MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Cán bộ là gốc của mọi công
việc” [23,269], “ Công việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay kém”
[21,240]. Trong Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, Đảng ta cũng khẳng định “Cán bộ là nhân tố quyết định sự
thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và
chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng” [11, 66]. Như vậy,
có thể thấy vai trò của cán bộ là hết sức quan trọng trong mọi thời đại, đặc
biệt là trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đang chuyển sang thời kì phát
triển mới – đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Cùng với xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
thì yêu cầu đặt ra đối với đội ngũ cán bộ ngày càng nâng cao, đòi hỏi họ phải
có bản lĩnh chính trị, có năng lực chuyên môn, trong đó văn hóa chính trị là
yêu cầu không thể thiếu. Nó là yếu tố rất quan trọng quyết định chất lượng và
hiệu quả hoạt động chính trị của đội ngũ cán bộ, giúp cho họ hoàn thành được
sứ mệnh của mình đối với đất nước.
Hiện nay, cán bộ công chức hành chính là một bộ phận rất quan trọng
trong đội ngũ cán bộ, công chức nói chung của bộ máy Nhà nước ta. Do đó,
việc nâng cao văn hóa chính trị cho đội ngũ này là một yêu cầu tất yếu khách
quan của thời đại. Đặc biệt khi mà văn hóa chính trị ngày càng trở nên quan
trọng, là một trong những yêu tố quyết định đến sự thành bại của công cuộc
đổi mới thì hơn lúc nào hết văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ công chức
hành chính ở cấp địa phương, cụ thể là cấp huyện phải ngày càng được quan
tâm nhiều hơn và không ngừng được bồi dưỡng, hoàn thiện. Bởi lẽ đây là
những cán bộ gần dân và hiểu dân nhất. Những cán bộ này phải vừa là những
tấm gương văn hoá chính trị vừa phải tuyên truyền giáo dục để văn hoá chính
trị đi sâu vào đông đảo quần chúng. Đây là một vấn đề có tính chất chiến
1
lược, có tầm vóc hết sức to lớn góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Sau 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, trình độ văn hóa chính trị
của đội ngũ cán bộ công chức hành chính cấp huyện ở nước ta đã và đang
không ngừng được nâng cao. Từ việc nhận thức đúng đắn về văn hóa chính trị
và tầm quan trọng của nó mà đã xuất hiện nhiều tấm gương điển hình về văn
hóa chính trị ở trong bộ máy hành chính nhà nước cấp huyện. Chính những
điển hình này sẽ là nguồn cán bộ bổ sung quý báu cho đội ngũ cán bộ lãnh
đạo chủ chốt ở nước ta góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi mục
tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa. Tuy nhiên, thực tiễn hiện nay
cho thấy trình độ văn hoá chính trị của đội ngũ cán bộ công chức hành chính
ở cấp quận huyện của nước ta còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu
nguyện vọng của nhân dân cũng như yêu cầu của thời kỳ đổi mới. Cá biệt ở
một số nơi, một bộ phận cán bộ công chức hành chính còn hạn chế về trình độ
văn hóa chính trị, có những nhận thức, hành động sai trái, không phù hợp với
những chuẩn mực đạo đức xã hội, đi ngược lại với chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà Nước, làm giảm sút nghiêm trọng lòng tin của nhân dân, làm
nghèo đất nước. Lý Nhân là một huyện thuần nông nhưng đang có những
bước phát triển mạnh mẽ nhờ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp nông thôn. Đây cũng là vùng đất chứa đựng nhiều giá trị văn
hóa truyền thống của Hà Nam nói riêng và cả nước nói chung. Vì vậy nên
việc nâng cao văn hóa chính trị cho đội ngũ cán bộ công chức hành chính
huyện là một yêu cầu tất yếu, đáp ứng những đòi hỏi bức thiết của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên địa bàn huyện, đồng
thời giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của địa phương . Nhận
thức được tầm quan trọng của vấn đề, với mục đích phát huy tối đa những
điểm tích cực cũng như khắc phục triệt để những điểm còn yếu kém trong vấn
đề văn hoá chính trị của đội ngũ cán bộ công chức hành chính nhà nước cấp
huyện mà cụ thể là ở huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, nhóm sinh viên lớp
2
Chính Trị Học K29 đã lựa chon vấn đề : “Nâng cao văn hoá chính trị cho
đội ngũ cán bộ công chức hành chính huyện Lý Nhân - tỉnh Hà Nam hiện
nay” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Văn hóa chính trị là vấn đề đã được nghiên cứu từ lâu cả trên thế
giới và Việt Nam. Đặc biệt, trong những năm gần đây, ở nước ta có khá nhiều
bài báo, công trình nghiên cứu về văn hóa chính trị trên nhiều góc độ khác
nhau, cụ thể có thể kể đến những nhóm công trình sau:
2.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến văn hóa và văn hóa
chính trị:
Đăng trên các tạp chí khoa học có: Văn hóa chính trị, một bình diện hợp
thành của đối tượng và nội dung nghiên cứu của chình trị học (1992) của
Hoàng Chí Bảo; Văn hóa chính trị - một cách nhìn mới trong thời kì đổi mới
(1998) của Trần Đình Huỳnh, Tạp chí xây dựng Đảng, số 10; Văn hóa và
quan hệ văn hóa với chính trị (2000) của Quang Cận, Tạp chí Cộng sản, số 1;
Về văn hóa chính trị (2001) của Văn Hải, Tạp chí lý luận chính trị, số 5; Phát
huy ưu thế của nền văn hóa chính trị Việt Nam - tạo động lực cho công cuộc
đổi mới (2005) của Trần Ngọc Hiên , Tạp chí thông tin khoa học xã hội, số 6;
Nhân dân: một phạm trù văn hóa chính trị Hồ Chí Minh (2010) của Bùi Đình
Phong, Tạp chí tuyên giáo, số 3; Văn hóa chính trị Việt Nam trong thời kì đổi
mới (2010) của Phạm Huy Kỳ, Tạp chí tuyên giáo, số 6.
Sách có: Tìm hiểu nền tảng văn hóa dân tộc trong tư tưởng cách mạng
Hồ Chí Minh (1995) của Lê Văn Hóa, Nxb Hà Nội; Một số vấn đề lí luận văn
hóa thời kì đổi mới (1996) của Hoàng Vinh, Nxb Chính trị Quốc gia; Văn hóa
chính trị Việt, truyền thống và hiện đại (1998) của Nguyễn Hồng Phong, Nxb
Văn hóa thông tin; Những vấn đề văn hóa Việt Nam hiện đại (1998) của Tập
thể tác giả, Nxb Chính trị Quốc gia; Văn hóa – một số vấn đề lí luận (1999)
của Trường Lưu, Nxb Chính trị Quốc gia; Vai trò của văn hóa trong hoạt
động chính trị của Đảng ta hiện nay (2000) của Trần Văn Bính chủ biên, Nxb
3
Lao động, Hà Nội; Văn hóa chính trị và lịch sử dưới góc nhìn văn hóa chính
trị (2008) của Phạm Hồng Tung, Nxb Chính trị Quốc gia.
