Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.16 KB, 11 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH- MARKETING
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHÓA: 12D
LỚP HP: 1311101001614
THUYẾT TRÌNH
MÔN
TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG 4:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
2013
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
CÂU HỎI:
1. Trình bày những quan điểm, luận điểm của Hồ Chí Minh về ĐCS Việt Nam.
2. Chọn 5 luận điểm phân tích nội dung, ý nghĩa trong Cách mạng Giải phóng dân tộc và
trong điều kiện hiện nay.
TRẢ LỜI
A. Những quan điểm của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam
I. VỀ VAI TRÒ, BẢN CHẤT CỦA ĐCSVN
1. Sự ra đời của ĐCSVN
Quan điểm của Hồ Chí Minh: ĐCSVN ra đời là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-
Lênin và phong trào yêu nước.
Khi đề cập đến sự ra đời củaĐCSVN, Hồ Chí Minh còn kể đến yếu tố thứ ba, đó là
phong trào yêu nước. Đây là một quan điểm quan trọng, là sự phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác – Lênin trên cơ sở thực tiễn cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh về sự hình
thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh thấy được những đặc điểm của PTYN có ảnh hưởng đến sự ra đời của
Đảng
+ Có vị trí to lớn trong lịch sử dựng nước và giữ nước, là giá trị văn hóa tốt đẹp
trường tồn của dân tộc.


+ Kết hợp chặt chẽ với phong trào công nhân.
+ Thuận lợi cho thực hiện liên minh công- nông, trở thành đội quân chủ lực.
+ Phong trào yêu nước của trí thức thúc đẩy sự kết hợp của phong trào công nhân
và phong trào yêu nước chống Thực dân Pháp.
2. Vai trò của Đảng
Quan điểm của Hồ Chí Minh: ĐCSVN đóng vai trò lãnh đạo lực lượng Cách mạng,
là nhân tố cơ bản, đầu tiên đảm bảo cho cách mạng giành thắng lợi.
Về vai trò của Đảng, Người chỉ ra rằng: “Trước hết phải có Đảng cách mệnh để
trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và
giai cấp vô sản ở mọi nơi.”
“Muốn khỏi đi lạc phương hướng quần chúng phải có Đảng lãnh đạo để nhận rõ
tình hình, đường lối và định phương châm cho đúng.”
“Cách mạng là một cuộc đấu tranh gian khổ, lực lượng địch rất mạnh muốn thắng
lợi thì cần phải có tổ chức chặt chẽ, chí khí phải kiên quyết. Vì vậy, phải có Đảng để tổ
chức và giáo dục nhân dân thành một đội quân thật mạnh, để đánh đổ kể địch, tranh lấy
chính quyền.”
Từ đó Người kết luận rằng Đảng Cộng sản là nguyên nhân cơ bản, đầu tiên đảm bảo
cho Cách mạng giành thắng lợi.
3. Bản chất của Đảng
Quan điểm của Hồ Chí Minh: “Đảng là Đảng của giai cấp lao động mà cũng là
Đảng của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”(1961). Đảng mang bản chất giai cấp công
nhân và mang tính nhân dân sâu sắc.
Từ quy luật hình thành và phát triển đảng, Hồ Chí Minh đã đi đến luận điểm Đảng
Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân đồng thời là Đảng của cả dân tộc Việt
Nam, Bác viết: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của cả dân tộc là một. Chính vì Đảng là Đảng của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động cho nên nó phải là Đảng của cả dân tộc Việt Nam”(2/1951).
Hồ Chí Minh chỉ rõ bản chất giai cấp công nhân của Đảng:
+ Tính tiên tiến: Đảng là đội tiên phong và ưu tú nhất cuả dân tộc, tiên phong trong
hoạt động lí luận và thực tiễn, lãnh đạo toàn dân thực hiên nhiệm vụ giải phóng dân tộc

