Tải bản đầy đủ (.pdf) (202 trang)

Tiểu luận phát triển khu kinh tế cửa khẩu biên giới phía bắc việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 202 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bối cảnh quốc tế hiện nay cho thấy rằng hoà bình, hợp tác và phát triển
là xu thế chung. Toàn cầu hóa, khu vực hoá và đa dạng hoá về kinh tế đem lại
nhiều thuận lợi trong quá trình hợp tác về kinh tế, kỹ thuật giữa các nước,
song cũng không ít khó khăn, thách thức. Để tồn tại và phát triển, mỗi quốc
gia sẽ phải tự làm cho nền kinh tế của mình dần thích nghi với xu thế chung
đó, trong đó phát triển KTCK ở các vùng biên giới có vai trò rất quan trọng.
Tiến trình mở cửa và hội nhập theo phương châm "đa dạng hóa, đa
phương hóa" các quan hệ giao lưu kinh tế, đã được Đảng và Nhà nước ta
khẳng định như là một trong những điều kiện quan trọng để đẩy nhanh phát
triển kinh tế đất nước trong giai đoạn tới. Trong điều kiện đặc thù của Việt
Nam, với đường biên giới trải dài bao gồm nhiều cửa khẩu thông thương với
các nước láng giềng, việc tìm ra cơ chế, chính sách hợp lý nhằm thúc đẩy
các hoạt động kinh tế qua các cửa khẩu biên giới là việc làm hết sức cần
thiết, nhằm mục đích mở cửa nền kinh tế ra nhiều hướng, theo nhiều tầng
nấc khác nhau.
Việt Nam hiện có trên 40 cửa khẩu quốc tế, quốc gia đường bộ và
đường sắt trên địa bàn 25 tỉnh biên giới tiếp giáp với Trung Quốc, Lào và
Campuchia; trong đó có 25 KKTCK trên địa bàn 19 tỉnh biên giới được Thủ
tướng Chính phủ cho phép thành lập.
Các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam hiện có 22 cửa khẩu quốc tế và
quốc gia trên địa bàn 9 tỉnh biên giới tiếp giáp với Trung Quốc và Lào; trong
đó có 12 KKTCK được Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập.


2

Riêng tiếp giáp với Trung Quốc, Việt Nam có 7 tỉnh (Quảng Ninh,


Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang, Lai Châu, Điện Biên) với 18 cửa
khẩu quốc tế, quốc gia và 1.463 km đường biên giới, hiện đã có 8 KKTCK
được Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập.
Từ khi mở cửa biên giới, các KKTCK này đã trở thành vùng kinh tế động
lực đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế của cả nước nói chung và
các tỉnh biên giới nói riêng; đặc biệt là hệ thống các cửa khẩu quốc tế tiếp giáp
với Trung Quốc. Trong khoảng 20 năm trở lại đây, Trung Quốc đạt nhiều thành
tựu lớn về phát triển kinh tế, là một thị trường rộng lớn, có tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao, nhu cầu về sản xuất và tiêu dùng cũng tăng lên rất nhanh. Nước ta đã
có quan hệ truyền thống lâu đời với Trung Quốc, đặc biệt là các tỉnh phía Tây
Nam tiếp giáp với Việt Nam. Các tỉnh này đang trong thời kỳ bùng nổ phát triển,
có nhu cầu tiêu dùng lớn, thị hiếu không cao, khoảng cách địa lý không xa nên
chúng ta có nhiều điều kiện để mở rộng quan hệ kinh tế, đặc biệt là hoạt động
thương mại.
Tuy vậy, việc phát triển các KKTCK ở Việt Nam nói chung và các
KKTCK biên giới phía Bắc Việt Nam nói riêng trong những năm qua vẫn còn
nhiều tồn tại, yếu kém, đặc biệt những vấn đề đang đặt ra trong giai đoạn hiện
nay khi mà nước ta đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới. Để đáp ứng yêu
cầu trong tình hình mới, khai thác triệt để tiềm năng, lợi thế của các KKTCK,
thì việc lựa chọn Đề tài "Phát triển khu kinh tế cửa khẩu biên giới phía Bắc
Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” là hết sức cần thiết trong
giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thứ nhất, các nghiên cứu ở nước ngoài: Nghiên cứu về phát triển các
KKT, KKTCK nói chung, KKTCK biên giới Việt - Trung được nhiều tác giả


3

nước ngoài quan tâm, nhất là các nhà kinh tế học Trung Quốc. Có thể nêu lên

một số công trình đã công bố của các tác giả sau đây:
Tác giả Mã Tuệ Quỳnh trong bài “Tăng cường vai trò lan tỏa của
thương mại biên giới, thúc đẩy bước phát triển mới trong quan hệ kinh tế
Trung – Việt” đã đề cập đến thực trạng phát triển kinh tế thương mại biên giới
của tỉnh Quảng Tây sau hơn 15 năm, kể từ khi Trung Quốc và Việt Nam bình
thường hóa quan hệ năm 1991; thực trạng phát triển KTCK của tỉnh Quảng
Tây; những vấn đề tồn tại trong quá trình phát triển kinh tế thương mại biên
giới và đối sách áp dụng để phát huy ưu thế thương mại biên giới, mở rộng
quan hệ giao lưu thương mại giữa Trung Quốc và Việt Nam. Mặc dù tài liệu
mới chỉ đề cập chủ yếu đến phát triển thương mại biên giới của tỉnh Quảng
Tây, song cũng đã giúp ích rất nhiều cho tác giả trong quá trình tham khảo để
phân tích đánh giá vai trò của các cửa khẩu biên giới trong quá trình phát triển
các KKTCK cũng như tạo sự gắn kết, lan tỏa giữa các vùng, miền khác nhau
để phát triển thương mại giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Tác giả Lưu Kiến Văn “Từng bước thúc đẩy khu hợp tác kinh tế xuyên
quốc gia Trung - Việt. Trường hợp khu hợp tác kinh tế xuyên quốc gia Đông
Hưng – Móng Cái”. Đã phân tích quá trình và đề xuất các giải pháp phát triển
khu hợp tác kinh tế xuyên quốc gia giữa hai nước Việt Nam – Trung Quốc
trong bối cảnh mới.
Ngoài ra còn nhiều bài viết đã đăng tải trong các kỷ yếu hội thảo, hội
nghị của hai nước như: “Phương pháp nghiên cứu chính sách cho các đặc
khu hợp tác kinh tế Trung - Việt”, báo cáo Hội nghị lần thứ nhất Uỷ ban chỉ
đạo hợp tác xuyên biên giới Trung - Việt, Cơ quan phát triển Liên hợp quốc,
tổ chức tại Côn Minh tháng 6 năm 2008. Tài liệu đã nêu bật được ý nghĩa
quan trọng của việc xây dựng các đặc khu hợp tác kinh tế Trung – Việt; đề
xuất tư duy tổng thể cho việc xây dựng các đặc khu hợp tác kinh tế Trung –


