Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

tiểu luận cao học đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng đối với nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội TIEU LUAN CHINH TRI HOC NANG CAO k18

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.15 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU

Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện; là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong
của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
mọi hành động của Đảng, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ
bản, thực hiện chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Trong hệ thống tổ
chức của Đảng, các tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là hạt nhân
chính trị lãnh đạo mọi mặt đời sống xã hội ở đơn vị cơ sở.
Sự lãnh đạo của Đảng có nghĩa là Đảng đề ra đường lối, chủ trương,
chính sách về các lĩnh vực của đời sống và bằng nhiều cách tác động vào các
tổ chức trong hệ thống chính trị, trong nhân dân để biến những đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng thành hiện thực. Như vây, sự lãnh đạo của đảng
bao gồm cả nội dung lãnh đạo và công tác tổ chứcthực hiện nội dung đó,
trong đó có phương thức lãnh đạo
Muốn lãnh đạo tốt không những cần có nội dung lãnh đạo đúng mà còn
phải có phương thức lãnh đạo phù hợp. Phương thức lãnh đạo là hệ thống
các hình thức, các phương pháp Đảng vận dụng để tác động vào hệ thống
chính trị- xã hội nhằm đạt được mục tiêu nội dung lãnh đạo của Đảng.
Khi chưa giành được chính quyền thì sự lãnh đạo của Đảng chủ yếu
trên một số lĩnh vực như chính trị, quân sự, ngoại giao; sau khi Đảng giành
được chính quyền thì sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện trên nhiều lĩnh vực
như: kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học…Đặc biệt, sau khi thành lập Nhà
nước đòi hỏi Đảng phải xác định được vai trò, nội dung và phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.

1



Nội dung lãnh đạo của Đảng thông qua đường lối, chủ trương, chính
sách về các lĩnh vực của đời sống xã hội, tư tưởng…Khi có đường lối lãnh
đạo đúng đắn và phương thức lãnh đạo phù hợp, đảm bảo vai trò, chất lượng
và hiệu quả lãnh đạo của Đảng. Thực tế cho thấy, khi Đảng có đường lối
đúng, có cơ cấu tổ chức hợp lý mà không có phương thức lãnh đạo phù hợp
thì vai trò và hiệu quả lãnh đạo của đảng bị lu mờ, thậm chí còn có thể làm
chệch hướng cả đường lối và chủ trương của Đảng.
Phương thức lãnh đạo của Đảng phải luôn được đổi mới, hoàn thiện
phù hợp với hoàn cảnh, tình hình cách mạng của từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Trong giai đoạn hiện nay, đất nước đang đẩy nhanh sự nghiệp đổi mới toàn
diện và hội nhập kinh tế thế giới; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. việc nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng và hoạt động của hệ thống
chính trị đòi hỏi phải đảng phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn, tiếp tục đỏi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng, từng bước đáp ứng yêu cầu đòi hỏi khách
quan của công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.

NỘI DUNG

Nhận thức rõ yêu cầu cấp bách của vấn đề đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng nhằm đáp ứng đỏi hỏi mang tính khách quan của thời kỳ đổi
2


mới, Đại hội Đại biểu toàn Quốc lần XI (01/2011) của Đảng, tiếp tục nhấn
mạnh: “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng” (3, tr.264). Để
tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng một cách có hiệu quả, đòi
hỏi Đảng phải thường xuyên nắm vững và quán triệt sâu sắc các quan điểm
chỉ đạo, phải làm sáng tỏ những yếu tố có tính khách quan và phải phù hợp
với từng nội dung, đối tượng cần lãnh đạo.
1. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về đổi mới phương thức

lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội
1.1. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Đảng cộng sản Việt Nam là một Đảng cầm quyền, lãnh đạo toàn diện
đời sống kinh tế- xã hội, nhưng Đảng lại là một thành viên trong hệ thống
chính trị; Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng đường lối chính trị, bằng
Chỉ thị, nghị quyêt của Đảng; quyền lực của Đảng khác với quyền lực Nhà
nước. Sự khác nhau đó quy định những điểm khác biệt về chức năng, nhiệm
vụ, phương thức và phương pháp hoạt động giữa Đảng và Nhà nước, giữa
Đảng với các tổ chức chính trị - xã hội khác.
Trong nhân thức và hành động cần phân biệt rõ ràng những khác biệt
giữa vai trò lãnh đạo của Đảng và vai rò quản lý điều hành của Nhà nước, đặc
biệt là phải kiên quyết, mạnh dạn chuyển từ đổi mới nhận thức sang đổi mới
tổ chức và hoạt động của Đảng và Nhà nước; kiên quyết tránh tình trạng Đảng
bao biện làm thay, ôm việc nhỏ, bỏ việc chính “Hành chính hoá hoạt động của
Đảng” và “Hình thức hoá hoạt động của Nhà nước” làm cho Đảng làm thay
vai trò quản lý điều hành của Nhà nước thì không phát huy được quyền lực
của Nhà nước, vừa thụ động vừa trì trệ, xơ cứng trong quản lý điều hành hoạt
động của toàn xã hội, trong khi đó Đảng cũng không phát huy đượcvai trò
lãnh đạo của mình. Thước đo hiệu quả vai trò lãnh đạo của Đảng phải được
thể hiện đường lối, chỉ thị, nghị quyết và được hiện thực hoá ở hiệu lực quản
lý, điều hành của Nhà nước. Để đảm bảo hoạt động quản lý, điều hành của
3


