Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

bài nguồn gốc tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (362.71 KB, 63 trang )

Bài 2: NGUỒN GỐC, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
I. Đặt vấn đề
Chủ tịch Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc, người chiến sỹ lỗi
lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, danh nhân văn hóa thế giới.
Người đại diện cho tinh hoa trí tuệ và văn hóa của dân tộc Việt Nam. Người đã
hiến dâng trọn cuộc đời mình cho Tổ quốc; cho cuộc sống âm no, tự do hạnh phúc
của nhân dân. Tư tưởng của Người để lại là tài sản tinh thần vô cùng quý báu của
Đảng và dân tộc ta, là ngon cờ soi đường chỉ lối cho mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam.
Nghiên cứu nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triền của tư tưởng Hồ
Chí Minh là một nhiệm vụ quan trọng để hiểu bản chất tư tưởng của Người, cũng
như thấy được giá trị thời đại to lớn của những tư tưởng đó. Đặc biệt, thấy được
nhân cách vĩ đại của một con người vĩ đại – Hồ Chí Minh.
II. Mục đích, yêu cầu
1. Mục đích
- Về kiến thức: Nêu và phân tích được các yếu tố nguồn gốc hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh, làm rõ mối quan hệ giữa các yếu tố đó. Trình bày khái quát
được các giai đoạn hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Về kỹ năng: Biết nghiên cứu tài liệu, thu thập, xử lý thông tin một cách
khoa học, hợp lý để luận giải, làm sáng tỏ các yếu tố về nguồn gốc, về quá trình
hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Về thái độ
+ Bồi dưỡng tình cảm, lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc về công lao và sự
cống hiến vĩ đại của Hồ Chí Minh, cũng như những giá trị to lớn mà tư tưởng của
Người đã để lại cho Đảng và dân tộc ta.

1


+ Xây dựng niềm tin tưởng vững chắc vào các quan điểm chính thống của


Đảng, nhà nước về tư tưởng Hồ Chí Minh; phê phán, bác bỏ các quan điểm xuyên
tạc sự thật, tầm thường hóa hoặc thần thánh hóa tư tưởng của Người.
2. Yêu cầu
Học viên học tập nghiêm túc, chấp hành tốt kỷ luật, nghe, ghi chép và tích
cực thảo luận nội dung của bài…
III. Nội dung và thời gian
1. Nội dung: gồm 2 phần (trọng tâm phần I)
+ Phần I: Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Phần II: Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
2. Thời gian: toàn bài là 6 tiết
+ Thời gian lên lớp:
+ Thời gian thảo luận, ôn luyện:
IV. Phương pháp
- Giáo viên: Thuyết trình, đàm thoại, nêu vấn đề.
- Học viên: Đọc tài liệu, nghe, ghi chép, thảo luận.
V. Giáo trình, tài liệu
- Giáo trình:
+ Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh – HĐLLTW, Nxb CTQG, H, 2003.
- Tài liệu tham khảo:
+ Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh – Bộ GD&ĐT, Nxb CTQG, H, 2008.
+ Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh – TCCT, Nxb QĐND.
+ Võ Nguyên Giáp: Tư tưởng Hồ Chí Minh quá trình hình thành và phát
triển, Nxb Sự thật, H 1993, tr. 13-31
+ Song Thành (Chủ biên), Hồ Chí Minh tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia, H,
2010.

2


I. NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, mọi học thuyết tư tưởng
ra đời, một mặt là sự kế thừa những tư tưởng học thuyết trước đó, mặt khác là sự
phản ánh quy luật vận động của hiện thực, đồng thời là kết hoạt động nhận thức,
sáng tạo của một con người gắn với phẩm chất, nhân cách cá nhân; phản ánh ý chí,
nguyện vọng của một giai cấp, một dân tộc trong một thời đại nhất định.
Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng không nằm ngoài quy luật đó. Đó chính là sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện thực tiễn cách mạng
Việt Nam; là sự kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc; tiếp thu có chọn lọc
tinh hoa văn hóa nhân loại. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những yếu tố thuộc về nguồn gốc
tư tưởng lý luận.
Sẽ là thiếu sót nếu không đề cập đến những yếu tố thuộc về thực tiễn của thời
đại và những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh. Bởi,
con người ai cũng có tư tưởng nhưng không phải ai cũng trở thành nhà tư tưởng và
không phải tư tưởng của ai cũng có giá trị thời đại. Nói về điều này, Lênin chỉ rõ: “chỉ
xứng đáng với danh hiệu “nhà tư tưởng” khi nào họ đi trước phong trào tự phát, chỉ
đường cho nó, khi nào họ biết giải quyết trước người khác tất cả các vấn đề lý luận,
chính trị, sách lược và các vấn đề về tổ chức mà “những yếu tố vật chất” của phong
trào húc phải một cách tự phát”. Như vậy, V.I.Lênin đã đưa ra một quan niệm mới
về nhà tư tưởng, khác với quan niệm truyền thống hiểu nhà tư tưởng chỉ là người
hay suy nghĩ, hay trầm tư mặc tưởng, chỉ đề xuất ý tưởng mà không hành động.
Nhà tư tưởng theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, phải là người thống
nhất được ý chí và hành động, lý luận và thực tiễn. Tức là phải sử dụng được lực
lượng vật chất trong thực tiễn để thực hiện tư tưởng. Về điều này chỉ có ở những
con người xuất chúng, có phẩm chất và tài năng đặc biệt. Ở Hồ Chí Minh có đầy đủ
những tiêu chí đó và tư tưởng của Người cũng được hình thành trên cả hai phương
diện khách quan (nguồn gốc thực tiễn và nguồn gốc lý luận) và chủ quan (nhân tố
chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh). Do vậy, nghiên cứu
3



nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh phải nghiên cứu trên tất cả các nguồn
gốc trên.
1.1. Nguồn gốc thực tiễn
Thực tiễn xã hội Việt Nam và thế giới là một cơ sở, một nguồn gốc quan
trọng tác động đến sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Bởi vì chính
từ trong hoạt động thực tiễn mà từng bước Hồ Chí Minh đã tìm ra quy luật, khái
quát nhận thức của mình thành lý luận; lý luận ấy lại được thực tiễn vận dụng và
kiểm nghiệm. Do đó, nghiên cứu về nguồn gốc hình thành và phát triển tư tưởng
Hồ Chí Minh, trước tiên là nghiên cứu về nguồn gốc thực tiễn.
Về nguồn gốc thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh, đa số ý kiến khác cho
rằng, thực tiễn ở đây là thực tiễn của đất nước với chính sách cai trị tàn bạo của
chính quyền thực dân ở thuộc địa, sự chống đối mãnh liệt và liên tục của nhân dân
Việt Nam đối với nền thống trị của thực dân Pháp, sự bế tắc về đường lối cứu nước
ở Việt Nam; thực tiễn thế giới với ba mươi năm Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh
sống và hoạt động ở nước ngoài, nhất là ở các trung tâm văn hóa, văn minh thế
giới, đã chứng kiến những biến đổi to lớn trong đời sống chính trị thế giới. Đó
chính là thực tiễn trong nước và thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã tác
động ảnh hưởng to lớn và trở thành nguồn gốc khách quan hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh.
1.1.1. Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
- Xã hội Việt Nam trước khi Pháp xâm lược là xã hội phong kiến độc lập,
nền nông nghiệp lạc hậu, trì trệ. Mâu thuẫn giữa chính quyền phong kiến với nhân
dân ngày càng sâu sắc.
Sau khi đánh bại triều Tây Sơn, chính quyền nhà Nguyễn (1802 - 1845) đã
thi hành chính sách đối nội, đối ngoại bảo thủ, phản động “bế quan tỏa cảng”…
không mở ra khả năng cho Việt Nam cơ hội tiếp xúc và bắt nhịp với sự phát triển
của thế giới. Vì vậy, đã không phát huy được những thế mạnh của dân tộc và đất
nước, không tạo ra tiềm lực vật chất và tinh thần đủ sức bảo vệ Tổ quốc, chống lại
4



