Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

TIỂU LUẬN: ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG - MỘT VẤN ĐỀ BỨC XÚC CỦA CHÚNG TA HIỆN NAY docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (645.12 KB, 82 trang )






TIỂU LUẬN:

ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG - MỘT VẤN ĐỀ BỨC XÚC
CỦA CHÚNG TA HIỆN NAY














Một trong những vấn đề bức xúc đang được đặt ra trong công cuộc đổi mới ở nước
ta hiện nay là vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Để làm rõ tính bức
xúc của vấn đề này, tác giả bài viết đã đưa ra và luận giải những điều kiện mới,
hoàn cảnh mới hiện đang đặt ra những vấn đề mới về phương thức lãnh đạo của
Đảng. Đổi mới hơn nữa quan niệm về phương thức lãnh đạo và nâng cao năng lực
hiện thực hoá quan niệm đã được đổi mới - đó là giải pháp hữu hiệu để giữ vững và
tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong quá trình đẩy mạnh toàn diện công


cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.

Báo cáo Chính trị tại Đại hội X của Đảng lấy chủ đề là: “Nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn
diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”. Điều đó
cho thấy vấn đề Đảng có tầm quan trọng như thế nào đối với quá trình đổi mới đất
nước. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết, là tiền
đề để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới, là nhân tố có
tầm quan trọng đặc biệt trong việc quy tụ và phát huy sức mạnh toàn dân tộc để đưa
công cuộc đổi mới vì chủ nghĩa xã hội ở nước ta đến thắng lợi hoàn toàn.
Để hoàn thành tốt chức trách to lớn đó trước dân tộc, Đảng không chỉ phải vững
mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ…, mà còn phải có phương thức lãnh
đạo khoa học, cho phép hoạch định được những quan điểm, chủ trương, tư tưởng chỉ
đạo đúng đắn và có năng lực đưa những quan điểm, chủ trương đó vào cuộc sống,
biến thành hành động sáng tạo của hàng chục triệu con người; nhờ vậy, tạo được
những chuyển biến xã hội tích cực vì sự nghiệp giải phóng con người. Ý thức rõ điều
đó, Đại hội X đã dành cho việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng một sự chú ý
đặc biệt (1). Bởi lẽ, trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ cách mạng, tình hình thế giới

và trong nước đã có sự thay đổi căn bản, đặt ra trước Đảng một đòi hỏi bức xúc là phải
thay đổi căn bản phương thức lãnh đạo của mình.
1. Từ lãnh đạo đẩy mạnh chiến tranh giải phóng dân tộc là chủ yếu chuyển sang
lãnh đạo trong điều kiện hoà bình xây dựng trên phạm vi cả nước; từ lãnh đạo
xây dựng chủ nghĩa xã hội theo hệ quan niệm cũ sang lãnh đạo xây dựng chủ
nghĩa xã hội theo hệ quan niệm từng bước được đổi mới về chủ nghĩa xã hội
Trên thực tế, bước chuyển từ lãnh đạo đẩy mạnh chiến tranh giải phóng dân tộc là
chủ yếu chuyển sang lãnh đạo trong điều kiện hoà bình, xây dựng trên phạm vi cả
nước đã bắt đầu sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Song, cuộc chiến càng lùi về quá
khứ bao nhiêu, nhận thức về ưu, khuyết điểm của phương thức lãnh đạo thời chiến
càng đầy đủ, sâu sắc hơn bấy nhiêu. Điều đó càng bộc lộ rõ khi đi vào đổi mới toàn

diện đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội trên một hệ quan niệm về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta từng bước được đổi mới, ngày một
đúng đắn hơn.
Chiến tranh là sự sống còn của cả một dân tộc, diễn ra hết sức tàn khốc, nhanh và
mãnh liệt. Tuy từ 1954 đến 1975, đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai
nhiệm vụ chiến lược khác nhau, nhưng nhiệm vụ chính trị bao trùm, mục tiêu tổng
quát của cả nước là chống ngoại xâm, giải phóng Tổ quốc, thống nhất đất nước, tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Để giành thắng lợi trong chiến tranh, phương thức lãnh đạo của
Đảng ta chủ yếu là lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp và toàn diện. Đảng quyết định từ vấn đề
chiến lược, đường lối đến vấn đề cụ thể, bảo đảm cho chủ trương, đường lối của
Đảng được thực hiện thống nhất, khẩn trương và nghiêm ngặt. Phương thức đó là
đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh chiến tranh và đã đem lại hiệu quả thiết thực.
Sau khi nước nhà thống nhất, cả nước thực hiện một nhiệm vụ chiến lược là xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Đảng đã ý thức rõ sự cần
thiết phải có sự thay đổi căn bản trong phương thức lãnh đạo. Đại hội IV (năm 1976)
đã khẳng định rằng: sự lãnh đạo của Đảng là bảo đảm cao nhất cho chế độ làm chủ
tập thể của nhân dân lao động, cho sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Vì vậy, bảo đảm tốt sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là một điều kiện
quyết định để tăng cường Nhà nước, nâng cao hiệu lực của Nhà nước. Mặt khác,

Đảng không thể lãnh đạo xã hội, lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội, nếu không có Nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng và quyền làm chủ
tập thể của nhân dân thể hiện tập trung ở Nhà nước, được thực hiện chủ yếu thông
qua hoạt động của Nhà nước. Thông qua Nhà nước, Đảng thực hiện sự lãnh đạo của
mình đối với tiến trình phát triển xã hội (2) Phải thường xuyên kiện toàn bộ máy nhà
nước, nâng cao không ngừng quyền lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước mới hoàn
thành được những nhiệm vụ chính trị do Đảng đề ra, mới thực hiện được sự lãnh đạo
của Đảng đối với xã hội. Nâng cao năng lực tổ chức của Đảng, trước hết là nâng cao
năng lực của Đảng trong việc xây dựng, kiện toàn, sử dụng và phát huy Nhà nước -
công cụ sắc bén nhất để tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng. Vai trò và

hiệu lực quản lý của Nhà nước được nâng cao là dấu hiệu quan trọng nhất nói lên
trình độ và năng lực tổ chức của Đảng.
Đảng quyết định đường lối, chính sách, phương hướng hoạt động của Nhà nước và
những vấn đề quan trọng về tổ chức bộ máy nhà nước các cấp. Thông qua Nhà nước,
đường lối, chính sách của Đảng biến thành quyết định của bản thân quần chúng,
thành hoạt động hằng ngày của quần chúng. Đảng dựa vào các tổ chức Đảng và các
đoàn thể quần chúng để kiểm tra sự hoạt động của các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân
dân.
Mặt khác, Đảng tôn trọng quyền hạn, pháp luật của Nhà nước, kịp thời giải quyết
những kiến nghị của các cơ quan nhà nước về chủ trương, chính sách. Đảng bắt buộc
tất cả các tổ chức, các cán bộ, đảng viên của Đảng phải tôn trọng quyền lực của cơ
quan nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật và các quyết định, chỉ thị của cơ
quan nhà nước, đó là kỷ luật của Đảng.
Trong sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, phải khắc phục tình trạng lẫn lộn
công việc của Đảng và công việc của Nhà nước; phải khắc phục tình trạng tổ chức
đảng ở một số địa phương và cơ sở bao biện công việc của Nhà nước, làm giảm hiệu
lực của bộ máy nhà nước và thực tế là hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng. Đồng thời,
cũng phải chống khuynh hướng coi nhẹ vai trò và trách nhiệm của tổ chức đảng trong
cơ quan nhà nước, coi tổ chức đảng chỉ như một cơ quan tuyên truyền, động viên,

không có tác dụng lãnh đạo thật sự; chống lối phân công máy móc, tách rời hoạt động
của cấp uỷ đảng với hoạt động của cơ quan nhà nước, thực chất là tách rời việc quyết
định chủ trương với việc tổ chức thực hiện(3).
Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng không làm thay Nhà nước. Thông qua hoạt động của
Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng mà phát huy vai trò chủ động và trí sáng tạo
của nhân dân trong quá trình xây dựng xã hội mới(4)
Quan niệm vừa nêu về phương thức lãnh đạo của Đảng mang tính khoa học và thực
tiễn hết sức sâu sắc. Điểm nổi bật nhất ở đó là nhấn rất mạnh sự lãnh đạo của Đảng
đối với mọi mặt đời sống xã hội phải được thực hiện thông qua Nhà nước; chấm dứt