tiến lên xã hội chủ nghĩa, mang về lợi ích cho toàn dân.
+ Tính triệt để cách mạng: Đảng là tham mưu chiến đấu kiên cường dũng cảm và
triệt để cách mạng nhất, các Đảng viên phải tích cực rèn luyện để suốt đời phấn đấu cho
độc lập dân tộc, cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và cho lợi ích của nhân dân.
+ Tính tổ chức cao: Đảng là một tổ chức chặt chẽ nhất,là đại biểu trung thành cho
lợi ích của toàn dân, lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm cơ bản, có kỉ luật nghiêm
minh.
+ Đảng mang bản chất quốc tế trong sáng: Đảng kết hợp nhuần nhuyễn giữa nhiệm
vụ của mình với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng, đóng góp vào tiến bộ xã hội trên
thế giới.
Tính dân tộc: Đảng phân đấu cho lợi ích toàn dân tộc, Đảng viên có xuất thân từ các
tầng lớp khác nhau song họ là những người yêu nước,những người con ưu tú của dân tộc.
Đảng dựa trên cơ sở xã hội rộng lớn là cả dân tộc Việt Nam.
4.Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền:
a) Đảng lãnh đạo nhân dân giành chính quyền trở thành Đảng cầm quyền
Hồ Chí Minh khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cách mạng chân chính,
mang bản chất của giai cấp công nhân. Đảng không phải là một tổ chức tự thân và vì vậy,
mục đích, tôn chỉ của Đảng là “ tận tâm”, ‘tận lực”, “phụng sự”, và “trung thành” với lợi
ích của dân tộc việt Nam; ngoài lợi ích của giai cấp của nhân dân và toàn thể dân tộc Việt
Nam, Đảng không có lợi ích nào khác.
Với đường lối chính trị đúng đắn, tổ chức chặt chẽ, Đảng đã lãnh đạo toàn dân tộc
giành chính quyền, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đó cũng là thời điểm
Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền.
b) Quan niệm của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền
Theo Hồ Chí Minh, “Đảng cầm quyền” là đảng tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng trong điều kiện Đảng đã lãnh đạo quần chúng nhân dân giành được quyền lực nhà
nước và Đảng trực tiếp lãnh đạo bộ máy nhà nước đó để hoàn thành sự nghiệp độ lập dân
tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Người xác định nội dung của Đảng cầm quyền:
+ Mục đích, lí tưởng: “phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, chủ nghĩa xã hội

hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới”
+ Đảng cầm quyền vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ trung thành của nhân
dân:
- “Đảng lãnh đạo”:
 Phải lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối
 Phải có trí tuệ, bản lĩnh, nhìn xa, trông rộng, có cương lĩnh, đường lối đúng đắn.
 Phải chăm lo tích cực mọi mặt đời sống nhân dân
 Phải có phương thức lãnh đạo đặc thù:
• Lãnh đạo bằng cương lĩnh, đường lối đúng đắn
• Lãnh đạo bằng giáo dục, thuyết phục
• Lãnh đạo qua tấm gương sáng của Đảng viên
 Từ đó dân tin tưởng và ủng hộ Đảng.
- “Đảng là đầy tớ”:
 Phải trung thành với nhân dân
 Phải lấy lợi ích của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu, phải lắng nghe và chịu sự chỉ bảo
của nhân dân
 Phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư để làm sao “bao nhiêu quyền lực đều ở nơi
dân, bao nhiêu lợi ích là vì dân
 Phải có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ giỏi, để phục vụ tốt
nhân dân.
 Theo Hồ Chí Minh, thực hiện tốt 2 nội dung trên sẽ nâng cao uy tín và năng lực lãnh đạo
của Đảng.
+ Đảng cầm quyền, dân là chủ: “Đảng không có dân không có lực lượng,dân không
có Đảng không có người chỉ đường dẫn lối”. Để làm được điều đó Đảng cần có đường
lối đúng đắn phù hợp, phương thức hoạt động sâu sát quần chúng, có cơ chế dân làm chủ,
thực hiện triệt để nguyên tắc tập trung dân chủ và phát huy được thế mạnh của nhân dân
theo cơ chế dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và được hưởng mọi thành quả đạt
được.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch, vững
mạnh