mình, Nhà nước phải dùng đến sức mạnh của tổ chức và hành chính cũng như
sức mạnh cưỡng chế của hệ thống Luật pháp. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước được thể hiện trên một số nội dung sau:
Một là: Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, Nghị quyết, bằng
công tác tổ chức cán bộ và kiểm tra, giám sát việc Nhà nước triển khai, thực

hiện đường lối, nghị quyết đó? thông qua các tổ chức của Đảng trong các cơ
quan Nhà nước và thông qua các cơ quan tham mưu, giúp việc của các cấp uỷ
Đảng. Mục tiêu lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là phát huy vai trò của
Nhà nước trong việc thể chế hoá, cụ thể hoá và triển khai tổ chức thực hiện có
hiệu quả những quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với sự phát triển kinh tế, văn
hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại…. Mục tiêu quản lý của Nhà
nước là biến toàn bộ những quan điểm, đường lối, nghị quyết của Đảng trở
thành hiện thực và có hiệu quả trong đời sống xã hội.
Hai là: Mục tiêu lãnh đạo của Đảng và mục tiêu quản lý của Nhà nước
có nội dung tương tự như nhau, nhưng nội dung phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước và nội dung quản lý của Nhà nước nhằm đạt mục tiêu
đó lại có nhiều điểm khác nhau. Đảng không trực tiếp giải quyết các công
việc của Nhà nước. Nhà nước bằng quyền lực của mình có nhiệm vụ “bảo
đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân,
nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân,
xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội, mọi người có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.
Ba là: Hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng khác với hệ thống tổ chức
bộ máy của Nhà nước. Hiện nay, cả hai hệ thống này đều đang đứng trước
yêu cầu cấp bách là phải đổi mới theo hướng phát huy dân chủ- Đảng cầm
quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa (XHCN) “của dân,
do dân và vì dân”; trong sạch, vững mạnh, chống quan liêu, tham nhũng, lãnh
phí có hiệu quả. Đảng đổi mới phương thức lãnh đạo của mình đối với Nhà
nước trên cơ sở Đảng tự chỉnh đốn Đảng, phát huy dân chủ trong Đảng, “Phải
4


kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng ở tất cả các cấp từ Trung ương đến cơ sở”
theo hướng tinh gọn và hoạt động có hiệu quả cao, thể hiện thật rõ tính đặc
thù của lãnh đạo chính trị. Sử dụng các chuyên gia giỏi vào công việc được

chuyên môn hoá là một trong những cách tốt nhất để khắc phục tình trạng bộ
máy cồng kềnh- “thừa” cán bộ mà lại “thiếu” người làm việc, như tình hình
đang diễn ra hiện nay.
Bốn là: Đòi hỏi cấp bách hiện nay đối với Nhà nước trên con đường
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là xây dựng một hệ thống
pháp luật đồng bộ, đẩy nhanh việc cải cách nền hành chính Nhà nước bảo
đảm một bộ máy trong sạch, vững mạnh, hiệu lực và hiệu quả với đội ngũ
công chức được đào tạo cơ bản, tinh thông chuyên môn nghiệp vụ, tận tuỵ
mẫn cán, am hiểu và tôn trọng pháp luật, có chế độ công vụ, kỷ luật và đạo
đức nghề nghiệp được đề cao, hết lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân
dân.
Năm là: Để bảo đảm thực hiện có hiệu quả phương thức lãnh đạo,
Đảng cần đổi mới về tổ chức bộ máy Đảng và Nhà nước cùng đội ngũ cán bộ,
đảng viên, công chức; nâng cao mặt bằng dân trí, nhất là tri thức Pháp luật;
nâng cao vai trò của các cơ quan chức năng, có năng lực thể chế hoá đường
lối, quan điểm của Đảng, tổ chức thực hiện pháp luật; nâng cao chất lượng
của các Ban xây dựng Đảng, nâng cao năng lực tham mưu, tư vấn trong việc
lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với các cơ quan Nhà nước tương ứng.
Sáu là: Tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
chính trị trong tình hình mới, nâng cao năng lực lãnh đạo, chất lượng và hiệu
quả thực tế của việc ban hành các nghị quyết, quyết định, xây dựng đội ngũ
cán bộ, đảng viên thực sự là đội ngũ tiền phong, gương mẫu trong sự nghiệp
đổi mới; mỗi cán bộ, đảng viên thực sự là hạt nhân lãnh đạo, là tấm gương có
sức vận động và tập hợp nhân dân trong việc triển khai và thực hiện các Chỉ
thị, nghị quyết cảu Đảng để đạt được mục tiêu đổi mới kinh tế, cải cách hành

