ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------
NGUYỄN HÙNG SƠN
NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TUYÊN GIÁO
CẤP HUYỆN Ở HÀ TĨNH HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Chính trị học
Hà Nội – 2013
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------
NGUYỄN HÙNG SƠN
NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TUYÊN GIÁO
CẤP HUYỆN Ở HÀ TĨNH HIỆN NAY
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Vũ Duy Thông
Hà Nội – 2013
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của cá
nhân, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ
Duy Thông.
Các thông tin thứ cấp sử dụng trong luận văn là có nguồn gốc và được
trích dẫn rõ ràng, trung thực, những kết luận nghiên cứu chưa từng được công
bố dưới bất cứ hình thức nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Học viên
Nguyễn Hùng Sơn
3
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình cao học và viết luận văn này, tôi đã nhận
được sự hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của quý thầy cô trường Đại học
Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn đến quí thầy cô trường Đại học
Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, đặc biệt là những thầy
cô đã tận tình dạy bảo cho tôi suốt thời gian học tập tại trường.
Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến Phó giáo sư– Tiến sĩ Vũ Duy Thông
đã dành rất nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn nghiên cứu và giúp tôi
hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Nhân đây, tôi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo Ban tuyên giáo Tỉnh ủy
đã tạo rất nhiều điều kiện để tôi học tập và hoàn thành tốt khóa học. Đồng
thời, tôi cũng xin cảm ơn quí anh, chị và ban lãnh đạo các huyện, thành, thị
ủy, đảng ủy trực thuộc đã tạo điều kiện cho tôi điều tra khảo sát để có dữ liệu
viết luận văn.
Mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng hoàn thiện luận văn bằng tất cả sự nhiệt
tình và năng lực của mình, tuy nhiên không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất
mong nhận được những đóng góp quí báu của quí thầy cô và các bạn.
Hà Tĩnh, tháng 12 năm 2013
Học viên
Nguyễn Hùng Sơn
4
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài: ............................................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................................3
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ..........................................................................4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..............................................................................5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................................ 5
6. Đóng góp của luận văn............................................................................................... 5
7. Kết cấu của luận văn ..................................................................................................5
Chương 1. LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ VÀ CÔNG TÁC GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH
TRỊ CHO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TUYÊN GIÁO CẤP HUYỆN ............................. 6
1.1. Lý luận chính trị và đặc trưng lý luận chính trị ..................................................6
1.2. Quan điểm giáo dục lý luận chính trị của Mác - Lên nin và Đảng cộng sản Việt
Nam........................................................................................................................... 18
1.3. Vai trò cán bộ tuyên giáo cấp huyện và công tác giáo dục lý luận chính trị cho
cán bộ tuyên giáo cấp huyện .................................................................................... 25
Chương 2. THỰC TRẠNG TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ĐỘI NGŨ CÁN
BỘ, CÔNG CHỨC TUYÊN GIÁO CẤP HUYỆN Ở HÀ TĨNH HIỆN NAY ...........31
2.1. Sơ lược về đặc điểm tình hình Hà Tĩnh ............................................................ 31
2.2. Đặc điểm, tình hình đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện ở Hà Tĩnh ..............34
2.2.1. Thực trạng về tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên giáo
cấp huyện ở Hà Tĩnh ............................................................................................. 35
2.2.1.1. Quá trình ra đời và phát triển ...................................................................35
2.2.1.2. Thực trạng đội ngũ cán bộ tuyên giáo các cấp ........................................36
2.4. Quan điểm về công tác giáo dục lý luận chính trị của Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh ..55
5
Chương 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TUYÊN GIÁO CẤP HUYỆN Ở HÀ TĨNH HIỆN
NAY ............................................................................................................................. 63
3.1. Một số quan điểm chung cần quán triệt khi đề ra và thực hiện các giải pháp ..63
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao trình độ lý luận cho đội ngũ cán bộ
tuyên giáo cấp huyện ở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay......................................................... 64
3.2.1. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn về cán bộ tuyên giáo làm căn cứ cho việc
tuyển chọn, đào tạo nâng cao trình độ lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ tuyên
giáo cấp huyện ......................................................................................................64
3.2.2. Từng bước hoàn thiện chính sách nâng cao tính tự giác rèn luyện, học tập
lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện ..................................67
3.2.3. Kết hợp việc nâng cao trình độ lý luận chính trị với công tác tổng kết thực
tiễn ở cơ sở ............................................................................................................70
KẾT LUẬN ..................................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................78
6
DANH MỤC BẢNG
Nội dung
TT
1
Bảng 1: Bảng tổng hợp về đội ngũ cán bộ làm công tác Tuyên
giáo ở các huyện, thành, thị (tính đến thời điểm hiện tại).