1. Xây dựng Đảng là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng
Quan điểm của Hồ Chí Minh :
-Xây dựng Đảng là một nhiệm vụ tất yếu, thường xuyên.
- Là một nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài.
Người chỉ ra vai trò của công tác xây dựng Đảng thường xuyên:
+ Khi cách mạng gặp khó khăn: xây dựng Đảng để cán bộ, đảng viên củng cố lập
trường quan điểm, bình tĩnh, sáng suốt, không tỏ ra bị động, lúng túng, bi quan.
+ Khi cách mạng trên đà thắng lợi, cũng cần đến xây dựng Đảng để xây dựng
những quan điểm, tư tưởng cách mạng khoa học, ngăn ngừa chủ quan, tự mãn, lạc quan
tếu và rơi vào căn bệnh “kiêu ngạo cộng sản” – theo cách nói của Lênin.
- Theo Hồ Chí Minh , xây dựng Đảng là vấn đề có tính quy luật, nó xuất phát từ 4 căn cứ:
+ Một là, sự nghiệp cách mạng của Đảng là liên tục, không ngừng, qua nhiều thời
kỳ, nhiều giai đoạn. Đặc biệt, mỗi bước chuyển của cách mạng, thường nảy sinh khó
khăn, phức tạp mới.
 Xây dựng Đảng để Đảng viên vững vàng về chính trị, tư tưởng, để ĐCS luôn ngang tầm
với yêu cầu và nhiệm vụ mới, làm tròn tách nhiệm trước giai cấp và dân tộc.
+ Hai là, sống trong xã hội, Đảng viên cũng chịu tác động của quan hệ xã hội. Nhất
là trong điều kiện nước ta, tàn dư xấu của xã hội cũ còn nhiều.
 Xây dựng Đảng nhằm tạo sức “đề kháng” để ngăn cái xấu “ thẩm thấu” vào Đảng viên.
+ Ba là, xây dựng Đảng để:
• Mỗi Đảng viên luôn giữ được phẩm chất đạo đức cách mạng.
• ĐCS luôn xứng đáng là tổ chức đại biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và
thời đại
+ Bốn là, xây dựng Đảng để đẩy lùi mặt trái của quyền lực.
Bác thấy được rằng quyền lực có tính 2 mặt:
• Nó góp phần cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới khi người nắm quyền lực có phẩm chất đạo
đức
• Nó có khả năng phá hoại khi người nắm quyền lực suy thoái đạo đức  tranh giành
quyền lực, lộng quyền, lạm quyền, đặc quyền, đặc lợi,
 Hạn chế “ lầm lẫn” giữa sự ủy quyền của dân, của Đảng thành “quyền lực cá nhân”

 Đẩy lùi mặt trái của quyền lực.
Bác đã viết “ Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người ngày hôm qua là vĩ đại
không nhất thiết hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng
dạ không còn trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
Người lưu ý rằng:
- Công tác xây dựng Đảng cần thực hiện xây đi đôi với chống. Xây dựng cái mới, tiến bộ.
Chống cái lạc hậu bảo thủ. Trong đó xây là cái cơ bản lâu dài.
- Phải làm cho Đảng thật sự trong sáng, vững mạnh, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân
dân.“Phải giữ gìn sự đoàn kết thống nhất của Đảng như giữ gìn con ngươi của con mắt
mình”.
- Chỗ nào chỉnh được thì chỉnh,”cái gì” không chỉnh được thì phải “đốn” bỏ để Đảng càng
trong sạch và vững mạnh hơn nữa.
2. Nội dung công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
2.1 Về tư tưởng, lý luận
Quan điểm của Hồ Chí Minh: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm nòng
cốt”.Trong đó, ĐCSVN lấy chủ nghĩa Mác-Lênnin “làm cốt”.
Bác viết: “Đảng nào có lý luận cách mệnh tiên phong dẫn lối đưa đường thì Đảng
đó mới làm nổi vai trò chiến sỹ tiên phong”. “Đảng không có chủ nghĩa như người
không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”.
Người xác định: Chủ nghĩa cách mạng nhất, đúng đắn nhất, chắc chắn nhất, khoa
học nhất là chủ nghĩa Mác-Lênin.
Theo Người, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nòng cốt không nghĩa là giáo điều theo
từng câu, từng chữ mà là nắm vững tinh thần, lập trường,quan điểm và phương pháp của
chủ nghĩa Mác-Lênin.
2.2 Về chính trị
Quan điểm của Hồ Chí Minh: Vấn đề cốt tử, quyết định sự tồn tại và phát triển của
Đảng là phải đề ra đường lối chính trị đúng, đó là sự vận dụng và phát triển sáng tạo lý
luận Mác-Lênin phù hợp với thực tiễn, đáp ứng nhu cầu của quần chúng và được thực
tiễn khẳng định.
- Bác xác định ĐCSVN cầm quyền vai trò định hướng phát triển cho toàn xã hội