5


chính, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, trong cải cách tư pháp, trong

thực hiện huy động sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân.
Bảy là: Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, những quan
hệ cơ bản, nhất là quan hệ lãnh đạo và quản lý, phải được thể chế hoá - cả về
quyền hạn lẫn trách nhiệm. Đảng vừa là người lãnh đạo hệ thống chính trị vừa
là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị đó. Đảng là người lãnh đạo
xây dựng Hiến pháp và Pháp luật nhưng Đảng cũng là một tổ chức chính trị,
một bộ phận hữu cơ của xã hội; do đó, trong tổ chức và hoạt động của mình,
Đảng phải tuân thủ đúng Hiến pháp và Pháp luật; đảng viên và các tổ chức
của Đảng không được đứng trên, đứng ngoài Pháp luật. Hơn nữa, sự hoạt
động của các tổ chức đảng và đảng viên không phải chỉ chịu sự kiểm tra, giám
sát của Nhà nước mà còn chịu sự kiểm tra, giám sát của quần chúng nhân dân
và các tổ chức chính trị- xã hội.
Nhu cầu thể chế hoá phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
nói chung và hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước nói riêng xuất phát từ đòi
hỏi khách quan của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa; xã
hội ngày càng phát triển, tổ chức hoạt động của bộ máy Nhà nước ngày càng
trở nên chuyên nghiệp, hiện đại, nhu cầu dân chủ hoá đời sống xã hội ngày
càng cao… Thể chế hoá vai trò và phương thức lãnh đạo của Đảng còn có ý
nghĩa đề cao trách nhiệm của Đảng bằng Pháp luật trước nhân dân. Nhưng
hiện nay, trong Hiến pháp chỉ mới ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước và xã hội nói chung (Điều 4). Do đó, các quan điểm chỉ đạo cơ bản
của Đảng về tổ chức bộ máy, nội dung và mục tiêu căn bản trong hoạt động
Nhà nước cần phải được thể chế hoá, công khai hoá và triển khai thực hiện
theo hệ chuẩn pháp luật đã xác định. Hệ thống quy phạm đó phải xác định rõ
thẩm quyền, phạm vi và trách nhiệm cũng như vai trò lãnh đạo của Đảng,
nhiệm vụ của Nhà nước trong việc triển khai thực hiện các chủ trương, đường
lối, quan điểm của Đảng.

6



Đại hội đại biểu toàn Quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định nội
dung đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, đồng thời
nêu rõ: “Tập trung rà soát, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng
đồng bộ hệ thống các quy chế, quy định, quy trình công tác để tiếp tục đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính
trị. Khắc phục tình trạng Đảng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo
của các cơ quan quản lý Nhà nước”. Đó chính là sự đổi mới nhằm phát triển
và tiếp tục hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
1.2. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã hội
Xuất phát từ thực tiễn hơn 80 năm qua, cùng với việc xác lập vai trò
lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội, vấn đề phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã hội mà đặc biệt là Mặt trận Tổ quốc
từng bước được đổi mới bằng việc xác định nguyên tắc Đảng vừa là tổ chức
thành viên của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) vừa là người lãnh đạo MTTQ.
Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo của mình thông qua công tác chính trị, tư
tưởng và tổ chức: Đảng lãnh đạo thông qua đường lối, chủ trương đúng đắn
được cụ thể hóa bằng các chỉ thị, nghị quyết, kết luận… nhằm định hướng
cho hoạt động của MTTQ phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng của
Đảng, của dân tộc trong từng thời kỳ; việc đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với các tổ chức chính trị- xã hội được thể hiện trên một số nội dung
cơ bản sau:
Một là: Đảng lãnh đạo các tổ chức chính trị- xã hội không phải là áp
đặt, chỉ thị, ra lệnh mà là hiệp thương dân chủ, là vận động để phát huy tính
tích cực chủ động của MTTQ và các thành viên. Đảng đem chủ trương,
đường lối của Đảng tuyên truyền, giới thiệu, bàn bạc, kiến nghị với MTTQ để
thỏa thuận, tạo ra sự nhất trí, tự giác, tự nguyện, phối hợp hành động giữa các
tổ chức và cá nhân thành viên MTTQ. Đảng chăm lo bồi dưỡng, đào tạo cán
bộ và giới thiệu đảng viên vào tổ chức bộ máy của MTTQ và các thành viên.

7


Đảng lãnh đạo MTTQ thông qua hoạt động của Đảng đoàn MTTQ, thông qua
đại diện cấp ủy tham gia MTTQ, thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên của
Đảng hoạt động trong tổ chức MTTQ và các thành viên.
Hai là: Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ
chức chính trị- xã hội còn được thể hiện qua việc chỉ đạo tăng cường công tác
“Dân vận chính quyền”, đa dạng hóa các hình thức tập hợp quần chúng, làm
chuyển biến về công tác vận động quần chúng của cả hệ thống chính trị. Các
cấp ủy cơ sở Đảng và đội ngũ đảng viên sâu sát được với cơ sở, gần dân, nắm
được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân hơn, là cầu nối mối quan hệ giữa
Đảng với nhân dân, niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng ngày
càng được tăng cường và củng cố.
Ba là: Tăng cường vai trò của MTTQ Việt Nam trong nhiệm vụ đoàn
kết toàn dân; củng cố các tổ chức, các tổ chức chính trị- xã hội trong MTTQ
để phát huy vai trò chủ động sáng tạo, tích cực của nhân dân tham gia vào
công việc của Nhà nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế, nâng cao đời sống, văn
hóa, tinh thần của nhân dân, cụ thể:
* Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phải là cánh tay đắc lực, là
đội hậu bị tin cậy của Đảng trong việc tổ chức và giáo dục thanh, thiếu niên
và nhi đồng thành những chiến sĩ tuyệt đối trung thành với sự nghiệp xây
dựng Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa cộng sản.
* Liên đoàn lao động phải trở thành trường học quản lý Nhà nước,
quản lý kinh tế và văn hóa của giai cấp công nhân, là chỗ dựa tin cậy của
người lao động, luôn đứng về phía người lao động để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người lao động.
* Hội Liên hiệp phụ nữ phải là lực lượng mạnh mẽ, giúp Đảng động
viên, tổ chức, lãnh đạo phụ nữ phát huy quyền bình đẳng, tích cực tham gia
vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, góp phần vào sự nghiệp “Công

nghiệp hoá, hiện đại hoá” đất nước, cùng toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta
đưa đất nước vững bước tiến lên Chủ nghĩa xã hội.
8