tình trạng Đảng trực tiếp ra chỉ thị cho các ngành, các cấp ngoài hệ thống tổ chức của
Đảng. Đây là bước tiến hết sức to lớn trong quan niệm về phương thức lãnh đạo của
Đảng, khi Đảng ta đã trở thành Đảng cầm quyền. Nhưng, do cơ chế tập trung, quan
liêu, bao cấp kéo dài, do vẫn còn ảnh hưởng lớn của phương thức lãnh đạo trong thời
kỳ chiến tranh, nên trong thực tế, phương thức lãnh đạo của Đảng vẫn bộc lộ những
khuyết điểm, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả lãnh đạo của Đảng.
Đại hội VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đánh dấu bước
đột phá lớn về đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội, đánh dấu bước chuyển quan
trọng trong nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong khi không đánh
giá thấp âm mưu của các thế lực thù địch, Đảng ta cũng thấy rõ một đặc điểm rất
quan trọng là tiến hành công cuộc xây dựng trong điều kiện hoà bình là chủ yếu, là
mặt chi phối. Chiến tranh có quy luật của chiến tranh, xây dựng hoà bình có quy
luật của xây dựng hoà bình. Điều đó cũng hoàn toàn đúng khi nói về phương thức
lãnh đạo của Đảng. Trong những năm gần đây, chúng ta đã có nhiều nỗ lực
nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi phương thức lãnh đạo của Đảng thích hợp với
điều kiện hoà bình xây dựng đất nước; song, những tập quán, thói quen trong phương
thức lãnh đạo thời chiến vẫn còn tồn tại ít nhiều trong một bộ phận cấp uỷ và cán bộ,
đảng viên. Đổi mới phương thức lãnh đạo là một tất yếu để khắc phục những tàn dư
đó.
2. Chuyển từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi sự chuyển đổi tương ứng trong phương thức
lãnh đạo của Đảng
Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế (V.I.Lênin). Phương thức lãnh đạo của
Đảng thuộc phạm trù chính trị, do vậy, cũng do kinh tế quy định. Trong nền kinh tế
dựa trên chế độ sở hữu xã hội đơn nhất dưới hai hình thức là toàn dân và tập thể, vận
hành trong cơ chế kế hoạch hoá tuyệt đối, phương thức lãnh đạo của Đảng cũng khó
tránh khỏi tình trạng quan liêu hoá, tập trung cao độ. Đảng không phải chỉ thông qua
Nhà nước, mà còn trực tiếp can thiệp rất sâu vào hoạt động kinh tế. Đảng quyết định

không chỉ chiến lược kinh tế, những chủ trương, chính sách lớn trong phát triển kinh
tế, mà cả kế hoạch sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Giờ đây, khi đã chuyển
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với sự đa dạng hoá chế độ
sở hữu, hình thức và thành phần kinh tế, lấy sự điều tiết của thị trường làm căn cứ cơ
bản, thị trường đóng vai trò là cơ sở để kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân thì
phương thức lãnh đạo của Đảng nói chung, lãnh đạo trên lĩnh vực kinh tế nói riêng
không thể như cũ. Tính tất yếu đó càng bộc lộ rõ khi khẳng định rằng, trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công ty cổ phần là hình thức kinh tế cơ
bản. Ở đây, không phải là tiếng nói của cấp uỷ, mà tiếng nói của Hội đồng quản trị
có ý nghĩa quyết định phương án sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Trong điều
kiện đó, sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực kinh tế thông qua Nhà nước là chủ yếu.
Thông qua Nhà nước, Đảng lãnh đạo trên lĩnh vực kinh tế, nhưng lại phải trên
nguyên tắc tôn trọng quyền tự chủ của doanh nghiệp, tôn trọng sự điều tiết của thị
trường.
Môi trường kinh tế thị trường đòi hỏi ở Đảng sự kiên định, sự năng động, nhạy bén,
đồng thời phải có sức đề kháng cao trước những tiêu cực của kinh tế thị trường tác
động vào nội bộ hàng ngũ mình. Điều vừa nêu cũng hoàn toàn đúng khi nói về yêu
cầu phương thức lãnh đạo của Đảng.
Như vậy là, sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
đang đặt ra đòi hỏi phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
3. Yêu cầu mới về phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân

dân
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã thấy rõ sự cần thiết phải xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm
kỳ khoá VII (năm 1994), lần đầu tiên, trong văn bản chính thức của mình, Đảng
khẳng định chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong quá trình đổi mới tư duy về Nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam, chúng ta đã đi từ quan điểm bảo đảm quyền lực nhà nước thống

nhất, phân công rõ ràng và phát huy hiệu lực của ba quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp tới quan điểm quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công rành
mạch và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền
này; đồng thời khẳng định rằng, quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện chủ yếu
và trước hết bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng
Tuy không phải là một kiểu nhà nước, nhưng sự ra đời của Nhà nước pháp quyền là
một tiến bộ lịch sử về mặt tổ chức và phương pháp quản lý nhà nước. Một nguyên
tắc căn bản của Nhà nước pháp quyền là quản lý mọi mặt đời sống xã hội phải theo
pháp luật, bằng pháp luật; pháp luật được xem là tối thượng. Hơn nữa, chúng ta
không xây dựng Nhà nước pháp quyền nói chung (thực tế cũng không có Nhà nước
pháp quyền nói chung), mà chúng ta xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong Nhà nước đó, “mọi
quyền lực đều ở nơi dân” (Hồ Chí Minh), nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực.
Nhà nước là thiết chế mà qua đó, nhân dân thể hiện và thực hiện quyền lực của mình.
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, được nhân dân uỷ quyền. Cho
nên, Quốc hội trở thành cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Đảng lãnh đạo Nhà nước, nhưng không có nghĩa là Đảng
đứng trên Nhà nước, Nhà nước là cấp dưới của Đảng. Đảng lãnh đạo xã hội, nhưng
cũng không có nghĩa Đảng đứng trên xã hội
Cho nên, vấn đề đặt ra là, trong điều kiện đang từng bước xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thì phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội, Chính phủ, Toà án, Viện kiểm sát và thông qua
Nhà nước, Đảng lãnh đạo quốc phòng - an ninh, đối ngoại, Đảng lãnh đạo hệ thống

chính trị như thế nào là phù hợp? Giải quyết đúng đắn vấn đề này là điểm mấu chốt
để vừa bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy vai trò của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, vừa bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
4. Dân chủ hoá mọi mặt trong đời sống xã hội đặt ra nhiều vấn đề mới về phương
thức lãnh đạo của Đảng
Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới đất

nước nói chung, của đổi mới hệ thống chính trị nói riêng. Nhờ sự phát triển của nền
dân chủ, ý thức và yêu cầu dân chủ của nhân dân, của các tổ chức và các thiết chế xã
hội ngày càng được nâng cao; sự tự ý thức về vị thế đích thực của mình trong sự phát
triển xã hội cũng như trong mối tương quan với các tổ chức, các thiết chế khác ngày
một sâu sắc. Mọi sự áp đặt - dù từ phía nào - đều bị lên án, bị khước từ. Mọi sự bao
biện, làm thay đều khó được chấp nhận. Định hướng của lãnh đạo phải biến thành
sự tự định hướng của chính nhân dân, các tổ chức của nhân dân. Đảng lãnh đạo
không có nghĩa là Đảng ra mệnh lệnh, chỉ thị cho nhân dân, buộc nhân dân thực hiện.
Sự lãnh đạo của Đảng phải được thực hiện bằng cách tự mình đến với nhân dân, bàn
bạc cùng nhân dân để thực hiện những nhu cầu chính đáng và hợp pháp của chính
nhân dân. Nhờ dân chủ hoá mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, nhân dân đặt ra đòi
hỏi ngày càng cao đối với Đảng; nhân dân không chỉ được tham gia vào quá trình
hoạch định đường lối phát triển đất nước, mà cả quá trình đưa đường lối đó vào nhân
dân, tổ chức thực hiện, kiểm tra việc thực hiện đường lối đó, tham gia thẩm định tính
đúng - sai của đường lối, quyền được phản biện đối với đường lối. Nói cách
khác, dânchủ hoá xã hội đòi hỏi phải dân chủ hoá phương thức lãnh đạo của Đảng.
Điều đó không thể đạt được, nếu Đảng không đổi mới phương thức lãnh đạo của
mình.
5. Phương thức lãnh đạo của Đảng được đặt ra trong điều kiện phát triển mạnh
mẽ của cách mạng khoa học - công nghệ, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
- Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang được triển khai trên quy mô thế giới. Ở
một mức độ nhất định, cuộc cách mạng đó cũng đang diễn ra ở nước ta với nội dung
và hình thức thích hợp. Dù muốn hay không, những thành quả của cuộc cách mạng