Trang
38
Bảng 2: Bảng tổng hợp về đội ngũ cán bộ chuyên trách tại các
2
Trung tâm bồi dưỡng chính trị tại các huyện, thành, thị (tính đến
39
thời điểm hiện tại
3
4
Bảng 3: Các văn bản của tỉnh ban hành để lãnh đạo, chỉ đạo công
tác giáo dục lý luận chính trị nhiệm kỳ 2011 - 2015
Bảng 4: Các văn bản của huyện, thành, thị ban hành để lãnh đạo,
chỉ đạo công tác giáo dục lý luận chính trị nhiệm kỳ 2011 – 2015
7
60
61
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TT
Chữ cái viết tắt
Ý nghĩa
1
BTGTU
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy
2
BTGHU
Ban Tuyên giáo Huyện ủy
3
TTBDCT
Trung tâm Bồi dưỡng chính trị
4
BCH
Ban Chấp hành
5
PGS
Phó giáo sư
6
TS
Tiến sỹ
8
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo sau hơn 30 năm đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Đó là những tiền đề, điều kiện thuận lợi để nước ta tiếp tục đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những thành công đó là kết quả nỗ lực phấn đấu
của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, trong đó có sự đóng góp quan trọng của
đội ngũ những người làm công tác tư tưởng trên các lĩnh vực, các ngành, các
cấp nói chung, đặc biệt là cán bộ tuyên giáo cấp huyện.
Trong hệ thống hành chính 4 cấp ở nước ta hiện nay, cấp huyện là đơn vị
hành chính trung gian, là cầu nối giữa cấp Trung ương, tỉnh, thành với cơ sở.
Trong hệ thống tổ chức Đảng cấp huyện, Ban Tuyên giáo cấp huyện có vai trò
hết sức quan trọng. Với chức năng là cơ quan tham mưu, chỉ đạo và kiểm tra
giúp cấp ủy triển khai thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước trên địa bàn, Ban Tuyên giáo cấp huyện và đội ngũ cán
bộ làm công tác tuyên giáo thực sự đã trở thành những người “lính gác” trên
mặt trận tư tưởng - văn hóa của Đảng.
Trong giai đoạn hiện nay, bên cạnh những thuận lợi, đội ngũ những
người làm công tác tuyên giáo cũng gặp không ít khó khăn, thách thức. Trên thế
giới, cuộc khủng hoảng kinh tế, nhất là vấn đề nợ công ở một số nước Châu Âu
có nguy cơ làm đổ vỡ nhiều nền kinh tế. Xung đột vũ trang, chiến tranh sắc tộc,
tôn giáo còn xảy ra ở nhiều nơi. Tình hình tranh chấp lãnh thổ, biển đảo diễn
biến phức tạp làm ảnh hưởng đến môi trường hòa bình thế giới. Các thế lực thù
địch lợi dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền, tôn giáo để xuyên tạc, kích động,
gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện âm mưu và hoạt động “diễn
biến hoà bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ ta, nhằm
xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chế độ Xã hội Chủ nghĩa mà nhân
dân ta đang xây dựng. Trong nước, tình hình kinh tế - xã hội đã có những dấu
hiệu phục hồi, phát triển, nhưng hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
1
đang tác động nhiều tiêu cực đến nước ta. Đời sống của nhân dân vùng sâu, vùng
xa, vùng thường xuyên bị thiên tai còn khó khăn. Công tác xây dựng Đảng và
các tổ chức trong hệ thống chính trị tuy đạt được kết quả quan trọng nhưng vẫn
còn hạn chế. Một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống như Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) đã nêu đang làm giảm
lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ Xã hội chủ nghĩa…
Hà Tĩnh là một tỉnh nằm ở phía bắc Trung bộ, trình độ phát triển kinh tế
xã hội còn thấp so với các tỉnh trong khu vực và thấp hơn so với bình quân
chung của cả nước. Sau hơn 30 năm cùng cả nước thực hiện đường lối đổi mới