Như vậy, các tổ chức chính trị- xã hội cần có sự đổi mới về nội dung và
phương thức hoạt động sao cho phù hợp vớợi vận hành của nền kinh tế thị
trường, định hướng XHCN trong thời kỳ Đảng lãnh đạo toàn xã hội quá độ đi
lên Chủ nghĩa xã hội.
Bốn là: Thực hiện nguyên tắc dân chủ, từng bước phát huy dân chủ, ở
cơ sở, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là điểm quy tụ các chính sách,
biện pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về nền dân chủ XHCN được bổ sung, phát triển qua
quá trình hoạch định và lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước, qua các kỳ Đại
hội Đảng và các chỉ thị, nghị quyết, quyết định của Đảng trong gần 25 năm
qua đã tác động lớn đến nhận thức và hành động đến MTTQ và các tổ chức
thành viên và các cá nhân trong hệ thống chính trị- xã hội của nước ta.
Từ những nhận thức, tư tưởng ngày càng rõ và sâu về dân chủ và thực
hành dân chủ, về quyền làm chủ của nhân dân, về Nhà nước pháp quyền
XHCN, về mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước với nhân dân. Đảng Cộng
sản Việt Nam đã bổ sung những đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách
về đại đoàn kết toàn dân tộc, tiếp tục mở rộng thành viên của Mặt trận dân tộc
thống nhất; về chức năng, vị trí, vài trò của MTTQ và các đoàn thể nhân dân;
về đa dạng hóa các hình thức tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng
lớp nhân dân; về nâng cao chất lượng công tác dân vận của MTTQ và các
thành viên trong thời kỳ mới.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có một vị trí, vai
trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc; trong tập hợp,
vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, trong xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam XHCN; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính

đáng của nhân dân, đoàn viên, hội viên; tham gia xây dựng Đảng và Nhà
nước, tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, thực hiện giám sát xã hội,
phản biện xã hội.

9


Để phát huy dân chủ, Đảng ta, Nhà nước ta và cả hệ thống chính trị
phải hoạt động thật sự vì dân, gắn bó mật thiết với dân; các Chỉ thị, nghị
quyêt, quyết định của Đảng, các chính sách, chủ trương của Nhà nước đều
phải xuất phát từ nguyện vọng và trí tuệ của nhân dân; đảng luôn tôn trọng và
lắng nghe ý kiến của dân, chịu sự kiểm tra, giám sát thường xuyên của dân,
tạo mọi điều kiện thuận lợi cho dân được thực hiện và phát huy quyền làm
chủ của mình.
Năm là: Đảng đề ra đường lối, chủ trương cụ thể nhằm xây dựng và
phát huy tinh thần đại đoàn kết trong MTTQ Việt Nam. Vì MTTQ là một bộ
phận của hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. MTTQ có
sứ mệnh tập hợp, đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp nhân dân Việt Nam,
không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dân tộc, ý thức hệ khác nhau để cùng
phấn đấu vì mục đích chính trị chung. Chính do sự thỏa thuận, nhất trí với
nhau về mục tiêu chính trị cao quý mà các đoàn thể nhân dân, các cá nhân tiêu
biểu trong xã hội cùng với tổ chức chính trị công nhận vị trí, vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam; tự nguyện cùng nhau xây dựng Mặt trận dân
tộc thống nhất Việt Nam, hình ảnh cụ thể của đại đoàn kết toàn dân tộc. Giờ
đây tất cả mọi người Việt Nam yêu nước, yêu Tổ quốc Việt Nam mong muốn
và phấn đấu cho một nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân
chủ, văn minh”; xây dựng đất nước và con người Việt Nam mãi mãi được
“Độc lập - Tự do - Hạnh phúc" đều là thành viên của MTTQ Việt Nam.
Nghị quyết 07 Bộ Chính trị ngày 17/11/1993 về đại đoàn kết toàn dân
tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất đẫ khẳng định: “Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam cần được củng cố và mở rộng về tổ chức và hoạt động để thực
sự là một tổ chức để tập hợp khối đoàn kết toàn dân, nơi thể hiện nguyện
vọng và ý chí của các tầng lớp nhân dân, nơi thống nhất hành động giữa các
thành viên tham gia với chính quyền trong việc giải quyết mâu thuẫn trong
nội bộ nhân dân, trong việc thực hiện dân chủ, đổi mới xã hội, chăm lo và
bảo vệ lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân, tham gia xây dựng,
10