+ Đề ra cương lĩnh, đường lối chiến lược phương hướng phát triển kinh tế - xã hội.
+ Đề ra sách lược, quy định mục tiêu phát triển xã hội lâu dài cũng như từng giai đoạn.
Có đường lối chính trị đúng còn cần phải đề ra nhiệm vụ cụ thể có tính hiện thực
phù hợp với nhiệm vụ trước mắt và mục tiêu lâu dài.
2.3 Về tổ chức bộ máy và công tác cán bộ
a. Về hệ thống tổ chức:
Quan điểm của Hồ Chí Minh: Sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ tổ chức vì vậy hệ
thống tổ chức của Đảng phải thật sự chặt chẽ, có tính kỉ luật cao, mỗi tổ chức phải nhận
thức và thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình.
Chi bộ Đảng là hạt nhân lãnh đạo ở cơ sở, rèn luyện Đảng viên, là cầu nối giữa
Đảng và quần chúng nên Bác rất quan tâm.
Ban chấp hành Trung ương Đảng là cơ quan đầu não, có vai trò vô cùng quan trọng
vì vậy đượcNgười đặc biệt quan tâm.
b. Các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng:
Quan điểm của Hồ Chí Minh: có 5 nguyên tắc cần được thực hiện:
i) Tập trung dân chủ: là nguyên tắc tổ chức cơ bản để phát huy tính năng động, chủ động,
sáng tạo và thống nhất của Đảng để đạt tới chân lí. Dân chủ là cơ sở của tập trung, tập
trung trên cơ sở dân chủ.
ii) Tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách:
• Tập thể lãnh đạo: góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người, thì vấn đề được thấy
rõ ở mọi mặt  vấn đề được giải quyết chu đáo, khỏi sai lầm.
• Cá nhân phụ trách: “Việc gì đã được đông người bàn bạc kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định rõ
ràng rồi, thì cần phải giao cho 1 người hoặc 1 nhóm ít người phụ trách theo kế hoạch đó
mà thi hành. Như thế mới có chuyên trách, công việc mới chạy. Nếu không có cá nhân
phụ trách thì sẽ sinh cái tệ người này ủy cho người kia, người kia ủy cho người nọ, kết
quả không ai thi hành, không dám chịu trách nhiệm”
iii) Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng. Là vũ khí rèn luyện Đảng, làm
phần tốt trong mỗi con người, mỗi tổ chức tốt lên, phần xấu trong mỗi con người, mỗi tổ
chức mất dần, vươn tới chân, thiện, mỹ. Cần phải thực hiện thường xuyên với tinh thần
trung thực, chân thành và cầu thị.

