoá, đã hiểu rõ cách thức để một sản
phẩm do các chủ thể làm ra trở thành hàng hoá trên thị trờng nh thế nào. Đấy là
khi sản phẩm ấy đáp ứng đợc nhu cầu của ngời tiêu dùng mặc dù vậy giá trị sử
dụng chỉ là điều kiện cần để một vật trở thành hàng hoá và chúng chỉ là hàng
hoá khi có thêm giá trị trao đổi hay giá trị.
Giá trị hàng hoá là giá trị lao động xã hội cần thiết của ngời sản xuất
hàng hoá kết tinh trong hàng hoá nó phản ánh quan hệ của những ngời sản xuất

hàng hoá. Tóm lại, giá trị hàng hoá là phạm trù lịch sử chỉ tồn tại ở những đâu
có sản xuất trao đổi hàng hoá. Hình thức biểu hiện của nó ra bên ngoài là giá trị
trao đổi, trong đó giá trị trao đổi là tỷ lệ về lợng giữa giá trị sử dụng này trao đổi
với giá trị sử dụng khác. Vậy một vật chỉ có giá trị khi chúng là kết tinh của lao
động của con ngời, một vật dù có giá trị sử dụng nh nớc, không khí,.. nhng
không có giá trị thì cũng không đợc xem là hàng hoá.
Trong nền kinh tế nớc ta hiện nay đại bộ phận lao động là thủ công năng
suất lao động thấp, mặt khác do trình độ phân công lao động không cao, các
ngành nghề cha đợc phát triển nên giá trị sử dụng còn nghèo nàn, phẩm chất
hàng hoá còn kém. Với những đặc điểm trên thì mâu thuẫn giữa giá trị và giá trị
sử dụng của nội tại hàng hoá khá gay gắt. Vì thế riêng ở nớc ta coi trọng trớc hết
giá trị sử dụng phải xuất phát từ nhu cầu thực tế của xã hội cần đợc thoả mãn.
Về giá trị hàng hoá cần phải biết tính toán kinh tế, tổ chức sản xuất để làm ra giá
trị sử dụng nhiều nhất đồng thời chi phí ít nhất.
Giá trị của hàng hoá là khái niệm trừu tợng nhng trên thị trờng nó biểu
hiện rõ nhất là giá cả của hàng hoá đó hay giá cả của hàng hoá chính là biểu
hiện của giá trị hàng hoá. Một vật làm vật ngang giá chung cho các hàng hoá
khác, thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những ngời sản xuất
hay nó là biểu hiện giá trị của hàng hoá, đó chính là tiền tệ. Nhờ tiền tệ mà quá
trình trao đổi mua bán hàng hoá trở nên thuận lợi hơn, thời gian thực hiện trao
đổi giảm xuống.
Vậy để sản phẩm của các chủ thể kinh tế làm ra trở thành hàng hoá trao
đổi trên thị trờng trong nền kinh tế hàng hoá hiện nay thì nó cần thống nhất giữa
hai thuộc tính : giá trị sử dụng và giá trị, nếu thiếu một trong hai thuộc tính này
thì vật phẩm không thể trở thành hàng hoá. Vai trò của qui luật giá trị đợc thể
hiện nh sau :
1.1.1.3. Qui luật giá trị điều tiết sản xuất lu thông hàng hoá.
Trong sản xuất hàng hoá giản đơn và sản xuất hàng hoá t bản chủ nghĩa,
qui luật giá trị có một số tác dụng và vai trò cơ bản : điều tiết việc sản xuất và lu


8


thông hàng hoá, kích thích sự phát triển sức sản xuất và cuối cùng là thực hiện
sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá ngời sản xuất hàng hoá thành kẻ giàu ngời
nghèo.
Thứ nhất chúng ta xem xét vai trò điều tiết sản xuất và lu thông hàng
hoá. Trong thực tế xã hội sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ t hữu thờng xảy ra
tình hình : ngời sản xuất bỏ ngành nghề này sang ngành nghề khác, t liệu sản
xuất và sức lao động của xã hội đợc thay đổi, qui mô sản xuất của ngành này
tăng lên thì tơng ứng qui mô của ngành kia giảm xuống. Sự thay đổi này chính
là do tác động ảnh hởng của qui luật giá trị đã điều tiêt việc sản xuất trong xã
hội. Điều tiết sản xuất tức là điều hoà, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các
ngành nghề, các lĩnh vực của nền kinh tế. Tác dụng này của qui luật giá trị
thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá trên thị trờng dới tác dụng của qui
luật cung cầu. Điều tiết, lu thông của qui luật giá trị cũng thông qua giá cả trên
thị trờng. Sự biến động của giá cả thị trờng cũng có tác dụng thu hút luồng hàng
từ nơi tiêu thụ thấp về nơi tiêu thụ có giá cả cao, do đó làm cho lu thông hàng
hoá đợc thông suốt. Sự biến động giá cả trên thị trờng không những gây ra sự
biến động của kinh tế mà còn tác động điều tiết nền kinh tế hàng hoá.
Qui luật giá trị không chỉ điều tiết việc sản xuất hàng hoá mà còn điều tiết
cả việc lu thông hàng hoá. Giá cả đợc hình thành tự do theo quan hệ cung cầu
và việc lu thông hàng hoá do quy luật giá trị điều tiết thông qua sự lên xuống
của giá
cả xoay chung quanh giá trị. Cung và cầu nh đồ thị hình sin trên trục, dù cung
luôn cố gắng phù hợp cầu nhng từ trớc tới nay vẫn luôn không thoả mãn cầu một
cách chính xác tuyệt đối. Cung hoặc lớn hơn hoặc nhỏ hơn chứ hầu nh không
bao giờ ăn khớp hoàn toàn với cầu vì thế trong sự biến đổi tự do đó không ai xác
minh đợc cung và cầu cuối cùng chính xác là bao nhiêu. Từ đó nhận thấy rằng
mối quan hệ giữa cung và cầu một mặt chỉ giải thích đợc sự chênh lệch giữa giá

cả thị trờng và giá thị trờng, nhng mặt khác giải thích xu hớng muốn triệt tiêu
chênh lệch cung cầu.
Quy luật giá trị với biểu hiện là giá cả của hàng hoá điều tiết hàng hoá từ
khu vực này sang khu vực khác, từ nơi này tới nơi khác. Bởi với những điều kiện
sản xuất tự nhiên khác nhau có thể dẫn tới sự khác biệt lớn về giá cả của hàng
hoá ở các vùng trong những điều kiện nhất định, do đó để kiếm lời đợc nhiều
nhất các nhà sản xuất sẽ thực hiện việc điều tiết nguồn hàng từ nơi có giá thấp
đến nơi có giá cao.