này đã và đang thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, vào mọi hoạt động
của con người, trong đó có hoạt động lãnh đạo và quản lý. Cách mạng khoa học -
công nghệ vừa đòi hỏi, vừa tạo tiền đề để thực hiện khoa học hoá, hiện đại hoá
phương thức lãnh đạo của Đảng. Khoa học hoá, hiện đại hoá phương thức lãnh đạo
của Đảng là một nhân tố bảo đảm tính hiệu quả trong lãnh đạo của Đảng. Để khoa

học hoá, hiện đại hoá phương thức lãnh đạo của Đảng, chúng ta phải thắng những
lực cản của phương thức lãnh đạo phần nào mang nặng tính thủ công, thô sơ, sự vụ,
kinh nghiệm chủ nghĩa của thời kỳ trước đang còn tồn tại ở những lúc, những nơi
nhất định trong hoạt động lãnh đạo của Đảng ta. Đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng theo hướng khoa học hoá, hiện đại hoá phương thức lãnh đạo đó trở thành một
tất yếu khách quan ở nước ta hiện nay.
- Sống trong thế giới toàn cầu hoá ngày một gia tăng, mọi quốc gia dân tộc chỉ có thể
phát triển được, khi tự đặt mình là một nhân tố của cộng đồng thế giới, hội nhập vào
thế giới đó. Mọi sự biệt lập đều là hành vi tự sát. Trong khi không xem nhẹ sự cần
thiết phải tận dụng, khai thác tối đa ngoại lực, những điều kiện quốc tế thuận lợi để
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chúng ta cũng ý thức rõ rằng, nội lực vẫn là
chính. Trong nội lực, nhân tố quan trọng nhất là nhân tố con người. Công nghiệp
hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa vừa đòi hỏi, vừa tạo điều kiện để
ra đời những con người không chỉ có phẩm chất chính trị vững vàng, có đạo đức
trong sáng, mà còn có năng lực chuyên môn ngày một thành thạo, am hiểu sâu sắc
khoa học - công nghệ và có khả năng phát triển, vận dụng thuần thục những thành
quả khoa học - công nghệ vào hoạt động thực tiễn xây dựng đất nước. Mặt bằng dân
trí, khoa học - công nghệ cao, mặt bằng nghề nghiệp phát triển vừa là điều kiện thuận
lợi cho sự lãnh đạo của Đảng, vừa là áp lực đòi hỏi Đảng phải không ngừng nâng cao
tầm tư tưởng, tầm trí tuệ và tính khoa học, tính dân chủ trong phương thức lãnh đạo
của mình. Đổi mới phương thức lãnh đạo là điều kiện tiên quyết để có phương thức
lãnh đạo như vậy.
- Hội nhập kinh tế kéo theo hội nhập trên nhiều lĩnh vực khác, mở rộng giao lưu
quốc tế trên nhiều vấn đề. Từ đó, nhân dân hiểu ngày càng rõ hơn, nhiều mặt hơn sự
vận động và phát triển của thế giới, có điều kiện so sánh mặt ưu việt và chưa thật ưu

việt của Việt Nam với các nước khác. Nhờ hội nhập, chúng ta không chỉ tiếp nhận
được những thành quả khoa học - công nghệ, thành quả kinh tế - văn hoá của nhiều
nước, mà cả thành quả khoa học lãnh đạo, khoa học quản lý của nhân loại được sáng
tạo ra trong các thể chế chính trị - xã hội khác nhau. Tiếp thu một cách có chọn lọc,

có phê phán, có cải tạo và phát triển, biết vận dụng sáng tạo những nhân tố có giá trị
trong kinh nghiệm và khoa học lãnh đạo của thế giới trở thành một tác nhân không
kém phần quan trọng trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng ta.
6. Sự khủng hoảng và thoái trào của chủ nghĩa xã hội trên thế giới đặt ra nhiều
vấn đề mới về phương thức lãnh đạo của Đảng
Sự khủng hoảng, thoái trào của chủ nghĩa xã hội thế giới có nhiều nguyên nhân bên
trong và bên ngoài. Xét từ giác độ vấn đề của đề tài này, một trong những nguyên nhân
bên trong, rất quan trọng là sự yếu kém của bản thân Đảng Cộng sản, trong đó có sự yếu
kém về phương thức lãnh đạo của Đảng.
Đảng Cộng sản càng có vị trí, vai trò quan trọng bao nhiêu, thì đóng góp của Đảng
vào những thành công, trách nhiệm của Đảng trước những thiếu sót của quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội càng lớn bấy nhiêu. Thành tựu mà chủ nghĩa xã hội thế giới
đạt được trong mấy chục năm trước khi lâm vào khủng hoảng, thoái trào không tách
rời sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản. Tình trạng khủng hoảng, thoái trào của
chủ nghĩa xã hội Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu thời kỳ cuối thế kỷ
XX cũng không tách rời những khiếm khuyết, sai lầm của Đảng Cộng sản ở các
nước đó. Về phương thức lãnh đạo của Đảng, điểm nổi bật là tình trạng quan liêu
hoá, nhà nước hoá, xa rời thực tiễn, xa rời quần chúng, mất đi mối liên hệ máu thịt
giữa Đảng và Dân, dẫn tới sai lầm về đường lối hàng thập kỷ trước và trong cải tổ -
nguyên nhân sâu xa dẫn tới chủ nghĩa xã hội ở đó bị khủng hoảng và sụp đổ.
Từ tổn thất đó, chúng ta cũng rút ra được nhiều điều bổ ích để đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay.
Thêm vào đó, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta diễn ra trong bối cảnh
chủ nghĩa đế quốc đang ra sức thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” với mưu đồ
làm thay đổi bản chất chế độ chính trị mà nhân dân ta đang xây dựng và đã được
thiết định từng bước một. Trọng điểm của chiến lược này là từng bước làm suy yếu

vai trò lãnh đạo của Đảng, vô hiệu hoá và thủ tiêu sự lãnh đạo đó. Vin vào một số
thiếu sót trong phương thức lãnh đạo của Đảng, chúng hết lời vu khống chúng ta, cho
rằng chúng ta chủ trương thực hiện “sự toàn trị của Đảng Cộng sản”, xây dựng chủ

nghĩa xã hội là xây dựng một chế độ “Đảng trị” (!?). Không có sự bác bỏ nào có hiệu
quả hơn, có sức thuyết phục hơn bằng chính sự đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng để nhân dân thấy rõ sự vu khống, sự xuyên tạc đó của kẻ thù.
7. Phương thức lãnh đạo phải được đổi mới để đáp ứng tính đặc thù của điều kiện
một Đảng duy nhất cầm quyền
Đảng ta là Đảng duy nhất cầm quyền - đó là tất yếu khách quan lịch sử, là sứ mệnh
nặng nề của Đảng được nhân dân giao phó. Điều đó chứng tỏ sức mạnh và uy tín
của Đảng, tạo ra những điều kiện mới, những phương tiện mới, công cụ mới để
Đảng thực hiện mục tiêu, lý tưởng. Là Đảng duy nhất cầm quyền, nên mọi vấn đề -
từ Cương lĩnh, đường lối chiến lược, sách lược đến chủ trương, chính sách cụ thể
của Đảng - đều có thể thảo luận, tranh luận rộng rãi trong Đảng và lấy ý kiến nhân
dân mà không phải tính đến sự chống phá của các đảng phái đối lập. Đảng Cộng
sản Việt Nam không có lợi ích nào khác là phấn đấu cho lợi ích của dân tộc. Vì
vậy, đường lối, chính sách của Đảng chẳng những được thảo luận rộng rãi trong
Đảng, mà còn có thể đưa ra cho toàn dân thảo luận trước khi Đảng quyết định. Chủ
tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Việc gì cũng hỏi ý kiến dân chúng, cùng dân chúng
bàn bạc ”, “Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết”(5).
Đối với nhân dân, Đảng có thể cùng dân thảo luận, bàn bạc thì không lý gì ngay
trong nội bộ Đảng lại không thể phát huy dân chủ để thảo luận và quyết định.
Đảng Cộng sản Việt Nam được nhân dân tin tưởng, suy tôn là lực lượng duy nhất
lãnh đạo Nhà nước và cả xã hội. Vì thế, nhân dân có thể thông qua Đảng của
mình để bày tỏ nguyện vọng dân chủ và thể hiện năng lực làm chủ của mình đối với
xã hội. Nhân dân biết rõ rằng, Nhà nước ta đặt dưới sự lãnh đạo duy nhất và liên tục
của Đảng, Nhà nước không chỉ chịu trách nhiệm trước dân, mà còn chịu trách
nhiệm trước Đảng; rằng, các cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong cơ quan nhà nước các
cấp do tổ chức đảng chọn và giới thiệu để nhân dân bầu. Không phải ngẫu nhiên
mà ở cơ sở, người dân thích phản ánh nguyện vọng, thắc mắc trực tiếp với cán bộ