iv) Kỷ luật nghiêm minh và tự giác: tạo nên sức mạnh vô địch của Đảng, mọi Đảng viên đều
bình đẳng, “mỗi Đảng viên cần phải làm kiểu mẫu phục tùng kỉ luật ”.
v) Đoàn kết khối thống nhất trong Đảng: đoàn kết là sức mạnh, là nhiệm vụ hàng đầu, là
nguyên tắc quan trọng của tổ chức Đảng dựa trên cơ sở hệ tư tưởng Mác-lênin.
c. Cán bộ và công tác cán bộ của Đảng
Quan điểm của Hồ Chí Minh:
+ Cán bộ: là dây chuyên của bộ máy tổ chức, mắt khâu trung gian giữa Đảng,Nhà
nước và nhân dân, là gốc của công việc
Cán bộ cần phải có tài, phẩm chất và năng lực.
+ Công tác cán bộ: là công tác gốc của Đảng cần phải làm tốt, chăm lo xây dựng đội
ngũ cán bộ.
Nguyên tắc: Đảng phải lãnh đạo quản lí và chăm lo xây dựng dội ngũ cán bộ cho cả
hệ thống chính trị.
Nội dung cần làm tốt: tuyển chọn,đào tạo, đánh giá, sử dụng, bố trí, đề bạt, khen
thưởng, kỉ luật và thực hiện chính sách cán bộ.
2.4 Về đạo đức
Quận điểm của Hồ Chí Minh: Một Đảng chân chính cách mạng phải có đạo đức.
Đạo đức tạo nên uy tín, sức mạnh của Đảng, giúp Đảng đủ tư cách lãnh đạo, hướng dẫn
quần chúng nhân dân.
Bác căn dặn mỗi Đảng viên phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, trung với Đảng,
hiếu với dân, cần,kiệm,liêm,chính, chí công vô tư, yêu thương con người và sống có tình
nghĩa với nhau.
Người lưu ý giáo dục đạo đức cách mạng cho Đảng viên phải gắn liền với cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa cá nhân.
B. 5 luận điểm phân tích
1. “Đảng là Đảng của giai cấp lao động mà cũng là Đảng của dân tộc, không thiên tư,
thiên vị”.
Nội dung: ĐCSVN là Đảng của giai cấp công nhân,nhân dân lao động đồng thời là
Đảng của dân tộc VN, đại diện cho lợi ích toàn dân tộc không chỉ riêng của giai cấp công
nhân.

Về mặt bản chất giai cấp của Đảng thì chỉ có một, đó là Đảng mang bản chất giai
cấp công nhân, nhưng cơ sở xã hội của Đảng là toàn dân tộc. Mọi công dân Việt Nam –
chớ không phải chỉ có giai cấp công nhân- qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được
nhân dân tín nhiệm đều có thể được xét để kết nạp vào Đảng.
Đảng có trách nhiệm to lớn không chỉ đối với giai cấp công nhân, mà còn đối với
nhân dân lao động và cả dân tộc. Trách nhiệm này vừa có tính chiến lược lâu dài, là xây
dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, công bằng,
văn minh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới, vừa mang tính lợi ích
cụ thể.
- Khi nói Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời là Đảng của dân tộc, Người đã
hiều rõ vai trò lãnh đạo cách mạng của giai cấp công nhân, đồng thời phê phán những
quan điểm sai trái như không thấy rõ vai trò và sứ mạng lịch sử của giai cấp công nhân,
hoặc chỉ thiên về công nông mà không thấy rõ vai trò của các tầng lớp, giai cấp khác đi
với công nông tạo thành sức mạnh to lón của khối đại đoàn kết toàn dân.
Theo Hồ Chí Minh, cái quyết định giai cấp công nhân của Đảng không phải chỉ ở
số lượng Đảng viên xuất thân từ công nhân, mà cơ bản là ở nền tảng tư tưởng của Đảng
và chủ nghĩa Mác-Lênin; ở mục tiêu, đường lối của Đảng thực sự vì độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, vì sự nghiệp giái phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con
người; ở vấn đề Đảng nghiêm túc tuân thủ những của Đảng kiểu mới của giai cấp công
nhân.
Ý nghĩa:
Trong CMGPDT
Nói Đảng của dân tộc Việt Nam, đặc biệt trong điều kiện Đảng cầm quyền, làm
tăng sự gắn bó mật thiết của Đảng với toàn thể quần chúng nhân dân, dựa vào nhân dân
để xây dựng Đảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng.
Đảng cũng xác định được nhiệm vụcủa mình là đối với toàn dân, không chỉ riêng
của giai cấp công nhân, vì lợi ích của toàn dân mà đấu tranh.
Trong điều kiện hiện nay:
Đảng là của dân tộc Việt Nam, vì vậy đường lối phát triển đất nước của Đảng phải
vì lợi ích chung của dân tộc, không phải vì mang bản chất công nhân mà bỏ qua lợi ích