9


1.1.1.4. Quy luật giá trị kích thích sự phát triển sức sản xuất, tăng
năng suất lao động, lực lợng sản xuất xã hội phát triển nhanh.
Dới chế độ xã hội chủ nghĩa, còn có sản xuất hàng hoá và lu thông hàng
hoá thì quy luật giá trị vẫn còn có tác dụng. Quy luật giá trị đòi hỏi việc sản xuất
hàng hoá và tiêu thụ hàng hoá phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần
thiết.
Trong nền kinh tế hàng hoá, mỗi ngời sản xuất hàng hoá là một chủ thể
kinh tế độc lập, tự quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Do các
hàng hoá đợc sản xuất trong những điều kiện khác nhau nên có giá trị cá biệt
khác nhau, tuy nhiên trên thị trờng đều phải trao đổi theo giá trị xã hội. Giá trị
này đợc quy định phù hợp với mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Những cơ
sở, doanh nghiệp sản xuất nào mà hao phí lao động cá biệt nhiều hơn hao phí lao
động xã hội cần thiết thì khi bán ra sẽ chịu thiệt thòi, không có lợi bằng những
nơi sản xuất mà ở đó hao phí lao động cá biệt ngang hoặc thấp hơn hao phí lao
động xã hội cần thiết. Trong việc sản xuất sản phẩm, những doanh nghiệp tiên
tiến với mức hao phí lao động cá biệt ít hơn hao phí xã hội cần thiết nên thu đợc
lợi nhiều hơn. Vì thế để giành lợi thế trong cạnh tranh và tránh nguy cơ vỡ nợ,
phá sản các doanh nghiệp phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình sao

cho bằng hao phí lao động xã hội cần thiết. Vì thế chính họ phải luôn tìm cách
cải thiện, cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức bộ máy quản lý, thực hiện tiết kiệm
chặt chẽ, tăng năng suất lao động. Lúc đầu chỉ có một số cá nhân chịu cải tiến
kỹ thuật nhng vì nền kinh tế hàng hoá gắn liền với quy luật cạnh tranh, giữa các
chủ thể kinh tế lập tức xuất hiện quan hệ cạnh tranh. Sự cạnh tranh quyết liệt
càng thúc đẩy quá trình này diễn ra nhanh, mạnh mẽ hơn mang tính xã hội. Kết
quả là lực lợng sản xuất xã hội đợc phát triển thúc đẩy thị trờng phát triển mạnh
mẽ. Tuy nhiên, điều này cũng có hai mặt của nó. Mặt tích cực là nó thúc đẩy quá
trình sản xuất tăng lên mạnh mẽ, ngời lao động cũng đợc nâng cao về trình độ
tay nghề chuyên môn từ đó làm tăng khối lợng hàng hóa và giảm giá thành
dẫn đến ngời tiêu dùng sẽ đợc hởng lợi từ sự cạnh tranh này. Tuy nhiên, cùng với
mặt tích cực, để thu lợi ích đợc cao nhất với mình một số doanh nghiệp đã đi ngợc lại với đạo đức kinh doanh. Đấy là họ sẽ tìm mọi cách để giảm chi phí lao
động cá biệt của mình bất kể lợi ích tiêu dùng nh thế nào. Mặt khác để dành
thắng lợi trong cạnh tranh giảm giá hàng hoá cũng nh chạy theo các hàng hoá có
giá cả cao dễ gây ra tình trạng d thừa một loại hàng hoá nào đó làm lãng phí lao
động xã hội.

10


Tóm lại để thu đợc lợi ích kinh tế cao nhất cho bản thân mình các chủ thể
kinh tế, các nhà sản xuất luôn cố gắng giảm tối đa chi phí sản xuất của mình hay
là tìm cách tối thiểu hao phí lao động cá biệt của bản thân mình. Do tác dụng
của quy luật cạnh tranh sẽ kích thích toàn bộ xã hội làm tăng năng suất lao động
phát triển lực lợng sản xuất một cách nhanh chóng, mạnh mẽ
1.1.1.5 Quy luật giá trị tác dụng thực hiện lựa chọn tự nhiên phân
hoá ngời giàu, ngời nghèo.
Trên thị trờng các hàng hoá có giá trị cá biệt khác nhau đều phải trao đổi
theo giá trị xã hội. Do đó trong quá trình sản xuất và trao đổi hàng hoá không
tránh khỏi tình trạng một số ngời sản xuất phát tài, làm giàu còn một số ngời