Luận án thạc sỹ: Văn hóa chính trị Việt Nam và vai trò của nó đối với
công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay (1998) của Lê Tấn Lập.
2.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến cán bộ, công chức như:
Sách có: Hồ Chí Minh với vấn đề đào tạo cán bộ (1995) của Đức
Vượng, Nxb Chính trị quốc gia; Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh
đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới (1998) của Trần Xuân Sầm chủ
biên, Nxb Chính trị quốc gia; Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng
cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
(2001) do Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm đồng chủ biên, Nxb Chính trị
quốc gia; Phẩm chất, năng lực, người lãnh đạo theo yêu cầu của công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, Một số vấn đề và thực tiễn về đánh giá, luân chuyển cán
bộ nước ta hiện nay (2004) của Nguyễn Văn Huyên, Ban tổ chức TƯ.
Luận án tiến sỹ có: Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh
vùng đồng bằng sông Hồng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước (2000) của Nguyễn Thái Sơn; Nâng cao năng lực cán bộ lãnh
đạo chủ chốt cấp xã ở vùng đồng bắng Bắc bộ nước ta hiện nay (2002) của
Mai Đức Ngọc.
2.3. Các công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến việc nâng cao,
bồi dưỡng văn hóa chính trị cho đội ngũ cán bộ:
Sách có: Văn hóa chính trị và việc bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở
nước ta hiện nay (1999) của Phạm Ngọc Quang chủ biên, Nxb Chính trị quốc
gia; Nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ lãnh đạo ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay (2006) của Lâm Quốc Tuấn, Nxb Thông tin và Viện văn hóa.
Luận văn thạc sỹ có: Văn hóa chính trị với việc nâng cao chất lượng cán
bộ của thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn đổi mới hiện nay (2000) của
Nguyễn Thị Lệ Thủy; Văn hóa chính trị của cán bộ chủ chốt cấp huyện của
4
tỉnh Kon Tum hiện nay – thực trạng và giải pháp (2003) của Nguyễn
Minh Đức.
Trong những công trình này, các tác giả đã đưa ra được những nội
dung cơ bản và khá toàn diện về văn hóa chính trị, một số công trình đã nêu
lên được thực trạng và những giải pháp nhất định nhằm nâng cao văn hóa
chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị ở nước ta. Đây là những tài
liệu quý giá, cần thiết cho việc nghiên cứu đề tài khoa học. Tuy nhiên, chưa
có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về vấn
đề nâng cao văn hóa chính trị cho đội ngũ cán bộ công chức hành chính ở địa
phương, cụ thể là huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Vì thế, đề tài là sự kế thừa,
bổ sung, tìm tòi và phát triển hơn nữa những vấn đề liên quan đến việc nâng
cao văn hóa chính trị cho đội ngũ cán bộ công chức hành chính huyện, góp
phần đưa nhận thức vấn đề này tới độ sâu sắc cần thiết, đáp ứng được yêu cầu
của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay
3. Mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
- Mục tiêu: Đề tài tập trung nghiên cứu và làm rõ vấn đề nâng cao văn
hóa chính trị cho đội ngũ cán bộ công chức hành chính huyện Lý Nhân, tỉnh
Hà Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
- Nhiệm vụ: Để thực hiện mục tiêu trên, đề tài tập trung giải quyết
những nhiệm vụ sau:
+ Phân tích làm rõ những khái niệm văn hóa chính trị, cán bộ công
chức hành chính, văn hóa chính trị của cán bộ công chức hành chính.
+ Phân tích cơ sở của việc nâng cao văn hóa chính trị của đội ngũ cán
bộ công chức hành chính Nhà nước nói chung và huyện Lý Nhân, tỉnh Hà
Nam nói riêng là yêu cầu tất yếu.
+ Phân tích làm rõ thực trạng văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ công
chức hành chính Huyện Lý Nhân - Hà Nam.
+ Đề ra một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ công chức hành chính huyện Lý
5
Nhân, tỉnh Hà Nam trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ở nước
ta hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu làm rõ vấn đề
nâng cao văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ công chức hành chính huyện
Lý Nhân, tỉnh Hà Nam ( Từ 1986 đến nay).
4. Phương pháp nghiên cứu.
Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về văn hóa nói chung và văn
hóa chính trị nói riêng, ngoài ra còn sử dụng phương pháp lịch sử - logic,
phân tích, tổng hợp…v,v.
5. Đóng góp mới của đề tài
- Ý nghĩa lí luận:
Hệ thống hóa lại các quan điểm về văn hóa chính trị của đội ngũ cán
bộ, công chức ở nước ta. Ngoài ra, góp phần làm sâu sắc thêm vấn đề nâng
cao văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ công chức hành chính Nhà nước cấp
huyện ở nước ta trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
- Ý nghĩa thực tiễn:
+ Đề tài có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên
chuyên ngành lý luận chính trị và những ai quan tâm tới vấn đề văn hóa chính
trị nói chung và văn hóa chính trị cho đội ngũ cán bộ công chức hành chính
Nhà nước nói riêng ở Việt Nam
+ Trong chừng mực có thể đưa ra những gợi ý gián tiếp cho việc
nghiên cứu và chỉ đạo công tác nâng cao văn hóa chính trị cho đội ngũ cán bộ
công chức hành chính huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần
phụ lục, đề tài bao gồm 3 chương 6 tiết.
6
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO VĂN HÓA CHÍNH
TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH HUYỆN
LÝ NHÂN, TỈNH HÀ NAM
1.1. KHÁI NIỆM VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CÔNG
CHỨC HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.
1.1.1. Cán bộ
Thuật ngữ cán bộ xuất hiện và được sử dụng rộng rãi trong ngôn ngữ
chính trị ở các nước thuộc hệ thống XHCN, bắt đầu từ thời Lênin sau cách
mạng tháng Mười, khi Đảng Cộng Sản đã cầm quyền và nước Nga Xô viết
đã ra đời, thể chế quản lý nhà nước đã định hình và đi vào hoạt động.
Ở nước ta, khái niệm cán bộ xuất hiện trong đời sống xã hội vào những
năm 30 của thế kỉ XX, để chỉ một lớp người,những chiến sĩ cách mạng chịu
hy sinh, gian khổ, đấu tranh giành độc lập dân tộc và sau này trong thời kì
kháng chiến chống thực dân Pháp, được dùng phổ biến để chỉ những người
thoát ly, tham gia hoạt động kháng chiến, để phân biệt với nhân dân.
Trong một thời gian dài khái niệm cán bộ gần như được dùng thay thế
cho khái niệm công chức. Theo cách hiểu thông thường, cán bộ được coi là tất
cả những người thoát ly, làm việc trong bộ máy chính quyền, Đảng, đoàn thể,
quân đội.
Dưới góc độ hành chính, cán bộ được coi là những người có mức lương
từ cán sự trở lên, để phân biệt với nhân viên có mức lương thấp hơn cán sự.