4


Việt; đưa ra những trở ngại chủ yếu của việc xây dựng đặc khu hợp tác kinh
tế Trung – Việt; kiến nghị một số chính sách mang tính chiến lược đối với các
đặc khu hợp tác kinh tế…Song đây cũng chỉ là tài liệu mang tính tham khảo
vì mới nghiên cứu, đưa ra những vấn đề chung nhất về các đặc khu hợp tác
kinh tế; “Báo cáo nghiên cứu khả thi khu hợp tác kinh tế Lào Cai, Việt Nam Hồng Hà, Trung Quốc” và “Nghiên cứu chiến lược khu hợp tác kinh tế xuyên
biên giới Trung – Việt” của Viện nghiên cứu hợp tác kinh tế mậu dịch quốc tế
- Bộ Thương mại Trung Quốc, báo cáo tại hội nghị Côn Minh tháng 2 năm
2009. Tài liệu đã phân tích sự cần thiết phải xây dựng khu hợp tác kinh tế
xuyên biên giới, nêu ý nghĩa và vai trò của khu hợp tác kinh tế xuyên biên
giới; xác định nội hàm và chức năng của khu hợp tác kinh tế xuyên biên giới
và đề xuất loại hình phát triển của khu hợp tác kinh tế xuyên biên giới; kiến
nghị về chính sách đối với khu hợp tác kinh tế xuyên biên giới. Mặc dù tài
liệu mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu khu hợp tác kinh tế ở khu vực biên
giới song đây chính là một trong những giải pháp quan trọng để phát triển các
KKTCK trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, do vậy đây cũng là tài liệu
quan trọng giúp tác giả tham khảo trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Thứ hai, các nghiên cứu trong nước: Ở Việt Nam, liên quan đến vấn đề
này đã có khá nhiều các tổ chức và học giả nghiên cứu, nhiều công trình được
công bố và có giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn. Có thể nêu lên một số
công trình sau:
- Các khu kinh tế cửa khẩu biên giới Việt – Trung và tác động của nó tới
sự phát triển kinh tế hàng hóa ở Việt Nam. TS Phạm Văn Linh, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội năm 2001; đã đề cập đến nhiều nội dung về phát triển các
KKTCK biên giới phía Bắc Việt Nam, phân tích vị trí, tầm quan trọng của
KKTCK trong quá trình phát triển kinh tế hàng hóa, hội nhập và mở cửa kinh tế,
thực trạng quá trình hình thành, phát triển và tác động của các KKTCK đến sự


5


phát triển kinh tế hàng hóa ở Việt Nam; trên cơ sở đó đề xuất các quan điểm và
giải pháp chủ yếu nhằm phát huy tác dụng tích cực của các KKTCK.
- Khuyến khích đầu tư thương mại vào các khu kinh tế cửa khẩu Việt
Nam của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng, NXB Thống kê, Hà Nội năm 2000; đã
đề cập đến nhiều nội dung liên quan đến phát triển KKTCK; đánh giá vai trò,
thực trạng phát triển thương mại tại các KKTCK; sự cần thiết phát triển
thương mại tại các KKTCK; qua đó đề xuất các cơ chế, chính sách nhằm
khuyến khích đầu tư thương mại vào các KKTCK. Mặc dù cuốn sách mới tập
trung phân tích và đề xuất phát triển lĩnh vực thương mại tại các khu kinh tế
cửa khẩu, song cũng đã gợi mở cho việc phân tích đánh giá và đề xuất phát
triển nhiều nội dung, lĩnh vực khác tại khu vực KTCK.
- Một số chính sách và giải pháp chủ yếu cấp bách nhằm phát triển quan
hệ thương mại khu vực biên giới Việt - Trung. Đây là đề tài nghiên cứu cấp
bộ, của Bộ thương mại, hoàn thành năm 2000; đã tập trung đi sâu nghiên cứu
thực trạng các hoạt động thương mại tại khu vực biên giới Việt – Trung, đánh
giá hệ thống chính sách mậu dịch biên giới của Trung Quốc và ảnh hưởng của
nó tới môi trường thương mại khu vực biên giới Việt –Trung; trên cơ sở đó đã
đưa ra các quan điểm và đề xuất các giải pháp chủ yếu để thúc đẩy sự phát
triển thương mại khu vực biên giới Việt - Trung.
- Phương hướng phát triển kinh tế cửa khẩu biên giới Việt – Trung trong
giai đoạn tới, trên Tạp chí Thông tin Kinh tế - Xã hội, số 1 năm 2003. Bài viết
đã xác định vị trí, vai trò của một số cửa khẩu quốc tế trên tuyến biên giới Việt Trung và đưa ra một số ưu tiên trong định hướng phát triển KTCK trong thời
gian tới.
- Phát triển thương mại trên hành lang kinh tế Côn Minh – Lào Cai – Hà
Nội – Hải Phòng của TS. Nguyễn Văn Lịch, NXB Thống kê, Hà Nội năm
2005, đã đi sâu phân tích và làm rõ những luận cứ khoa học của việc xây


6


dựng hành lang kinh tế Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng; đánh giá
thực trạng phát triển thương mại trên hành lang kinh tế Côn Minh – Lào Cai –
Hà Nội – Hải Phòng; phân tích tác động của hành lang kinh tế đối với việc
hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc và đưa ra các giải
pháp thúc đẩy phát triển thương mại khu vực hành lang kinh tế Côn Minh –
Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng.
- Các giải pháp thúc đẩy phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam
với hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây (Trung Quốc); đề tài cấp bộ do TS
Nguyễn Văn Lịch chủ nhiệm, Hà Nội năm 2005, đã phân tích và làm rõ được
vai trò của việc phát triển thương mại giữa Việt Nam và hai tỉnh Vân Nam và
Quảng Tây đối với phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam; đánh giá được
thực trạng quan hệ thương mại giữa Việt Nam với hai tỉnh Vân Nam và
Quảng Tây, Trung Quốc; đề xuất quan điểm, dự báo và một số giải pháp
nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại giữa Việt Nam với hai tỉnh Vân Nam và
Quảng Tây, Trung Quốc.
Ngoài ra, còn nhiều bài viết đăng tải trên các kỷ yếu hội thảo như Kỷ yếu
Hội thảo quốc tế “Hợp tác phát triển hành lang kinh tế Côn Minh – Lào Cai –
Hà Nội – Hải Phòng” tại Lào Cai, tháng 11/2005; Kỷ yếu Hội thảo khoa học
giữa Học viện Tài chính (Việt Nam) và Học viện kinh tế tài chính Quảng Tây
(Trung Quốc) “Kinh tế biên mậu Việt Nam – Trung Quốc triển vọng và giải
pháp thúc đẩy”, tổ chức tại Hà Nội, 2006; Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Các giải
pháp phát triển hai hành lang một vành đai kinh tế Việt Nam – Trung Quốc
trong bối cảnh mới” tổ chức tại Lào Cai tháng 12/2007…
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã đề cập đến những vấn đề lý
thuyết về phát triển các KKTCK biên giới, chỉ ra vị trí, tầm quan trọng của các
KKTCK, tình hình phát triển hoạt động thương mại tại các KKTCK. Tuy nhiên,
một loạt vấn đề mà các công trình nghiên cứu đã công bố chưa được đề cập hoặc