âm mưu xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Trong hoàn cảnh đó, mâu
thuẫn giữa tập đoàn phong kiến nhà Nguyễn với nhân dân cả nước – chủ yếu là
nông dân sớm trở nên vô cùng gay gắt và bộc lộ ra ngoài một cách kịch liệt bằng sự
bùng nổ của các cuộc khởi nghĩa nông dân, càng về sau càng lan rộng và nâng cao.
Theo “Đại Nam thực lục” (bộ chính sử triều Nguyễn) thì tổng số những phong trào
đấu tranh lớn nhỏ nổ ra trong thời kỳ trị vì của các hoàng đế đầu thời Nguyễn như
sau:
+ Thời Gia Long (1802 - 1819) có 73 phong trào
+ Thời Minh Mạng (1820 - 1840) có 254 phong trào
+ Thời Thiệu Trị (1841 - 1847) có 58 phong trào
+ Thời Tự Đức (1848 - 1883) chỉ tính riêng trong khoảng 1848 – 1862 (trước
khi ký hòa ước Nhâm Tuất với Pháp) đã có hơn 40 phong trào. Tiêu biểu là các
phong trào của Phan Bá Vành (1821 - 1827) ở Thái Bình với khẩu hiệu “Lấy của
nhà giầu chia cho người nghèo” được nhân dân địa phương tham gia sôi nổi; phong
trào của Lê Duy Dương (1833 - 1834), phong trào Nông Văn Vân (1833 - 1835),
phong trào của Cao Bá Quát (1854 - 1855)...1
- Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam (1-9-1858), xã hội Việt Nam bước
sang giai đoạn mới và trở thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Trong lòng xã
hội thuộc địa, mâu thuẫn mới bao trùm lên mâu thuẫn cũ, nó không thủ tiêu mâu
thuẫn cũ mà là cơ sở để duy trì mâu thuẫn cũ, làm cho xã hội Việt Nam càng thêm
đen tối.
Trong khi nhân dân ta khắp nơi nổi dậy chống Pháp thì để bảo vệ quyền lợi
của mình triều đình nhà Nguyễn vội vàng ký Hiệp ước Nhâm Tuất còn gọi là Hiệp
ước HécMăng (Harmand) (5-6-1862), cắt ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ dâng cho
giặc Pháp, kèm theo những điều khoản nặng nề khác, đánh dấu bước cấu kết đầu
tiên giữa phong kiến cầm quyền với thực dân xâm lược. Sau đó, triều đình ngày
càng sa lầy vào vũng bùn nhượng bộ, cầu hòa với bọn xâm lược. Triều đình tiếp tục
1


Trần Nam Tiến (chủ biên), Hỏi đáp lịch sử Việt Nam, tập 3, Nxb Trẻ, TP HCM, 2009

5


ký Hiệp ước Giáp Tuất (15-3-1874) công khai xác nhận chủ quyền của Pháp trên cả
ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ. Liên tiếp sau đó, triều đình ký liền hai hiệp ước 25-81883 và 6-6-1884 (Hiệp ước Patơnốt) đánh dấu sự đầu hàng của toàn bộ giai cấp
phong kiến Việt Nam trước chủ nghĩa tư bản Pháp, đồng thời cũng đặt cơ sở lâu dài
và chủ yếu cho quyền đô hộ của Pháp ở Việt Nam với 3 chế độ khác nhau ở 3
miền: Nam kỳ là thuộc địa của Pháp, Trung kỳ và Bắc kỳ dưới chế độ bảo hộ.
Trước tình hình đó nhân dân ta ở khắp nơi đã sôi nổi đứng dậy đấu tranh với
quyết tâm “phen này quyết đánh cả Triều lẫn Tây” 2 với nhiều phong trào đấu tranh
theo các hệ tư tưỏng khác nhau.
+ Phong trào đấu tranh theo hệ tư tưỏng phong kiến, tiêu biểu như: Khởi
nghĩa của Trương Công Định (1859 - 1864), Nguyễn Trung Trực (1861 - 1868),
Nguyễn Hữu Huân (1862 - 1875)…, trung tâm phong trào này lại chính là quê
hương Nghệ - Tĩnh với cuộc khởi nghĩa Giáp Tuất do Trần Tấn và Đặng Như Mai
lãnh đạo (1874), được đông đảo văn thân sỹ phu trong tỉnh nhiệt tình hưởng ứng.
Nghĩa quân đã chiếm được tỉnh lỵ Hà Tĩnh cùng nhiều phủ, huyện thuộc Nghệ An,
Hà Tĩnh và đang tìm đường phát triển ra Bắc, vào Nam. Thực dân Pháp và vua
quan phong kiến bối rối kinh hoàng, dồn mọi lực lượng để bóp chết cuộc khởi
nghĩa vào cuối năm 1874.
Riêng ở Hà Nội trong giai đoạn nay có 2 trận đánh lớn của nhân dân chống
Pháp đó là: Trận Cầu Giấy ngày 21-12-1873 của quân Cờ Đen do Lưu Vĩnh Phúc
chỉ huy đã tiêu diệt được tên thiếu tá Hải quân Pháp là Francis Ganier cùng một số
sỹ quan Pháp; Trận phục kích tại Cầu Giấy ngày 19-5-1883 cũng do Lưu Vĩnh
Phúc chỉ huy đã giết chết viên tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Bắc Kỳ Henri Riviere.
Tiếp đó là các cuộc khởi nghĩa vũ trang theo phong trào cần vương do Tôn
Thất Thuyết nhân danh vị hoàng đế trẻ Hàm Nghi đề xướng sau cuộc tấn công tại


2

Vè khởi nghĩa Giáp Tuất, in trong tập: Vè Nghệ - Tĩnh, tập 1, Nxb Văn học, H, 1989

6


kinh thành Huế thất bại. Phong trào kéo dài 10 năm (1885 - 1895) với các cuộc
khởi nghĩa tiêu biểu như:
Khởi nghĩa Hương Khê (1885-1895) của Phan Đình Phùng, Cao Thắng ở
Hương Khê, Hà Tĩnh.
Khởi nghĩa Ba Đình (1886-1887) của Đinh Công Tráng, Phạm Bành ở Nga
Sơn, Thanh Hóa.
Khởi nghĩa Bãi Sậy (1885-1889) của Nguyễn Thiện Thuật ở Hưng Yên.
+ Phong trào đấu tranh theo hệ tư tưởng nông dân: Song song với các phong
trào đấu tranh chống thực dân Pháp do các văn thân sỹ phu yêu nước theo tư tưởng
phong kiến lãnh đạo là các cuộc đấu tranh tự phát của nông dân. Trong đó nổi bật
nhất là phong trào nông dân Yên Thế ở Bắc Giang. Cuộc khởi nghĩa của nông dân
Yên Thế (1884 - 1913) do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Đây là phong trào vũ trang
lớn, kéo dài nhất trong phong trào đấu tranh chống Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX (gần 30 năm), đã gây rất nhiều khó khăn cho Pháp khi chúng bình định Bắc
Kỳ…
+ Phong trào đấu tranh theo hệ tư tưỏng dân chủ tư sản: Đến đầu thế kỷ XX,
ngoài các phong trào cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến, nông dân còn phải kể
đến các phong trào theo khuynh hướng dân chủ tiểu tư sản trong giai đoạn này như:
Phong trào Đông du của Phan Bội Châu (1905 - 1908) với chủ trương cầu viện sự
giúp đỡ của Nhật, ông đã đưa thanh niên xuất dương sang Nhật học, nhờ các đảng
phái, các hội yêu nước tiến bộ của học sinh và chính khách có mặt ở Nhật ủng hộ
cứu nước. Ngoài ra ông còn lập ra Hội Duy Tân (1904) chủ trương vũ trang bạo
động. Tiếp đó, ông thành lập Việt Nam Quang phục hội (1911) với chủ trương

“Đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam, thành lập nước Cộng hòa dân
quốc Việt Nam”. Năm 1924 ông cải tổ Việt Nam Quang phục hội thành Việt Nam
Quốc dân đảng phỏng theo Quốc dân đảng của Tôn Trung Sơn. Sau này Nhật, Pháp
bắt tay với nhau không cho các nhà hoạt động cách mạng Việt Nam và lưu học sinh
ở Nhật nữa, phong trào tan rã.
7


Phong trào Duy Tân (1906 - 1908) do Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng,
Trần Quý Cáp phát động. Đây là phong trào cứu nước theo con đường dân chủ và
cải cách xã hội, bằng việc nâng cao dân trí và dân quyền. Ông đã viết thư yêu cầu
nhà cầm quyền Pháp phải thay đổi thái độ đối với sĩ dân nước Việt và sửa đổi chính
sách cai trị để giúp nhân dân Việt từng bước tiến lên văn minh. Ông đã đi khắp tỉnh
Quảng Nam và các tỉnh lân cận để vận động cuộc duy tân. Khẩu hiệu của phong
trào lúc bấy giờ là: Chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh. (Chấn dân khí: Làm
cho mọi người thức tỉnh tinh thần tự cường, hiểu được quyền lợi của mình, dám tố
cáo sự hà hiếp bóc lột của quan lại và sự nhũng lạm của cường hào... Khai dân trí:
Là bỏ lối học tầm chương trích cú, mở trường dạy chữ Quốc ngữ, kiến thức khoa
học thực dụng, bài trừ hủ tục và thói xa hoa... Hậu dân sinh: Khuyến khích dân học
nghề nghiệp, khai hoang làm vườn, lập hội buôn và sản xuất hàng nội hóa…).
Phong trào Đông kinh nghĩa thục do Lương Văn Can, Nguyễn Quyết lãnh
đạo (3/1907 – 11/1907). Phong trào thành lập trường Đông kinh Nghĩa thục.
Trường có nhiệm vụ truyền bá văn hóa mới, cổ vũ Duy Tân, đề cao truyền thống
yêu nước chống ngoại xâm. Lúc đầu trường hoạt động hợp pháp nhưng sau đó thực
dân Pháp thấy đây là “cái lò phiến loạn” nên đã ra lệnh đóng cửa trường và bắt các
lãnh tụ của Đông kinh Nghĩa thục.
Cuối cùng là cuộc khởi nghĩa Yên Bái (1930) do Quốc dân đảng lãnh đạo mà
lãnh tụ là Nguyễn Tấn Tài và Nguyễn Thái Học.
→ Như vậy, suốt từ năm 1858 đến năm 1930 trên khắp cả nước liên tục có
các phong trào giải phóng dân tộc đứng trên 3 lập trường khác nhau: lập trường

phong kiến với những người lãnh đạo là các quan lại yêu nước; lập trường nông
dân; lập trường tiểu tư sản và tư sản dân tộc. Tuy nhiên tất cả các phong trào đó
đều thất bại. Nguyên nhân trực tiếp của sự thất bại đó là chưa có đường lối chiến
lược, sách lược đúng đắn, vẫn đi theo lối mòn kinh nghiệm chống ngoại xâm xưa
cũ. Do đó, các cuộc khởi nghĩa, các phong trào đấu tranh tuy có diễn ra liên tục,
quyết liệt nhưng đơn độc, cục bộ địa phương không liên kết gắn bó với nhau,
8


không đoàn kết được toàn thể dân tộc nên dễ bị kẻ thù tiêu diệt. Cách mạng giải
phóng dân tộc nước ta lúc này bế tắc, đi vào ngõ cụt tưởng chừng như không có
đường ra. Việc tìm ra một con đường cứu nước mới bây giờ là một đòi hỏi tất yếu
của lịch sử.
- Thực tiễn đó đã tác động, ảnh hưởng đến Nguyễn Tất Thành, hình thành
nên tư tưởng yêu nước và chí hướng cách mạng ở Người.
Nguyễn Tất Thành sinh ra trong cảnh đất nước lầm than dưới ách nô lệ của
thực dân, phong kiến. Vốn là người có lòng yêu nước, thương dân, trước cảnh đau
thương đó của người dân mất nước làm cho cái chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng
đồng bào trong Nguyễn Tất Thành ngày càng được nung nấu. Nguyễn Tất Thành
khâm phục và kính trọng các nhà cách mạng tiền bối, nhưng “không hoàn toàn tán
thành cách làm của một người nào”3. Người cho rằng cách làm của cụ Phan Bội
Châu chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau” 4, cách làm của cụ Phan
Chu Trinh là “xin giặc rủ lòng thương”5, cách làm của cụ Hoàng Hoa Thám “thực
tế hơn, vì trực tiếp đấu tranh chống Pháp” nhưng “cụ còn nặng cốt cách phong
kiến”6. Câu hỏi “làm thế nào để cứu nước” đã sớm được đặt ra trong trí óc của
Người. Và Người đã tìm cho mình một hướng đi đó là quyết định đi sang phương
Tây tìm đường cứu nước. Bối cảnh lịch sử đó chính là nguồn gốc thực tiễn quan
trọng hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.1.2. Thực tiễn thế giới
- Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX chủ nghĩa tư bản đã phát triển từ giai đoạn

tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
+ Đặc điểm chung trong giai đoạn này là diện tích và dân số các nước thuộc
địa lớn gấp nhiều lần so với diện tích và dân số các nước chính quốc. Theo Lênin,
3

8. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Trẻ - Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2005, tr. 12, 13
4
9,10. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Trẻ - Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2005, tr. 12, 13
5
6

11. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Trẻ - Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2005, tr. 12, 13

9


thế giới phân chia đa số (70%) các dân tộc bị áp bức, số ít (30%) các dân tộc đi áp
bức. Hầu hết các dân tộc chậm phát triển ở châu Á, Phi, Mỹ La Tinh đã trở thành
thuộc địa hoặc phụ thuộc các nước đế quốc. Tại Đại hội V quốc tế cộng sản (1924)
Hồ Chí Minh đã đưa ra con số đầy thuyết phục về vấn đề này: thuộc địa của Anh
lớn gấp 252 lần diện tích nước Anh, dân số thuộc địa Anh lớn gấp 8,5 lần dân số
nước Anh. Đế quốc Anh tự cho rằng mặt trời không bao giờ lặn trên đất nước Anh.
Còn nước Pháp thì chiếm một số đất đai rộng gấp 19 lần nước Pháp và số dân ở
thuộc địa Pháp đông hơn số dân ở nước Pháp 16.600.000 người… Tính tổng lãnh
thổ thuộc địa của 9 nước đế quốc (Anh, Pháp, Mỹ, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý,
Bỉ, Hà Lan, Nhật) đã gấp 5 lần lãnh thổ các nước chính quốc, còn số dân các nước
chính quốc chưa bằng 3/5 số dân các nước thuộc địa7.