khác bị phá sản trở thành những ngời nghèo.
Sự phân hoá này là kết quả tự nhiên sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ t
hữu. Bởi những ngời sản xuất hàng hoá có điều kiện sản xuất khác nhau, do đó
giá trị cá biệt khác nhau nhng tới lúc trao đổi trao đổi trên thị trờng lại theo một
chuẩn chung đó là giá trị xã hội. Khi đó những ngời sản xuất có hao phí lao
động cá biệt cao hơn hao phí lao động xã hội thì do không bù đắp đợc đủ chi phí
sản xuất nên họ bị lỗ vốn thậm chí bị phá sản trở thành những ngời nghèo,
những ngời lao động làm thuê và ngợc lại.
Trong nền kinh tế hàng hoá, cạnh tranh là quy luật không thể tránh khỏi.
Để đứng vững trên thị trờng các chủ thể kinh doanh cần phải có những chiến lợc
kinh tế nhằm phát triển sản xuất của mình đồng thời đánh bật các đối thủ khác,
kẻ chiến thắng trở thành những ngời giàu có, những ngời đợc nắm giữ và có khả
năng mở rộng sản xuất còn kẻ thất bại sẽ bị đào thải trở nên vô sản đồng thời trở
thành những ngời nghèo. Cạnh tranh chạy theo lợi nhuận và lợi ích riêng làm
cho các nguồn tài nguyên bị khai thác cạn kiệt, môi trờng môi sinh bị huỷ hoại,
ô nhiễm, làm tăng sự phân hoá giàu nghèo và bất công xã hội.
Để phát triển thì các doanh nghiệp không ngừng sản xuất và nâng cao
chất lợng sản phẩm, đẩy quá trình biến đổi của xã hội lên mức cao hơn nữa.
Đồng thời song hành là sự xuất hiện của những khuyết tật của nền kinh tế hàng
hoá và thị trờng. Chính là sự xuất hiện của các mối quan hệ đối kháng : ngời
giàu ngời nghèo phải bán sức lao động, giữa chủ thợ, đấy là quan hệ đối
kháng về lợi ích kinh tế. Sự đối kháng đấy biểu hiện ra nh mâu thuẫn giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Qui luật giá trị không chỉ có tác dụng dới chế độ XHCN mà ngay cả ở chế
độ t bản chủ nghĩa quy luật giá trị tác động nh một lực lợng tự phát thống trị con

11


ngời. Nhờ qui luật giá trị này đã khuyến khích nâng cao năng suất lao động xã
hội, áp dụng kỹ thuật mới, hạ giá thành và nâng cao doanh lợi sản xuất.

Những ngời làm kinh tế cần phải nhận thức đợc tác dụng của quy luật giá
trị và biết lợi dụng nó để lãnh đạo sản xuất một cách hợp lý, cải tiến dân dần phơng pháp làm việc, phát hiện và sử dụng những khả năng tiềm ẩn để nâng cao
sản lợng và chất lợng.

12


CHNG 2:
2. ý ngha vn dng lý lun ny trong iu kin phỏt trin
nn kinh t th trng nh hng XHCN Vit Nam.
2.1.1 Thực trạng và vai trò của qui luật giá trị đối với kinh tế Việt Nam
trong thời gian qua
Sự vận dụng qui luật giá trị ở Việt Nam đã thúc đẩy sự phát triển lực lợng
sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Kinh tế nớc ta
là một nền kinh tế thị trờng mở do đó các hoạt động kinh tế của nó chịu ảnh hởng trực tiếp của các qui luật kinh tế khách quan của kinh tế thị trờng một trong
những qui luật đó chính là qui luật giá trị. Với yêu cầu mọi hoạt động trao đổi
phải thực hiện ngang giá buộc các nhà sản xuất không ngừng phải cải tiến công
nghệ máy móc, trình độ quản lý. Tuy qui luật giá trị không giữ vai trò điều tiết
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, nhng nó có một ảnh hởng rất lớn đối với quá trình
phát triển của nền kinh tế, nó vẫn gây tác dụng trong sản xuất và lu thông, trong
toàn bộ lĩnh vực tái sản xuất xã hội và trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân.
Kinh tế thị trờng với qui luật kinh tế cơ bản của nó là qui luật giá trị buộc
các nhà sản xuất phải không ngừng cạnh tranh, làm thúc đẩy phát triển lực lợng
sản xuất. Để đứng vững trên thị trờng các nhà sản xuất phải tìm cách giảm tối đa
hao phí lao động cá biệt hay không ngừng tăng năng suất lao động bằng các con
đờng cải tiến công nghệ, phân công lao động một cách hợp lý.
Để có thể phát triển kinh tế trong điều kiện kinh tế mở cửa của cạnh tranh
ngày càng khốc liệt này Đảng và Nhà nớc ta đã thực hiện quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đấy là một bớc phát triển muộn về công nghiệp nên Nhà nớc ta
phải biết vận dụng khéo léo những thành tựu đã đạt đợc của khoa học kỹ thuật

trên thế giới. Bên cạnh đó việc phân công lao động hợp lý vào từng ngành nghề
lĩnh vựckhác nhau trong xã hội có tác dụng làm đòn bẩycủa sự phát triển công
nghệ sản xuất và năng suất lao động. Sự kết hợp giữa phát triển khoa học công
nghệ kỹ thuật và giáo dục sẽ thcú đẩy sự phát triển của cơ cấu kinh tế theo hớng
hiện đại hoá, nâng dần chất lợng xã hội lên tầm cao mới.
Qui luật giá trị với vai trò tổ chức xã hội , kích thích xã hội và bảo đảm
xã hội đã tạo ra cho xã hội những đòn bẩy kinh tế mạnh mẽ để đạt tới những
mục tiêu kế hoạch. Giúp tổ chức lại xã hội , qui luật giá trị đã một phần tạo ra
nguyên tắc công bằng xã hội , kích thích những sự nỗ lực nhằm nâng cao hiệu

13


quả kinh tế và chất lợng công tác. Qui luật giá trị đã tạo ra cho nền kinh tế
những công cụ quan trọng để thực hiện, củng cố và phát triển sự xã hội hoá sản
xuất trên thực tế. Nếu tuân theo qui luật giá trị , vận dụng các phơng pháp tiêu
chuẩn trên cơ sở qui luật đó trong việc tính toán hao phí lao động xã hội cần
thiết, chúng ta có thể định hớng các kế hoạch kinh tế quốc dân, nhằm giải quyết
nhiệm vụ của việc nâng cao hiệu quả của nền sản xuất xã hội nói chung và của
từng cơ sở của nền sản xuất đó. Trên thực tế ở một số lĩnh vực ta thấy rõ đợc
những biểu hiện sự vân dụng của quy luật giá trị :
Trớc hết ta xét trên lĩnh vực kinh tế, chỉ với khoảng thời gian ngắn nền
kinh tế Việt Nam đã có những bớc phát triển vợt bậc. Từ một nền kinh tế tăng trởng thấp đang ở trạng thái khủng hoảng trầm trọng trớc năm 1986 nền kinh tế nớc ta đã từng bớc khôi phục và phát triển ổn định với mức tăng trởng cao. Tốc độ
phát triển kinh tế ở nớc ta trong thập kỷ 90 của thế kỷ hai mơi đợc đánh giá vào
loại cao nhất của khu vực kinh tế Thái Bình Dơng .
Từ 2001 đến nay, trong tình hình khó khăn phức tạp hơn dự kiến do ảnh hởng của những biến động trong và ngoài nớc nh vụ khủng bố 11 tháng 9 tại Mỹ
gõy ra nhng tỏc hi nghiờm trng trờn nn kinh t ca nc M v trờn th
trng th gii, hay khng hong ti chinh 2007-2010 l mt cuc khng hong
bao gm s v hng lot h thng ngõn hng, tỡnh trng úi tớn dng, tỡnh
trng st giỏ chng khoỏn v mt giỏ tin t quy mụ ln nhiu nc trờn th