7


được đề cập nhưng chưa có hệ thống và là nhiệm vụ mà chủ đề luận án này cần
giải quyết là:
- Khái niệm về KKTCK và phát triển KKTCK; nội hàm của các khái niệm
này; những nội dung của phát triển KKTCK; vị trí, tầm quan trọng của các nội
dung này trong quá trình phát triển KKTCK.
- Thực trạng phát triển KKTCK biên giới Việt Nam tiếp giáp với Trung
Quốc hiện nay; thành tựu và hạn chế của phát triển KKTCK trong thời gian qua;
nguyên nhân cản trở sự phát triển KKTCK Việt Nam tiếp giáp với Trung Quốc
hiện nay.
- Quan điểm, phương hướng và những giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển
KKTCK của Việt Nam tiếp giáp với Trung Quốc những năm tới.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu
Mục tiêu nghiên cứu của luận án nhằm làm rõ những vấn đề cơ bản về
phát triển KKTCK biên giới trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và đề xuất
các quan điểm, giải pháp đẩy mạnh sự phát triển KKTCK trong những năm tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và kinh nghiệm quốc tế về phát
triển KKTCK trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển các KKTCK Việt Nam tiếp
giáp với Trung Quốc trong giai đoạn 2005 đến 2010, chỉ ra những thành tựu,
hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế.
- Đề xuất những quan điểm và giải pháp cơ bản để tiếp tục phát triển các
KKTCK Việt Nam tiếp giáp với Trung Quốc trong những năm tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là phát triển các KKTCK Việt Nam
tiếp giáp với Trung Quốc trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.



8

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, vì phát triển KKTCK có phạm vi rộng, trong luận án này sẽ
tập trung nghiên cứu phát triển KKTCK về không gian lãnh thổ kinh tế -xã
hội và phát triển kinh tế tại các KKTCK trong đó nhấn mạnh đến các hoạt
động giao lưu thương mại, du lịch, dịch vụ dưới tác động của hệ thống cơ chế
chính sách, tổ chức quản lý tầm vĩ mô cũng như sự vận dụng của chính quyền
địa phương đảm bảo cho sự phát triển KKTCK.
Về không gian: Hiện nay các tỉnh Việt Nam có biên giới đất liền tiếp giáp
với Trung Quốc gồm 7 tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào
Cai, Điện Biên và Lai Châu. Tại 7 tỉnh này đã có 8 KKTCK. Trong phạm vi
Luận án này sẽ lựa chọn 6 KKTCK đã và đang hoạt động tại 6 tỉnh để nghiên
cứu. Cụ thể là: KKTCK Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh; KKTCK Đồng Đăng, tỉnh
Lạng Sơn; KKTCK Lào Cai, tỉnh Lào Cai; KKTCK Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng;
KKTCK Thành Thủy, tỉnh Hà Giang; và KKTCK Ma Lù Thàng, tỉnh Lai Châu.
Về thời gian: Luận án nghiên cứu phát triển các KKTCK Việt Nam tiếp
giáp với Trung Quốc từ khi nhà nước ta mở cửa biên giới đến nay, số liệu chủ
yếu từ năm 2006 đến 2010; đưa ra quan điểm, định hướng phát triển các
KKTCK biên giới phía Bắc Việt Nam tiếp giáp với Trung Quốc giai đoạn đến
năm 2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của luận án là phương pháp duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử, trừu tượng hóa khoa học; đồng thời dựa trên quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta trong lĩnh vực kinh tế để xem xét các vấn đề của đề tài.
Luận án sử dụng phương pháp điều tra, khảo sát thu thập thông tin tài liệu
sơ cấp trên cơ sở phỏng vấn 301 cán bộ quản lý nhà nước cấp trung ương, cấp
tỉnh và các doanh nghiệp tại các KKTCK.



9

Luận án tiến hành điều tra thu thập số liệu báo cáo từ các Ban quản lý
KKTCK và tài liệu thống kê của các địa phương có liên quan. Luận án còn kế
thừa các công trình, bài viết và sử dụng các tài liệu thứ cấp, các báo cáo của các
địa phương có liên quan về phát triển hoạt động kinh tế tại các KKTCK.
Luận án sử dụng phương pháp tham vấn chuyên gia các nhà quản lý nhà
nước các cấp và các doanh nghiệp tại các KKTCK.
6. Những đóng góp khoa học của luận án
Đóng góp quan trọng nhất của luận án là đề xuất ý tưởng phát triển
KKTCK không chỉ dừng lại ở phát triển thương mại xuất nhập khẩu, xuất
nhập cảnh mà phải xây dựng các KKTCK thành các đô thị vùng biên giới để
vừa thúc đẩy phát triển kinh tế, tổ chức giao lưu thương mại, phát triển du
lịch, xúc tiến và thúc đẩy đầu tư, từng bước phát triển công nghiệp tại các tỉnh
biên giới, vừa phát triển xã hội tại các vùng biên, đưa các cửa khẩu biên giới
thành các tụ điểm dân cư đô thị, thành các vùng động lực của khu vực biên
giới để củng cố quốc phòng, bảo vệ biên cương, lãnh thổ của đất nước.
Một số đóng góp cụ thể:
Thứ nhất, đã hệ thống hoá có bổ sung và phân biệt rõ các khái niệm về
KKTCK và sự phát triển các KKTCK.
Thứ hai, khái quát được kinh nghiệm phát triển KKTCK của một số nước
trên thế giới để khuyến nghị vận dụng cho phát triển KKTCK Việt Nam tiếp
giáp với Trung Quốc.
Thứ ba, đánh giá thực trạng phát triển KKTCK Việt Nam tiếp giáp với
Trung Quốc hiện nay, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của
những hạn chế trong phát triển KKTCK này.
Thứ tư, đề xuất quan điểm, phương hướng phát triển các KKTCK biên
giới Việt nam tiếp giáp với Trung Quốc theo hướng trở thành các đô thị biên

giới để vừa thúc đẩy phát triển kinh tế, vừa phát triển xã hội vừa đảm bảo
củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh biên giới.