(nhất là sau hơn 20 năm tái lập tỉnh), đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên giáo từ
tỉnh đến cơ sở, đặc biệt là đội ngũ cán bộ tuyên giáo các huyện đã có bước trưởng
thành, tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn. Cán bộ tuyên
giáo cấp huyện đã tham mưu, chỉ đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi các chủ trương,
nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh ủy, của cấp ủy địa phương về phát triển kinh
tế - xã hội, an ninh - quốc phòng và công tác xây dựng Đảng. Công tác tư tưởng đã
góp phần quan trọng vào việc khắc phục một bước tư tưởng nóng vội, chủ quan,
duy ý chí, tạo sự đoàn kết thống nhất trong từng địa phương, đơn vị, sự đồng thuận
cao trong các tầng lớp nhân dân. Đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện đã có nhiều
cố gắng vươn lên, cơ bản đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Trình độ lý luận
chính trị của cán bộ tuyên giáo đã được nâng lên một bước, thể hiện rõ trong việc
đề ra định hướng công tác tư tưởng, hướng dẫn triển khai các hoạt động tuyên
truyền và được thể hiện thông qua việc kiểm tra, đánh giá hiệu quả công tác tư
tưởng, trong việc giúp đỡ các lực lượng tuyên truyền trên địa bàn...
Bên cạnh những kết quả đạt được, trình độ lý luận chính trị của cán bộ
tuyên giáo cấp huyện còn bộc lộ một số hạn chế nhất định thể hiện trong triển
khai thực hiện nhiệm vụ còn rập khuôn, máy móc, chưa vận dụng sáng tạo các
chủ trương, chính sách của Trung ương, của tỉnh vào điều kiện cụ thể của địa
phương mình; một số còn thụ động, ỷ lại, chưa năng động trong quá trình tổ
chức thực hiện nhiệm vụ; tư tưởng đề cao kinh nghiệm, hạn chế đi xuống cơ sở,
2
làm việc theo lối hành chính quan liêu đã làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt
động trên lĩnh vực công tác tư tưởng. Trên cơ sở nghiên cứu và yêu cầu cấp
bách của nhiệm vụ, chúng tôi lựa chọn đề tài "Nâng cao trình độ lý luận
chính trị cho đội ngũ cán bộ, công chức tuyên giáo cấp huyện ở Hà Tĩnh
hiện nay" làm luận văn tốt nghiệp lớp Cao học Chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu
Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp
huyện đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Đến nay, đã
có nhiều bài viết của nhiều tác giả đăng trên một số tạp chí, sách, báo. Một số
công trình khoa học có liên quan trực tiếp đến vấn đề này như: "Đổi mới tư duy
về công tác cán bộ tuyên giáo" của Tiến sĩ Lương Khắc Hiếu và Tiến sĩ Nguyễn
Viết Thông, Tạp chí Tư tưởng - Văn hóa, số 2/2002.
“Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh
trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn Thạc sỹ của Nguyễn Ngọc Long. “Nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu Đảng, một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Kỷ
yếu Hội thảo khoa học do PGS, TS Lương Khắc Hiếu chủ biên. “Nâng cao chất
lượng công tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tinh thần Nghị
quyết Trung ương 4 (Khoá XI), bài viết của tác giả Nguyễn Văn An.
"Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với việc nâng cao năng
lực tư duy lý luận cho giảng viên Mác - Lênin ở các trường chính trị tỉnh" của
Nguyễn Đình Trãi, Tạp chí Triết học số 1/1993; "Vai trò giáo dục lý luận chính
trị trong việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ cơ sở ở tỉnh
Lạng Sơn hiện nay" luận văn thạc sĩ Chính trị của Lăng Văn Thăng, năm 2004.