Trong từ điển tiếng Việt, cán bộ được định nghĩa: “1.Người làm công tác
có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước; 2.Người làm công tác có
chức vụ trong một cơ quan,tổ chức ,phân biệt với người thường, không có
chức vụ.”
Như vậy,với nghĩa thứ nhất, Cán bộ là người làm công tác có nghiệp vụ
chuyên môn trong cơ quan nhà nước,có trình độ được đào tạo từ cao đẳng,đại
học trở lên. Số có trình độ đào tạo thấp hơn gọi là nhân viên
7
Với nghĩa thứ hai, Cán bộ là người làm công tác có chức vụ trong một
cơ quan, một tổ chức. Đây chính là đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lí, là những
người có chức vụ, phân biệt với những người thường, không có chức vụ.
Từ những cách hiểu trên có thể đi đến một quan niệm chung nhất như
sau: cán bộ là người có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ nhất định, làm việc
trong các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị và những người giữ chức
vụ trong tổ chức, cơ quan của hệ thống chính trị.
Cho đến bây giờ thì cán bộ vẫn là một danh xưng đẹp trong ý thức của
nhân dân ta, xã hội ta, mặc dù có những biến đổi nhất định theo sự vận động
của thực tiễn. Tuy nhiên, trước sự phát triển của nền kinh tế - xã hội và tiến
trình đổi mới hệ thống chính trị của đất nước, khái niệm cán bộ đang có sự
phát triển và nhu cầu bổ sung nội hàm, phạm vi của nó. Theo đó, đội ngũ cán
bộ không chỉ giới hạn trong hệ thống chính trị, trong phạm vi tổ chức Đảng,
nhà nước, mặt trận tổ quốc, đoàn thể như hiện nay.
Hiện nay, ở nước ta, khái niệm cán bộ được dùng với nhiều nghĩa khác
nhau:
Trong các tổ chức Đảng và đoàn thể khái niệm cán bộ thường được dùng
với hai nghĩa: Một là,chỉ những người được bầu vào các cấp lãnh đạo, chỉ huy
từ cơ sở đến trung ương (cán bộ lãnh đạo), để phân biệt với Đảng viên
thường,đoàn viên, hội viên; Hai là, những người làm công tác chuyên trách
hưởng lương trong các tổ chức Đảng, đoàn thể.
Trong quân đội, là những người giữ cương vị chỉ huy từ tiểu đội trưởng
trở lên (cán bộ tiểu đội, trung đội, đại đội, cán bộ tiểu đoàn, trung đoàn, sư
đoàn...) hoặc là sĩ quan từ cấp úy trở lên.
Trong hệ thống bộ máy nhà nước,khái niệm cán bộ về cơ bản được hiểu
trùng với khái niệm công chức,chỉ những người làm việc trong cơ quan nhà
nước thuộc ngành hành chính, tư pháp, lập pháp, kinh tế, văn hóa xã
hội...Đồng thời cán bộ cũng được hiểu là những người có chức vụ chỉ huy,
phụ trách, lãnh đạo. Dù cách dùng, cách hiểu trong các trường hợp, các lĩnh
8
vực cụ thể khác nhau, nhưng về cơ bản thuật ngữ cán bộ bao hàm nghĩa chính
của nó là bộ khung, là nòng cốt, là lãnh đạo, là chỉ huy.
1.1.2. Cán bộ công chức hành chính
Công chức là một khái niệm chung được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc
gia trên thế giới để chỉ những công dân được tuyển vào làm việc thường
xuyên trong cơ quan nhà nước, do ngân sách nhà nước trả lương. Tuy nhiên
khái niệm công chức mang tính lịch sử, nội dung của nó phụ thuộc vào tính
chất đặc thù của mỗi quốc gia cũng như từng giai đoạn lịch sử của từng nước.
Do đó, trong thực tế rất khó có một khái niệm chung về công chức cho tất cả
các quốc gia, thậm chí, ngay trong một quốc gia, ở từng thời kì phát triển
khác nhau, thuật ngữ này cũng mang những nội dung khác nhau. Ở Việt Nam,
khái niệm công chức được hình thành, phát triển và ngày càng hoàn thiện gắn
phát triển của nền hành chính nhà nước. Ở thời điểm hiện tại khái niệm công
chức ở nước ta được quy định rõ ràng trong luật công chức 2008 (có hiệu lực
thi hành từ 1/1/2010).
Nếu chiểu theo các văn bản quy phạm pháp luật mà đặc biệt là luật cán
bộ công chức 2008 thì cụm từ “cán bộ công chức hành chính” được dùng ở
đây chưa thật chính xác, bởi lẽ trong luật có ghi và phân biệt rõ “cán bộ” và
“công chức” là hai khái niệm riêng biệt vì vậy chúng không thể kết hợp được
với nhau như khái niệm trên đã nêu ra. Cụ thể trong luật cán bộ công chức đã
chỉ ra:
“Điều 4. Cán bộ, công chức
1. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước.
9
2. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy
lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự
nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối
với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập
thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy
định của pháp luật.
3. Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân
Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng
đầu tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được
tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân
cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước” [29, tr.1-2].
Tuy nhiên, từ lâu nay khái niệm cán bộ đã là một danh xưng đẹp để chỉ
những người làm các công việc do Đảng, chính phủ và các đoàn thể giao phó.
Vì vậy nếu xét trên bình diện ý thức xã hội thông thường và trên giác độ văn
hóa thì ở đây khái niệm công chức hành chính hoàn toàn có thể nằm trong
danh xưng cán bộ. Từ cán bộ là cách xưng hô quen thuộc được chấp nhận
rộng rãi trong đông đảo quần chúng nhân dân qua suốt một thời gian dài.
Chính vì vậy mà nhóm nghiên cứu đề tài đã sử dụng khái niệm “cán bộ công
chức hành chính”. Và Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta cũng đã đưa ra
khái niệm cán bộ một cách hết sức gần gũi, dễ hiểu và thông dụng: “Cán bộ
không chỉ là người lãnh đạo trong tổ chức mà còn là những người đem chính
sách của đảng của chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành.
10
Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho đảng chính phủ hiểu rõ
để đặt chính sách cho đúng. Họ là những cán bộ quân dân chính của các tổ
chức do đảng lãnh đạo”.
Như vậy trong khái niệm này thì đội ngũ cán bộ được mở rộng đó không
chỉ là những người giữ các chức danh lãnh đạo (hay còn gọi là cán bộ chủ
chốt) mà đó còn là đội ngũ những người trực tiếp thực thi công vụ của Nhà
nước trong đó có bao gồm đội ngũ công chức hành chính. Tuy nhiên sự kết
hợp này chỉ mang ý nghĩa trong phạm vi đề tài này, không mang tính học
thuật và pháp lí.