gii, cú ngun gc t khng hong ti chớnh Hoa K nền kinh tế Việt Nam
vẫn tiếp tục phát triển ổn định với tốc độ tăng trởng dơng ở mức khá cao, tính
đến năm 2010 là vào khoảng 6,7%. Cơ cấu kinh tế GDP đang chuyển dịch theo
chiều hớng có lợi tích cực hơn, tỷ trọng trong nông nghiệp giảm thay vào đó tỷ
trọng trong công nghiệp và dịch vụ có phần tăng lên ( Trong GDP công nghiệp
chiếm khoảng 42,3%, dịch vụ khoảng 39,1%) So với việc nền kinh tế thế giới
đang suy giảm chung thì những bớc tăng trởng của kinh tế Việt Nam là rất đáng
nể. Trong sự phát triển chung của công nghiệp, trong nền kinh tế, ta thấy một bộ
phận các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ lệ khá lớn,các doanh nghiệp
này ngày càng khẳng định đợc vị thế của mình về kinh tế.
Tuy nhiên, đặc điểm nổi bật của nền kinh tế nớc ta nói chung là tốc độ
tăng trởng, hiệu quả, sức mạnh cạnh tranh của các sản phẩm, doanh nghiệp, và
của cả nền kinh tế còn thấp. Tình trạng phổ biến là nền kinh tế còn mang nặng
tính tự phát, cha bám sát nhu cầu thị trờng, nhiều sản phẩm làm ra có giá thành
cao, chất lợng thấp nên khả năng tiêu thụ kém. Năng lực cạnh tranh của các
14


hàng hoá nớc ta còn thấp do trình độ phát triển, điều kiện vật chất, kỹ thuật yếu
kém, lại thêm hạn chế về môi trờng đầu t kinh doanh. Hiệu qủa kinh doanh của
các doanh nghiệp không cao, thực trạng tài chính của một số doanh nghiệp là
đáng lo ngại : Thiếu vốn, nợ nần, một số doanh nghiệp không tự mình phấn đấu
vơn lên mà trông chờ vào sự hỗ trợ bảo trợ của nhà nớc Khu vực kinh tế t nhân
nhìn chung nhỏ bé phân tán, trình độ không cao tay nghề có nhiều hạn chế, khả
năng tổ chức, quản lý cha đạt hiệu quả thực thi... Thực trạng nền kinh tế cho
thấy nớc ta tuy đạt đợc nhiều thành tựu nhng cũng còn không ít khó khăn, đó là
về khả năng cạnh tranh và có nhiều đặc điểm yếu kém tồn tại bên trong lòng
kinh tế.
Nền kinh tế nớc ta đang từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa, từ sản xuất có tính tự cung tự cấp lên sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa,

trong thời kì quá độ này qui luật giá trị còn hoạt động trên một phạm vi khá rộng
và trong một thời gian khá dài. Vai trò và phạm vi của qui luật này biến đổi từng
thời kỳ cùng với sự chuyển biến của quan hệ sản xuất, của lực lợng sản xuất tới
sự phân công lao động. Vì thế trong khi xây dựng kinh tế ta cần nhận thức đúng
qui luật giá trị, tự giác vận dụng qui luật đó và những phạm trù kinh tế đi kèm
với nó. Với nền kinh tế của nớc ta theo sự phát triển chủ nghĩa xã hội nên qui
luật giá trị hoạt động gắn kiền với sự hoạt động của các qui luật kinh tế của chủ
nghĩa xã hội, trớc hết là qui luật kinh tế cơ bản và qui luật phát triển có kế hoạch
và cân đối nền kinh tế quốc dân.
Bên cạnh sự thay đổi của nền kinh tế đời sống của nhân dân cũng không
ngừng đợc tăng lên dần nâng cao.
Với tốc độ tăng trởng kinh tế trong những năm đổi mới là tơng đối nhanh
và ổn định, tc tng trng trung bỡnh ca giai on 2001 2010 l 7,25%.
Sản xuất nông nghiệp không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nớc mà còn đợc đem đi xuất khẩu. Với sự phát triển của kinh tế đời sống xã hội đã đợc tăng
lên về mọi mặt, tăng cả về số lợng lẫn chất lợng hàng hoá phục vụ nhu cầu tiêu
dùng của nhân dân. Dân số trong thời gian qua đã dần ổn định với tốc độ tăng
chậm thấp hơn so với tộc độ tăng trởng kinh tế cộng với những chơng trình ủng
hộ khuyến khích của Chính phủ đã dần xoá đói, giảm nghèo góp phần nâng cao
đời sống nhân dân. Mc nghốo ca Vit Nam gim t hn 58% nm 1993
xung cũn khong 10% trong nm 2010. Dân trí đợc nâng lên tầm cao mới,
trong sinh hoạt đã đợc sử dụng những vật phẩm hiện đại, tiếp thu những kiến
thức nhân loại mới về văn hoá, đời sống, xã hội, sự đáp ứng thoả mãn tinh thần
và vật chất không ngừng đợc nâng cao.
15