10

Thứ năm, khuyến nghị được hệ thống một số giải pháp chủ yếu nhằm
tiếp tục đẩy mạnh phát triển KKTCK biên giới Việt Nam tiếp giáp với Trung
Quốc trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, đảm bảo phát huy hiệu quả về
kinh tế, góp phần ổn định về chính trị, giữ vững quốc phòng, an ninh trên các
tuyến biên giới.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục
có liên quan, nội dung của luận án được kết cấu thành 3 chương, cụ thể như
sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về phát triển khu kinh
tế cửa khẩu biên giới trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Chương 2: Thực trạng phát triển khu kinh tế cửa khẩu biên giới phía Bắc
Việt Nam
Chương 3: Định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục phát triển khu
kinh tế cửa khẩu biên giới phía Bắc Việt Nam


11

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
VỀ PHÁT TRIỂN KHU KINH TẾ CỬA KHẨU BIÊN GIỚI
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ


1.1. KHU KINH TẾ CỬA KHẨU BIÊN GIỚI VÀ VAI TRÒ CỦA KHU
KINH TẾ CỬA KHẨU BIÊN GIỚI TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1.1. Quan niệm về khu kinh tế cửa khẩu biên giới và phát triển khu
kinh tế cửa khẩu biên giới
1.1.1.1. Quan niệm về khu kinh tế cửa khẩu biên giới
Thuật ngữ KKTCK được dùng ở Việt Nam một số năm gần đây, khi
quan hệ kinh tế, thương mại Việt Nam – Trung Quốc đã có bước phát triển
mới, đòi hỏi phải có hình thức tổ chức kinh tế phù hợp nhằm khai thác các
tiềm năng, thế mạnh kinh tế của hai nước thông qua cửa khẩu biên giới. Có
nhiều cách tiếp cận và quan niệm khác nhau về KKTCK:
Một là, trong những năm đổi mới vừa qua trong sách báo ở nước ta
xuất hiện nhiều thuật ngữ có liên quan đến KKTCK. Có thể nêu lên một số
khái niệm có liên quan với KKTCK như:
- Khu kinh tế là khu vực có không gian kinh tế riêng biệt với môi
trường đầu tư và kinh doanh đặc biệt thuận lợi cho các nhà đầu tư, có ranh
giới địa lý xác định, do cấp có thẩm quyền quyết định thành lập.
- Khu kinh tế tự do là một loại hình của khu kinh tế. Trong khi khu kinh
tế tự do là tên gọi phổ biến thì một số nước lại có các tên gọi khác nhau như
đặc khu kinh tế (hay khu kinh tế đặc biệt), khu kinh tế mở, khu thương mại tự


12

do, hay thậm chí đơn giản chỉ là khu kinh tế, khu tự do...Mặc dù tên gọi có thể
khác nhau song về thực chất thì đây là một khu vực không gian kinh tế được
thành lập trong một quốc gia nhằm thu hút đầu tư trong và ngoài nước, thúc
đẩy các hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc nghiên cứu khoa học bằng các
biện pháp khuyến khích đặc biệt (ưu đãi về thuế quan, đầu tư, cơ sở hạ
tầng…). Trong khu kinh tế tự do có thể có nhiều khu chức năng như khu vực

phi thuế quan (khu bảo thuế), khu thương mại, khu thương mại – công
nghiệp, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, các tiểu khu du
lịch, nghỉ dưỡng, giải trí...
- Khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất
hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có
ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, được hưởng một số
chế độ ưu tiên của Chính phủ hay địa phương do cấp có thẩm quyền quyết
định thành lập.
- Khu chế xuất là khu công nghiệp tập trung các doanh nghiệp chuyên
sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu
và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới xác định, không có cư dân sinh sống,
được hưởng một số chế độ ưu tiên đặc biệt của Chính phủ do cấp có thẩm
quyền quyết định thành lập.
- Khu công nghệ cao là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp kỹ
thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao, gồm
nghiên cứu – triển khai khoa học – công nghệ, đào tạo và các dịch vụ có liên
quan, có ranh giới địa lý xác định, do cấp có thẩm quyền quyết định thành lập.
- Khu phi thuế quan là khu vực địa lý có ranh giới xác định trong phạm
vi một quốc gia, được ngăn cách với lãnh thổ bên ngoài bằng hàng rào cứng,
có cổng và cửa ra vào bảo đảm điều kiện cho sự kiểm soát của cơ quan Hải


13

quan và các cơ quan chức năng có liên quan, có cơ quan Hải quan giám sát,
kiểm tra hàng hóa và phương tiện ra vào khu.
- Khu hợp tác kinh tế biên giới (khu hợp tác kinh tế xuyên biên giới): là
mô hình khu kinh tế cửa khẩu đặc biệt, liên kết hai quốc gia, tạo ra vùng lãnh
thổ đặc thù, hai bên có thể thỏa thuận bằng một Hiệp ước, theo đó chỉ ra vùng
lãnh thổ hợp lý, có hàng rào, không có dân cư sinh sống.

- Khu giao lưu kinh tế biên giới trong phạm vi hẹp nó bao gồm các hoạt
động trao đổi hàng hoá, trao đổi thương mại giữa các cư dân hay các đơn vị
sản xuất kinh doanh nhỏ lẻ trên địa bàn các địa phương biên giới, thường là
nơi có các cửa khẩu biên giới. Tuy nhiên trên thực tế, các hình thức giao lưu
kinh tế này có thể thực hiện ở các cặp chợ biên giới, các điểm buôn bán nhỏ
dọc tuyến biên giới hoặc đường mòn biên giới với một khối lượng hàng hoá
và giá trị được xác định theo quy định của nhà nước hoặc chính quyền địa
phương nơi có cửa khẩu, chợ, điểm buôn bán hoặc đường mòn biên giới. Giao
lưu kinh tế biên giới là hình thức giao lưu kinh tế phổ biến ở tất cả các khu
vực dân cư biên giới giữa các quốc gia có đường biên giới trong điều kiện hoà
bình. Tuy nhiên quy mô, mức độ trao đổi hàng hoá, thương mại diễn ra rất
khác nhau giữa các vùng, miền, khu vực biên giới trong cả nước. Điều này
phụ thuộc vào nhiều nguyên nhân khác nhau, như : trình độ phát triển kinh tế,
điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, chính sách biên mậu, các tiềm năng thế mạnh
tại chỗ, sự ổn định về an ninh chính trị...Do đó xuất hiện một nội dung rộng
hơn, bao quát hơn, hay nói cách khác, giao lưu kinh tế qua biên giới theo
nghĩa rộng là tất cả các hoạt động kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học kỹ
thuật...qua các cửa khẩu biên giới, giữa các quốc gia có đường biên giới
chung. Như vậy, nội dung của giao lưu kinh tế biên giới theo nghĩa rộng,
không chỉ đơn thuần là trao đổi, buôn bán hàng hoá thông thường, mà nó bao


14

hàm cả hoạt động hợp tác về khoa học và công nghệ, đầu tư, xuất nhập khẩu,
phát triển hạ tầng, du lịch qua biên giới....
- Cửa khẩu là nơi người, phương tiện giao thông vận tải, hàng hóa ra,
vào qua biên giới đất liền.
- Khu vực xung quanh biên giới bao gồm những địa bàn nằm trên tuyến
hành lang, vành đai hoặc bị ảnh hưởng bởi tuyến hành lang, vành đai:

+ Hành lang kinh tế là một không gian kinh tế có giới hạn về chiều dài
và chiều rộng, liên vùng lãnh thổ hoặc liên quốc gia, dựa trên việc thành lập
một hoặc nhiều tuyến giao thông kết hợp với những chính sách kinh tế nhất
định để thúc đẩy phát triển kinh tế trên toàn không gian đó. Hành lang kinh tế
thường được thành lập để đẩy mạnh sự hội nhập về kinh tế giữa những vùng
kém phát triển hơn và thường là vùng sâu, vùng xa với những vùng phát triển
hơn và thường là vùng Duyên Hải.
+ Vành đai kinh tế là một không gian kinh tế có giới hạn về chiều dài
và chiều rộng, liên vùng lãnh thổ hoặc liên quốc gia, dựa trên việc thành lập
một hoặc nhiều trục giao thông ven biển kết hợp với những chính sách kinh tế
nhất định để thúc đẩy phát triển kinh tế trên toàn không gian đó. Vành đai
kinh tế thường được thành lập để đẩy mạnh sự hội nhập về kinh tế giữa những
vùng phát triển ven biển, tạo một khu vực kinh tế năng động, có sức thúc đẩy
phát triển kinh tế của cả vùng hoặc quốc gia.
Hai là, khái niệm khu kinh tế cửa khẩu biên giới: Cùng với quá trình mở
cửa hội nhập kinh tế quốc tế, theo đó là sự gia tăng các hoạt động thương mại,
đầu tư, du lịch qua cửa khẩu giữa nước ta với các nước có chung biên giới.
Thuật ngữ KKTCK biên giới được dùng ngày càng nhiều trong các văn kiện
của cơ quan quản lý Nhà nước, xuất hiện nhiều trên các sách, báo và các cuộc
hội thảo trong thời gian gần đây. Đã có một số nghiên cứu có tính chất chuyên


15

đề như hoạt động thương mại ở KKTCK biên giới, thu hút đầu tư, hay là phát
triển các dịch vụ trong KKTCK biên giới… Xung quanh các nghiên cứu về
KKTCK biên giới, có thực tế là cùng đối tượng nghiên cứu nhưng do mục
đích nghiên cứu mỗi chuyên đề không giống nhau, do đó có những cách tiếp
cận đối tượng nghiên cứu khác nhau. Chính vì lẽ đó mà tồn tại những quan
niệm không đồng nhất với nhau về KKTCK biên giới. Ở đây, mới đề cập đến

những quan niệm chưa phải là những khái niệm khoa học và cũng phải nhấn
mạnh rằng đó là những quan niệm không đồng nhất nhưng không phải là quan
niệm đối lập nhau. Nhận thức về KKTCK biên giới còn nhiều ý kiến chưa
thống nhất, nhưng tựu chung lại hiện nay tồn tại hai nhóm quan niệm từ hai
cách tiếp cận xem xét KKTCK đó là:
Thứ nhất: Từ góc độ quản lý nhà nước về kinh tế đối với các hoạt động
kinh tế đối ngoại. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong đề án quy hoạch phát
triển KKTCK Việt Nam đến năm 2020 cho rằng: KKTCK là loại hình khu
kinh tế, lấy giao lưu kinh tế qua cửa khẩu (cửa khẩu quốc tế hoặc cửa khẩu
chính) làm nòng cốt, có ranh giới xác định, được thành lập bởi cấp có thẩm
quyền, có cơ chế hoạt động riêng, mô hình quản lý riêng và có quan hệ chặt
chẽ với khu vực xung quanh và nội địa phía sau [6].
Thứ hai: Từ góc độ nghiên cứu khoa học, đề xuất các biện pháp, giải
pháp và kiến nghị với Chính phủ, các cấp chính quyền nhằm phát triển các
KKTCK ở nước ta. Ý kiến này cho rằng: KKTCK là một không gian kinh tế,
gắn với cửa khẩu, có dân cư hoặc không có dân cư sinh sống và được thực
hiện dựa trên cơ chế chính sách phát triển riêng, phù hợp với đặc điểm ở đó
nhằm đưa lại hiệu quả kinh tế - xã hội. Mục đích thành lập KKTCK là ưu tiên
phát triển thương mại, xuất nhập khẩu, dịch vụ du lịch và công nghiệp [67].


16

Quan niệm về KKTCK còn có sự khác biệt ở điểm này, điểm khác.
Song về nhận thức đối với KKTCK, dù được nhìn nhận dưới góc độ nào thì
đều thống nhất ở nội dung cơ bản. Có thể xem đây là những hạt nhân hợp lý
để phát triển trong khái niệm KKTCK đó là:
- KKTCK, xác định một không gian kinh tế, tại địa điểm là các cửa
khẩu biên giới diễn ra các hoạt động kinh tế có quan hệ với quốc gia có cùng
chung biên giới và nội địa phía sau. Như vậy, từ góc độ địa kinh tế KKTCK

được xem như là trung tâm giao lưu kinh tế quốc tế và là động lực thúc đẩy
quan hệ kinh tế đối ngoại.
- Đặc trưng hoạt động kinh tế của KKTCK chủ yếu tập trung vào các
lĩnh vực: thương mại, xuất nhập khẩu, các loại hình dịch vụ (du lịch, tài chính
ngân hàng…), đầu tư, xây dựng, gia công chế biến. Đó là sự khác biệt với các
khu kinh tế khác như KCN, KCX, khu công nghệ cao…
- Được các cấp có thẩm quyền thành lập và Nhà nước quản lý
KKTCK bằng cơ chế, chính sách riêng phù hợp với điều kiện cụ thể, trong
những giai đoạn phát triển của nền kinh tế, đối với mỗi đối tác nhất định. Rõ
ràng, KKTCK hình thành và đi vào hoạt động không phải là tự phát mà được
tổ chức quản lý bằng cơ chế, chính sách riêng. Vì vậy, chất lượng hiệu quả
hoạt động của KKTCK phụ thuộc rất nhiều vào trình độ năng lực của cơ
quan quản lý Nhà nước.
Những nội dung trên, có thể nhận dạng, định hình được KKTCK, phân
biệt KKTCK với các loại khu kinh tế khác giúp cho các cơ quan hoạch định
chính sách có các cơ chế, chính sách thích hợp. Tuy nhiên những quan niệm
đó không thể được coi là khái niệm khoa học. Như chúng ta biết, một khái
niệm hình thành là kết quả của quá trình trừu tượng khoa học. Về nhận thức,
khái niệm phải phản ánh được mặt bản chất, mối liên hệ bên trong có tính phổ