Công chức hành chính cũng là một khái niệm cần làm sáng tỏ. Tuy trong
luật công chức 2008 không chỉ rõ khái niệm “công chức hành chính” nhưng
chúng ta có thể hiểu: công chức hành chính là những công chức thực hiện
chức năng quản lí hành chính nhà nước làm việc trong các cơ quan hành
chính nhà nước. Cán bộ công chức hành chính cấp huyên là những công
chức thực hiện chức năng quản lí hành chính nhà nước làm việc trong Uỷ
ban nhân dân huyện và các cơ quan giúp việc thuộc ủy ban nhân dân. Những
người giữ các chức danh như Chủ tịch, phó chủ tịch UBND tuy cũng thực
hiện các chức năng quản lí hành chính nhà nước nhưng lại không thuộc đối
tượng nghiên cứu của đề tài này. Ở đây nhóm tác giả chỉ tập trung chủ yếu
vào những công chức hành chính thường xuyên, trực tiếp giải quyết các công
việc hành chính và tiếp xúc với nhân dân.
1.1.3. Văn hóa chính trị
Văn hóa chính trị là một bộ phận quan trọng của khoa học chính trị và nó
được ra đời khi mà xã hội bắt đầu có sự phân chia giai cấp, bắt nguồn từ chính
sự thâm nhập của văn hóa vào vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cụ
thể như khi văn hóa thâm nhập vào kinh tế thì ứng với nó là văn hóa kinh tế,
văn hóa lan tỏa vào trong các mối quan hệ ứng xử xã hội thì làm xuất hiện
văn hóa giao tiếp...Cho đến ngày hôm nay cùng với sự phát triển xã hội và
nhận thức của con người cũng như do nhu cầu nhận thức và hoạt động thực
11
tiễn liên quan tới các hiện tượng văn hóa mà người ta càng phân chia văn hóa
ra thành nhiều loại như: Văn hóa đạo đức, văn hóa lao động, văn hóa tư duy,
văn hóa kinh doanh, văn hóa môi trường…Trong số đó có một nhân tố cấu
thành rất quan trọng của văn hóa đó chính là văn hóa chính trị. Tuy nhiên sự
ra đời và phát triển của văn hóa chính trị không chỉ gắn liền với các quá trình
văn hóa mà nó còn gắn liền với sự xuất hiện và vận động của chính trị qua các
giai đoạn lịch sử. Xét cho cùng thì chính trị ra đời tồn tại và phát triển bởi
cuộc đấu tranh giai cấp để nhằm thực thi quyền lực chính trị và cũng chính từ
trong quá trình đấu tranh quyết liệt đó văn hóa chính trị đã nảy sinh như một
yếu tố đồng hành bị ảnh hưởng chi phối bởi lợi ích của các giai cấp nhất định
ở trong một tiến trình lịch sử cụ thể nào đó. Chính vì vậy có thể nói nói văn
hóa chính trị cũng được sinh ra từ chính trị và ngay ở trong chính trị.
Có rất nhiều cách tiếp cận để làm rõ và luận giải văn hóa chính trị ở trên
các giác độ khác nhau. Tuy nhiên ở trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này
nhóm nghiên cứu sẽ tiếp cận làm rõ văn hóa chính trị như một khái niệm học
thuật của khoa học chính trị kể từ thời điểm chính trị trở thành một bộ môn
khoa học độc lập.
Như đã trình bày ở trên VHCT là một bộ phận của khoa học chính trị.
Vậy nên chỉ khi chính trị trở thành một bộ môn khoa học độc lập (ra đời ở
phương Tây sau chiến tranh thế giới thứ 2 thì VHCT mới thực sự được nghiên
cứu một cách hệ thống và đầy đủ. Trên thực tế trong khoảng thời gian giữa
hai cuộc chiến tranh thế giới và những thập kỉ tiếp theo của cuộc thế chiến lần
thứ hai thì nhân loại đã chứng kiến những chuyển biến chính trị sâu sắc và vô
cùng mau lẹ, làm thay đổi căn bản bản đồ chính trị thế giới cùng với đó là sự
xuất hiện của các phong trào chính trị sôi nổi, rộng khắp với sự ra đời của
những chế độ chính trị đặc biệt. Chính điều này đã đặt ra yêu cầu bức thiết để
khoa học chính trị nói chung và bộ môn nghiên cứu văn hóa chính trị nói
riêng ra đời. Sau đây là bốn nguyên nhân cụ thể dẫn đến sự ra đời này:
12
Thứ nhất, đó là hai cuộc chiến tranh thế giới và hậu quả thảm khốc của
nó đã chỉ ra một thực tế phũ phàng rằng dù các cường quốc phương tây vốn tự
coi mình là những dân tộc thượng đẳng ưu tú nhất của nhân loại cũng đều bị
lôi cuốn vào những cuộc chém giết tàn bạo và dã man nhất. Nó đã chỉ vạch
trần trần chân tướng của các dân tộc thượng đẳng làm đảo lộn đến tận gốc rễ
nhiều hệ giá trị vốn được coi là căn bản nhất của nền văn minh, văn hóa, đạo
đức phương tây. Và cũng chính điều này đã buộc các nhà khoa học xã hội
phương tây phải xem xét lại toàn bộ triết lí, phương thức tổ chức nhà nước và
xã hội cũng như các đặc điểm VHCT của mỗi dân tộc.
Thứ hai, đó là sự xuất hiện của các phong trào phát xít và các nhà nước
phát xít. Sự lớn mạnh của chủ nghĩa phát xít trong khoảng hơn một thập kỉ đã
đặt ra câu hỏi lớn cho các nhà khoa học phải làm sao giải mã được pt phát xít
và chủ nghĩa phát xít, quan trọng hơn nữa là làm sao để lí giải được sự thắng
thế tạm thời của chủ nghĩa phát xít với tư cách là một ý thức hệ và là một loại
hình VHCT đã có sự ảnh hưởng sâu sắc đối với hàng chục triệu người ở nhiều
quốc gia khác nhau.
Thứ ba đó là sự phát triên mạnh mẽ của phong trào cộng sản quốc tế. Sự
ra đời của học thuyết Macxit từ giữa thế kỉ XĨ đã làm cho phong trào công
nhân có sự chuyển biến về chất. Một loạt các Đảng cộng sản ra đời và trên
thực tế năm 1917 thì học thuyết Mác đã trở thành hiện thực ở nước Nga xô
viết. Việc Liên Xô đã vượt qua được những khó khăn khốc liệt để đạt được
những thành tựu đáng nể, góp phần quyết định vào việc đánh bại chủ nghĩa
phát xít và việc một loạt các quốc gia ở Đông Âu lựa chọn con đường CNXH
để phát triển đã làm cho thế giới tư bản phải nể phục và lo lắng về sức sống
mãnh liệt của CNXH. Kể từ đây CNXH đã được các học giả TB nghiên cứu
một cách toàn diện và kĩ lưỡng ở khắp các lĩnh vực trong đó thì văn hóa chính
trị XHCN là vấn đề được quan tâm đặc biệt.
Thứ tư đó là sự phát triển mạnh mẽ của pt độc lập dân tộc ở các khu vực
thuộc địa, phụ thuộc trước đây và sự ra đời của một loạt các nhà nước dân tộc
13
ở châu Á châu phi và ở các khu vực khác. Các phong trào giải phóng dân tộc
này đã làm thay đổi lớn lao bản đồ chính trị thế giới, các quốc gia mới ra đời
mang trong mình những nét đặc trưng của nền văn hóa, tôn giáo bản địa và sự
kết hợp với các yếu tố văn hóa, các trào lưu tư tưởng tiến bộ của nhân loại.