Tuy nhiên một điều không thể tránh khỏi khi đời sống xã hội thay đổi
theo chiều hớng đi lên và nền kinh tế phát triển, đó là sẽ làm tăng hố ngăn cách
phân biệt giàu nghèo. Cùng với mức thu nhập bình quân thì mức chênh lệch về
thu nhập cũng không ngừng tăng lên. Ngay cả trong quan hệ giữa các ngành,

lĩnh vực kinh tế cũng khác nhau, một bộ phận lớn lao động hoạt động trong lĩnh
vực nông nghiệp với gần 80% toàn bộ nền kinh tế, nhng thu nhập từ sản xuất
nông nghiệp không cao chỉ khoảng 20,7%. Bên cạnh đó một bộ phận dân c ở các
vùng dân tộc miền núi với tình trạng sản xuất khó khăn không có điều kiện và
tiềm lực để phát triển kinh tế nên đời sống rất khó khăn. Trong khi đó một bộ
phận nhỏ dân c hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, thơng mại, sản xuất kinh
doanh có thu nhập khá cao. Cũng vì còn gặp nhiều khó khăn, không đồng đều
trong chính sách kinh tế nên vấn đề học vấn còn cha đợc truyền đạt đến từng ngời dân, một nguyên nhân dẫn đến sự đói nghèo là trình độ học vấn thấp, kém.
Bởi thế mấy năm gần đây mức độ phổ cập của giáo dục đã đợc chú ý đến tránh
tình trạng mù chữ, đói thông tin ở toàn bộ xã hội nói chung và của đồng bào các
dân tộc thiểu số vùng sâu vùng xa nói riêng.
Sự khác biệt trong thu nhập của ngời dân trong một số năm gần đây cha
thực rõ nét nhng nó đã báo hiệu về tình trạng phân hoá giàu nghèo có thể sẽ tăng
nhanh ở thời gian tới khi mà các hoạt động sản xuất không ngừng phát triển chịu
tác động mạnh mẽ của các qui luật kinh tế thị trờng, trong đó có qui luật giá trị.
ở thời kì phát triển này ở Việt Nam đã tiên hành quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá để hội nhập với nền kinh tế toàn cầu theo xu hớng quốc tế
hóa . Quá trình này chính là sự vận dụng quy luật giá trị vào nớc ta trong điều
kiện hiện nay. Cùng với sự thay đổi về cơ cấu là sự phát triển của khoa học kỹ
thuật và công nghệ phát triển của giáo dục sẽ thúc đẩy phát triển cơ cấu kinh tế
theo hớng hiện đại hoá.
Đảng và Nhà nớc đã xác định khoa học, giáo dục là quốc sách hàng đầu
do đó toàn xã hội đã thực sự quan tâm đến sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Chất lợng giáo dục không ngừng tăng lên ở tất cả các cấp học, ngay cả ngời lao động
cũng đã đợc trang bị trình độ khoa học, trình độ tri thức ngày càng tăng.
Nớc ta ở giai đoạn phát triển theo kinh tế hàng hoá vì thế không thể tránh
khỏi qui luật cạnh tranh trên thị trờng các doanh nghiệp vì mục đích cạnh tranh
với đối thủ nên dần cải thiện công nghệ không ngừng nâng cao quá trình sản
xuất của hàng hoá, sản phẩm.
2.1.2 Một số giải pháp nhằm vận dụng tôt hơn qui luật giá trị ở nớc
ta trong thời gian tới.


16


Do nền kinh tế đợc điều khiển bởi những nhà hoạch định chính sách kinh
tế, vì thế ngay từ đầu cần nâng cao trình độ cán bộ quản lý kinh tế đồng thời
thực hiện việc xây dựng lại cơ chế giá.
Những cán bộ quản lý kinh tế là những ngời đa ra các quyết sách ở tầm vĩ
mô, có ảnh hởng rộng khắp và sâu sắc tới các hoạt động kinh tế của đất nớc,
vì thế việc nâng cao trình độ của cán bộ quản lý kinh tế là hết sức cần thiết
đối với nền kinh tế nớc ta trong thời gian tới. Những nhà quản lý kinh tế với
nhiệm vụ quan sát và nhận biết về những biến động của giá cả từ đấy có thể
đa ra những quyết định ở tầm vĩ mô nhằm phát triển kinh tế đất nớc. Từ đấy
thấy đợc tầm quan trọng của việc tuyển chọn những ngời thực sự có năng lực
vào đội ngũ quản lý này đồng thời phải luôn không ngừng nâng cao trình độ
của đội ngũ này.
Mặt khác ta cần phải cấp bách xây dung một cơ chế giá cả có khả năng
kích thích nhiều hơn so với tiến bộ khoa học kỹ thuật. Qui luật giá cả đợc hình
thành dựa trên nguyên tắc vận dụng giữa hao phí lao động xã hội cần thiết và giá
trị . Mà đặc trng của quá trình hình thành các hao phí và giá trị này đợc xác
định trớc bởi sự tác động của các qui luật kinh tế mà thực chất của bản thân các
qui luật. Hao phí lao động xã hội cần thiết phải là tiêu chuẩn để phân phối các
nguồn và tiêu chuẩn hiệu quả hao phí. Về khách quan việc hình thành giá cả
phải đợc thực hiện dới hình thức hình thành giá có kế hoạch, tập trung và có tính
chất Nhà nớc. Cơ sở để hình thành hao phí lao động xã hội cần thiết chính là sự
phân phối lao động chung theo các bộ phận và các khu vực của nền sản xuất xã
hội, xuất phát từ những nhu cầu hiện tại và lâu dài của xã hội. Qui luật kinh tế
cơ bản đòi hỏi phải phân phối lao động một cách tốt nhất các nguồn lao động
sống và vật hoá theo các bộ phận và các khu vực của nền sản xuất theo quan
điểm mục tiêu chiến lợc phát triển xã hội. Do vậy muốn cho quá trình hình

thành giá cả phù hợp với quá trình hình thành hao phí lao động cần thiết thì
nguyên tắc cơ bản của việc hình thành giá là nó phải có một phơng hớng, mục
đích rõ ràng nhằm giải quyết cá vấn đề kinh tế-xã hội cấp bách.
Muốn cho việc hình thành giá phản ánh chính xác nhất quá trình hình
thành hao phí lao động xã hội thì cần phải hạch toán giá trong điều kiện chuyên
môn hoá, hiệp tác hoá sản xuất tối u, phân bố sản xuất tốt nhất, tổ chức quá trình
sản xuất và sử dụng kỹ thuật công nghệ hiện đại. Việc hình thành giá nh vậy các
xí nghiệp tiên tiến cũng không có sự u tiên nào cả so với các xí nghiệp trung
bình.