lãnh đạo tổ chức đảng.
Là Đảng duy nhất cầm quyền, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, Đảng phải

lo từ việc lớn đến việc nhỏ, đến cả tương, cà, mắm, muối cho dân; nếu dân đói, dân
rét, dân dốt thì không chỉ Chính phủ có lỗi, mà Đảng cũng có lỗi. V.I.Lênin đòi hỏi
Đảng phải “liên hệ với quần chúng. Sống trong lòng quần chúng. Biết tâm
trạng quần chúng. Biết tất cả. Hiểu quần chúng. Biết đến với quần chúng. Giành
được lòng tin tuyệt đối của quần chúng”(6). Việc Đảng biết, hiểu nguyện vọng của
quần chúng để lãnh đạo các cơ quan, cán bộ đảng và Nhà nước giải quyết cũng là
Đảng vì lợi ích của nhân dân, giúp nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình đối
với Nhà nước và xã hội.
Nhưng, mặt trái của tình trạng một Đảng độc tôn lãnh đạo là dễ chủ quan, tự mãn,
kiêu ngạo, đặc quyền đặc lợi, quan liêu, xa rời nhân dân
Bệnh quan liêu trong quản lý nhà nước, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân với
quan liêu trong nội bộ Đảng gắn liền với nhau, trên thực tế là một. Đã quan liêu, mất
dân chủ ngay trong nội bộ đội tiên phong cách mạng thì khó có thể dân chủ với nhân
dân. Đây chính là nguy cơ thoái hóa, biến chất lớn nhất của Đảng cầm quyền, nhất là
của những người nắm quyền lực.
Với những thuận lợi và khó khăn đó, việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
để trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền mà không trở thành chuyên quyền,
độc đoán - đây là vấn đề sống còn của Đảng, của chế độ ta.
Những điều kiện mới, hoàn cảnh mới trên đây đặt ra nhiều vấn đề mới về phương
thức lãnh đạo. Việc giải quyết những vấn đề đó đòi hỏi Đảng ta phải đổi mới hơn
nữa quan niệm về phương thức lãnh đạo và nâng cao năng lực hiện thực hoá hệ
quan niệm đã được đổi mới đó để đáp ứng yêu cầu giữ vững, tăng cường vai trò
lãnh đạo của Đảng trong quá trình đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất
nước trong giai đoạn hiện nay.


(*) Giáo sư, tiến sĩ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

(1) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.137-139.

(2) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam. Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1977, tr.132.
(3) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.148-150.
(4) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.52.
(5) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t. 5. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 294, 297.
(6) V.I.Lênin. Toàn tập, t.44. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr.608.



PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN DI SẢN KINH ĐIỂN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC -
LÊNIN

TRẦN THÀNH (*)
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một khoa học và do vậy, nó phải được đối xử như một
khoa học. Trên thực tế, ở những mức độ khác nhau, việc nghiên cứu, nhận thức,
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin chưa được đối xử như một khoa học. Vì vậy, để
phát huy vai trò và đảm bảo sức sống của nó, chúng ta cần phải nhận thức lại di sản
kinh điển. Có thể có nhiều cách tiếp cận khác nhau để nhận thức lại di sản kinh điển,
trong đó vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận duy vật biện chứng là cách tiếp
cận đáng tin cậy và phù hợp nhất. Nguyên tắc này đòi hỏi phải xem xét các quan
điểm, tư tưởng của chính các nhà kinh điển (trong các nguyên tác), chứ không phải
là những cái mà người ta lĩnh hội, giải thích hoặc áp đặt cho nó; đánh giá giá trị
phải trên tinh thần vô tư, khoa học, không thiên vị; ngoài ra, phải đặt các di sản này
trong chỉnh thể của hệ thống lý luận khoa học, trong điều kiện lịch sử – cụ thể và
trên cơ sở thực tiễn.

Chủ nghĩa Mác – Lênin không phải là một mớ giáo điều, cũng không phải là tôn

giáo, mà là một khoa học, chứa đựng nhiều di sản có giá trị bền vững, có sức sống và
ý nghĩa to lớn trong thời đại ngày nay. Tuy nhiên, nó cũng khó tránh khỏi có một số

điểm chưa chính xác, chưa hoàn hảo hoặc đã lỗi thời. Đó là chưa nói đến tình trạng,
trong không ít trường hợp, do bị tư duy giáo điều, chủ quan chi phối mà nhiều quan
điểm, tư tưởng của các nhà kinh điển đã được giải thích, được kiến giải, được “sáng
tạo” không đúng với tinh thần của các ông. Để chủ nghĩa Mác - Lênin luôn đóng vai
trò phương pháp luận trong hành trình nhận thức chân lý khoa học, là nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam hành động cho các đảng cách mạng, nó cần phải được đối xử
như một khoa học, được nhìn nhận trên tinh thần phê phán. Trước mắt, một nhiệm vụ
rất cấp thiết là phải xem xét lại di sản kinh điển: khẳng định những tư tưởng có giá trị
bền vững, những giá trị đã bị thực tiễn, trí tuệ nhân loại vượt qua và chỉ ra những gì
còn là khiếm khuyết của bản thân nó và những cách hiểu về nó.
Có nhiều cách tiếp cận để nhận thức lại di sản của các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin, trong đó vận dụng những nguyên tắc phương pháp luận duy vật biện
chứng: khách quan, toàn diện, phát triển, lịch sử – cụ thể và thực tiễn là một trong
những cách tiếp cận đáng tin cậy và phù hợp nhất. Không chỉ chúng ta - những người
đứng trên lập trường triết học mácxít – mà cả những nhà tư tưởng tôn trọng sự thật
và có lương tri trên thế giới, thậm chí cả những người có tư tưởng vốn đối lập với hệ
tư tưởng mácxít, cũng đều thừa nhận (một cách tự giác hay tự phát) những nguyên
tắc phương pháp luận này. Tuy nhiên, việc vận dụng như thế nào những nguyên tắc
này cho phù hợp với đối tượng xem xét và để đảm bảo tính khoa học của nó còn là
một vấn đề cần tiếp tục được thảo luận. Dưới đây, chúng tôi xin đề xuất một số yêu
cầu khi vận dụng những nguyên tắc đó trong việc tiếp cận di sản kinh điển của chủ
nghĩa Mác - Lênin.
1. Phải xuất phát từ những nguyên tác của các nhà kinh điển.
Di sản kinh điển của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin được trình bày, được thể hiện
trong các tác phẩm của các ông. Do đó, để xem xét đánh giá di sản đó, yêu cầu này
đòi hỏi phải đọc, nghiên cứu và nghiền ngẫm chính các tác phẩm đó; hơn nữa, các
“bản gốc” của các nhà kinh điển. Trước đây, khi nói về phương thức chủ yếu trong
việc học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác, Ph.Ăngghen đã từng nhắc nhở những người
mácxít trẻ phải đọc tác phẩm gốc của Mác, không được dựa vào các tài liệu không