Chính điều đó đã tạo nên những nét VHCT rất mới, rất riêng biệt của mỗi dân
tộc mỗi quốc gia này. Hơn nữa khi mà trật tự thế giới hai cực I-an-ta đã hình
thành sau thế chiến thứ hai thì việc nhà nước mới của các dân tộc này lựa
chọn con đường phát triển nào trong giai đoạn hậu thuộc địa sẽ có ảnh hưởng
kô nhỏ đến cán cân quyền lực thế giới. Chính vì vậy mà trong suốt nhiều thập
kỉ của thế kỉ XX một số phong trào dân tộc ở Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ,
Inđônêxia.., đã được các học giả phương tây hết sức chú ý.
Hai nhà khoa học người Mĩ được coi như là cha đẻ của bộ môn nghiên
cứu VHCT đó là A-Almond và Sidney Verba. Công trình khoa học của hai
ông với tựa đề “The civic culture and democracy in five nations”(Văn hóa
công dân - những thái độ chính trị và nền dân chủ ở năm quốc gia) đã đặt nền
móng học thuật cho bộ môn nghiên cứu về VHCT. The civic culture là một
nghiên cứu về VHCT của nền dân chủ và về các cấu trúc xã hội và các quá
trình đảm bảo cho nền vhct đó. Almond và Verba là những người đầu tiên đưa
ra quan điểm rằng VHCT chỉ là các chiều cạnh chủ quan của hệ thống chính
trị và quá trình chính trị, nó bao gồm ba thành tố cơ bản là tri nhận, giá trị và
biểu lộ tình cảm. Từ đó hai tác giả này đã đưa ra khái niệm vhct với tư cách là
vhct của một quốc gia dân tộc:
“VHCT của một dân tộc là cách chia sẻ riêng của các thành viên của
dân tộc ấy những dạng thức của sự định hướng quan tâm đến các khách
thể chính trị.”
Trong khái niệm này cần chú ý đến cụm từ “những dạng thức của sự
định hướng quan tâm đến các khách thể chính trị”. Trong đó thì những dạng
thức của sự định hướng quan tâm chính là nhấn mạnh đến các chiều cạnh chủ
quan tức là cái mà được con người thể hiện thể hiện rõ trong hệ thống chính
14
trị, trong các quá trình và các quan hệ chính trị thông qua các mặt như tri thức
và sự hiểu biết về chính trị, tình cảm niềm tin chính trị , khả năng phán xét
đánh giá các vấn đề chính trị và các hành động chính trị thực tiễn. Còn về
khách thể của chính trị thì theo các ông bao gồm 4 đối tượng:
1. Hệ thống chính trị, hệ thống tổ chức quyền lực chính trị.
2. Khách thể đầu vào của quá trình chính trị (bao gồm các kênh các thiết
chế cung cấp thông tin).
3. Khách thể đầu ra của quá trình chính trị (sp của quá trình chính trị như
chính sách, luật pháp, các quyết định, các thiết chế đảm bảo việc thực hiện
các chính sách pháp luật đó).
4. Bản thân công dân với tính cách là khách thể tự thân( chế định và
quan niệm liên quan đến vai trò của công dân trong hệ thống chính trị và
trong quá trình chính trị)
Có thể nói cách định nghĩa của Almond và Verba có một ý nghĩa vô
cùng quan trọng và nó có ảnh hưởng sâu rộng đến các học giả chính trị châu
âu kể cả trong thời kì hiện nay. Các định nghĩa về VHCT của các học giả
phương tây tuy có khác nhau về cách diễn đạt nhưng về cơ sở lí thuyết và
phương pháp thì tất cả các định nghĩa trên đều dựa trên những luận đề do
G.A.Almond và Sidney Verba đề xuất trong công trình The civic culture.
Chúng ta có thể thấy rõ điều này qua một số định nghĩa về VHCT sau đây:
Định nghĩa của Werner J. Patzelt thuộc trường đại học Tổng hợp Passau
(Đức) nêu ra trong cuốn giáo trình nhập môn khoa học chính trị (1992):
VHCT là những giá trị và tri thức, những quan điểm và thái độ của nhân dân,
là những dạng thức của hành vi và sự tham dự chính trị, là những quy tắc
công khai hoặc được mặc nhiên thừa nhận của quá trình chính trị, là những cơ
sở thường nhật của hệ thống chính trị và là tập hợp của tất cả những gì thuộc
về văn hóa và tập tục của của xã hội hiện tồn.
Trường phái học thuật Heidelberg trong cuốn “Từ điển chính trị” xuất
bản năm 2007 định nghĩa VHCT là khái niệm dùng để chỉ chiều cạnh chủ
15
quan của những cơ sở xã hội của các hệ thống chính trị. VHCT liên quan đến
những bộ phận khác nhau của ý thức chính trị, những phong thái, những lối
nghĩ và ứng xử điển hình của những nhóm xã hội hoặc của toàn xã hội.
VHCT bao gồm tất cả những đặc tính chính trị cá nhân của từng cá thể, tiềm
ẩn trong những thái độ và các giá trị, bắt rễ trong những động cơ bẩm sinh
của hành vi chính trị, và cả trong những hình thức bộc lộ có tính chất biểu
tượng và những ứng xử chính trị cụ thể.
Theo đề cương bài giảng VHCT của trường Đại học Tổng hợp California
ở Berkeley năm 2006 thì VHCT được tạo thành bởi những tri nhận, những giá
trị và những bộc lộ cảm tình mà dân chúng của một cộng đồng tập thể nào đó
mang lại cho một quá trình mà tại đó những giá trị chân xác sẽ được định vị.
Một trường phái khoa học ở Anh nêu định nghĩa: VHCT là hệ giá trị mà
trong đó một hệ thống chính trị được vận hành.
Trong khi đó David Zussman nêu quan điểm của một trường phái khoa
học chính trị ở Canada như sau: VHCT dùng để chỉ những ý kiến, thái độ và
những giá trị chung của các cá nhân đối với quá trình chính trị.
Tất cả những định nghĩa trên đều tập trung nhấn mạnh VHCT là những
chiều cạnh chủ quan của hệ thống chính trị, quá trình chính trị và nó được
hiểu như là chìa khóa để khám phá mối quan hệ giữa hệ thống chính trị với
môi trường chính trị và với các chủ thể chính trị.
Văn hóa chính trị là một vấn đề mới đối với lí luận Mácxít. Các nhà kinh
điển của chủ nghĩa C.Mác-Lênin chưa đề cập nhiều đến khái niệm này, mặc
dù nội dung của nó cũng đã được nêu ra và được xem là cơ sở cho sự hình
thành khái niệm văn hóa chính trị Macxit.