17

quát và nó thể hiện được những đặc điểm đặc trưng những thuộc tính riêng có
của sự vật đó, để nhận biết nó là cái gì và phân biệt nó với cái khác. Hay nói
cách khác đó là nội hàm của khái niệm.
Ở đây đang xét đến nội hàm khái niệm KKTCK trong khuôn khổ của
đề tài nghiên cứu.
- Trước hết, KKTCK là một phạm trù kinh tế nó phản ánh mặt nào đó
của quan hệ sản xuất, đó là quan hệ tổ chức – quản lý. Trong đó Nhà nước là

chủ thể đại diện cho lợi ích của quốc gia tham gia vào các quan hệ kinh tế
quốc tế, đối tượng quản lý là quan hệ kinh tế đối ngoại. Cần chỉ ra rằng, quan
hệ kinh tế đối ngoại và quan hệ kinh tế quốc tế không phải đồng nhất. Quan
hệ kinh tế đối ngoại là bộ phận của quan hệ kinh tế quốc tế, đó là toàn bộ các
quan hệ kinh tế, quan hệ thương mại, đầu tư, hợp tác sản xuất, chuyển giao
khoa học, công nghệ… của nước ta với các nước khác và các tổ chức kinh tế
quốc tế khác. Còn quan hệ kinh tế quốc tế là quan hệ kinh tế giữa hai nước
hoặc nhiều nước với nhau. Trong xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa, các quốc
gia không phân biệt trình độ phát triển, thể chế chính trị, ngày càng phụ thuộc
vào nhau, thì các quan hệ kinh tế đối ngoại và quan hệ kinh tế quốc tế có mối
liên hệ đan xen với nhau. Như vậy, KKTCK là một hình thức tổ chức kinh tế
thực hiện các quan hệ kinh tế đối ngoại trong điều kiện phát triển của LLSX
quốc tế và nền kinh tế thị trường thế giới hiện đại. Khái niệm KKTCK cũng
như các KCN, KCX, KCN cao… đều thuộc phạm trù khu kinh tế, phản ánh
quan hệ tổ chức quản lý đều là hình thức tổ chức kinh tế. Nếu như KCN là
hình thức tổ chức thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì
KKTCK là hình thức thực hiện quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta với các
nước có cùng chung biên giới. Trên ý nghĩa đó mà xét, thì quan niệm cho
rằng: “KKTCK là loại hình của khu kinh tế” (thuộc nhóm ý kiến thức nhất),


18

đã đến gần với khái niệm KKTCK nhưng chưa chỉ rõ nó phản ánh những
quan hệ kinh tế nào.
- Thứ hai, KKTCK là tổ chức kinh tế hoạt động trong một không gian
kinh tế - xã hội tại các vùng cửa khẩu biên giới, xác định về phạm vi ranh giới
cụ thể. Đó là không gian kinh tế mở, được xét trên hai phương diện: một mặt,
mở cửa giao lưu kinh tế, khoa học – kỹ thuật, đầu tư kinh doanh với quốc gia
có cùng chung biên giới; mặt khác, mở cửa tăng cường liên kết kinh tế với các

ngành, các vùng, các miền của cả nước. Như vậy, KKTCK xét về địa kinh tế,
vừa có ảnh hưởng lan tỏa vừa có sự hội tụ của một trung tâm, đầu mối kinh tế.
Đồng thời, việc xây dựng phát triển các KKTCK ở nước ta hiện nay không
chỉ thúc đẩy phát triển kinh tế mà còn có tác động tích cực đến các mặt của
đời sống chính trị - xã hội; giữ vững an ninh nơi biên giới và bảo vệ chủ
quyền quốc gia. Sự phát triển KKTCK gắn liền với quá trình đô thị hóa và
hình thành các khu đô thị ở vùng cửa khẩu biên giới. Xu hướng phát triển các
khu kinh tế hiện đại trên thế giới hiện nay theo mô hình thành phố - trung tâm
kinh tế; vừa tổ chức các hoạt động kinh tế, sản xuất kinh doanh, dịch vụ vừa
tổ chức đời sống xã hội của bộ phận dân cư sinh sống trong các khu kinh tế
nói chung và KKTCK nói riêng. Ý kiến thứ hai cho rằng: “KKTCK có dân cư
hoặc không có dân cư sinh sống”, đó chỉ là những quy định của cấp có thẩm
quyền ra quyết định thành lập KKTCK phù hợp với điều kiện cụ thể về thời
gian, phạm vi, tính chất hoạt động của KKTCK. Song về cơ bản KKTCK là
không gian tổ chức các hoạt động kinh tế - xã hội.
- Thứ ba, các hoạt động kinh tế - xã hội diễn ra trong các KKTCK lấy
giao lưu kinh tế với các quốc gia có cùng chung biên giới làm nòng cốt: như
là thương mại, xuất nhập khẩu, đầu tư kinh doanh, các loại hình dịch vụ. Có
thể coi đây là đặc trưng cơ bản của KKTCK, phân biệt KKTCK với các KCN,
KCX, khu công nghệ cao. Do tính đặc thù của các hoạt động kinh tế, đòi hỏi


19

phải có cơ chế, chính sách quản lý riêng cho các KKTCK. Chúng tôi đồng
tình chia sẻ với các tác giả, các cơ quan nghiên cứu quan niệm này về
KKTCK. Nhà nước quản lý các KKTCK bằng chiến lược, định hướng phát
triển các KKTCK được thể hiện ở quy hoạch, kế hoạch của các cấp, các
ngành và địa phương có cửa khẩu. Trên cơ sở đó ban hành cơ chế, chính sách
phù hợp với hoạt động kinh tế đặc thù của KKTCK. Cơ chế hoạt động của

KKTCK phải tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam đồng thời phù
hợp với các thông lệ của luật pháp quốc tế và các cam kết quốc tế về thuế
quan, tự do thương mại, xuất nhập khẩu… Các chính sách kinh tế được xem
như là công cụ quản lý của Nhà nước. Bằng các chính sách XNX, chính sách
thuế, chính sách thu hút đầu tư… để bảo vệ sản xuất trong nước, khuyến
khích sản xuất mặt hàng này, hạn chế mặt hàng khác, điều tiết phân phối lại,
tăng thu cho ngân sách Nhà nước. Tổ chức thực hiện các chính sách đó thông
qua hoạt động của bộ máy phối hợp hoạt động của các bộ phận chức năng:
quản lý thị trường với thuế vụ và hải quan. Đồng thời tổ chức thanh tra, kiểm
tra các hoạt động kinh tế tại KKTCK trong việc chấp hành các quy định của
ngành, địa phương và pháp luật của Nhà nước.
- Thứ tư, KKTCK với tư cách là hình thức tổ chức kinh tế, được Nhà
nước lập ra nhằm mục đích nhất định. Ngay từ khi lập đề án xây dựng
KKTCK đã xác định rõ mục đích cụ thể hoạt động của KKTCK là gì, phương
hướng, mục đích phát triển của nó như thế nào, sẽ là khiếm khuyết, thiếu hoàn
chỉnh nếu trong khái niệm KKTCK không thể hiện rõ mục đích hoạt động của
KKTCK. Bởi vì, một trong những nguyên tắc cơ bản của quản lý kinh tế là
phải xác định đúng đắn, mục đích đạt được của hoạt động kinh tế đó trong cả
quá trình hoặc từng giai đoạn nhất định. Các biện pháp, chính sách kinh tế cụ
thể nhằm đạt được các mục đích đã xác định. Mục đích cơ bản, lâu dài hoạt
động của KKTCK là thực hiện một cách có hiệu quả quan hệ kinh tế đối