phải là nguyên gốc. Đó là điều kiện cần thiết đầu tiên cho việc hiểu đúng những tư
tưởng vốn có của các nhà kinh điển, làm cơ sở cho việc đánh giá, xem xét lại di sản
kinh điển.
Không đọc được “bản gốc”, mà phải đọc qua “bản dịch” của “bản dịch” đã là một
hạn chế cần phải khắc phục. Song, điều đáng nói hơn, không ít người nghiên cứu,
học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, nhưng lại không trực tiếp đọc chính những tác phẩm
kinh điển (dù chỉ là bản dịch), mà chủ yếu là qua những tài liệu giới thiệu, giải thích
của người khác. Đương nhiên, sẽ là cực đoan nếu không thấy được tác dụng tích cực
của những tài liệu đó. Song, nếu chỉ dừng lại ở mức độ đó, những tài liệu đó, thì thật
khó mà nói tới việc nắm được “tinh thần đích thực” của các nhà kinh điển. Vả lại,
trên thực tế cũng đã xuất hiện không ít những bài viết, bài nói, bài giảng mà do hạn
chế về nhận thức, hoặc suy diễn một cách chủ quan, một số tác giả đã đưa ra những
cách hiểu, truyền đạt không đúng tư tưởng, tinh thần của các nhà kinh điển. Những
tác giả này đã giải thích các luận điểm, tư tưởng của các nhà kinh điển một cách
cứng nhắc, giáo điều, hoặc chủ quan tuỳ tiện rồi gán cho các nhà kinh điển. Không ít
trường hợp, do tuỳ tiện “chế tạo ra Mác”, một số tác giả đã đem những quan điểm, tư
tưởng hoàn toàn không phù hợp với tinh thần của các nhà kinh điển áp đặt cho họ.
Chẳng hạn, trước cải tổ, cải cách, đổi mới, khi xác định mô hình chủ nghĩa xã hội,
phương thức tiến hành đấu tranh giai cấp, cải tạo kinh tế, nhận thức và vận dụng quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ nhất định của lực lượng sản xuất , một số
nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có nước ta, đã mắc phải những lệch lạc, sai lầm nhất
định. Nhưng, điều muốn nói ở đây là, những quan niệm, chủ trương, chính sách đó
đều được luận giải, minh hoạ trong các sách, báo bằng sức nặng của những “câu trích
dẫn”, những cái gọi là “ý tưởng” của các nhà kinh điển. Sự thực là, chưa có trong
một tác phẩm nào, một bài thuyết giảng nào của mình, C.Mác, Ph.Ănghen và
V.I.Lênin cho rằng, quan hệ sản xuất tiên tiến đi trước sẽ mở đường cho lực lượng
sản xuất, kéo lực lượng sản xuất phát triển theo. Rằng, trong chủ nghĩa xã hội, quan
hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đã hoàn toàn thích ứng với nhau và giữa chúng
không còn mâu thuẫn nữa (Stalin). Thế nhưng, trong một thời gian dài, chúng ta vẫn
lầm tưởng đây là những quan điểm duy vật lịch sử của C.Mác, Ph.Ăngghen,

V.I.Lênin về sự phát triển của xã hội nói chung, của chủ nghĩa xã hội nói riêng. Đó là

chưa nói đến những trường hợp cố tình xuyên tạc một cách rất tinh vi của kẻ thù (cắt
xén, trích dẫn một cách không đầy đủ, một cách “có thiện ý” ) nhằm gieo rắc những
nhận thức sai lầm, lệch lạc.
Do vậy, quan điểm, tư tưởng của các nhà kinh điển thể hiện trong các tác phẩm của
các ông cần phải được xem xét lại để trả chúng về chính các tác phẩm chứa đựng
những di sản đó. Xem xét một di sản chỉ thông qua sự lĩnh hội, giải thích, sửa đổi (dù
sự sửa đổi đó phù hợp với hiện thực) của một ai đó đều không khách quan, không
nghiêm túc và không khoa học.
2. Đánh giá di sản kinh điển phải trên tinh thần khách quan, khoa học, không vì một
động cơ, mục đích nào khác ngoài sự phát triển khoa học, phát triển lý luận và thực
tiễn cuộc sống.
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin là những nhà tư tưởng của thiên niên kỷ, là những
nhà bác học tiêu biểu cho tinh hoa trí tuệ, cho năng lực sáng tạo ở thời đại mình. Các
di sản tư tưởng, lý luận do các ông sáng tạo ra là những cống hiến vô giá, đã và đang
giữ vai trò đặt nền móng cho lý luận khoa học về sự phát triển xã hội và thực tiễn cải
tạo xã hội bằng cách mạng để giải phóng con người, giải phóng xã hội loài người
khỏi tình trạng tha hoá, phi nhân tính. Bằng sự phân tích một cách khoa học, không
thiên vị, xuất phát từ “lương tri học thuật”, nhiều nhà tư tưởng vốn “không duyên
nợ” với chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn thừa nhận những cống hiến to lớn của các nhà
kinh điển cho nhân loại.
Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, mặc dù là những thiên tài, nhưng các nhà kinh điển
cũng khó tránh khỏi những hạn chế, những giới hạn tư duy của một cá nhân, một con
người cụ thể, nhất là giới hạn của điều kiện lịch sử. Vì vậy, trong những di sản kinh
điển cũng khó tránh khỏi còn tồn tại những luận điểm, suy đoán nào đó đã lỗi thời,
thậm chí sai lầm. Trong hoạt động khoa học, phát triển lý luận của mình, C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, với một tinh thần khoa học thực sự cầu thị, đã thẳng thắn chỉ
ra những hạn chế và không hề ngần ngại bác bỏ, sửa chữa lại chính những luận điểm,
tư tưởng của mình. Đó là tấm gương sáng ngời trong việc đối xử trên tinh thần khoa

học đối với một hệ thống lý luận khoa học mà những người mácxít có cảm tình với
chủ nghĩa Mác - Lênin cần noi theo. Do vậy, khi đánh giá di sản của các ông, chúng
ta cần phải phân tích một cách khoa học, không thiên vị với một thái độ tỉnh táo,

khách quan.
Sau sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Đông Âu và Liên Xô, chủ nghĩa Mác
- Lênin đang phải hứng chịu một thử thách mới. Vấn đề đặt ra là, chúng ta phải ứng
xử với những thử thách đó như thế nào? Kẻ thù của chủ nghĩa Mác - Lênin luôn tỏ ra
hoan hỉ với việc phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin từ cách tiếp cận phi khoa học, với
thái độ thù địch: phủ nhận một cách võ đoán, phê phán bằng cách bóp méo, xuyên
tạc, lừa dối những người ít am hiểu. Những kẻ xu thời, cơ hội chủ nghĩa, thích “mật
ngọt tinh thần hơn khoa học chân chính” đã vội vàng “trở giáo” bôi nhọ chủ nghĩa
Mác - Lênin bằng cách xuyên tạc. Phê phán một hệ thống lý luận khoa học, một “chủ
nghĩa” bằng thái độ định kiến, cơ hội chủ nghĩa, thù địch thì giỏi lắm cũng chỉ đánh
lừa được những người ít hiểu biết, ít am hiểu về chủ nghĩa Mác - Lênin. Tuy nhiên,
chúng ta không nên đồng nhất sự “phê phán” chủ nghĩa Mác - Lênin của những loại
người này với sự phê phán của những người mặc dù công khai tuyên bố đối lập với
hệ tư tưởng mácxít nhưng có lương tri, tôn trọng sự thật.
Chúng ta là những người mácxít. Nhiệm vụ của chúng ta là bảo vệ chủ nghĩa Mác -
Lênin, nhưng cũng phải bảo vệ trên tinh thần khách quan, khoa học. Sức sống của lý
luận khoa học nói chung, của chủ nghĩa Mác - Lênin nói riêng là ở chỗ, phải luôn sửa
đổi, bổ sung và phát triển. Vì vậy, khi nhận thức lại di sản kinh điển, chúng ta cần
phải tỉnh táo, khách quan, không vì tình cảm hoặc vì một ý đồ chính trị nào đó mà
tìm cách “đọc và giải thích” những luận điểm không đúng, hoặc không còn phù hợp
của các nhà kinh điển rồi cố gán cho chúng một ý nghĩa chân lý nào đó. Đồng thời,
phải đọc và suy ngẫm trên tinh thần khoa học, đọc đến nơi đến chốn và bình luận
những quan điểm, tư tưởng của chính các nhà kinh điển, chứ không phải cái mà ta
hiểu về nó, người khác lĩnh hội về nó, nhất là những cái mà người ta gán cho nó.
3. Đánh giá, xem xét di sản kinh điển phải đảm bảo tính chỉnh thể, tính hệ thống của
một lý luận khoa học.

Chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ là một khoa học, mà còn là một hệ thống lý luận,
tư tưởng hoàn chỉnh. Nó không phải là sự tập hợp một cách đơn giản những quan
điểm cụ thể hay trừu tượng, mà vốn là một tập hợp nhiều tầng nấc, động thái, là hệ
thống những khái quát lý luận về tiến trình phát triển vốn có của thế giới.
Đánh giá về tính hệ thống của chủ nghĩa Mác, V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: “Chủ nghĩa

Mác là một hệ thống các quan điểm và học thuyết của Mác”(1). “Quan điểm”, theo
V.I.Lênin, là quan điểm triết học, còn “học thuyết” là học thuyết kinh tế và học
thuyết xã hội chủ nghĩa; còn tính “hệ thống” ở đây là mối liên hệ không tách rời giữa
quan điểm triết học và hai học thuyết đó, cũng như mối liên hệ nội tại, quy định, chi
phối lẫn nhau theo những “tầng nấc” giữa các quan điểm, tư tưởng. Hơn nữa, trong
chủ nghĩa Mác - Lênin, lý luận, phương pháp, hệ tư tưởng, thế giới quan và thực tiễn
thống nhất với nhau một cách không tách rời; chúng gắn kết với nhau thành một
chỉnh thể.
Để đảm bảo tính chỉnh thể, tính hệ thống, khi xem xét, đánh giá, phê phán chủ nghĩa
Mác - Lênin, chúng ta phải xác định được cái gì là cơ sở, là chủ đạo, là phái sinh; cái
gì, dòng tư tưởng nào là chính, là xuyên suốt, còn cái gì là vấn đề cụ thể, là chủ
trương cụ thể Không phân biệt được điều đó, nhập cục cái vốn có với cái phái sinh,
tư tưởng chủ đạo với những cái cụ thể, hoặc đánh lộn sòng vị trí của chúng (một cách
tự giác – cố ý để xuyên tạc, hay tự phát – do không nắm được cái chính thể), sa đà,
luẩn quẩn với những vấn đề chi tiết có tính chất cục bộ, tạm thời, không chiếm địa vị
chủ yếu trong hệ thống (chỉ “thấy cây mà không thấy rừng”, chỉ thấy lá, thấy cành
mà không thấy gốc, thân cây) sẽ dẫn tới đánh giá không đúng về chủ nghĩa Mác -
Lênin, không thấy được tác dụng dẫn đường của nó cho các thế hệ mai sau.
Chẳng hạn, khi các nhà kinh điển thẳng thắn tuyên bố một số quan điểm, tư tưởng,
nhận định, chủ trương nào đó của mình đã lỗi thời hoặc sai lầm, hoặc cùng với thời
gian, có những điểm chưa chính xác, chưa hoàn hảo được phát hiện ra, mà lại cho rằng
chủ nghĩa Mác - Lênin là “thiếu nhất quán”, là không khoa học thì đó là một sai lầm.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống lý luận phong phú, phức tạp, được hình thành,
phát triển và hoàn thiện trong một thời gian dài với những biến động lớn lao của điều

kiện lịch sử – cụ thể, cũng như trình độ tư duy, trình độ khoa học của nhân loại. Do
đó, việc nó còn tồn tại một số hạn chế nào đó cũng là điều bình thường và phù hợp
với quy luật nhận thức của nhân loại. Vả lại, những hạn chế mà các nhà kinh điển đã
phát hiện ra và cả những hạn chế mà chúng ta phát hiện ra là những cái cụ thể, những
chủ trương, giải pháp cụ thể, những dự báo, tức là những cái cụ thể chi tiết và do
vậy, không hề ảnh hưởng đến tính khoa học trong chỉnh thể lý luận. Bản thân C.Mác
và Ph.Ăngghen đã nhiều lần chỉ ra điều đó; song, cho đến nay, việc tiếp tục nghiên

cứu để phát hiện ra những hạn chế vẫn là công việc cần thiết, bởi lý luận không thể là
khoa học, nếu thiếu chức năng phê phán và hơn nữa, nó còn giúp chúng ta tránh khỏi
những sai lầm khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cuộc sống.
Nói chủ nghĩa Mác - Lênin là một chỉnh thể, một hệ thống lý luận hoàn chỉnh không
có nghĩa là coi chủ nghĩa Mác - Lênin là một kho tàng tri thức bao chứa tất cả mọi tri
thức của nhân loại, bao gồm tất cả các môn khoa học của nhân loại, hoặc đối lập nó
với tất cả những hệ thống khoa học khác, biến nó thành một chủ nghĩa mang tính biệt
phái. Trong quá trình xây dựng và phát triển hệ thống lý luận của mình, các nhà kinh
điển đã dày công nghiên cứu những thành tựu tri thức mà nhân loại đã đạt được. Các
ông đã kế thừa và tiếp thu những thành quả quan trọng của kinh tế chính trị học cổ
điển Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp, triết học cổ điển Đức và những thành
tựu khoa học tự nhiên, khoa học xã hội khác của thời đại. Nhưng, từ đó mà cho rằng
chủ nghĩa Mác - Lênin bao chứa toàn bộ tri thức của nhân loại lại là chủ quan, không
khoa học. Thêm nữa, trong sự kế thừa những tri thức đã có, cũng như những hệ
thống lý luận, khoa học đang tồn tại và phát triển, các nhà kinh điển luôn đứng trên
tinh thần khoa học để phê phán, chọn lọc những chân giá trị và đấu tranh không
khoan nhượng với những tư tưởng phản khoa học, sai lầm. Các nhà kinh điển cũng
chưa bao giờ cho mình cái quyền “độc quyền chân lý” và đối lập với các khoa học
khác, nhìn những thành tựu của các khoa học khác bằng con mắt thù địch, như kẻ thù
của chủ nghĩa Mác - Lênin thường rêu rao. V.I.Lênin chẳng đã từng nhắc nhở người
cộng sản phải làm giàu tri thức của mình bằng tri thức của toàn nhân loại đó sao.
Coi chủ nghĩa Mác - Lênin như là đỉnh cao duy nhất của trí tuệ nhân loại, coi thường

hoặc đối lập một cách trừu tượng nó với tư duy nhân loại, với những trào lưu, trường
phái khoa học khác - đó không phải là lỗi của các nhà kinh điển, không phải là lỗi
của bản thân chủ nghĩa này.
4. Phải đặt di sản kinh điển trong hoàn cảnh lịch sử – cụ thể, trong văn cảnh cụ thể
để xem xét.
V.I.Lênin đã khẳng định: “Không có chân lý trừu tượng, rằng chân lý luôn luôn là cụ
thể”. Điều đó có nghĩa là, có những quan điểm, tư tưởng là chân lý trong điều kiện
lịch sử – cụ thể này, nhưng chưa hẳn đã là chân lý trong điều kiện lịch sử – cụ thể
khác. Vì vậy, đánh giá một cách khoa học di sản kinh điển phải đặt nó vào hoàn cảnh