Ở Việt Nam tuy khoa học chính trị ra đời muộn nhưng ngay từ lúc mới
ra đời VHCT với tư cách là một bộ môn nghiên cứu của chính trị học đã thu
hút được sự chú ý của nhiều học giả trong nước. Căn cứ vào phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh các nhà nghiên cứu
lí luận Việt Nam cũng đã đưa ra một số khái niệm về VHCT. Cụ thể như:
16
PGS. TS Hoàng Chí Bảo quan niệm “ VHCT là chất lượng tổng hòa của
tri thức, tình cảm, niềm tin chính trị, tạo thành ý thức chính trị công dân, thúc
đẩy họ tới những hành động chính trị tích cực phù hợp với lí tưởng chính trị
của xã hội, là thói quen và nhu cầu tham gia một cách tự giác chủ động vào
các quan hệ chính trị xã hội của công dân, góp phần hướng dẫn họ trong cuộc
đấu tranh vì lợi ích chung của xã hội vì tiến bộ và phát triển” [44,tr.115-116].
GS. TS Phạm Ngọc Quang đưa ra khái niệm: “VHCT là một phương
diện của văn hóa trong xã hội có giai cấp, nói lên tri thức, năng lực sáng tạo
trong hoạt động chính trị dựa trên nhận thức sâu sắc các quan hệ chính trị hiện
thực cùng những thiết chế chính trị tiến bộ được lập ra để thực hiện lợi ích
chính trị cơ bản của giai cấp hay của nhân dân phù hợp với sự phát triển lịch
sử. VHCT nói lên phẩm chất và hình thức hoạt động chính trị của con người
cùng những thiết chế chính trị mà họ lập ra để thực hiện lợi ích giai cấp cơ
bản của chủ thể tương ứng”.[29, tr.19].
Khoa Chính trị học – Học viện Báo chí Tuyên truyền định nghĩa:
“VHCT là một lĩnh vực biểu hiện đặc biệt của văn hóa loài người trong xã hội
có giai cấp, được hiểu là trình độ phát triển của con người được thể hiện ở
trình độ hiểu biết về chính trị, trình độ tổ chức hệ thống quyền lực theo một
chuẩn giá trị xã hội nhất định nhằm điều hòa các quan hệ lợi ích của giai cấp
cầm quyền, phù hợp với xu thế phát triển và tiến bộ xã hội” [8, tr.229].
Có thể thấy rằng các định nghĩa trên đều có điểm chung là nhấn mạnh
đến sự thâm nhập và thẩm thấu của văn hóa vào chính trị, đều tuân thủ phép
logic hình thức khi luận giải khái niệm loài - văn hóa chính trị từ khái niệm
giống - văn hóa chung, coi chính trị chỉ được xem là văn hóa – văn hóa chính
trị - khi gắn với trình độ, năng lực sáng tạo tích cực của con người trong chính
trị, nhằm thúc đẩy cho sự phát triển tiến bộ xã hội. Trong đó văn hóa được
hiểu một cách khái quát là tổng hợp các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử nhằm hướng con người ta đến cái
chân thiện mĩ, còn chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai
17
cấp, cũng như giữa các dân tộc và các quốc gia với vấn đề giành giữ, tổ chức
và sử dụng quyền lực nhà nước, là sự tham gia của nhân dân vào các công
việc nhà nước và xã hội , là hoạt động chính trị thực tiễn của các giai cấp, các
đảng phái chính trị, nhà nước nhằm tìm kiếm khả năng thực hiện đường lối và
những mục tiêu đã đề ra và nhằm thỏa mãn lợi ích. Căn cứ vào phương pháp
luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với việc kế thừa
những giá trị trong quan niệm về VHCT của các nhà nghiên cứu lí luận gần
đây thì vhct có thể hiểu với ý nghĩa sau:
VHCT là một lĩnh vực, phương diện đặc biệt của văn hóa trong xã hội
có giai cấp, là tổng hòa các giá trị vật chất và tinh thần mà cốt lõi là các giá
trị chính trị tiến bộ được các chủ thể giác ngộ và vận dụng vào trong lĩnh vực
chính trị, vào việc thực thi quyền lực chính trị, thiết lập các thiết chế chính
trị, giải quyết các mối quan hệ chính trị trong đời sống chính trị thực tiễn,
nhằm điêù hòa các quan hệ lợi ích giữa các giai cấp và thực hiện lợi ích của
giai cấp cầm quyền, phù hợp với xu thế phát triển và tiến bộ của xã hội.
Để hiểu thêm về VHCT thì cần phải tiếp tục làm rõ cấu trúc của nó với 2
góc độ tiếp cận: VHCT với tư cách là chủ thể chính trị, VHCT với tư cách là
hệ giá trị.
- VHCT với tư cách là hệ thống các giá trị chính trị:
+ Tri thức và sự hiểu biết chính trị là giá trị nền tảng của VHCT được
định lượng một cách phổ biến bởi tri thức chính trị, là tổng hòa của tri thức lý
luận chính trị và kinh nghiệm chính trị thực tiễn. Hai yếu tố này có mối quan
hệ thống nhất hỗ trợ và tương tác lẫn nhau.
+ Niềm tin và tình cảm chính trị được hình thành dựa trên cơ sở tri thức
khoa học, là sự hiểu biết về chính trị cũng như sự chứng kiến, bị tác động bởi
các quá trình chính trị đang diễn ra để từ đó chủ thể bộc lộ những tình cảm
yêu ghét, tin tưởng, sự đánh giá nhận định của cá nhân đối với lý tưởng, chế
độ chính trị, nhà nước, đối với các cơ quan lãnh đạo, các nhà lãnh đạo…
18
+ Những lí tưởng cao đẹp mà con người phấn đấu đạt tới trong chính trị.
Mỗi một loại hình VHCT trong lịch sử đều nhằm phục vụ lí tưởng, lợi ích của
giai cấp đã sáng tạo ra nó. Trên cơ sở sự giác ngộ sâu sắc về lợi ích giai cấp,
sự hình thành niềm tin và tình cảm chính trị một cách vững chắc thì lý tưởng
chính trị cũng sẽ nảy sinh, tồn tại phát triển và đóng một vai trò to lớn như là
một động lực kích thích các hoạt động chính trị diễn ra và tìm mọi phương
thức, phương tiện hoạt động chính trị có hiệu quả nhất để nhanh chóng hiện
thực hóa các lí tưởng chính trị mà chủ thể đang muốn đạt tới.
+ Quá trình biến tri thức sự hiểu biết về chính trị, niềm tin tình cảm, lí
tưởng chính trị thành hành động chính trị tích cực. Đây là quá trình vận động
chuyển đổi có tính lôgic của VHCT dựa trên quy luật tâm lí cơ bản của con
người. Và kết quả cuối cùng mà những hành động chính trị thực tiễn tạo ra
chính là việc hình thành nên các chuẩn mực chính trị, các truyền thống chính
trị, thành nếp sống thành thói quen trong việc ứng xử trước các tình huống
chính trị khác nhau. Thông qua đó VHCT mới thực sự được hình thành, phát
triển và tồn tại vững chắc trong đời sống xã hội.