Các công trình: Đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ
cơ sở, của Vũ Ngọc Am Nxb Chính trị quốc gia năm 2003.
Một số vấn đề về đổi mới phương pháp giáo dục lý luận chính trị, của Vũ
Ngọc Am, Nxb Thông tấn 2009.
Chương trình bồi dưỡng chuyên đề: Phương pháp giảng dạy lý luận
chính trị dành cho giáo viên giảng dạy lý luận chính trị tại Trung tâm bồi
3
dưỡng chính trị cấp huyện, do Ban Tuyên giáo TW biên soạn, Nxb Lao động
xã hội, năm 2008.
Ở Hà Tĩnh có công trình: Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
cấp huyện thuộc diện Tỉnh uỷ quản lý trong thời kỳ phát triển mới của tỉnh Hà
Tĩnh. Cơ quan Chủ trì đề tài: Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, chủ biên: Nguyễn Thiện.
Tháng 6/2006.
Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu, đặt ra những vấn đề rất cơ
bản cả về lý luận lẫn thực tiễn, đề ra những phương hướng và giải pháp để nâng
cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp.
Tuy nhiên, cho tới nay chưa có công trình nghiên cứu một cách chi tiết, đầy đủ,
có hệ thống và chuyên sâu về thực trạng cũng như nêu ra những chủ trương,
giải pháp để nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ những người làm
công tác tuyên giáo cấp huyện Hà Tĩnh. Vì vậy, nghiên cứu đề tài này sẽ góp
phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp
huyện trong sự nghiệp đổi mới ở Hà Tĩnh nói riêng và là cơ sở tiếp cận cho các
địa phương khác trong vấn đề nâng cao chất lượng công tác tuyên giáo.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích
Góp phần vào việc tăng cường nhận thức và nâng cao trình độ lý luận
chính trị cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện ở Hà Tĩnh hiện nay.
- Nhiệm vụ
- Phân tích, làm rõ bản chất đặc trưng của lý luận chính trị, tầm quan
trọng và yêu cầu của việc nâng cao trình độ lý luận chính cho đội ngũ cán bộ
tuyên giáo cấp huyện hiện nay.
- Đánh giá đúng thực trạng trình độ lý luận chính trị, quá trình bồi dưỡng
trình độ lý luận chính trị cho cán bộ làm tuyên giáo ở Hà Tĩnh và nguyên nhân
của thực trạng đó.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu khả thi nhằm nâng cao trình độ lý
luận chính trị cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện hiện nay ở Hà Tĩnh.
4
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện trên địa
bàn tỉnh Hà Tĩnh
- Phạm vi nghiên cứu: Thực trạng về trình độ lý luận chính trị của đội
ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện ở Hà Tĩnh hiện nay. Tìm hiểu nguyên nhân
và đề ra những giải pháp trong việc nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội
ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh,
các quan điểm của Đảng ta về đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ.
Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử cùng với những phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể:
phân tích, tổng hợp, thống kê, điều tra xã hội học.v.v..
6. Đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần vào nâng cao chất lượng nói
chung, trình độ lý luận chính trị nói riêng đối với đội ngũ cán bộ làm công tác
tuyên giáo cấp huyện ở Hà Tĩnh. Góp phần thể hiện yêu cầu và những nội dung
cần đạt trong việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ làm công tác tuyên giáo hiện nay
ở cấp huyện.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài có cấu trúc gồm
3 chương.
- Chương 1: Lý luận chính trị và công tác giáo dục lý luận chính trị cho
cán bộ, công chức tuyên giáo cấp huyện
- Chương 2: Thực trạng trình độ lý luận chính trị đội ngũ cán bộ, công
chức tuyên giáo cấp huyện ở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay
- Chương 3: Giải pháp nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán
bộ, công chức tuyên giáo cấp huyện ở Hà Tĩnh.