lịch sử – cụ thể, nghĩa là phải xem trong hoàn cảnh đó, những quan điểm, tư tưởng ấy
có đúng không và trong hoàn cảnh hiện nay, chúng còn phù hợp không? Nói cách
khác, đánh giá các giá trị kinh điển phải đứng trên nguyên tắc lịch sử – cụ thể.
Trong lịch sử phong trào cộng sản quốc tế cũng đã xuất hiện không ít kẻ xét lại, thậm
chí đi đến phản bội chủ nghĩa Mác, mượn cớ thời đại có những thay đổi để cho rằng
chủ nghĩa Mác đã lỗi thời. Đúng là các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác -
Lênin đã được viết ra từ lâu, trong đó có những quan điểm, tư tưởng mới chỉ là ý
tưởng và sau này, khi tình hình có những thay đổi lớn, một số ý tưởng nào đó đã
không còn đúng nữa. Đó là những hạn chế khó tránh khỏi của điều kiện lịch sử – cụ
thể, của những bộ óc con người, mặc dù đó là những bộ óc thiên tài của những người
thông thái. Nhưng, nếu từ đó mà rêu rao chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời lại là một
sai lầm cực đoan. Phải thấy một thực tế là, có lúc, có nơi, nhiều Đảng Cộng sản ở các
nước xã hội chủ nghĩa đã chịu ảnh hưởng khá nặng nề của chủ nghĩa giáo điều, nên
khi ai đó đặt vấn đề xem xét lại quan điểm này hay tư tưởng nọ của các nhà kinh điển
đều coi là hiện tượng “kinh thiên động địa” và dễ bị quy chụp là chủ nghĩa xét lại.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một khoa học; nó không chỉ đối lập với chủ nghĩa xét lại,
mà còn đối lập với cả chủ nghĩa giáo điều. Trong quá trình sáng lập học thuyết của
mình, các nhà kinh điển luôn công khai phản đối việc “dựng lên bất cứ ngọn cờ chủ
nghĩa giáo điều nào” và ra sức phản đối việc giáo điều hoá tư tưởng của các ông. Tuy
nhiên, nói như vậy không có nghĩa là chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ có ý nghĩa trong lịch

sử đã qua, đại diện cho một giai đoạn lịch sử đã qua. Không có cái gì trường tồn cả,
nhưng cũng phải thấy rằng, các nhà kinh điển đã giải quyết được những vấn đề mà
người xưa chưa giải quyết được và mở ra con đường hướng tới chân lý, phát triển lý
luận cho đời sau. Khẳng định điều đó, Ph.Ăngghen đã viết: “Toàn bộ thế giới quan
của Mác không phải là một học thuyết, mà là một phương pháp. Nó không đem lại
những giáo điều có sẵn, mà đem lại những điểm xuất phát cho việc tiếp tục nghiên
cứu và phương pháp cho sự nghiên cứu đó”(3). Chủ nghĩa Mác - Lênin được xây
dựng trên một nền móng lý luận và cơ sở thực tiễn vững chắc, với những quan điểm
và tư tưởng mang tính vạch thời đại. Đó là nền tảng, là cái khung cơ bản, là “nền
móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn
nữa về mọi mặt”(4). Vả lại, chủ đề nghiên cứu của chủ nghĩa Mác - Lênin là vấn đề

giải phóng giai cấp vô sản và nhân loại, đối tượng nghiên cứu
của nó là chủ nghĩa tư bản với tư cách một hình thái kinh tế – xã hội, chứ không phải
một giai đoạn nào đó của chủ nghĩa tư bản. Tầm kết luận có tính quy luật của các nhà
kinh điển là về hình thái của cả xã hội tư bản và cả sự nghiệp giải phóng giai cấp vô
sản, giải phóng nhân loại. Do vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin vừa là con đẻ của thời đại,
vừa là kim chỉ nam cho thời đại và lịch sử tiến bộ.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết mở, là một cơ thể sống đã và đang không
ngừng được sửa đổi, bổ sung và phát triển theo tiến trình phát triển của lịch sử nhân
loại. Đứng vững trên nguyên tắc lịch sử – cụ thể sẽ là không hợp lý, không khoa học,
nếu ai đó lại đòi hỏi các tác phẩm kinh điển phải cung cấp cho họ những đáp án có
sẵn để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn cuộc sống mai sau. Là những
nhà khoa học chân chính, những người theo chủ nghĩa hiện thực, C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin không giống như các nhà triết học tư biện khác dùng sự suy
diễn một cách tư biện, sự tưởng tượng và hư cấu để bù đắp cho những thiếu hụt về tư
liệu khoa học, về tình huống mà họ chưa được trải nghiệm. Các ông để những tình
tiết nhỏ cho người đời sau giải quyết, bổ sung và từng bước hoàn thiện.
Tách các tác phẩm kinh điển ra khỏi hoàn cảnh ra đời của chúng, coi chúng như
những cuốn từ điển bách khoa cung cấp những đáp án sẵn có, dù là có dụng ý hay bị

chi phối bởi chủ nghĩa giáo điều, đều dẫn đến sự xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin.
Nói về chủ nghĩa cơ hội trong phong trào công nhân và cộng sản quốc tế, khi chỉ ra
hai loại chủ nghĩa cơ hội: chủ nghĩa cơ hội có dụng ý và chủ nghĩa cơ hội “ngay
thật”, Ph.Ăngghen đã cho rằng, chủ nghĩa cơ hội “ngay thật” (tán dương, cường điệu
hoá chủ nghĩa Mác, biến chủ nghĩa Mác thành những giáo điều bất di, bất dịch) nguy
hiểm hơn.
5. Phải đứng trên nguyên tắc thực tiễn, tôn trọng thực tiễn, lấy thực tiễn làm tiêu
chuẩn để đánh giá chân lý.
Một đóng góp mang tính cách mạng của C.Mác trong sự phát triển triết học hiện đại
là đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận nhận thức. Và, việc xác định thực tiễn là cơ sở,
là mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn đánh giá chân lý đã được quán xuyến
trong suốt quá trình hình thành và phát triển hệ thống lý luận của các nhà kinh điển.
Mỗi quan điểm, tư tưởng, nguyên lý, quy luật, kể cả những dự báo mà các nhà kinh

điển đề xuất, khám phá, đều không phải là kết quả của những suy luận lôgíc thuần
tuý, mà là kết quả của sự trừu tượng hoá, khái quát hoá từ những thành tựu khoa học,
những kinh nghiệm của những sự biến, của lịch sử, của thực tiễn cuộc sống. Nhưng,
điều đó không có nghĩa là tất cả di sản trong các tác phẩm kinh điển đều là đúng đắn
và đều giữ nguyên giá trị cho đến ngày nay. Nói như vậy bởi ba lẽ: 1) Trừu tượng
hoá, khái quát hoá là sức mạnh của tư duy sáng tạo, nhưng nó vẫn tiềm ẩn cả những
sai lầm có thể có; 2) Thực tiễn của những sự biến, cũng như cuộc sống vốn đa dạng,
phong phú và với một phạm vi rộng lớn, do những hạn chế về mặt không gian và thời
gian mà có thể không thể bao quát hết; 3) Thực tiễn không bất biến, nó luôn luôn ở
trong trạng thái biến đổi và phát triển không ngừng theo tiến trình phát triển của lịch
sử nhân loại.
Xác định những di sản không chính xác, không hợp thời (các nhà kinh điển vì lý do
nào đó không bao quát hết được “thực tiễn” thời đó) và những di sản đã bị thực tiễn
ngày nay vượt qua là điều không mấy phức tạp. Nhưng, đánh giá những di sản mà
thực tiễn ngày nay chưa khẳng định được, cũng chưa bác bỏ được thì phức tạp hơn
nhiều. Kiểm nghiệm qua thực tiễn là quá trình phức tạp, đặc biệt là trong các lĩnh

vực chính trị, kinh tế, xã hội. Một nhận thức phải trải qua nhiều lần kiểm nghiệm mới
có thể khẳng định là đúng hay sai. Ngay bản thân việc kiểm nghiệm như thế nào
cũng còn là cả vấn đề. Kiểm nghiệm thực tiễn không đơn giản là lấy một nhận thức
nào đó đem áp dụng vào thực tiễn và nếu thu được kết quả mong muốn thì nhận thức
đó là chân lý, ngược lại là sai lầm. Hiệu quả như thế nào của thực tiễn, dĩ nhiên, có
tác dụng rất quan trọng, nhưng không phải là nhân tố quan trọng duy nhất. Khi thu
được hiệu quả mong muốn, còn phải phân tích hiệu quả đó, chứng minh sự nhất trí
giữa nhận thức với thực tế khách quan, tìm xem còn có chỗ nào không nhất trí. Nếu
không thu được hiệu quả mong muốn, cũng không thể ngay lập tức bác bỏ một cách
hoàn toàn, mà phải tiếp tục kiểm nghiệm lần nữa. Vả lại, vận dụng lý luận vào thực
tiễn còn tuỳ thuộc vào khả năng cụ thể hoá, cá biệt hoá lý luận cho phù hợp với thực
tế, cũng như khả năng tổ chức, lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn của chủ thể. Vận dụng lý
luận một cách rập khuôn, giáo điều, giản đơn hoá lý luận thành những “đơn thuốc”,
những công thức cứng nhắc hoặc năng lực tổ chức thực tiễn hạn chế không bao giờ
đem lại kết quả mong muốn. Từ đó mà phủ nhận, bác bỏ một di sản nào đó thì thật là

sai lầm. Không ít những tư tưởng về chủ nghĩa xã hội của các nhà kinh điển chưa
được thực hiện thành công trong thực tiễn có nguyên nhân từ sai lầm, yếu kém của
chủ thể vận dụng. Kiểm nghiệm qua thực tiễn để đánh giá, nhận thức một di sản nào
đó là điều cần thiết. Tuy nhiên, cần phải thấy được tính phức tạp của cả quá trình
kiểm nghiệm, nếu không sẽ có những đánh giá không khoa học.