+ Những phương tiện chính trị, những chuẩn mực, phương thức tổ chức
và hoạt động của quyền lực chính trị được sử dụng để đạt tới mục tiêu chính
trị, mà trong đó hình thức tổ chức quyền lực nhà nước và cơ chế vận hành của
nó là nhân tố trung tâm và không thể thiếu được trong một nền VHCT cao.
+ Các truyền thống chính trị là các giá trị VHCT đã được các thế hệ đi
trước tạo dựng nên để thông qua đó các giá trị VHCT ngày hôm nay có một
chỗ đứng vững chắc mang đậm tính kế thừa và bản sắc dân tộc sâu sắc. Có
thể nói các giá tri VHCT truyền thống là chất liệu để tạo nên bản sắc dân tộc
riêng biệt cho VHCT.
+ Trong VHCT hệ tư tưởng chính trị là bộ phận cốt lõi nhất. Với tư cách
là nhân tố phản ánh khái quát lợi ích của giai cấp cũng như các phương thức
con đường để thực hiện lợi ích cơ bản của giai cấp, liên minh giai cấp hoặc
của nhân dân lao động nói chung (trong điều kiện của CNXH), hệ tư tưởng là
19
yếu tố cốt lõi nhất, là định hướng cơ bản cho đời sống tinh thần xã hội đóng
vai trò hạt nhân của VHCT, giữ vị trí trung tâm, có tác dụng chi phối các nhân
tố khác trong VHCT nói riêng cũng như toàn bộ nền VHCT nói chung của
một thể chế chính trị.
- VHCT với tư cách là chủ thể chính trị:
Với tư cách là chủ thể, phản ánh trình độ của con người về chính trị,
VHCT được tạo thành bởi kết quả của sự thống nhất và tác động qua lại của
vhct cá nhân và VHCT tổ chức cộng đồng.
+ VHCT cá nhân : mỗi con người chúng ta đều tồn tại với tư cách là một
cá nhân trong cộng đồng xã hội. Và cũng chính từ trong quá trình tồn tại và
phát triển đó mà nhân cách con người được hình thành thông qua con đường
tham gia vào các mối quan hệ xã hội. Như vậy thì VHCT của mỗi cá nhân với
tư cách là một dạng phẩm chất của con người cũng được hình thành trên cơ sự
tham gia của chính người đó vào các hoạt động chính trị, quá trình chính trị
và các mối quan hệ chính trị xã hội. Sự phát triển đầy đủ và toàn diện của
vhct cá nhân phản ánh trình độ chín muồi của chế độ dân chủ.
+ VHCT cá nhân được thể hiện ở ba mặt đó là trình độ hiểu biết về chính
trị, khả năng và năng lực của cá nhân tham gia vào việc xây dựng và hoàn
thiện hệ thống tổ chức quyền lực chính trị và cuối cùng là mức độ hoàn thiện
nhân cách. Cụ thể hơn thì ba mặt này được bộc lộ thông qua một trình tự lôgíc
rõ ràng. Trước hết nó được thể hiện qua văn hóa ứng xử văn hóa giao tiếp,
khả năng tranh luận để từ đó mỗi cá nhân không chỉ thể hiện được quan điểm,
trình độ độ giác ngộ về chính trị, năng lực tư duy mà còn là sự thể hiện của
trung thành niềm tin chính trị sâu sắc vào lí tưởng, chế độ chính trị với Đảng
với nhà nước, với các cá nhân lãnh đạo…Và đây cũng chính là động lực thôi
thúc những hành động chính trị tích cực bằng cách tham gia vào các công việc
chính trị của đất nước, tham gia xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị. Và
như là một hệ quả tất yếu sau những việc làm như vậy thì mỗi cá nhân không
chỉ hình thành cho mình những phẩm chất chính trị cần thiết mà đó còn là
20
điều kiện giúp cho nhân cách được hoàn thiện thông qua cách sống có trách
nhiệm với tình hình chính trị của đất nước, của dân tộc.
+ VHCT của tổ chức: trên thực tế thì không một cá nhân nào tồn tại
biệt lập ngoài tổ chức. Mỗi con người đều sống trong một xã hội nhất định mà
xã hội thì cũng là là một loại tổ chức đặc biệt của nhân loại. Vậy tổ chức
chính là một kiểu kiên kết nhằm tập hợp nhiều cá nhân lại rồi hướng họ họ tới
những mục đích chung nào đó mà từng cá nhân riêng lẻ thì không thể nào đạt
được. Tổ chức chính là phương thức nhân lên sức mạnh của con người. Trên
thực tế thì VHCT của tổ chức chính là yếu tố làm nên sức sống nội tại của
một tổ chức bởi lẽ vhct của tổ chức do vhct của mỗi cá nhân hợp thành.
Nhưng đó không chỉ là phép cộng giản đơn từng người từng người một mà để
tạo nên sự thống nhất giữa VHCT của các cá nhân trong tổ chức thì VHCT
của tổ chức phải là sự đoàn kết sự phối hợp, sự thống nhất trong mục tiêu lí
tưởng và hành động chính trị. Như vậy vhct của một tổ chức phải là những
chuẩn giá trị VHCT được mọi thành viên trong cộng đồng chấp nhận, tự giác
làm theo và được đảm bảo về mặt pháp lí.
+ VHCT của một tổ chức phụ thuộc vào VHCT của từng cá nhân, VHCT
của người thủ lĩnh (người đứng đầu), vào trình độ dân trí nói chung vào trình
độ tổ chức của tổ chức, và suy đến cùng nó còn phụ thuộc vào bản chất của
chế độ chính trị sự chín muồi của chế độ dân chủ. Trong một hệ thống chính
trị trình độ VHCT của các đảng chính trị đóng vai trò quyết định với sự phát
triển VHCT của cả hệ thống tổ chức cũng như cả sự phát triển về văn hóa của
toàn xã hội.
Với việc làm rõ khái niệm cũng như cấu trúc của VHCT sẽ là nền tảng,
cơ sở khoa học, giúp chúng ta dễ dàng tiếp cận và làm sáng tỏ khái niệm
VHCT của đội ngũ cán bộ công chức hành chính ở phần sau.
*VHCT của đội ngũ cán bộ công chức hành chính
Từ khái niệm “văn hóa chính trị” và “cán bộ công chức hành chính”
chúng ta có thể rút ra khái niệm văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ công
21
chức hành chính như sau: VHCT của đội ngũ cán bộ công chức hành chính là
một bộ phận cấu thành của VHCT, là tổng hòa các giá trị vật chất và tinh thần
mà cốt lõi là các giá trị chính trị tiến bộ được đội ngũ cán bộ cchc giác ngộ và
vận dụng vào việc thực thi quyền lực chính trị, giải quyết các nhiệm vụ chính
trị, giải quyết các mối quan hệ chính trị trong đời sống chính trị thực tiễn
nhằm hiện thực hóa các chủ trương chính sách hoàn thành các nhiệm vụ mà
đảng, nhà nước, nhân dân giao phó, góp phần làm trong sạch nền hành chính
quốc gia thúc đẩy sự phát triển KT - XH của địa phương, đất nước.