20

ngoại và phát triển kinh tế - xã hội bền vững tại địa phương có các cửa khẩu
biên giới. Như chúng ta đã biết, chủ trương của Đảng ta trong hoạt động kinh
tế đối ngoại là: chủ động tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đa dạng
hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại và nâng cao hiệu quả quan hệ
kinh tế đối ngoại. Thực hiện các chủ trương trên hay nối liền các chủ trương

thành hiện thực được tổ chức tự giác, thông qua hoạt động của KKTCK.
Đồng thời ở nước ta cửa khẩu biên giới ở những nơi xa các trung tâm kinh tế,
văn hóa, kinh tế kém phát triển, cơ sở hạ tầng thấp kém, đời sống nhân dân
còn nhiều khó khăn. Mục đích xây dựng các KKTCK nhằm phát triển kinh tế
- xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế tạo việc làm và thu nhập ổn định cho
người lao động, bảo vệ môi trường và bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Qua những phân tích trên về nội hàm khái niệm KKTCK, dựa trên sự
kế thừa phát triển những quan niệm của một số nhà nghiên cứu. Tổng hợp lại
theo quan điểm của tác giả về KKTCK như sau:
KKTCK biên giới là hình thức tổ chức kinh tế, phản ánh các quan hệ tổ
chức – quản lý. Đó là không gian kinh tế - xã hội gắn liền với cửa khẩu biên
giới, trong đó diễn ra các hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu, đầu tư kinh
doanh và các loại hình dịch vụ được thực hiện bằng các cơ chế, chính sách
riêng, nhằm nâng cao hiệu quả quan hệ kinh tế đối ngoại và phát triển bền
vững khu vực cửa khẩu biên giới.
Cách hiểu này nêu rõ hai vấn đề cốt lõi của KKTCK biên giới:
1) KKTCK biên giới là một không gian lãnh thổ về kinh tế, đồng thời
cũng là không gian lãnh thổ về dân cư;
2) KKTCK lấy hoạt động giao lưu kinh tế qua cửa khẩu biên giới làm
hoạt động chính.


21

Ba là, phân biệt giữa KKTCK với các KKT khác: qua phân tích, có
thể nhận thấy các khái niệm về KKT tự do, KCN, KCX, khu công nghệ cao,
khu thương mại – công nghiệp, khu phi thuế quan, khu hợp tác kinh tế biên
giới, khu giao lưu kinh tế biên giới, cửa khẩu, khu vực quanh biên giới,
KKTCK... đều là các loại hình của KKT, chúng có những đặc điểm khác
nhau xuất phát từ sự khác nhau về mục đích, đối tượng tham gia hay mối

liên kết của chúng đối với nền kinh tế, song về nội hàm thì đây là một khu
vực không gian kinh tế với những chính sách ưu đãi riêng biệt nhằm khai
thác các lợi thế so sánh, phát huy và kích thích phát triển kinh tế trên địa
bàn, địa phương hoặc khu vực. Có thể nêu khái quát những điểm giống và
khác nhau cơ bản giữa KKTCK với các loại hình KKT khác như sau:
- Giống nhau là ở chỗ, chúng được thành lập trên cơ sở quyết định của
cấp có thẩm quyền với một số cơ chế, chính sách ưu đãi; có một không gian
kinh tế hoặc một vị trí xác định; đều nhằm mục đích là thúc đẩy kinh tế của
địa phương, vùng hoặc cả nước phát triển.
- Khác nhau là ở chỗ, để thành lập KKTCK biên giới trước hết phải gắn
với vị trí cửa khẩu; mục đích của KKTCK là ưu tiên phát triển thương mại,
dịch vụ và công nghiệp; trong đó quan trọng nhất là hoạt động thương mại,
dịch vụ. Hoạt động KTCK chủ yếu là giao thương hàng hóa và du lịch qua
cửa khẩu đất liền giữa hai nước (có thể đến cả nước thứ ba); thông qua phát
triển kinh tế để giải quyết các vấn đề xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng
vùng biên giới. Sự phát triển của KKTCK chịu sự tác động mạnh mẽ của khu
vực kinh tế, chính sách biên mậu của các nước láng giềng có chung đường
biên giới.
1.1.1.2. Quan niệm về phát triển khu kinh tế cửa khẩu biên giới


22

Phần trên đã phân tích làm rõ nội hàm khái niệm KKTCK. Bằng sự
trừu tượng, KKTCK được xem xét trong trạng thái “tĩnh” mới có thể nhận
biết được mặt bản chất, những thuộc tính vốn có quy định “nó là nó” để phân
biệt KKTCK với các loại hình của KKT khác. Nếu như khái niệm KKTCK là
gì, thì phát triển KKTCK là khái niệm phản ánh sự vận động biến đổi của nó
diễn ra như thế nào. Cho nên phát triển KKTCK được xem xét trong trạng
thái “động”.

Phát triển KKTCK là khái niệm phức tạp và còn khá mới mẻ, trong
phần tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài cho thấy, hầu như chưa từng có
công trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này. Vận dụng phương pháp của
kinh tế - chính trị Mácxít và những nguyên lý của kinh tế học phát triển, để
xem xét sự phát triển KKTCK ở các khía cạnh sau đây:
Phát triển KKTCK, trước tiên đó là quá trình kinh tế được nhận thức tự
giác, tổ chức không gian kinh tế thực hiện hoạt động kinh tế đối ngoại với các
quốc gia có cùng chung biên giới. Chúng ta biết, bất cứ quá trình kinh tế nào
diễn ra đều chịu sự chi phối của các quy luật khách quan. Song tính khách
quan của quy luật không đồng nghĩa với tự phát và khách quan không có
nghĩa là không có sự tham gia của con người. Đặc điểm hoạt động của quy
luật kinh tế thông qua hoạt động của con người và con người là thực thể có ý
thức, nhận thức vận dụng tự giác, tổ chức hoạt động kinh tế phù hợp với yêu
cầu của các quy luật kinh tế không được nhận thức vận dụng tự giác, thì quá
trình kinh tế vẫn diễn ra nhưng mang tính tự phát như: “bàn tay vô hình” của
A.Smith hay C.Mác cho rằng đó là “lực lượng đằng sau người sản xuất”.
F.Anghen còn gọi đó là “bà chủ quỷ quái”, nhưng khi đã hiểu được bản chất
của nó, thì có thể biến nó thành “cô đầy tớ trung thành, ngoan ngoãn”.
Do vậy, về nhận thức nếu cho rằng phát triển KKTCK là khách quan
hay chủ quan, hoặc là thế này hoặc là thế kia ở hai thái cực đối lập nhau thì