+ Chủ nghĩa đế quốc đã trở thành một hiện tượng xã hội, một hệ thống trên
toàn thế giới. Chúng vừa tranh giành, xâu xé thuộc địa vừa vào ùa với nhau để nô
dịch các dân tộc nhỏ yếu trong vòng kìm kẹp thuộc địa của chúng. Do đó, thế giới
xuất hiện ba mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản,
mâu thuẫn giữa các nước tư bản – đế quốc với nhau, mâu thuẫn giữa thực dân đế
quốc với các nước thuộc địa và phụ thuộc. Các mâu thuẫn này ngày càng diễn ra
gay gắt, đẩy thế giới vào hai cuộc chiến tranh thảm khốc ( CTTG I: 1914 – 1918 và
CTTG II: 1939 - 1945). Đây chính là hậu quả tất yếu của việc giải quyết mâu thuẫn
giữa các nước tư bản – đế quốc với nhau nhằm chia lại thị trường thế giới và mở
rộng xâm lược thuộc địa.
+ Nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc bị bọn tư bản đế quốc bóc lột
đến tận xương tủy, cuộc sống bị nô lệ lầm than, bị tức hết các giá trị văn hóa, tinh
thần, quyền lợi kinh tế và địa vị xã hội…Mạng sống của họ “không đáng một đồng
trinh”8. Vì vậy, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và
phụ thuộc ngày càng phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên phong trào này chưa gặp được
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế vì bị chính quyền thực dân bưng bít,
7
8

Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, H, 2000, tr 277
Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H, 2000, tr 59

10


ngăn cản; và sự quan tâm chưa đúng mức của Quốc tế Cộng sản. Do đó, phong trào
đấu tranh giải phóng dân tộc dâng cao nhưng đều bị thất bại trước sự đàn áp dã
man của bọn xâm lược. (Việt Nam cũng rơi vào tình cảnh đó).
- Lênin bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác thành chủ nghĩa Mác – Lênin,
đồng thời lãnh đạo cách mạng tháng Mười Nga thành công (1917), xây dựng nhà

nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, mở ra một thời đại mới, thời đại quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Nước Nga Xô Viết dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đã đánh bại chủ
nghĩa phát xít Đức trong đại chiến thế giới thứ II, giải phóng nhiều nước Đông Âu,
hình thành phe XHCN. Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi đánh dấu sự chiến
thắng của giai cấp công nhân, trực tiếp tạo điều kiện thúc đẩy việc thành lập Quốc
tế Cộng sản.
Trong bài Cách mạng tháng Mười vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho
các dân tộc, Hồ Chí Minh nhận xét: “Giống như mặt trời chói lọi, cách mạng tháng
Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên
trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to
lớn và sâu sắc như thế. Cách mạng tháng mười là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa
Mác và học thuyết Lênin ở một nước lớn là Liên Xô, rộng một phần sáu thế giới” 9.
Hay là “Cách mạng tháng Mười đã mở đường giải phóng cho giai cấp lao động và
cho các dân tộc bị áp bức khắp thế giới. Cách mạng tháng Mười đã soi sáng cho họ
một tương lai vẻ vang, hoà bình và hạnh phúc, không có người bóc lột người,
không có dân tộc này bóc lột dân tộc khác” 10. Hoặc là “Cách mạng tháng Mười mở
đường cho phong trào cách mạng vô sản toàn thế giới tiến lên và đã khuyến khích
giúp đỡ các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc phát triển mạnh và thành công to
lớn”11.

9

Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, H, 2000, tr 300
Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, H, 2000, tr 375
11
Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 9, Nxb CTQG, H, 2000, tr 258
10

11



- Tháng 3/1919 Lênin thành lập quốc tế III (Quốc tế Cộng sản), từ đây
phong trào đấu tranh của công nhân và phong trào giải phóng dân tộc của các
nước thuộc địa có tổ chức lãnh đạo thống nhất.
+ Quốc tế I (Liên minh công nhân quốc tế) (1864 - 1876), do Các Mác thành
lập. Lịch sử của Quốc tế I là lịch sử đấu tranh khốc liệt của Mác, Ăngghen và các
đồ đệ để bảo vệ chủ nghĩa cộng sản khoa học chống các thuyết tiểu tư sản của Pơ –
Ru Đông, Lát – Xan, Ba – Cu – Nin.
+ Quốc tế II (Liên minh quốc tế của các Đảng xã hội) (1889 - 1895). Từ năm
1985 trở về trước Quốc tế do Ăngghen chỉ đạo cho nên nó là một tổ chức vô sản
phát triển trên cơ sở của chủ nghĩa Mác. Nó đã góp phần tuyên truyền chủ nghĩa
Mác, tập hợp lực lượng của giai cấp công nhân, xây dựng mối liên hệ giữa các đảng
công nhân. Sau năm 1895, khi Ăngnghen mất, cơ quan lãnh đạo của QTII rơi vào
tay các phần tử cơ hội, bọn này đi theo con đường xét lại học thuyết các mạng của
Mác, dẫn đến chia rẽ trong nội bộ. Có 3 trào lưu trong QTII: Cánh hữu gồm những
phần tử xã hội sô - vanh trắng trợn (Pở - lê – kha – nốp, Sây – đe – man, Ren – nê –
rơ, Van – đéc – ven – đê…); Phái giữa gồm Cau – ski, Tơ – rốp – ski, Mác – tốp,
Át – le – rơ…; Phái tả là những người theo chủ nghĩa quốc tế gồm Đảng Bôn – sê –
vích… Năm 1919, Lênin và những người Bôn – sê – vích thành lập ra Quốc tế III.
Năm 1923 những người theo phái hữu khôi phục lại QTII. Năm 1924, những người
theo phái giữa cũng thành lập ra QTII rưỡi.
+ Quốc tế III (Quốc tế cộng sản) (1919 - 1943). Một tổ chức cách mạng quốc
tế, trung tâm lãnh đạo phong trào công nhân thế giới do Lênin sáng lập. Cương lĩnh
của QTCS quy định rằng: Nhiệm vụ lịch sử của quốc tế là tranh thủ đa số giai cấp
công nhân và quần chúng lao động cơ bản về phía chủ nghĩa cộng sản, thay thế chế
độ tư bản chủ nghĩa bằng chế động xã hội chủ nghĩa, tiêu diệt chế độ người bóc lột
người.
Lênin chỉ rõ, chỉ có nền dân chủ tư sản và nền dân chủ vô sản, không có nền
dân chủ thứ ba. Dân chủ vô sản là nền dân chủ cao nhất. Do vậy, nhiệm vụ của

12


Quốc tế III là phải xác lập được nền dân chủ vô sản. Sự thành lập Quốc tế Cộng sản
có ý nghĩa quan trọng đặc biệt đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Nó góp phần đẩy nhanh sự hình thành các đảng cộng sản ở nhiều nước. Năm 1918,
các Đảng cộng sản Hung-ga-ri, Đức, Ba Lan, Phần Lan, Áo, Hà lan, Hy Lạp được
thành lập. Ở một số nước khác, nhiều nhóm cộng sản xuất hiện và lớn mạnh… ĐH
I QTCS (1919) có 8 đảng và nhóm cộng sản thì đến ĐH VII (1935) QTCS đã có 76
đảng, trong đó có 22 đảng hợp pháp.
Quốc tế III ra đời đánh dấu sự thắng lợi của chủ nghĩa Mác – Lênin với chủ
nghĩa cơ hội - xét lại. Tất cả các đảng cách mạng chân chính đã đoàn kết dưới ngon
cờ Quốc tế III – trung tâm lãnh đạo phong trào cộng sản và công nhân quốc tế là
Đảng Bônsêvích Nga và Lênin.
Lênin đã thấy rõ mối quan hệ giữa phong trào cộng sản thế giới và cách
mạng giải phóng dân tộc thuộc địa, chỉ ra con đường giải phóng các dân tộc, thuộc
địa và phụ thuộc với khẩu hiệu nổi tiếng “Vô sản tất cả các nước, các dân tộc bị áp
bức đoàn kết lại”. Đây chính là con đường giải phóng dân tộc thuộc địa đã được
Lênin chỉ ra về cơ bản. Vấn đề là ở chỗ các nước thuộc địa và phụ thuộc có nhận ra
được hay không?
- Tình hình các nước châu Á:
Sau cuộc cải cách Thiên Hoàng Minh trị (1866-1869), nước Nhật phát triển
theo con đường Tư bản chủ nghĩa. Các nước châu Á còn lại trở thành thuộc địa
hoặc phụ thuộc của Pháp.
Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước châu Á cũng diễn ra
mạnh mẽ, nhưng cũng rơi vào bế tắc…
→ Bối cảnh thế giới trên đây đã được Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh
nghiên cứu, tìm hiểu ngay khi còn ở Việt Nam và hơn 30 năm bôn ba khắp thế giới.
Kinh nghiệm thành công và thất bại của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế;
của phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc chính là cơ sở