giám sát, bảo vệ chính quyền, tham gia quản lý xã hội, thực hiện các nhiệm
vụ văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng; tăng cường mối liên hệ mật thiết
giữa nhân dân, Đảng và Nhà nước”.
Trong thực tế, không có một phương thức lãnh đạo cứng nhắc. Tùy
theo đối tượng lãnh đạo mà có phương thức lãnh đạo thích hợp. Có phương
thức lãnh đạo chung cho toàn Đảng và phương thức lãnh đạo cụ thể từng cấp,
từng lĩnh vực đối với từng tổ chức. Có phương thức lãnh đạo của Đảng, đoàn
thể và xã hội đồng thời cũng có phương thức lãnh đạo trong nội bộ Đảng, nội
bộ các tổ chức chính trị xã hội. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải
tiến hành đồng bộ trên tất cả các phương diện.
Tuy nhiên, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ và các đoàn
thể chính trị - xã hội hiện nay vẫn còn một số mặt hạn chế, yếu kém. Tổ chức
và hoạt động của hệ thống Dân vận cấp ủy còn chậm được đổi mới, tăng
cường so với nhu cầu phát triển của đất nước nói chung và đối tượng cần tập
hợp, vận động nói riêng.
Nội dung, phương thức tập hợp, vận động quần chúng của MTTQ và
các đoàn thể còn hạn chế, nhất là đối với khu vực kinh tế tư nhân, doanh
nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng
có đông đồng bào có đạo. Ở nhiều nơi, cán bộ, đảng viên kém nhạy bén, chưa
đi sâu, đi sát quần chúng nhân dân, chưa chủ động nghiên cứu, dự báo, lường
trước được tình hình phức tạp có thể nảy sinh, những mâu thuẫn nội bộ, bất

hòa trong nhân dân để phản ánh, tham mưu, đề xuất kịp thời với cấp ủy Đảng,
chính quyền để có biện pháp giải quyết kịp thời. Ở không ít địa phương, Ban
Dân vận Cấp ủy, MTTQ, các đoàn thể nhân dân chưa làm tốt việc phối, kết
hợp chặt chẽ trong việc kiểm tra, giám sát các cấp, các ngành thực hiện đường
lối, chủ trương của đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác vận
động, tập hợp quần chúng nhân dân và những chủ trương, chính sách liên
quan thiết thực đến quyền và lợi chính đáng của nhân dân. Ở không ít địa
phương cấp ủy Đảng, chính quyền còn có biểu hiện coi nhẹ công tác Dân vận;
11


chưa quan tâm đầy đủ sâu sắt đến công tác Dân vận của Đảng và công tác
“Dận vận chính quyền”; chưa bố trí được những cán bộ, đảng viên có đủ
phẩm chất, năng lực làm công tác Dân vận; còn thiếu cac cơ chế, chính sách,
chế độ tạo điều kiện, khuyến khích, động viên cán bộ làm công tác Dân vận,
nhất là ở cơ sở.
Sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân có lúc có nơi còn chồng chéo, lúng túng; công tác phối, kết hợp có
lúc, có khi thiếu đồng bộ, chưa được thống nhất cao. Công tác tham mưu của
Ban Dân vận cấp ủy nhiều khi chưa thật trúng và chưa kịp thời; vẫn còn tình
trạng “khoán trắng” việc lãnh, chỉ đạo của cấp ủy Đảng đối với Mặt trận tổ
quốc và các đoàn thể chính trị cho Ban Dân vận cấp ủy. Cơ cấu tổ chức của
các cơ quan Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở các
cấp vẫn còn chồng chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ; thẩm quyền và
trách nhiệm của cá nhân, tổ chức chưa thật rõ ràng…chưa đáp ứng được yêu
cầu đòi hỏi của Đảng, Nhà nước trong tình hình mới.
2. Một số giải pháp nhằm đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
với Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội
Ngay sau khi giành được chính quyền (8/1945); Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã đặt vấn đề xây dựng, “cải tiến” cách lãnh đạo của Đảng. Tháng 10 năm

1947, Người viết cuốn Sửa đổi lối làm việc, chỉ rõ cách lãnh đạo của Đảng:
“1. Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng…
2. Phải tổ chức sự thi hành cho đúng
3. Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát cho đúng thì cũng
phải có quần chúng mới giúp được”
Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải sửa đối lối làm việc cho phù hợp
với nhiệm vụ Đảng cầm quyền.

12


Để tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, cần tập trung thực hiện
tốt một số giải pháp sau:
2.1. Đối với Nhà nước:
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước phải bắt
đầu từ đổi mới tư duy và cách thức lãnh đạo trong bước chuyển đổi từ mô
hình công nghiệp hóa hiện nay sang mô hình phát triển bền vững. Đường lối
lãnh đạo của Đảng phải được thể chế hóa bằng chính sách, pháp luật của Nhà
nước. Chỉ với thể chế ấy, Đảng mới thực hiện năng lực là đảng cầm quyền
trong chế độ dân chủ; nhân dân mới thực hiện quyền làm chủ bằng thể chế;
Nhà nước mới là của nhân dân trong xây dựng và quản lý nền kinh tế - xã hội
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chỉ có thể chế như thế mới phản ánh đúng tư
tưởng Hồ Chí Minh "Trăm điều phải có thần linh Pháp quyền" mà Bộ trưởng
Bộ Tư pháp đầu tiên của Nhà nước ta (Luật sư Vũ Đình Hòe) gọi là Pháp
quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh. Để lãnh đạo Nhà nước xây dựng Nhà nước
Phấp quyền XHCN, Đảng phải tự chỉnh đốn, tự đổi mới trên một số nội dung
sau:
Một là: Tạo sự thống nhất về tư duy (đặc biệt là tư duy lãnh đạo phát
triển kinh tế), nâng cao nhận thức và năng lực lãnh đạo của Đảng:

Muốn lãnh đạo thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới đất nước, đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng thì việc quan trọng đầu tiên là phải thống
nhất về tư duy, nhận thức và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trong tình
hình mới. Có thống nhất về tư duy mới có thể thống nhất về hành động cách
mạng. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng có nghĩa là Đảng phải tự
chỉnh đốn, tự đổi mới để Đảng có đủ trình độ ngang tầm với yêu cầu của cách
mạng trong giai đoạn hiện nay, củng cố và nâng cao vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với toàn bộ hệ thống chính trị.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cần đổi mới cách thức, nội
dung, quy trình ban hành các chỉ thị, nghị quyết, quyết định của các cấp ủy
13


Đảng; tiếp tục hoàn thiện chế độ kiểm tra, giám sát thường xuyên của Đảng
để đánh giá kết quả triển khai thực hiện và có chế tài bảo đảm thực hiện thành
công các chỉ thị, nghị quyết, quyết định ấy.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, đòi hỏi cấp ủy Đảng thường
xuyên củng cố nâng cao trình độ, năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện những
đường lối, chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Để đảm bảo các chỉ thị, nghị quyết
của Đảng được triển khai, thực hiện tốt, Đảng phải tăng cường công tác tuyên
truyền giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và quần chúng
nhân dân bằng nhiều hình thức với nhiều tổ chức thành viên trong hệ thống
chính trị của Đảng.
Hai là: Đổi mới cơ cấu tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động của tổ chức
Đảng và hệ thống chính trị các cấp:
Thực trạng hiện nay cho thấy cơ chế hoạt động và cơ cấu tổ chức bộ
máy của hệ thống chính trị dù đã qua nhiều lần xây dựng củng cố, tuy nhiên
bộ máy của hệ thống chính trị ở nước ta vẫn còn cồng kềnh, bất hợp lý. Chức
năng, nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị tuy đã được quy định bằng Quy chế
hoạt động nhưng về tổng thể hệ thống chính trị chưa được phân công rõ ràng,

còn chồng chéo lên nhau. Vì vậy, hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị
còn nhiều hạn chế và kém hiệu quả.
Để khắc phục tình hình đó, Đảng phải nhanh chóng đổi mới cơ chế tổ
chức; tiếp tục sắp xếp, kiện toàn lại tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị,
tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội.
Đổi mới cơ chế tổ chức bộ máy sao cho phù hợp với phương thức lãnh
đạo mới. Tiếp tục cải tiến bộ máy theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu quả và
hiệu lực quản lý theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI.
Ba là: Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có trình độ cao, có phẩm
chất chính trị, đạo đức lối sống lãnh mạnh, có năng lực tổ chức và triển khai
14


thực hiện nhiệm vụ; xây dựng đội ngũ lãnh đạo có năng lực thực sự và phong
cách lãnh đạo tốt.
Người thực hiện phương thức lãnh đạo là cán bộ- Đảng lãnh đạo hệ
thống chính trị thông qua vai trò của đội ngũ đảng viên của Đảng. Cán bộ vừa
là chủ thể vừa là đối tượng của phương thức lãnh đạo. Vì vậy, cần xây dựng,
cụ thể hóa tiêu chuẩn, các chức danh cán bộ; phải đánh giá thực chất cán bộ.
Trên cơ sở đó, lựa chọn, bố trí, đề bạt cán bộ đúng người, đúng việc, đúng
chuyên ngành được đào tạo. Đồng thời có biện pháp xử lý nghiêm minh, kịp
thời đối với những cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quán lý các
cấp lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tham nhũng, lãng phí, trù dập, ức hiếp
quần chúng nhân dân, coi thường kỳ cương, Pháp luật của Nhà nước hoặc tự
cho mình đứng trên, đứng ngoài tổ chức của Đảng, Nhà nước và các tổ chức
chính trị- xã hội. Kiêm quyết xử lý kỷ luật đối với những cán bộ, đảng viên
đứng đầu cơ quan, tổ chức chuyên quyền, độc đoán, quan liêu, cục bộ địa
phương, bè phái, gây mất đoàn kết nội bộ làm ảnh hưởng xấu đến uy tín của
Đảng, cơ quan Nhà nước và các tổ chức chính trị- xã hội.

Bốn là: Đổi mới chế độ chính sách, lề lối làm việc, cải cách hành chính
gắn chặt với việc phát huy dân chủ trong Đảng và trong xã hội; tạo cơ hội cho
nhân dân tham gia xây dựng Đảng; Đảng lấy mục tiêu phục vụ Tổ quốc, phục
vụ nhân dân làm mục tiêu hoạt động của Đảng và cán bộ, đảng viên.
Đổi mới quy trình, nâng cao chất lượng ban hành các chỉ thị, nghị
quyết, quyết định của Đảng, cải tiến và nâng cao chất lượng công tác thông
tin; xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi phù hợp để thu hút được trí tuệ của xã
hội, phục vụ cho công cuộc xây dựng Đảng; xây dựng và và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN.
Trước yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong thời kỳ đổi mới, hội nhập kinh
tế thế giới, đòi hỏi Đảng ta phải tiếp tục chỉnh đốn Đảng, đổi mới phương
thức lãnh đạo đối với nhà nước, hệ thống chính trị và toàn xã hội. Đó là
15


nhiệm vụ quan trọng và yêu cầu cấp bách của Đảng ta trong giai đoạn cách
mạng hiện nay.
2.2. Đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội:
Đảng lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và hệ thống chính trị nhưng Đảng lại
là một thành viên của Mặt trận Tổ quốc và hệ thống chính trị; để đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và hệ thống chính
trị trong giai đoạn hiện nay, Đảng cần tập trung vào một số nội dung chủ yếu
sau:
Một là: Cần tăng cương công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của
toàn bộ hệ thống chính trị về vai trò, vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, về
tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Xây dựng và tăng cường vai trò tổ chức Mặt trận dân tộc thống nhất,
khối đại đoàn kết toàn dân, đây là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, của
toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng chứ không chỉ là nhiệm vụ của Mặt trận