1.2. CÁC NHÂN TỐ CẤU THÀNH VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA CÁN BỘ
CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH
1.2.1. Tri thức, sự hiểu biết chính trị
Tri thức và sự hiểu biết chính trị là giá trị nền tảng của VHCT được
định lượng một cách phổ biến bởi tri thức chính trị, là tổng hòa của tri thức lý
luận chính trị và kinh nghiệm chính trị thực tiễn. Đây cũng là hai tiêu chí cơ
bản để xác định tri thức và sự hiểu biết chính trị của đội ngũ công chức hành
chinh.
Trình độ lí luận chính trị được đo bằng sự hiểu biết về lí luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sự nắm rõ các chủ trương chính
sách của Đảng, pháp luật của nhà nước.
Kinh nghiệm chính trị thực tiễn được thể hiện rõ qua sự am hiểu tường
tận những đặc điểm của hệ thống chính trị hiện thời, những điều kiện kinh tế
xã hội, lịch sử văn hóa của địa phương, đất nước, nhận thức được các mối
quan hệ chính trị-xã hội phức tạp nảy sinh trong đời sống chính trị.
1.2.2 Niềm tin và sự thuyết phục về chính trị và lí tưởng chính trị
Niềm tin và sự thuyết phục về chính trị và lí tưởng chính trị được nảy
sinh từ sự giác ngộ một cách sâu sắc các tri thức khoa học chính trị, lợi ích
của giai cấp nảy sinh từ chính sự trải nghiệm chính trị của các chủ thể chính
trị. Đối với đội ngũ công chức hành chính thì niềm tin sự thuyết phục về
chính trị và lí tưởng chính trị được thể hiện qua các điểm sau:
22
Sự giác ngộ về lí tưởng, lòng trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Giữ vững lập trường chính trị, trung thành tuyệt đối với Đảng, nhà
nước, trung thành với lí tưởng XHCN, với lợi ích của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, tôn trọng chấp hành đúng đắn các chủ trương chính sách
của Đảng, pháp luật của nhà nước.
Lí tưởng đem hết sức mình để phụng sự tổ quốc, phục sự nhân dân vì
mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội dân chủ công bằng văn minh.
Sự quan tâm đến tình hình kinh tế - chính trị - xã hội của địa phương, đất
nước sống có trách nhiệm với đời sống chính trị của dân tộc.
1.1.3. Năng lực chuyên môn
Đây là một thành tố rất quan trọng trong cấu trúc văn hóa chính trị của
đội ngũ cán bộ công chức hành chính. Nó quyết định trực tiếp đến hiệu quả
công việc của đội ngũ công chức hành chính. Năng lực chuyên môn có thể là:
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ được đào tạo.
Kiến thức quản lí hành chính nhà nước
Kiến thức quản lí kinh tế
Kiến thức bổ trợ tin học, ngoại ngữ
1.1.4. Đạo đức tác phong
Đạo đức tác phong cách mạng là một trong những biểu hiện của văn hóa
chính trị cá nhân. Đạo đức tác phong cách mạng là cái gốc của người cán bộ
công chức hành chính. Nó được biểu hiện qua một số điểm sau đây:
Công chức phải thực hiện cần kiệm liêm chính, chí công vô tư trong hoạt
động công vụ.
Có văn hóa giao tiếp ở công sở, văn hóa giao tiếp với nhân dân, có lối
sống giản dị gần gũi với nhân dân, chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương đường
lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước.
Ý thức tổ chức, kỉ luật, phục tùng nguyên tắc, nội quy chế của tổ chức,
cơ quan, đơn vị.
23
Có tinh thần trách nhiệm, nhiệt tình trong công việc có ý thức tu dưỡng
rèn luyện bản thân để vươn tới các giá trị chân thiện mĩ của cuộc sống.
1.2.5. Năng lực làm việc
Năng lực làm việc là khả năng vận dụng tổng hợp một cách tốt nhất các
phẩm chất cá nhân như tri thức sự hiểu biết về chính trị, năng lực chuyên
môn, đạo đức tác phong cách mạng, sức khỏe… để hoàn thành xuất sắc các
nhiệm vụ chính trị được giao. Đây là một tiêu chí tổng hợp, với đòi hỏi khá
cao gắn liền liền với thực tiễn hoạt động của các CCHC. Năng lực làm việc có
thể được đánh giá trên các căn cứ sau:
Khả năng hoàn thành tốt nhiêm vụ được giao.
Khả năng vận dụng tri thức và những kinh nghiệm chính trị vào việc xử
lí các tình huống chính trị điển hình, các mối quan hệ chính trị phức tạp.
Khả năng sáng tạo biết khắc phục khó khăn hiện tại để hoàn thành tốt
các nhiệm vụ được giao.
Có năng lực tổng kết lịch sử, tổng kết thực tiễn và dự báo sự phát triển
trong tương lai.
1.3. NHỮNG ĐÒI HỎI KHÁCH QUAN CỦA VIỆC NÂNG CAO VĂN HÓA
CHINCH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH
Khi bàn đến những đòi hỏi khách quan của việc nâng cao văn hóa chính
trị cho đội ngũ cán bộ công chức hành chính thì ta cần chú ý đến hai vấn đề
cụ thể sau : Thứ nhất là yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa
nông nghiệp nông thôn và thứ hai là những yếu kém, bất cập và yêu cầu đổi
mới, nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị.
1.3.1 Yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn
Đặc điểm nước ta là nước nông nghiệp nghèo, kém phát triển lại bị
chiến tranh tàn phá nặng nề, cơ chế quản lí quan liêu bao cấp trước đây dẫn
đến nền kinh tế bị tụt hậu so với thế giới. Đồng thời trong xu thế hội nhập
24
hiện nay để bắt kịp với tiến trình ấy đòi hỏi nước ta phải tiến hành công cuộc
công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Theo tinh thần của Hội nghị trung ương VII, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh
doanh, dịch vụ và quản lí kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính
sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và
phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ
khoa học công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành
nước công nghiệp có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lí,
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, đời
sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc,…Trong sự
nghiệp CNH, HĐH thì CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn có vị trí đặc biệt
quan trọng bởi cơ cấu kinh tế nông thôn nước ta vẫn nặng về nông nghiệp.
CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn là một chủ trương lớn, đúng đắn, hợp
lòng dân, hướng tới từng bước rút gần khoảng cách giữa nông thôn và thành
thị, giữa miền núi và đồng bằng; giúp người dân nông thôn có một cuộc sống
và những hưởng thụ xã hội ngang bằng với mặt bằng chung, tiếp cận với
những văn minh, văn hóa mới.
Nội dung của CNH, HĐH nông thôn là đẩy mạnh quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỉ trọng giá trị sản phẩm lao
động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng giá trị sản phẩm
lao động nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, quy hoạch
phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái; tổ chức lại sản xuất và xây
dựng quan hệ sản xuất phù hợp; xây dựng nông thôn dân chủ, không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của người dân ở nông thôn. CNH,
HĐH nông nghiệp là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm thúc
đẩy kinh tế phát triển, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho dân cư nông
thôn, tạo tiền đề để giải quyết các vấn đề chính tị- xã hội của đất nước, đưa
25