thực tiễn cho việc hình thành và phát triển tư tưởng của Người sau này.
13


1.2. Nguồn gốc lý luận
- Về nguồn gốc lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh, một số quan điểm cho
rằng, có hai nhân tố là học thuyết Mác – Lênin và tư tưởng yêu nước, văn hóa
truyền thống của dân tộc Việt Nam. Nhưng phổ biến hơn là quan điểm cho rằng, có
ba nguồn gốc lý luận chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh đó là: chủ nghĩa yêu nước
và truyền thống văn hóa, nhân ái Việt Nam; tinh hoa văn hóa phương Đông,
phương Tây; chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Về vai trò và vị trí của mỗi yếu tố, có người nhấn mạnh văn hóa dân gian
và dân tộc Việt Nam là nguồn gốc quan trọng nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh, có
người lại khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của các giá trị văn minh nhân loại đối
với việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Ý kiến khác cho rằng, văn hóa dân tộc
là cơ sở, nền tảng tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh. Nhưng phần lớn các quan
điểm đều nhất trí cho rằng “chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc chủ yếu nhất”, “là
cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh”. Chính nhờ có
thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin mà Hồ Chí Minh đã
hấp thụ và chuyển hóa được những nhân tố tích cực và tiến bộ của truyền thống dân
tộc cũng như tư tưởng và văn hóa nhân loại để tạo nên hệ thống tư tưởng của mình.
1.2.1. Truyền thống văn hóa dân tộc.
- Dân tộc Việt Nam trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữa nước
đã tạo lập cho mình một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững với nhiều
truyền thống tốt đẹp và cao quý. GS Trần Văn Giàu đã nêu lên bảy giá trị truyền
thống của dân tộc Việt Nam là yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan,
thương người, vì nghĩa, qua đó khẳng định: Hồ Chí Minh là kết tinh của các giá trị
truyền thống và đạo đức cách mạng Việt Nam.
- Còn các nhà nghiên cứu khác lại thống nhất quan điểm về bốn truyền thống
tốt đẹp của dân tộc đã góp phần tác động đến việc hình thành tư tưởng Hồ Chí

Minh đó là: chủ nghĩa yêu nước và tinh thần bất khuất trong đấu tranh dựng nước
và giữ nước; truyền thống nhân nghĩa, tương thân, tương ái, cố kết cộng đồng;
14


truyền thống lạc quan yêu đời; truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng
tạo, hạm học hỏi và không ngừng mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa nhân
loại.
1. Chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước.
- Trong những truyền thống trên, chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu
tranh để dựng nước và giữ nước là dòng chủ lưu chảy xuyên suốt trường kỳ lịch sử
Việt Nam, là chuẩn mực cao nhất đứng đầu bảng giá trị văn hóa – tinh thần Việt
Nam. Mọi học thuyết đạo đức, tôn giáo nước ngoài du nhập vào Việt Nam đều
được tiếp nhận khúc xạ qua lăng kính của tư tưởng yêu nước đó. Chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam là giá trị thiêng liêng nhất, là cơ sở cho ý chí, hành động cứu nước
và xây dựng đất nước của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.
- Cơ sở hình thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam: Từ công cuộc lao động
xây dựng đất nước, phát triển nghề trồng lúa nước, đoàn kết chống lại thiên tai, bảo
vệ mùa màng; từ yêu cầu chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc.
- Nội dung cơ bản của chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam là: Yêu
quê hương, yêu đồng bào; tự hào về lịch sử vẻ vang và nền văn hóa Việt Nam; độc
lập dân tộc là mục tiêu và nghĩa vụ của mọi thế hệ người Việt Nam; ý thức sâu sắc
về chủ quyền quốc gia và kiên quyết bảo vệ vững chắc chủ quyền đó; niềm tự tôn
tự hào dân tộc được đặc biệt coi trọng.12
+ Do có vị trí chiến lược trọng yếu “đầu cầu lục địa và hải cảng giao tiếp” vô
cùng quan trọng ở Đông Dương và Đông Nam Á, lại có nguồn tài nguyên thiên
phong phú, đã tạo cho nước ta nhiều lợi thế trong phát triển, giao lưu kinh tế, văn
hoá, xã hội. Nhưng cũng chính vị lợi thế đó mà Tổ quốc ta từ trước đến nay đã trở
thành mục tiêu xâm lược của nhiều nước lớn trong khu vực và trên thế giới. Bởi
vậy, ngay từ buổi đầu dựng nước, nhiệm vụ chống giặc ngoại xâm đã trở nên ngày

càng cấp thiết. Dựng nước đi đôi với giữ nước trở thành quy luật tồn tại và phát
triển của dân tộc ta. Thực tế cho thấy, nạn ngoại xâm là mối đe dọa thường xuyên
12

Nguyễn Trọng Phúc (chủ biên), Giáo trình Lịch sử Việt Nam, Nxb CTQG, H, 2001

15


và nguy hiểm nhất đối với sự sống còn của dân tộc ta. “Không có gì quý hơn độc
lập tự do”, câu nói sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất hiện ở thế kỷ XX, nhưng
chủ nghĩa yêu nước mà cốt lõi là độc lập tự do thì đã có từ lâu. Chính vì thế, mỗi
khi đất nước có giặc ngoại xâm thì nhân dân ta lại đứng lên đấu tranh bảo vệ Tổ
quốc.
+ Nhìn lại lịch sử dân tộc, kể từ cuối thế kỷ thứ III trước công nguyên đền
nay, tức là từ cuộc kháng chiến chống quân Tần xâm lược của Thục Phán – An
Dương Vương (214-208 trCN) cho đến cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu
nước. Trong 22 thế kỷ ấy thì dân tộc ta đã có tới 12 thế kỷ với gần 20 cuộc chiến
tranh chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc, cùng với hàng trăm cuộc khởi nghĩa và
chiến tranh giải phóng khác. Đặc biệt, trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân
tộc ta, cha ông ta luôn luôn phải chống lại kẻ thù mạnh hơn nhiều lần về kinh tế và
quân sự. Điều đáng lưu ý ở đây là độ dài thời gian và tần số xuất hiện các cuộc
kháng chiến chống giặc giữ nước và chiến tranh giải phóng ở Việt Nam là đại
lượng quá lớn so với nhiều nước khác trên thế giới. Song với tinh thần yêu nước, ý
chí kiên cường, mưu trí, sáng tạo, cha ông ta đã đánh thắng tất cả kẻ thù xâm lược,
viết nên những trang sử hào hùng của dân tộc.
+ Thực tiễn đã chứng minh từ văn hóa dân gian đến văn hóa bác học; từ
những nhân vật trong truyền thuyết như Thánh Gióng, Sơn Tinh, Thủy Tinh… đến
những nhân vật có tên tuổi sáng ngời trong lịch sử như Hai Bà Trưng, Ngô Quyền,
Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung… đều đã

phản ánh một cách hùng hồn và đậm nét chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Đó là động
lực to lớn nhân lên gấp bội sức mạnh dân tộc để chiến thắng nhiều kẻ thù xâm lược
hùng mạnh làm nên biết bao chiến công lẫy lừng.
+ Mặt khác, trong lịch sử Việt Nam, mỗi khi đất nước ở vào thời điểm hiểm
nghèo, thì với tinh thần yêu nước nồng nàn, các dân tộc trong cộng đồng dân tộc
Việt Nam dù là Kinh, Mường hay Dao, Tày hay Nùng … trăm họ đều đứng lên cố
kết một lòng chiến đấu. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: “Dân ta có
16