17


Song song với việc đổi mới bộ máy tổ chức quản lý kinh tế thì vấn đề xây
dụng những hoạch định đờng lối của Chính phủ.
Đảng và Nhà nớc ta luôn xác định con ngời luôn ở vị trí trung tâm trong
toàn bộ các chiến lợc phát triển kinh tế, xã hội, giáo dục và đào tạo là quốc sách
hàng đầu. Bởi yếu tố con ngời có thể giải quyết mọi vấn đề xảy ra cả chủ quan
lẫn khách quan. Hơn na giáo dục đào tạo mang đến tri thức cho con ngời, nâng
cao kĩ năng sản xuất hay nâng cao chất lợng lao động trong thời đại phát triển
của khoa học công nghệ nh hiện nay. Bởi trong thời đại bùng nổ nh hiện nay thì
vai trò của tri thức con ngời càng đợc đề cao và trở thành một tài nguyên phát
triển vô tận và hết sức quan trọng. Trong điều kiện nớc ta hiện nay đang từng bớc tiến lên con đờng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc thì vấn đề con ngời
là hết sức quan trọng và cần thiết. Là đội ngũ có kiến thức thì sẽ đảm bảo đợc sự
phát triển chung của xã hội, đảm bảo các chính sách kinh tế phù hợp với điều
kiện bên trong và ngoài nớc.
Mặt khác Nhà nớc cần tạo mội trờng thuận lợi cho các hoạt động kinh tế
bằng việc tạo môi trờng pháp lý ổn định với các luật định phù hợp đó là điều
kiện để những chủ thể kinh tế tham gia các hoạt động kinh tế có những hoạt
động phù hợp tránh những hành động không phù hợp, vi phạm pháp lý. Đồng

thời trong cái khung pháp lý ấy sẽ quy định các chính sách kinh tế khuyến khích
tham gia hoạt động, xây dựng cơ sở hạ tầng thuận lợi là điều kiện để phát triển
sản xuất kinh doanh. Các chính sách này có thể điều chỉnh giá cả ổn định bởi
giá cả là thớc đo của giá trị, và tránh những can thiệp không hợp lý vào cá hoạt
động của hệ thống giá cả thị trờng.
Để duy trì sự phát triển chung của cả xã hội, Nhà nớc cần khuyến khích
khả năng hội nhập kinh tế của các doanh nghiệp nói riêng và toàn bộ các lĩnh
vực nói chung. Kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trờng hay kinh tế mở vì thế
xu hớng chung của tất cả các doanh nghiệp họ sẽ mở rộng quy mô tiến trên con
đờng mở của và hội nhập quốc tế. Tuy vậy nớc ta phải chủ động và tích cực
chuẩn bị các điều kiện hội nhập đồng thời lựa chọn đúng giải pháp và bớc đi
trong quá trình này. Nếu tham gia vào tiến trình hội nhập này thì bên trực tiếp
tham gia sẽ có dịp học hỏi công nghệ và kinh nghiệm sản xuất của một số nơi.
Quá trình tham gia vào mạng lới các tổ chức trên thế giới tất cả đều nhằm một
mục đích xoá đói giảm nghèo và bất bình đẳng xã hội.
Các khu vực nông thôn, nông nghiệp cần có chính sách khuyến khích u
tiên một số ngành, dịch vụ,đồng thời nâng cao trình độ chuyên môn hoá để họ
cần đầu t vào kỹ thuật, máy móc, dịch vụ cho các khu vực nông nghiệp, nông

18


thôn để nâng cao năng suất lao động của các khu vực mà luôn có dân số đông
đúc. Nhà nớc cần có hình thức bảo trợ xã hội, điều chỉnh phù hợp với thị trờng
lao động trong nền kinh tế mở và hội nhập kinh tế. Nhà nớc cần phải thực hiện
tốt việc phân phối lại thông qua các chính sách thuế, trợ cấplàm giảm sự bất
bình đẳng trong xã hội.
Dù có phát triển hay thay đổi chính sách, chiến lợc thì vấn đề quan trọng
hàng đầu với Việt Nam là phải cần khai thác triệt để nguồn nhân lực dồi dào,
thông minh và giàu tính sáng tạo vốn có của nớc ta.

Lợng lao động một mặt nó đóng vai trò một ngời lao động lại khác khi trở
thành một chủ nhân tơng lai của đất nớc bởi vậy con ngời rất cần đợc đào tạo,
bồi dỡng nhân tài để đủ sức nắm bắt xu hớng phát triển của nền kinh tế thế giới.
Với nguyên nhân trên đây thì ta cần phải đào tạo nguồn nhân lực, chống
tham nhũng.
Chỉ có con ngời mới có thể thay đổi sự khựng lại của kinh tế trong nớc.
Tuy nhiên bất kì ai cũng cần phải trang bị cho mình vốn hiểu biết và tri thức
khoa học thì mới đảm bảo cho sự chắc chắn phát triển nền kinh tế của xã hội. Để
có đợc đội ngũ nhân lực tốt đảm bảo có trình độ chuyên môn cao, đáp ứng đợc
các nhiệm vụ hiện nay đòi hỏi hệ thống giáo dục và đào tạo phải thực sự phát
huy vai trò tích cực trong việc nâng cao chất lợng nguồn nhân lực con ngời, cho
sự nghiệp xây dựng đất nớc. Tuy nhiên việc đào tạo bồi dỡng những cán bộ có
trình độ chuyên môn cao đã quan trọng thì việc ngăn chặn những cán bộ tha hoá
kém phẩm chất cũng không kém phần quan trọng. Bởi tham nhũng một số năm
gần đây có chiều hớng gia tăng.Để làm trong sạch bộ máy quản lý, để đất nớc
thực sự phát triển mạnh dân giàu nớc mạnh thì vấn đề tham nhũng cần phải giải
quyết sạch sẽ.
Muốn thanh trừ loại sâu mọt này có lẽ hữu hiệu nhất là dùng tới sức mạnh
toàn dân, thực hiện tốt quy chế dân chủ tại tất cả các cơ quan và tổ chức theo phơng châm dân biết, dân bàn, dân kiểm tra . Vì tiếng nói của dân bao giờ cũng
trung thực, khách quan hơn cả bởi thế đây sẽ là phơng thuốc công hiệu để triệt
để vấn nạn tham nhũng. Sự có mặt của ngời dân vừa có thể thanh lọc bộ máy
cầm quyền, lại vừa tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế chính trị xã hội
đợc ổn định. Bởi suy cho cùng thì sự nghiệp cách mạng bao giờ cũng là sự
nghiệp của toàn dân.
Việc cải cách đổi mới bộ máy hành chính để tăng cờng kỉ cơng phép nớc
cũng cần thiết. Cần tuyển chọn và loại trừ những kẻ yếu kém về phẩm chất đạo
đức lẫn nghiệp vụ chuyên môn, đồng thời bồi dỡng những cán bộ có đầy đủ