của các giai cấp khác, mang lại công bằng cho xã hội.
Tuy Đảng mang bản chất của giai cấp công nhân nhưng cũng là của cả dân tộc Viêt
Nam vậy nên Đảng được sự ủng hộ của toàn dân, có được sức mạnh to lớn, giữ vững
được vị trí cầm quyền của mình.
2. Quan niệm về Đảng cầm quyền: đảng cầm quyền vừa là người lãnh đạo,vừa là đầy
tớ trung thành của nhân dân.
Nội dung: xuất phát từ mục tiêu, lý tưởng của Đảng, Đảng ta là Đảng lãnh đạo cũng
là đầy tớ của nhân dân, toàn tâm toàn ý phụng sự và phục vụ nhân dân, trung thành với
Tổ quốc.
Bác Hồ nói: “Đảng cầm quyền”, nhưng dân là chủ. Mọi “quyền hành và lực lượng
đều ở nơi dân”. Người đặc biệt quan tâm đến vấn đề này, cho đây là điểm khác biệt giữa
Đảng Cộng sản và các đảng khác trong cầm quyền. Người luôn nhấn mạnh vấn đề quyền
lực thuộc về dân là vấn đề nguyên tắc, là bản chất chế độ mới mà Đảng ta, nhân dân ta ra
sức xây dựng.
Bác Hồ dạy: “Dân chủ là thế nào? Là dân làm chủ. Dân làm chủ thì chủ tịch, bộ
trưởng, thứ trưởng, ủy viên này khác làm gì? Làm đầy tớ. Làm đầy tớ cho nhân dân, chứ
không phải là làm quan cách mạng”
Trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, theo Hồ Chí Minh, Đảng phải vừa là
người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Hai mặt lãnh đạo và
đầy tớ không tách rời nhau, không đối lập nhau. Người nhấn mạnh: Lãnh đạo có nghĩa là
làm đầy tớ.
Đảng cầm quyền lại càng phải ý thức thật sâu sắc mình là đầy tớ nhân dân, chứ
không phải người chủ của nhân dân, tự cho phép mình đứng trên dân, trên Nhà nước, trên
pháp luật. Đảng lãnh đạo Nhà nước là nhằm xây dựng một Nhà nước thực sự của dân, do
dân và vì dân.
Là đầy tớ trung thành của nhân dân, Đảng không có quyền lợi gì của riêng mình,
ngoài quyền lợi của giai cấp, của dân tộc. Đảng không ở trên dân, cũng không ở ngoài
dân, mà ở trong dân, trong lòng dân. Đảng cũng phải lấy dân làm gốc.
Ý nghĩa:
Trong CMGPDT:

Làm tốt vai trò là một Đảng cầm quyền, là “người đầy tớ thật trung thành” của nhân
dân, Đảng ta đang tăng cường hơn nữa niềm tin của dân vào Đảng tăng cường mối liên
hệ mật thiết với dân, vì thế nhân dân đi theo Đảng.
Đảng xác định làm cách mạng tất cả vì nguyện vọng của nhân dân.
Trong điều kiện hiện nay:
Đảng cần phải xác định đúng trách nhiệm, thái độ của mình với nhân dân, không ỷ
mình là Đảng viên mà có quyền; làm dân mất lòng tin.
Nhân dân muốn thực sự bảo đảm được quyền lực của mình, cần phải có sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản. Mỗi người dân phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của
mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, thực
hiện được quyền làm chủ của mình.
Đảng phải củng cố cái nền nhân dân, phải “lấy dân làm gốc” để giữ vững được
vai trò lãnh đạo.
Đảng xác định được nhiệm vụ cơ bản nhất là phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân,
phục vụ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.Ngoài ra, không còn có lợi ích nào khác.
Do đó, Đảng được “dân tin, dân phục, dân yêu”.
3. Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu để đưa cách mạng Việt Nam đến
thắng lợi.
Nội dung: Đảng có vai trò hết sức to lớn, vừa là người dẫn đường, vừa là chất keo
kết dính khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy được tối đa sức mạnh của lực lượng cách
mạng.
Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải
có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với
dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công,
cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”.
Hồ Chí Minh đã khẳng định, Đảng cộng sản Việt Nam là chính đảng của giai cấp
công nhân Việt Nam, là đội tiên phong của giai cấp công nhân, có khả năng đoàn kết “tập
hợp”, “lôi kéo” các tầng lớp nhân dân khác đứng lên làm cách mạng, bao giờ Đảng cũng
“tận tâm, tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân”, “trung thành tuyệt đối với lợi ích của
giai cấp, của nhân dân, của dân tộc”, “ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân

tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác”.
Ý nghĩa
Trong CMGPDT:
Bác nhận định sựlãnh đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng giải
phóng dân tộc và Đảng Cộng sản Việt Nam là người duy nhất có thể thực hiện được
nhiệm vụ đó nên mọi người cùng đồng lòng hướng về Đảng, Đảng tập hợp được đông
đảo quần chúng nhân dân đi theo mình.
Tổ chức Đảng nhận thức được tầm quan trọng của mình và luôn nghiêm túc giữ
vững lập trường tư tưởng để làm tốt vai trò nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội tạo ra sức mạnh to lớn của dân tộc trong đấu tranh cách mạng, giành thắng
lợi.
Trong điều kiện hiên nay:
Từ thực tiễn lịch sử chứng minh được vai trò của Đảng, nên trong thời kì đổi mới
Đảng cộng sản là lực lượng duy nhất có thể tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân
để bảo vệ thành quả cách mạng. Có được khả năng đó là do Đảng có được những người
tiên tiến nhất của giai cấp và dân tộc, trung thành, kiên định với lợi ích của dân tộc, luôn
đi đầu, sẵn sàng hy sinh vì nền độc lập dân tộc nên được nhân dân tin và đi theo.
Để hoàn thành tốt vai trò lớn lao và khó khăn của mình, Đảng cần giữ vững và tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, phải xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức; thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, đáp ứng yêu cầu của tình
hình thực tế, đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đề ra.
4. Để Đảng tồn tại và phát triển thì cần phải luôn xây dựng và rèn luyện Đảng.
Nội dung:
Một là, Xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận: Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lê-nin
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động.
Hai là, thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng.
Ba là, xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân.
Bốn là, quan tâm xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài.
Năm là, thường xuyên chỉnh đốn và đổi mới Đảng
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần thường xuyên xây dựng, rèn luyện Đảng, bởi lẽ,

bên cạnh số đông đảng viên ưu tú, thì vẫn còn không ít đảng viên chưa thật sự trong sạch,
vững mạnh. Chỉnh đốn để gột rửa tất cả những lỗi lầm, sai trái. Trước lúc đi xa, trong Di
chúc, Người căn dặn: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi
đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho
mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân” . Người cũng từng nhấn mạnh: “Một dân tộc,
một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất
định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không
trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân” .
Người chỉ rõ: “Muốn hoàn thành tốt mọi việc, thì toàn thể đảng viên và cán bộ phải
chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và chính sách của Đảng. Và muốn như vậy, thì các
cấp uỷ đảng phải tăng cường công tác kiểm tra. Vì kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo
dục đảng viên và cán bộ làm trọn nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương
mẫu tốt cho nhân dân. Do đó mà góp phần vào việc củng cố đảng về tư tưởng, về tổ
chức”.
 Rèn luyện, xây dựng và đổi mới là nhằm làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh
cả về ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên không
ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực trước những yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng.
Ý nghĩa:
Trong CMGPDT:
“Chỉnh đốn lại Đảng” là sự sửa sang, sắp đặt lại cho đúng nguyên tắc, cho có nề nếp
về bộ máy tổ chức, các nguyên tắc, quy tắc hoạt động, về đội ngũ cán bộ, đảng viên của
Đảng… để luôn phù hợp và luôn ngang tầm với những yêu cầu mới của mỗi giai đoạn
cách mạng, mỗi khi cách mạng chuyển giai đoạn.Thực tiễn cách mạng nước ta đã cho
thấy, những cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng thời kỳ trước đây luôn giúp Đảng
tự thân nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Đảng đã nhận định, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là vấn
đề cốt tử, liên quan trực tiếp đến sự tồn tại, phát triển của Đảng và có tính quyết định đối
với mọi thành tựu của cách mạng nước ta.
Rèn luyện Đảng, làm cho Đảng trong sạch vững mạnh góp phần nâng cao tinh thần
đoàn kết giữa nội bộ Đảng, giữa Đảng với nhân dân, từ đó tạo ra khối sức mạnh to lớn,