một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay,
mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi. Nó kết thành một làn sóng
vô cùng mạnh mẽ, to lớn. Nó nhấn chìm tất cả bè lũ bán nước và lũ cướp nước” 13.
Thật vậy, ở Việt Nam hầu như không có xung đột dân tộc, sắc tộc hay tôn giáo,
mặc dù chúng ta có 54 dân tộc anh em và nhiều tôn giáo khác nhau. Trong khi đó
trên thế giới đã và đang xẩy ra nhiều cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo đẫm máu như:
ở Nam Sudan hay ở Thổ Nhĩ Kỳ, Kyrgyzstan, Pakistan, gần chúng ta có Indonexia,
Thái Lan.
+ Cũng nhờ truyền thống yêu nước mà dân tộc Việt Nam đã tồn tại và phát
triển, sự nghiệp dựng nước và giữ nước cũng như vấn đề giải phóng dân tộc và vấn
đề dân chủ của đất nước được giữ vững. Bởi kẻ thù từ phương Bắc hay phương Tây
trong khi xâm lược và thống trị, bao giờ chúng cũng tìm cách thôn tính hay đồng
hóa dân tộc ta. Thế nhưng trải qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc
ta luôn có sức sống mãnh liệt và phát triển liên tục. Đúng như Gớt Hôn – một chính
khách Mỹ đã nhận xét: “Dân tộc Việt Nam chưa bao giờ bị đánh bại, mà thực tế họ
đã đánh bại mọi cuộc xâm lăng”14. Trong lịch sử nhân loại, một dân tộc như dân tộc
Việt Nam không phải là phổ biến, nhiều quốc gia trên thế giới đã bị xóa sổ, nhiều
dân tộc từ đa số trở thành “thiểu số” hoặc diệt vong. Chẳng hạn như: 2 quốc gia
được nhiều nước thừa nhận, nhưng thực tế không độc lập: Palestine và Tây Sahara;
6 quốc gia thực tế độc lập nhưng không được cộng đồng quốc tế thừa nhận:

Abkhazia, Bắc Kibris (riêng nước này được duy nhất Thổ Nhĩ Kỳ công nhận),
Nagorno-Karabakh, Nam Ossetia, Somaliland, Transnistria.
+ Chính sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã thúc đẩy Nguyễn
Sinh Cung sau này là Nuyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Đó cũng là động
lực tư tưởng, tình cảm chi phố mọi suy nghĩ, hành động của Người trong suốt cả
cuộc đời mình. Người đặt cho mình cái tên Nguyễn Ái Quốc – tức là yêu nước, để
luôn nhắc nhở, cổ vũ bản thân và cổ vũ quốc dân đồng bào. Đó cũng chính là cơ sở
13
14

Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, H, 2000, tr 171
Thế giới ca ngợi và thương tiếc Hồ Chủ tịch, nxb sự thật, H, 1971, t3, tr. 176.

17


tư tưởng đã dẫn Người đến với chủ nghĩa Mác – Lênin.
2. Truyền thống nhân nghĩa, tương thân, tương ái, cố kết cộng đồng.
Nhân nghĩa chính là sự yêu thương giữa con người với con người “cốt yếu
của Nhân là yêu thương con người”. Người Việt Nam luôn trọng nhân nghĩa, luôn
đồng cảm với nỗi đau của người khác, sẵn sàng nhường cơm xẻ áo cho nhau với
tinh thần “lá lành đùm lá rách”, “thương người như thể thương thân”, “ một con
ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”, hay “ bầu ơi thương lấy bí cùng/ tuy rằng khác giống
nhưng chung một giàn”, hàng xóm láng giềng yêu thương nhau, tối lửa tắt đèn có
nhau để tạo nên sự gắn bó lâu dài. Sống theo phương châm “mình vì mọi người
mọi người vì mình”, tôn trọng những người có công với dân với nước.
Truyền thống này cũng hình thành cùng với sự hình thành dân tộc, từ hoàn
cảnh và nhu cầu đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và giặc ngoại xâm. Bước sang
thế kỷ XX, mặc dù xã hội Việt Nam đã có sự phân hóa về giai cấp, truyền thống
này vẫn còn rất bền vững. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát huy sức mạnh của

truyền thống nhân nghĩa, trong bài thơ “Mười chính sách của Việt Minh” năm
1941, Hồ Chí Minh nhấn mạnh bốn chữ “đồng”:
“Khuyên ai xin nhớ chữ đồng,
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”15
3. Truyền thống lạc quan, yêu đời.
Trong muôn nguy, ngàn khó, người dân Việt Nam vẫn luôn động viên, nhắc
nhở nhau “chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo”, “còn da lông mọc, còn chồi nảy
cây”. Tinh thần lạc quan đó có cơ sở từ niềm tin vào sức mạnh của bản thân mình,
tin vào sự tất thắng của chân lý, chính nghĩa, dù trước mắt còn đầy gian truân, khổ
ải phải chịu đựng, vượt qua.
Hồ Chí Minh chính là hiện thân của truyền thống lạc quan đó. Trải qua bao
đắng cay vất vả, Người luôn có niềm tin vào tương lai. Trong cuộc đời Hồ Chí
Minh, dù trải qua muôn vàn khó khăn nhưng tinh thần lạc quan, yêu đời vẫn luôn
15

T3, tr.206

18


tràn trề: “Hết mưa là nắng hửng lên trời”; “Thân thể ở trong lao/ Tinh thần ở ngoài
lao/ Muốn lên sự nghiệp lớn/ tinh thần càng phải cao”; hay “Ví không có cảnh đông
tàn/Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân”. Người tin vào sự thắng lợi của cuộc
cách mạng của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, trong
Di chúc, Người đã khẳng định: “cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân
dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi
hoàn toàn.Đó là một điều chắc chắn”, “Nay tuy châu chấu đá voi/ Nhưng mai voi
sẽ bị lòi ruột ra”.
4. Truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo, ham học hỏi và
không ngừng mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa nhân loại.

+ Do gắn liền với nền nông nghiệp lúa nước và hoàn cảnh luôn đối phó với
giặc ngoại xâm đã hình thành nên phong cách cần cù và anh dũng kiên cường.
Cuộc đời Hồ Chí Minh là một minh chứng cho sự cần cù, anh dũng bất khuất: từ
nhỏ Người tự thân vận động, nuôi em trai còn nhỏ khi mẹ mất sớm, bố đi xa. Ra đi
tìm đường cứu nước bằng hai bàn tay trắng, khi ra nước ngoài thì làm nhiều công
việc như vẽ thuê, bưng bê, quét tuyết, đốt lò ở trung tâm sưởi ấm thành phố. Đến
khi về nước thì tham gia sản xuất, nuôi cá làm vườn, là một vị Chủ tịch nước nhưng
Người không cần thư ký riêng mà tự mình viết tay, đánh máy. Suốt cuộc đời Bác là
mẫu mực cho một tinh thần trung với nước, hiếu với dân, cần kiệm liêm chính, chí
công vô tư.
+ Từ xa xưa, người Việt Nam đã đề cao tinh thần ham học hỏi: “nửa bụng
chữ bằng 1 hũ vàng”, “không thầy đố mày làm nên”... Vì thế, dân tộc ta luôn mở
rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa nhân loại, từ Nho, Phật, Lão của phương Đông
đến tư tưởng- văn hóa hiện đại phương Tây. Nhờ vị trí thuận lợi, ở giữa đầu mối
của sự giao lưu văn hóa Bắc- Nam và Đông- Tây, Người Việt Nam từ xưa đã rất xa
lạ với đầu óc hẹp hòi, thủ cựu. Trên cơ sở giữ vững bản sắc của dân tộc, nhân dân
ta đã biết chọn lọc, tiếp thu, cải biến những cái hay, cái tốt, cái đẹp của người thành
những giá trị riêng của mình. Hồ Chí Minh là hình ảnh sinh động và trọn vẹn của
19


truyền thống đó. Trong bài Đông Dương, phần chính sách ngu dân, Hồ Chí Minh
đã khái quát: “Người An Nam rất hiếu học. Trong các tầng lớp xã hội, người sĩ phu
chiếm địa vị hàng đầu”16. Sau này, trong Những nhiệm vụ cấp bách của nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà (3/9/1845), Người xác định nhiệm vụ thứ 2/6 là “một
dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn
mù chữ”17.
→ Như vậy, có thể nói truyền thống văn hóa Việt Nam mà nổi bật là chủ
nghĩa yêu nước là một trong những nguồn gốc chủ yếu, là cội nguồn lý luận đầu
tiên của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đúng như Người đã nói: “Lúc đầu chính là chủ

nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin
theo Quốc tế thứ ba”18. Và “Tôi kính yêu Lênin vì Lênin là người yêu nước vĩ đại
đã giải phóng đồng bào mình, trước đó tôi chưa hề đọc một cuốn sách nào của
Lênin viết”.
1.2.2. Tinh hoa văn hoá nhân loại
Ngoài truyền thống văn hóa dân tộc, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh còn
học hỏi, tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân loại như Nho giáo, Phật giáo, Lão
giáo… của phương Đông; tư tưởng dân chủ, nhân văn của văn hóa Phục hưng, của
các cuộc cách mạng tư sản phương Tây.
 Về văn hoá phương Đông
Hồ Chí Minh đã tiếp thu có chọn lọc tư tưởng của Nho giáo, Phật giáo và các
tư tưởng tiến bộ khác của văn hoá phương Đông.
- Nho giáo:
Nho giáo còn gọi là Khổng giáo do Khổng Tử (551 – 479 trCN) ở Trung
Quốc sáng lập, được các học trò của ông (Tử Tư, Mạnh Tử, Tuân Tử, Tăng Tử…)
phát triển. Nho giáo không phải là một tôn giáo mà là một khoa học về kinh

16

Hå ChÝ Minh Toµn tËp, tËp 1, Nxb. CTQG, H.2009, tr. 395.
Hå ChÝ Minh Toµn tËp, tËp 4, Nxb. CTQG, H.2009, tr. 8.
18
Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, H, 2000, tr 128
17

20


nghiệm, về đạo đức, về phép ứng xử trong gia đình và xã hội để xây dựng một xã
hội thịnh trị, an ninh, hòa mục - tức là một xã hội có tôn ti trật tự.

+ Nho giáo vào Việt Nam từ rất sớm, vào khoảng thế kỷ thứ I trCN, là thời
điểm nước ta bắt đầu chịu sự xâm chiếm của giặc phương Bắc (179trCN - 905),
đây chính là thời kỳ 1000 năm Bắc thuộc. Trong thời gian này, mặc dù kẻ thù đã
dùng mọi cách để đồng hóa dân tộc ta như truyền bá những phong tục, nghi lễ
phong kiến Trung Quốc, mở trường dạy chữ Hán…vv. Song với truyền thống yêu
nước nồng nàn chúng ta không những không bị đồng hóa mà còn tiếp biến chúng
thành văn hóa Việt Nam, trong đó Nho giáo đã trở thành Nho giáo yêu nước Việt
Nam.
+ Sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, ngay từ nhỏ Hồ Chí Minh đã
được học chữ Hán với những nhà nho yêu nước, đã tiếp thu những triết lý đạo đức
Khổng – Mạnh qua các tác phẩm kinh điển của Nho giáo (Tứ thư gồm bốn quyển
sách là Đại Học: một chương trong Kinh Lễ; Trung Dung: một chương khác trong
Kinh Lễ; Luận Ngữ: cuốn sách ghi chép lại những lời dạy của Khổng Tử và do học
trò của ông ghi chép lại; Mạnh Tử: sách ghi chép lại những cuộc đối thoại của
Mạnh Tử và một số vị vua trong thời kỳ ông sống. Bốn bộ sách này được các học
trò của Khổng Tử biên soạn sau khi ông mất. Lục kinh gồm có Kinh Thi, Kinh
Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất
lạc nên chỉ còn năm bộ kinh nên thường được gọi là Ngũ kinh). Mặt khác, Người
cũng đã từng sống ở kinh thành Huế, nơi ngự trị của vua chúa nhà Nguyễn vốn
sung bái Nho giáo nên Người càng chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của các tư tưởng
Nho giáo.
+ Những kiến thức Hán học mà người tiếp thu được từ nhỏ đã ăn sâu vào trí
nhớ, để lại những dấu ấn sâu sắc trong tư tưởng, tình cảm của Người đến mãi về
sau này. Không có gì là lạ trong nhiều bài nói, bài viết của mình, Người đã sử dụng
có cải biến các khái niệm, các mệnh đề tích cực của Nho giáo để diễn tả tư tưởng
của mình như: triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo, giúp đời; triết lý
21


nhân sinh, tu thân, dưỡng tính; đề cao văn hoá, lễ giáo, tinh thần hiếu học…

Đây là tư tưởng tiến bộ hơn hẳn của Nho giáo so với các học thuyết cổ đại.
Ví dụ: “Trung – Hiếu”…; hoặc là Nho giáo đề cập đến con người phải có 5
chữ tức là Ngũ thường (Nhân - Nghĩa – Lễ - Trí - Tín), Hồ Chí Minh đã phát triển
và chỉ ra 5 tiêu chuẩn của người cán bộ đó là (Nhân - Nghĩa - Trí - Dũng - Liêm)
hoặc Người chỉ ra 6 yêu cầu của người làm Tướng (Trí - Nhân - Dũng - Tín - Liêm
- Trung); hoặc là các tư tưởng “Tứ hải giai huynh đệ”, “Dân vi quý, xã tắc thứ chi,
quân vi khinh”, “Cần, kiệm, liêm, chính”... hay quan điểm: “Tiên thiên hạ chi ưu
nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc” đã được Hồ Chí Minh tiếp thu để giáo dục cán
bộ, đảng viên. Tiếp thu các tư tưởng tiến bộ của Nho giáo, Người dạy rằng: “Người
An Nam chúng ta muốn hoàn thiện mình về mặt tinh thần hãy đọc các tác phẩm của
Khổng Tử, muốn hoàn thiện về phương pháp cách mạng hãy đọc các tác phẩm của
Lênin”.
+ Nguyễn Sinh Cung – Nguyễn Tất Thành được học tập chữ Hán với các
thầy vốn là những nhà nho yêu nước (ông Nguyễn Sinh Sắc, thầy Vương Thúc
Quý…). Đạo đức Nho giáo thấm vào tư tưởng tình cảm của Người không phải là
những giáo điều “tam cương”, “ngũ thường” (Nho giáo quan niệm danh phận của
mỗi người do các mối quan hệ quy định, mỗi mối quan hệ gọi là một Luân. Nho
giáo chọn ra 5 Luân cơ bản là: Vua – Tôi, Cha – Con, Chồng – Vợ, Anh – Em, Bạn
– Bè. Trong đó 3 mối quan hệ đầu được cho là mối quan hệ chính còn gọi là cương.
Tam cương là Quân vi thần cương, Phụ vi tử cương, Phu vi thê cương. Tam tòng
là: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Tứ đức: Công, dung, ngôn,
hạnh) nhằm bảo vệ tôn ti trật tự phong kiến mà là tinh thần nhân nghĩa, đạo tu thân,
sự ham học hỏi, đức tính khiêm tốn, ôn hòa, cách xử thế có lý có tình…
+ Trong khi tiếp thu những yếu tố tích cực của nho giáo, Hồ Chí Minh đã
phê phán loại bỏ các yếu tố thủ cựu, tiêu cực của học thuyết này như: tư tưởng
phân chia đẳng cấp quân tử và tiểu nhân, trọng nam khinh nữ, chỉ đề cao nghề
đọc sách coi thường lao động chân tay… Những quan điểm đó hoàn toàn xa lạ với
22