23

đều là phiến diện. Theo cách hiểu như đã phân tích ở trên, phát triển KKTCK
không còn là khái niệm trừu tượng nữa mà là quá trình kinh tế diễn ra trong
hiện thực. Đó là quá trình nâng cao trình độ, mức độ và chất lượng hoạt động
KKTCK dựa trên những điều kiện tiền đề nhất định về cơ sở hạ tầng kỹ thuật,
xã hội, năng lực, hiệu lực quản lý của Nhà nước, đường lối kinh tế đối ngoại,
quan hệ với đối tác… Phát triển KKTCK là quá trình từ thấp đến cao, từ giản

đơn đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, đây là quá trình biến đổi
về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất hoạt động của KKTCK. Điều đó có
nghĩa là, không thể áp đặt một hình thức tổ chức quản lý khi chưa đủ những
điều kiện cần thiết.
- Phát triển KKTCK là sự mở rộng không gian kinh tế, tăng trưởng
thương mại, kim ngạch XNK, tăng quy mô vốn đầu tư, tăng doanh thu các
hoạt động dịch vụ: du lịch, tài chính ngân hàng, thương mại… Sự tăng lên
về quy mô, tốc độ, sản lượng đó gắn liền với chuyển dịch hoàn thiện cơ cấu
kinh tế, hoàn thiện thể chế kinh tế. Như vậy, hiểu phát triển KKTCK không
chỉ đơn thuần tăng thêm về lượng của các bộ phận, các yếu tố. Tuy nhiên
phát triển KKTCK, trước hết phải là tăng trưởng thương mại, các dịch vụ,
quy mô đầu tư, nếu không có tăng trưởng các hoạt động sản xuất kinh
doanh, dịch vụ thì không có phát triển. Song không phải tất cả mọi sự tăng
thêm về quy mô, tốc độ, sản lượng đều là phát triển, mà phát triển KKTCK
có nội hàm rộng hơn tăng trưởng các yếu tố hoạt động kinh tế. Thực chất sự
tăng thêm quy mô, tốc độ, sản lượng là quá trình tích lũy về lượng dẫn đến
thay đổi quan hệ tỷ lệ giữa các bộ phận cấu thành tức là thay đổi cấu trúc (cơ
cấu kinh tế). Đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
Phát triển KKTCK được thực hiện trong thể chế kinh tế nhất định. Ở nước ta
hiện nay, đang trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Theo đó, hoạt động kinh tế của các KKTCK vừa tuân theo


24

nguyên tắc thị trường vừa chịu sự quản lý của Nhà nước. Đảm bảo cho các
doanh nghiệp của mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động kinh tế đối
ngoại cạnh tranh bình đẳng tuân thủ quy định của pháp luật Việt Nam và
những thông lệ quốc tế.
- KKTCK là hình thức tổ chức thực hiện các quan hệ kinh tế đối ngoại.

Mục đích phát triển KKTCK là nhằm mở rộng, nâng cao hiệu quả kinh tế đối
ngoại, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và phát triển không gian kinh
tế - xã hội bền vững khu vực của cửa khẩu biên giới, đảm bảo an sinh xã hội,
bảo vệ môi trường sinh thái, bảo về chủ quyền quốc gia.
Như vậy, phát triển KKTCK đó là quá trình nâng cao trình độ, mức độ,
chất lượng hoạt động của KKTCK dựa trên những điều kiện tiền đề nhất định.
Đó là sự mở rộng không gian kinh tế - xã hội, tăng trưởng thương mại, tăng
thêm kim ngạch XNK, tăng doanh thu các loại dịch vụ… gắn liền với quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hóa và hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhằm mở rộng, nâng cao hiệu quả
kinh tế đối ngoại và phát triển bền vững khu vực cửa khẩu biên giới.
Khái niệm phát triển KKTCK biên giới như trên làm rõ hai vấn đề:
1) Nội dung phát triển KKTCK là phát triển không gian lãnh thổ về
kinh tế, không gian lãnh thổ về xã hội (dân cư) và hoạt động trung tâm là giao
lưu kinh tế qua cửa khẩu biên giới.
2) Những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của KKTCK
liên quan đến cơ chế, chính sách, tổ chức, quản lý phù hợp với vùng biên giới.
1.1.2. Tính quy luật, điều kiện hình thành và phát triển khu kinh tế cửa
khẩu biên giới
1.1.2.1. Tính quy luật hình thành và phát triển khu kinh tế cửa khẩu
biên giới


25

Thứ nhất, trình độ phát triển càng cao của lực lượng sản xuất, nhu cầu
trao đổi ngày càng mở rộng làm xuất hiện những hình thức tổ chức, trao đổi
hoạt động kinh tế mới giữa biên giới các quốc gia.
Khi lực lượng sản xuất phát triển làm cho các mối quan hệ kinh tế vượt
qua biên giới quốc gia. Từ chỗ trao đổi tự nhiên trên cơ sở các sản vật sẵn có,

thông qua các thời đại khác nhau, ngày nay cùng với xu thế phát triển chung
thì sự trao đổi, buôn bán đó đã trở thành các hoạt động thương mại ở nhiều
quy mô, tầng nấc khác nhau, từ trao đổi địa phương đến quy mô quốc gia, từ
phạm vi nội bộ quốc gia đến giữa các quốc gia lân cận và xuyên quốc gia.
Qúa trình trao đổi hoạt động kinh tế giữa các nước có cùng biên giới
cũng thay đổi, phát triển, kể cả nội dung, quy mô và hình thức tổ chức, từ thấp
tới cao.
Về nội dung trao đổi, đầu tiên là trao đổi sản phẩm hàng hóa giữa biên
giới các nước. Song trình độ lực lượng sản xuất phát triển cao, việc trao đổi
không dừng lại ở trao đổi hàng hóa, mà còn trao đổi hoạt động dịch vụ, không
chỉ hợp tác trao đổi thương mại (theo nghĩa hẹp) mà còn hợp tác sản xuất.
Quy mô dung lượng hàng hóa dịch vụ và sản xuất ngày càng lớn, phát triển.
Để đáp ứng nhu cầu về trao đổi hợp tác kinh tế biên giới ngày càng
tăng, hình thức tổ chức hoạt động trao đổi vì thế ngày càng phát triển, từ chỗ
trao đổi tự phát, sang trao đổi có tổ chức, từ chỗ trao đổi qua các điểm (chợ)
biên giới rải rác trên dọc đường biên đến chỗ hình thành các tụ điểm qua cửa
khẩu và phát triển thành KKTCK biên giới.
Tóm lại, sự hình thành và phát triển KKTCK biên giới là quá trình có
tính quy luật. Nó do yêu cầu phát triển ngày càng cao của xã hội hóa sản xuất,
của hội nhập và toàn cầu hóa kinh tế.


×