(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện trưởng Viện Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh.
(1) V.I.Lênin. Toàn tập, t.26. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 59.
(2) V.I.Lênin. Sđd., t.42, tr. 364.
(3) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.39. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999, tr.

545.
(4)V.I.Lênin. Sđd., t.4, tr. 232



TIẾP TỤC ĐỔI MỚI NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY TRIẾT HỌC Ở NƯ
ỚC
TA

DƯƠNG PHÚ HIỆP(*)

Bài viết tập trung phân tích 6 hướng để khắc phục những yếu kém trong nghiên cứu
và giảng dạy triết học ở nước ta. Đó là: 1. Tiếp tục nghiên cứu triết lý phát triển của
Việt Nam; 2. Triết học cần phải trở thành công cụ sắc bén trong đổi mới nhận thức,
đổi mới phong cách tư duy; 3. Tăng cường nguồn tư liệu gốc và dịch ra tiếng Việt
những tác phẩm triết học của các nhà triết học tiêu biểu; 4. Biên soạn lại giáo trình
triết học theo hướng tăng thêm phần lịch sử triết học trước Mác và triết học hiện
đại; 5. Mở rộng giao lưu, hợp tác với giới triết học nước ngoài; 6. Thành lập Hội

Triết học Việt Nam.

Trước hết, cần khẳng định rằng, trong 20 năm qua, việc nghiên cứu và giảng dạy triết
học ở nước ta đã có những đổi mới nhất định và do đó, đã đạt được những kết quả rất
đáng trân trọng, góp phần đáng kể vào công tác lý luận, đặc biệt là vào việc đổi mới
tư duy của con người Việt Nam. Những thành tựu của giới triết học Việt Nam đã
được phản ánh trên Tạp chí Triết học và trong công trình Nhìn lại 55 năm nghiên cứu
triết học ở Việt Nam: một số vấn đề chủ yếu.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu và giảng dạy triết học vẫn còn yếu kém, bất cập. Nhiều
vấn đề do thực tiễn cuộc sống đặt ra chưa được các nhà triết học nghiên cứu đầy đủ
và do đó, chưa có sự trả lời thoả đáng. Công tác giảng dạy triết học chưa khắc phục

được tình trạng “thầy không thích dạy, trò không thích học”. Cần làm gì để khắc
phục những yếu kém trong nghiên cứu và giảng dạy triết học ở nước ta? Đây là vấn
đề cần được trao đổi kỹ lưỡng. Tôi xin nêu một số hướng dưới đây để chúng ta thảo
luận.
Thứ nhất, để thiết thực đóng góp cho sự phát triển của đất nước, chúng ta cần tiếp
tục nghiên cứu triết lý phát triển của Việt Nam. Tuy đã có một số công trình nghiên
cứu vấn đề này, nhưng đây là vấn đề rất khó, cần tham khảo những triết lý phát triển
của các nước, đặc biệt là phải xuất phát từ thực tế Việt Nam, truyền thống lịch sử, văn
hoá và con người Việt Nam để xây dựng triết lý phát triển thích hợp. Nếu nghiên cứu tốt
vấn đề này, giới triết học nước ta sẽ có đóng góp quan trọng vào việc bổ sung, hoàn
thiện cương lĩnh của Đảng và chiến lược phát triển của Nhà nước.
Thứ hai, cần đánh giá trong 20 năm qua, giới triết học Việt Nam đã làm gì cho việc
đổi mới tư duy. Cần khẳng định rằng, nhờ có sự đổi mới nghiên cứu, giảng dạy và
học tập triết học, chúng ta đã khắc phục một bước lối tư duy siêu hình, duy ý chí, mở
rộng tầm nhìn, tư duy biện chứng. Nhưng, đến nay, phương pháp tư duy của nhiều
cán bộ, đảng viên chưa vươn tới tầm tư duy biện chứng, tư duy lý luận, mà còn dừng
lại ở tư duy cảm tính, chủ nghĩa kinh nghiệm hoặc thực dụng; hơn nữa, những biểu
hiện của chủ nghĩa giáo điều chưa bị quét sạch, vẫn còn hiện tượng bám vào những
luận điểm và quan điểm lỗi thời, sử dụng những khái niệm không còn thích hợp, kiên
trì những công thức cũ trong khi thế giới đã và đang có nhiều thay đổi. Chúng ta

không từ bỏ lý luận Mác - Lênin, nhưng cần dứt khoát từ bỏ thái độ giáo điều đối với
lý luận đó. Tất nhiên, việc khắc phục chủ nghĩa giáo điều không phải là dễ dàng, đơn
giản. Để đóng góp vào sự nghiệp đổi mới nói chung, đổi mới tư duy nói riêng, giới
triết học cần xây dựng phương pháp tư duy khoa học, khắc phục chủ nghĩa giáo điều,
chủ nghĩa chủ quan duy ý chí, phương pháp tư duy siêu hình và cách suy nghĩ giản
đơn, tránh khuynh hướng thiên về những vấn đề lý thuyết suông, kinh viện, có tính
chất hàn lâm viện, “tầm chương trích cú” mà thực chất là dừng lại ở sách vở, không
gắn với thực tiễn; đồng thời, tránh khuynh hướng khái quát thực tiễn vụn vặt, thiếu
tầm lý luận. Triết học phải trở thành công cụ sắc bén trong việc đổi mới nhận thức,

đổi mới phương pháp tư duy, xây dựng ý thức xã hội và nhân cách con người.
Thứ ba, trong những năm qua, chúng ta đã có nhiều cố gắng dịch và giới thiệu
không chỉ tác phẩm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà cả những
tác phẩm của các nhà triết học trước và sau Mác. Đó là việc làm rất đáng hoan
nghênh. Tuy nhiên, việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập triết học ở nước ta vẫn
thiếu nhiều tài liệu gốc và nhất là việc dịch các tài liệu gốc ra tiếng Việt còn quá ít,
không đủ cung cấp cho các nhà nghiên cứu, người làm công tác giảng dạy và người
học những tài liệu gốc cần thiết; do đó, việc giảng dạy và học tập chủ yếu dừng lại ở
sách giáo khoa. Vì vậy, hiện nay rất cần có kinh phí để tiếp tục lựa chọn và dịch
những tác phẩm quan trọng của các nhà triết học lớn từ thời cổ đại đến nay gồm kim,
cổ, Tây, Đông nhằm đem lại các tài liệu gốc phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy
và học tập, khắc phục chủ nghĩa biệt phái. Tất nhiên, đã dịch ra là phải đọc các tài
liệu gốc, nếu không sẽ là một sự lãng phí lớn hoặc chỉ dùng để trang trí.
Thứ tư, tại Đại hội VI, Đảng ta đã nêu nhiệm vụ: “Đổi mới đội ngũ cán bộ giảng
dạy, viết lại sách giáo khoa và đổi mới phương pháp dạy và học”. Sau đó, Thủ tướng
Chính phủ đã ký quyết định thành lập Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo
trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và cấp kinh
phí cho chương trình KX.10 để biên soạn 5 bộ giáo trình, trong đó có giáo trình triết
học Mác - Lênin (được xuất bản năm 1999). Mặc dù Ban biên soạn giáo trình đã có
nhiều cố gắng đổi mới giáo trình, nhưng hiện nay rất cần biên soạn lại giáo trình triết
học theo hướng tăng thêm phần lịch sử triết học trước Mác và triết học hiện đại để
qua đó, có cơ sở nhận thức đúng đắn triết học Mác - Lênin đã kế thừa và phát triển

×