tư tưởng Hồ Chí Minh: đấu tranh cho một xã hội bình đẳng, dân chủ, tôn trọng lao
động, tôn trọng phụ nữ, chủ trương nam nữ bình quyền… Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
“Đạo đức cũ và đạo đức mới khác nhau nhiều. Đạo đức cũ như người đầu ngược
xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như hai chân đứng vững dưới đất, đầu
ngửng lên trời”. Chính Hồ Chí Minh là người đã đảo thế đứng đó, cũng như Mác –
Ăngghen tiếp thu phép biện chứng duy tâm của Hêghen và đặt lại phép biện chứng
đó trên cái nền duy vật.
→ Như vậy, một mặt Hồ Chí Minh tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của Nho
giáo, một mặt Người phê phán loại bỏ những yếu tố lạc hậu tiêu cực để phát triển
thành những chuẩn mực mới về đạo đức và phép ứng xử của cán bộ, đảng viên và
nhân dân trong thời đại mới. Cũng chính những chuẩn mực đạo đức này đã là hành
trang góp phần quan trọng làm nên nhân cách vĩ đại của Hồ Chí Minh sau này.
- Phật giáo:
Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới (các tôn giáo lớn khác
là Do Thái giáo, Ki - tô giáo và Hồi giáo, và Ấn Độ giáo). Phật giáo được một nhân
vật lịch sử là Tất - đạt - đa (Thích Ca Mâu Ni 566, 563 – 486, 483trCN) sáng lập
khoảng thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, và Phật - đà hay Bụt - đà (người Việt gọi
đơn giản là Phật) có nghĩa là “người tỉnh thức”, "người giác ngộ" là danh hiệu mà
Ngài có được sau khi giác ngộ, thành đạo. Giáo lý mà Ngài dạy và sau này để lại
cho đời được gọi là Phật pháp. Cơ sở tư tưởng của Phật giáo là Tứ diệu đế (Khổ đế,
Tập đế, Diệt đế và Đạo đế), đây là cốt lõi giáo pháp của đạo Phật, và cũng là điều
mà Phật đã chứng ngộ lúc đạt đạo. Bốn chân lý này chính là câu trả lời cho câu hỏi
của thời đại lúc đó là: Tại sao con người cứ bị trói buộc trong luân hồi và liệu con
người có cơ hội thoát khỏi nó hay không?
Trả lời câu hỏi này Phật giáo cho rằng: Đời là bể khổ, nước mắt chúng sinh
nhiều hơn nước biển (Bể khổ gồm có 8 nỗi khổ: Sinh, lão, bệnh, tử khổ, sở cầu bất
đắc khổ, ái biệt ly khổ, oán tăng hội khổ, ngũ thủ uẩn khổ = Khổ đế; Nguyên nhân
của cái khổ là do dục vọng: tham, sân, si mà ra tức là tham lam, bực tức, thù hằn,
23



oán ghét, mê muội, ngu si = Tập đế; “Giận nên mà phát cơn điên, người khôn hóa
dại, người lành hóa ngu”; Để thoát được cái khổ luân hồi đó thì con người phải diệt
nguyên nhân của nỗi khổ tức là diệt tham, sân, si để đi lên cõi Niếp bàn sống thanh
thản, an nhàn = Diệt đế; Đạo đế là con đường để đi đến Niếp bàn có nhiều đường
tùy căn cơ của từng người, nhưng có tám con đường cơ bản gọi là Bát chính đạo:
Chính kiến (nhìn nhận rõ chân tướng sự vật), Chính tư duy (suy nghĩ đúng đắn),
Chính ngữ (lời nói ngay thẳng, không nói dối), Chính nghiệp (tạo dựng sự nghiệp
đúng đắn, không sát sinh…), Chính mệnh (nuôi sống bản thân bằng nghề chính
đáng), Chính tinh tiến (cố gắng làm điều thiện), Chính niệm ( tư tưởng trong sạch),
Chính định ( tập trung tư tưởng).
Phật giáo vào Việt Nam từ sớm, ngay từ đầu Công Nguyên (với câu chuyện
Chử Đồng Tử học đạo của một nhà sư Ấn Độ. Do được tiếp thu Phật giáo trực tiếp
từ Ấn Độ nên từ “Buddha” được phiên âm là “Bụt”, sau này vào thế kỷ thứ 4-5 do
ảnh hưởng của Phật giáo đến từ Trung Quốc nên “Bụt” đổi thành “Phật” bởi
“Buddha” phiên âm theo tiếng Hán là “Phật đà” hay “Phật đồ” sau này rút gọn gọi
là “Phật”). Vì vậy, Phật giáo ăn sâu bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm và có ảnh
hưởng rất mạnh đến tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống của người dân Việt Nam.
Phật giáo có tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như
thể thương thân, một tình yêu bao la đến cả chim muông cây cỏ. Đồng thời có tư
tưởng bình đẳng, dân chủ hơn so với Nho giáo…“Ta là Phật đã thành, chúng
sinh là Phật sẽ thành”. Phật giáo cũng đề cao nếp sống đạo đức, trong sạch,
chăm làm điều thiện “Ác giả ác báo xoay vần, hại nhân nhân hại xưa nay lẽ
thường”, coi trọng lao động “Một ngày không làm, một ngày không có ăn” …
Đến thời nhà Lý, Trần Phật giáo trở nên cực thịnh và trở thành quốc đạo của
Việt Nam. Đặc biệt năm 1299, vua Trần Nhân Tông, dưới sự hướng dẫn của thiền
sư Tuệ Trung Thượng Sỹ, xuất gia và lên tu ở núi Yên Tử, thuộc huyện Uông Bí,
Quảng Ninh, thống nhất các thiền phái tồn tại trước đó và lập nên Thiền phái Trúc
lâm với chủ trương không xa dời mà sống gắn bó với nhân dân, với đất nước,
24



tham gia vào cộng đồng, vào cuộc đấu tranh của nhân dân chống giặc ngoại
xâm. Có được điều này chính là sự bắt gặp giữa những tư tưởng tiến bộ của Phật
giáo với chủ nghĩa yêu nước, tinh thần bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc ta.
→ Như vậy, có thể nói những mặt tích cực của Phật giáo đã đi vào đời sống
tinh thần nhân dân và để lại nhiều dấu ấn trong văn hóa Việt Nam, từ tư tưởng, tình
cảm, tín ngưỡng, phong tục tập quán đến lối sống…Hồ Chí Minh sinh ra trong gia
đình nhà nho nghèo, gần gũi với nông dân nên cũng thấm nhuần tinh thần đó. Nói
Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng của văn hóa truyền thống là đã bao gồm trong đó có
Phật giáo.
- Chủ nghĩa tam dân:
Đây là tư tưởng dân chủ của Tôn Trung Sơn (1866 - 1925), là nhà cách mạng
dân chủ Trung Quốc, người lãnh đạo cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911 lật đổ
triều đại Mãn Thanh và khai sinh nước Trung Hoa dân quốc. Ông được người
Trung Hoa gọi yêu mến là "Quốc phụ Trung Hoa". Ông đã nêu ra chủ thuyết "Tam
dân".
Chủ thuyết "Tam dân" của ông với tư tưởng chính là dân tộc độc lập, dân
quyền tự do, dân sinh hạnh phúc đã có ảnh hưởng sâu sắc đến phong trào đấu tranh
giành độc lập ở Việt Nam, đặc biệt là tổ chức Quốc Dân Đảng Việt Nam và tầng
lớp trí thức yêu nước Việt Nam trong những năm 1920-1930. Hồ Chí Minh đã tìm
thấy, tiếp thu những điều thích hợp với điều kiện của nước ta ở chủ thuyết này. Sau
này Người đưa vào Quốc hiệu của nước Việt Nam những tinh túy nhất của chủ
thuyết đó là: Độc lập - Tự do - Hạnh phúc.
+ Ngoài ra Hồ Chí Minh còn tiếp thu những tinh hoa văn hóa phương Đông
khác từ Lão Tử, Mạc Tử, Quản Tử, Tôn Tử... Đặc biệt người đã kế thừa, tiếp thu tư
tưởng quân sự nổi tiếng của Tôn Tử. Hồ Chí Minh cho rằng: tư tưởng quân sự của
Tôn Tử dùng trong quân sự rất tốt mà trong chính trị cũng rất hay, cách nói của
Tôn Tử rất dễ hiểu, chữ ít mà nghĩa nhiều. Ví dụ Tôn Tử cho rằng: “Đánh mà giữ
toàn nước địch là thứ nhất; thắng mà phá tan nước địch là thứ hai; thắng mà giữ

25


×