Tổ quốc. Chính sách của Mặt trận Tổ quốc phải được quán triệt trong các tổ
chức Đảng và cơ quan nhà nước ở các ngành, các cấp. Công tác Dân vận
chính quyền của Mặt trận tổ quốc và của Nhà nước phải được thể hiện trong
việc hoạch định và thi hành chính sách, pháp luật, ở cơ cấu thành phần các cơ
quan dân cử và cơ quan quản lý Nhà nước; ở hoạt động trực tiếp của cán bộ
lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, ở ý thức phục vụ nhân dân, hành động cụ thể
của cán bộ, đảng viên, công chức trong thi hành công vụ. Chính sách và pháp
luật đúng, hợp lòng dân là điều kiện cơ bản để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chính trị tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân có kết quả nhất. Vì
thế, Mặt trận Tổ quốc cần chủ động thúc đẩy, góp sức vào hiệp thương với
các tổ chức Đảng; việc tăng cường sự phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc và các
cơ quan Nhà nước; các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị.
Hai là: Các cấp ủy Đảng cần đổi mới và nâng cao hơn nữa việc xây
dựng và ban hành các chỉ thị, nghị quyết, chương trình hành động, các quyết
16


định, kết luận… sát với tình hình thực tế trong từng giai đoạn để định hướng
nhiệm vụ cho Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị- xã hội hoạt động,
chọn những nhiệm vụ có ý nghĩa thiết thực, mang tính đột phá để chỉ đạo thực
hiện; phát huy tính chủ động sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc trong tham mưu
xây dựng các nghị quyết, chỉ thị, chương trình hành động và kế hoạch tổ chức
thực hiện; chú trọng xây dựng Nghị quyết chuyên đề; tăng cường công tác
giám sát chuyên đề đối với các tổ chức thành viên.
Ba là: Quan tâm đến công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử
dụng đôi ngũ cán bộ của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị, đảm bảo
tiêu chuẩn theo quy định, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; xây
dựng quy định về tiêu chuẩn chức danh cán bộ Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chính trị; khắc phục tình trạng cán bộ năng lực yếu, khó sắp xếp công việc
hoặc cán bộ chờ giải quyết chế độ thì bố trí, thuyên chuyển về Mặt trận Tổ

quốc và các đoàn thể chính trị; thực hiện chủ trương luân chuyển cán bộ Mặt
trận, các đoàn thể sang công tác tại cơ quan Đảng, Nhà nước và ngược lại để
tăng cường công tác bồi dưỡng cán bộ.
Bốn là: Tiếp tục đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh” trong cán bộ, đảng viên và toàn xã hội; phát huy tính tiền
phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong tham gia và vận động các
thành viên trong gia đình tích cực tham gia hoạt động và làm nòng cốt trong
các tổ chức đoàn thể nhân dân. Có cơ chế cụ thể để nhân dân tham gia xây
dựng Đảng, xây dựng các tổ chức đoàn thể nhân dân mà mình là thành viên.
Năm Là: Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng đối với
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc thông qua giao ban định kỳ giữa Thường trực
cấp ủy với hệ thống Dân vận; qua những cuộc làm việc trực tiếp để nghe phản
ánh tình hình hoạt động của các thành viên trong hệ thống và tâm tư, nguyện
vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân, những kiến nghị, đề xuất của Mặt
trận và các tổ chức thành viên; trên cơ sở đó chỉ đạo giải quyết kịp thời những
vấn đề bức xúc trong xã hội và nhân dân, đồng thời, định hướng hoạt động
17


của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị sát hợp với tình hình thực tế.
Các cấp ủy Đảng cần chú trọng công tác sơ, tổng kết rút kinh nghiệm, xây
dựng các mô hình, điển hình tiên tiến trong công tác xây dựng Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chính trị; các cấp chính quyền cần phải có cơ chế rõ
ràng, cơ chế đó phải được thể chế thành văn bản Pháp luật, tạo điều kiện
thuận lợi để Mặt trận Tổ quốc các các đoàn thể chính trị các cấp thực hiện
chức năng giám sát và phản biện xã hội.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải chỉ đạo các thành viên trong hệ thống
thực hiện và phát huy đầy đủ tính chất, vai trò và trách nhiệm của mình, góp ý
kiến với Đảng, Nhà nước một cách chủ động rong việc đề ra đường lối, chủ
trương, chuẩn bị quyết định và tổ chức thi hành các quyết định, thực hiện vai