chống lại kẻ thù.
Trong điều kiện hiện nay
Thường xuyên rèn luyện chỉnh đốn Đảng giúp nhìn nhận rõ khuyết điểm, từ đó dân
chủ bàn bạc để tìm đúng căn nguyên và chỉ ra hướng khắc phục, Đảng ta đã đề ra chủ
trương nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng để Đảng ngang tầm nhiệm
vụ trong thời kỳ cách mạng mới.
Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, đường lối, thông qua các đảng viên của mình để
đưa đường lối chính sách vào thực tiễn, Đảng lãnh đạo bằng công tác vận động thuyết
phục quần chúng, bằng sự gương mẫu của đảng viên. Vì vậy, nâng cao năng lực lãnh đạo
của Đảng là nâng cao năng lực xây dựng đường lối, chủ trương; vạch ra những mục tiêu
cơ bản của từng giai đoạn cách mạng; định hướng nội dung hoạt động cho toàn bộ hệ
thống chính trị; nâng cao năng lực vận động quần chúng, động viên tập hợp quần chúng
làm nên sức mạnh tổng hợp để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị do Đảng đề ra;
là cao vai trò của nhà nước, làm cho nhà nước thực sự là cơ quan quyền lực của nhân,
nhà nước của dân, do dân, vì dân, đồng thời phát huy tính tích cực của các đoàn thể quần
chúng; là kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện các nghị quyết của Đảng, tổng kết thực tiễn, bổ
sung và điều chỉnh những chủ trương chưa sát thực tế; là làm tốt công tác giáo dục chính
trị tư tưởng, thuyết phục, vận động quần chúng. Định ra đường lối cán bộ, chuẩn bị và
đào tạo cán bộ trong các cơ quan đảng; chuẩn bị cán bộ chủ chốt trong bộ máy nhà nước
và các đoàn thể nhân dân cũng là bộ phận thiết yếu của vấn đề nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch,
vững mạnh; giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên nâng cao phẩm chất, đạo đức cách
mạng; sống và làm việc theo pháp luật chính là nhằm nâng cao vai trò tiên phong, tăng
cường tính chất chính trị và phương pháp chính trị trong sự lãnh đạo của Đảng.
5. Mỗi Đảng viên phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, trung với Đảng, hiếu với dân,
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, yêu thương con người và sống có tình nghĩa
với nhau
Nội dung: Đảng và mọi Đảng viên cần phải luôn rèn luyện đạo đức của mình để
hoàn thành tốt nhiệm vụ nhân dân giao phó.

HCM khẳng định, Đảng viên phải có đạo đức cách mạng, đạo đức cách mạng là yếu
tố tạo nên uy tín của Đảng.
Hồ Chí Minh yêu cầu: Mọi công tác của Đảng phải luôn luôn đứng về phía quần
chúng,cán bộ, đảng viên phải có tinh thần yêu nước và cần kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư, phải luôn gắn bó máu thịt với quần chúng.
Người dạy: “Mỗi đồng chí phải ra sức học tập, rèn luyện, tu dưỡng, củng cố lập
trường giai cấp công nhân… phải tuyệt đối chấp hành đường lối chính sách của Đảng và
chính phủ… Dù cương vị nào, các đồng chí phải luôn gương mẫu, luôn luôn xứng đáng
là người đầy tớ trung thành tận tụy của nhân dân”.
Ý nghĩa
Trong cách mạng giải phóng dân tộc
Có đạo đức cách mạng thì người cán bộ mới được dân tin, dân phục, dân yêu, từ đó
thì người cán bộ mới có thể lãnh đạo được dân chúng làm cách mạng.
Trong điều kiên hiện nay
Cán bộ, đảng viên nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng; sống và làm việc theo pháp
luật chính là nhằm nâng cao vai trò tiên phong, tăng cường tính chất chính trị và phương
pháp chính trị trong sự lãnh đạo của Đảng.
Chỉ có nâng cao hiệu quả rèn luyện các phẩm chất ấy thì cán bộ, đảng viên mới làm
gương cho quần chúng, giữ vững được niềm tin của nhân dân với Đảnglà yêu cầu bức
thiết để thực hiện quá trình chỉnh đốn, làm Đảng trong sạch, vững mạnh.

×