19



phẩm chất và tài năng. Điều đó gây áp lực và tạo động lực cho mỗi cán bộ công
chức, viên chức luôn tự hoàn thiện mình để đáp ứng đợc với các nhu cầu gắt gao
về phẩm chất, tài năng của công chức trong xã hội hiện đại.
Nhng giải pháp về lâu dài cần đẩy lùi vấn nạn tham nhũng bằng việc xây
dung những chuẩn mực mới trong điều kiện kinh tế thị trờng. Kinh tế thị trờng
với những u điểm kích thích kinh tế phát triển còn tồn tại những nhợc điểm làm
giảm giá trị của hàng hoá, làm méo mó các chuẩn mực đạo đức. Tuy đang bớc
vào bối cảnh xã hội mới nhng điều cốt lõi phải biết dựa trên cái truyền thống
phải giữ đợc các giá trị đạo đức trong kinh doanh và quản lý.
Với xu hớng phát triển nh hiện nay nớc ta cần đợc hớng theo con đờng
phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá để hội nhập với nền kinh tế thế giới với
những chính sách hỗ trợ của Nhà nớc và khả năng tự có của các doanh nghiệp.
Để hàng hoá có tính cạnh tranh tốt hơn thì công nghệ sản xuất phải đợc
đổi mới, đội ngũ lao động lành nghề, tầng lớp quản lý có tri thức trách nhiệm,
tất cả sẽ làm giảm chi phí sản xuất đồng thời nâng cao giá trị sản phẩm. Phải
luôn tự đổi mới và biết tiếp thu học hỏi từ bên ngoài những tiến bộ trên thế giới
nếu có điều kiện điều kiện thì nên áp dụng vào trong sản xuất. Sự tồn tại của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trờng hiện đại kích thích mạnh
mẽ tính cạnh tranh năng động và hiệu quả. Nhng trong quan hệ giữa các doanh
nghiệp thì các doanh nghiệp bé hơn dễ bị chèn ép, thua thiệt vì thế để tránh tình
trạng này Chính phủ phải lập ra các chơng trình hỗ trợ lớn. Cơ sở hạ tầng cần đợc làm mới lại, xây dựng thành hệ thống đồng bộ, hiện đại. Bởi cơ sở hạ tầng
quyết định kiến trúc thợngtầng, cũng nh kinh tế quyết định chính trị. Các điều
kiện về kinh tế đợc đáp ứng và có phát triển thì mới đồng thời nâng toàn bộ
những chỉ tiêu của vấn đề liên quan lên nh : đời sống xã hội nâng cao, mức sinh
hoạt đợc đảm bảo ổn định tốt hơn, chính trị trong sạch, lành mạnh.
Điều đấy cũng đợc quyết định rất quan trọng bởi những hoạch định chính
sách chung của Chính phủ của các cơ quan có quyền hành.
Trớc thực trạng phát triển của các doanh nghiệp hiện nay, Nhà nớc đã phải
can thiệp vào bằng những hình thức hỗ trợ. Hình thức này đợc thể hiện bằng việc

lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho các cá thể kinh doanh tiếp cân với nguồn vốn của
các chủ doanh nghiệp lớn, các tổ chức tài chính lớn. Nhà nớc đứng ra thiết lập
theo phơng diện tạo môi trờng pháp lý ổn định nhằm duy trì sự cạnh tranh lành
mạnh, chống độc quyền, hỗ trợ các doanh nghiệp ở mặt đối nội và đối ngoại.
Khai thông thị trờng và ở hoạt động hỗ trợ, đào tạo cán bộ quản lý và lao động

20


có kỹ thuật cung cấp cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Riêng về vốn thì có thể thiết
lập các quỹ đầu t, bảo lãnh dới nhiều hình thức khác nhau.
Đồng thời nhà nớc ta cần chú ý tới các chính sách phúc lợi xã hội , đối với các
tầng lớp dân c làm giảm hố phân cách giàu nghèo nâng cao chất lợng toàn dân.
Các hoạt động này ngoài làm giảm sự phân cách do tác động của kinh tế thị trờng trên phơng diện tiêu cực mặt khác còn giải quyết tại chỗ các vấn đề nảy sinh
do thiếu công bằng gây ra. Biết là kết quả tất yếu khi phát triển kinh tế thị trờng
là sự phân hoá giàu nghèo nhng điều đó là không tránh khỏi và chỉ có thể khắc
phục bằng các chính sách quan tâm của chính phủ. Các cơ chế đó là thực thi
công bằng trong thu nhập cả nớc cùng với phong trào xã hội dới ảnh hởng của
các tổ chức khác nhau. Thành công và hiệu quả của cơ chế thực thi công bằng
phụ thuộc vào đờng lối chủ trơng, thực lực kinh tế và tài năng của giới lãnh đạo
xã hội .
Trên đây là những giải pháp khắc phục ảnh hởng không tốt từ qui luật giá
trị tới kinh tế xã hội nớc ta trong những năm tới, đồng thời nêu ra phơng hớng
vận dụng tốt hơn qui luật này nhằm mục đích phát triển kinh tế , ổn định chính
trị, xã hội. Tuy nhiên, giải pháp chỉ là những giải pháp thật sự khi ta biết áp dụng
nó nh thế nào trong thực tiễn và điều đó đang chờ câu trả lời từ phía các nhà
hoạch định chính sáchquản lý và khả năng phân tích nhanh nhạy của các doanh
nghiệp trong nớc hiện nay.
Vậy từ trên ta thấy đợc nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa
thực chất là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa.