trò phản biện xã hội đối với các đề án, dự án về chủ trương, chính sách, pháp
luật của Nhà nước. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị cần tập trung
làm tốt những việc có sở trường, thế mạnh thực sự và chỉ Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể chính trị mới có thể làm tốt, không phân tán lực lượng hoặc
không trùng lặp với hoạt động của các tổ chức khác.
Sáu là: Thể chế hóa mối quan hệ giữa tổ chức Đảng với tổ chức Nhà
nước và tổ chức chính trị- xã hội nhằm phát huy tốt vai trò và hiệu quả của
mỗi tổ chức trong mối quan hệ với nhau của một hệ thống. Từ đó, Đảng cầm
quyền bằng một hệ thống gồm các bộ phận không tách rời nhau, mà tác động
hỗ trợ lẫn nhau, cùng nhau phát triển. Tổ chức Đảng nằm trong hệ thống đó
để phát huy vai trò và trách nhiệm của mình trong việc cùng tác động, triển
khai thực hiện đạt kết quả các đường lối, chỉ thị, nghị quyết của Đảng đề ra.
Cần đổi mới tư duy và phương pháp trong hoạch định đường lối, chính sách.
Hoạch định chính sách kinh tế phải xuất phát từ nhu cầu phát triển của toàn
bộ nền kinh tê quốc dân, chứ không phải chỉ căn cứ vào yêu cầu quản lý của
các bộ, ngành, doang nghiệp. Hoạch định chính sách xã hội phải xuất phát từ
nhu cầu an sinh xã hội, đảm bảo cho sự phát triển bền vững. Hoạch định
chính sách giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ phải xuất phát từ nhu
18


cầu xây dựng lực lượng sản xuất XHCN tiên tiến, hiện đại và tổ chức, quản lý
có hiệu quả. Phương pháp hoạch định đường lối, chính sách nên chuyển mạnh
sang nghiên cứu dựa trên số liệu chính xác về kinh tế - xã hội và xu thế phát
triển của thế giới, phân tích rõ những tác động tích cực và tiêu cực rồi mới
xây dựng hình thành đường lối, chính sách sao cho phù hợp, sát thực tế.

KẾT LUẬN
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo Nhà nước
và toàn xã hội thì vấn đề thường xuyên đổi mới phong cách lãnh đạo, một yếu

tố của phương thức lãnh đạo, cầm quyền, rất cần được quan tâm, coi trọng.
Bởi vì, khác với thời kỳ Đảng chưa nắm chính quyền; Trong giai đoạn cách
mạng hiện nay, với chế độ nhất nguyên của một Đảng cầm quyền thì việc
phòng ngừa và đấu tranh chống quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng
trong đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng đã và đang trở thành một nhiệm vụ

19


vô cùng quan trọng, một yêu cầu cấp bách trong sự nghiệp xây dựng chỉnh
đốn Đảng hiện nay.
Về bản chất, tệ quan liêu, hách dịch, cửa quyền trong Đảng, trong bộ
máy Nhà nước là sự xa rời thực tế, xa rời quần chúng nhân dân, tách mình ra
khỏi nhân dân, xa rời mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
từng chỉ ra rằng, bệnh quan liêu là không đi sâu, đi sát phong trào, không nắm
được tình hình cụ thể, thích ngồi bàn giấy hơn là đi xuống thực tiễn, thích
dùng mệnh lệnh hành chính hơn là kiên nhẫn giáo dục thuyết phục quần
chúng một cách có lý, có tình, chỉ biết khai hội, mốt chỉ thị, xem báo cáo trên
giấy, chứ không kiểm tra đến nơi đến chốn.Vì vậy, đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội là hết sức cần
thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng không chỉ nhằm bảo đảm
yêu cầu xét từ vai trò lãnh đạo của Đảng, mà quan trọng hơn là phát huy cao
tính chủ động, sảng tạo của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và mỗi đoàn thể
chính trị trong việc thực hiện chức năng xã hội của mình. Nhà nước và các tổ
chức chính trị - xã hội đủ mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả tức là Đảng
mạnh, Đảng lãnh đạo có kết quả. Sự lãnh đạo cua Đảng nhằm làm cho Nhà
nước và các tổ chức chính trị - xã hội phát huy cao năng lực tổ chức và vai trò
quản lý điều hành; tăng cường và phát huy quyền và năng lực làm chủ của
nhân dân trong phát triển kinh tế- xã hội, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


20


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng cộng sản Việt Nam [1991], Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb Chính trị Quốc gia Ha Nội.
2. Đảng cộng sản Việt Nam [2006], Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng cộng sản Việt Nam [2011], Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
4. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Xây dựng Đảng [2003],
Giáo trình xây dựng Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. PGS.TS Đinh Xuân Lý, Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện
chính sách xã hội trong 25 năm đổi mới (1986-2011), Nxb Đại học Quốc
gia, Hà Nội.
21


6. Nguyễn Văn Vĩnh [2007], Đảng lãnh đạo Nhà nước trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay, Nxb Lý luận chính trị,
Hà Nội.
7. Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng (đồng chủ
biên), Nhìn lại quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng 1986-2005,
(sách tham khảo), tập II.
8. Phan Xuân Sơn, Các đoàn thể nhân dân với việc bảo đảm dân chủ cơ sở
hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

22



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................1
NỘI DUNG....................................................................................................3
1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và các tổ chức Chính trị- xã
hội.................................................................................................................3
1.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước .....................................................3
1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị- xã hội..........................7
2. Một số giải pháp nhằm đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng với
Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội có chất lượng......................12
2.1. Đối với Nhà nước..................................................................................13
2.2. Đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội..................14
KẾT LUẬN..................................................................................................20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................22

23



×