Trong nhiều đặc tính có thể dùng làm tiêu thức để phân biệt nền kinh tế
thị trờng ở nớc ta với nền kinh tế thị trờng khác phải nói đến mục đích chính trị,
mục tiêu kinh tế xã hội mà Nhà nớc và nhân dân đã lựa chọn làm định hớng
chi phối sự vận động phát triển nền kinh tế. Mục tiêu hàng đầu của phát triển
kinh tế thị trờng ở nớc ta là giải phóng sữ sản xuất, động viên mọi nguồn lực
trong nớc và ngoài nớc để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dung cơ
sở vật chất kỹ thuật nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội cải thiện từng bớc đời
sống nhân dân. Nớc ta thựchiện theo t tởng đổi mới của Đảng, lấy sản xuất gắn
liền với đời sống nhân dân, gắn liền tăng trởng kinh tế với tiến bộ và công bằng
xã hội vì thế đã từng bớc khắc phục đợc nạn đói nghèo, dịch bệnh và nâng trình
độ văn hoá của ngời dân lên cao.

21


Với xu thế phát triển kinh tế nhiều thành phần với vai trò chủ đạo là Nhà
nớc đã dần đa nền kinh tế nớc ta vào trạng thái ổn định và phát triển đi lên. Việc
lựa chọn phát triển theo con đờng kinh tế thị trờng nhiều thành phần là một tất
yếu đối với nớc ta, bởi chỉ có nh vậy chúng ta mới khai thác mọi nguồn lực kinh
tế, nâng cao đợc hiệu quả kinh tế, phát huy đợc mọi tiềm năng của các thành
phần kinh tế vào phát triển chung nền kinh tế của đất nớc nhằm thoả mãn nhu
cầu tiêu dùng ngày càng tăng của nhân dân. Vì nớc ta phát triển theo con đờng
xã hội chủ nghĩa vì thế việc xác lập vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nớc là
vấn đề có tính nguyên tắc, nó dùng để phân biệt với kinh tế thị trờng t bản chủ
nghĩa. Tuy nhiên nền kinh tế phát triển theo hớng nhiều thànhphần nên sẽ dẫn
tới có nhiều phơng hớng và cách đi khác nhau và có thể sẽ gây nên những mâu
thuẫn, xung đột. Vì vậy kinh tế Nhà nớc phải đợc xây dựng và phát triển có hiệu
quả để thực hiện tốt vai trò chủ đạo của mình, đồng thời phải có chính sách
chung để hớng cho nền kinh tế phát triển theo định hớng xã hội chủ nghĩa.


22


Kết luận
Từ những phân tích ở trên ta thấy đợc vai trò tất yếu của viêc xuất hiện
những quy luật giá trị trong nền kinh tế. Nhờ thực hiện cải cách kinh tế chuyển
từ mô hình kinh tế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần hoạt động theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng
xã hội chủ nghĩa, nớc ta đã đạt đợc nhiều thành tựu. Từ một nền kinh tế yếu
kém, lạc hậu rơi vào khủng hoảng trầm trọng trở thành một nớc có nền kinh tế
không ngừng tăng trởng, đời sống nhân dân không ngừng đợc cải thiện. Càng
khẳng định con đờng đi mà Đảng, Nhà nớc ta đã chọn là hoàn toàn đúng đắn.
Điều đấy muốn nói lên vai trò của quy luật giá trị trong nền kinh tế là hoàn toàn
chính xác không thể phủ nhận.
Tuy nhiên tất cả các quy luật kinh tế cơ bản ra đời sẽ tồn tại mãi mãi, nên
bên cạnh mặt tích cực của nó sẽ không tránh khỏi mặt tiêu cực. Do đó, trong bối
cảnh hiện nay chúng ta cần phải hiểu và vận dung tốt các quy luật, hạn chế mức
tối đa mặt tiêu cực, chúng ta cần chủ động trong việc vận dụng chứ không thể để
chúng chi phối . Hiểu đợc nó sẽ có những quyết định phù hợp tạo điều kiện quy
luật phát huy tác động hạn chế những mặt tiêu cực của quy luật. Nắm bắt đợc nó
sẽ là cơ sở tạo đà, góp phần vào sự phát triển chung của đất nớc, nhằm tiến đến
phát triển bền vững, ổn định lâu dài.

23


Mục lục
LI MU...............................................................................................................................1
2.1.1 Thực trạng và vai trò của qui luật giá trị đối với kinh tế Việt Nam trong thời gian
qua....................................................................................................................................13

Những cán bộ quản lý kinh tế là những ngời đa ra các quyết sách ở tầm vĩ mô, có ảnh hởng
rộng khắp và sâu sắc tới các hoạt động kinh tế của đất nớc, vì thế việc nâng cao trình độ của
cán bộ quản lý kinh tế là hết sức cần thiết đối với nền kinh tế nớc ta trong thời gian tới. Những
nhà quản lý kinh tế với nhiệm vụ quan sát và nhận biết về những biến động của giá cả từ đấy
có thể đa ra những quyết định ở tầm vĩ mô nhằm phát triển kinh tế đất nớc. Từ đấy thấy đợc
tầm quan trọng của việc tuyển chọn những ngời thực sự có năng lực vào đội ngũ quản lý này
đồng thời phải luôn không ngừng nâng cao trình độ của đội ngũ này......................................17
..........................................................................................................................................22

24



×