5
Chƣơng 1
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ VÀ CÔNG TÁC GIÁO DỤC LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC TUYÊN GIÁO CẤP HUYỆN
1.1. Lý luận chính trị và đặc trƣng lý luận chính trị
V.I Lênin đã khẳng định: “Chỉ Đảng nào được một lý luận tiền phong
hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sỹ tiền phong” [32, tr.32].
Do đó, khi nói đến Đảng chính trị là đồng thời nói đến hệ thống lý luận chính trị
của Đảng ấy. Vậy lý luận chính trị là gì? Để hiểu bản chất của lý luận chính trị,
cần phải nghiên cứu khái niệm “Lý luận” và “chính trị”.
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về lý luận. Lý luận là một phạm trù
rộng lớn, tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Vì
thế, khái niệm lý luận ngày càng được hiểu một cách đầy đủ hơn.
Theo Từ điển triết học: “Lý luận là sự tổng hợp các tri thức về tự nhiên
và xã hội tích luỹ được trong quá trình lịch sử”; là “hệ thống tư tưởng chủ đạo
trong một lĩnh vực tri thức” [62, tr.59].
Từ điển Tiếng Việt viết: “Lý luận là hệ thống những tư tưởng được khái
quát từ kinh nghiệm thực tiễn, có tác dụng chỉ đạo thực tiễn. Lý luận là những
kiến thức được khái quát và hệ thống trong một lĩnh vực nào đó” [60, tr.544 545].
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn coi trọng lý luận. Người rất tâm đắc với câu nói nổi tiếng của V.I
Lênin: “Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng”. Và
theo Người thì lý luận “Là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là
tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”
[56, tr.497].
Như vậy, lý luận được hình thành từ thực tiễn trên cơ sở khái quát những
kinh nghiệm của hoạt động thực tiễn phong phú, đa dạng của con người.
6
Quan niệm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra đã góp phần làm sáng tỏ
quan niệm triết học về lý luận, nêu ra nguồn gốc, cách thức, con đường hình
thành lý luận.
Lý luận thường được hiểu là những tri thức và kinh nghiệm được khái
quát tích lũy từ thực tiễn. Lý luận được truyền bá, vận dụng trong thực tiễn và
luôn được bổ sung, phát triển làm cho phong phú hơn. Lý luận phản ánh mối
liên hệ bản chất, tính quy luật của sự vận động và phát triển của các sự vật hiện
tượng trong thế giới khách quan.
Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về lý luận nhưng đều thống nhất ở
chỗ: Lý luận là sự khái quát những kinh nghiệm thực tiễn, là sự tổng hợp các tri
thức về tự nhiên xã hội được tích luỹ trong quá trình hoạt động lịch sử của con
người; là phản ánh bản chất, tính quy luật của các sự vật hiện tượng trong một
lĩnh vực nào đó của hiện thực khách quan và có vai trò hướng dẫn hoạt động
thực tiễn.
Để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình, con người buộc phải khám
phá, tìm hiểu, nhận thức về thế giới. Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác
động vào thế giới, buộc thế giới phải bộc lộ những thuộc tính, những tính quy
luật để cho con người nhận thức chúng. Ban đầu con người thu nhận những tài
liệu cảm tính, những kinh nghiệm; sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng
hợp, khái quát hoá, trừu tựơng hoá… để xây dựng thành lý luận khoa học phản
ánh bản chất, quy luật vận động của các sự vật hiện tượng trong thế giới. Con
người quan hệ với thế giới bắt đầu không phải bằng lý luận mà bằng thực tiễn.
Chính trong quá trình hoạt động thực tiễn, cải tạo thế giới mà nhận thức, lý luận
của con người mới được hình thành và phát triển. Lý luận là cấp độ phát triển cao
của quá trình nhận thức, là sự phản ánh hiện thực khách quan ở trình độ cao.
Lý luận được hiểu theo nghĩa chung nhất là hệ thống những tri thức phản
ánh các mối liên hệ bản chất và tính quy luật của các sự vật hiện tượng, được
con người tích luỹ trong quá trình hoạt động thực tiễn và có vai trò hướng dẫn
hoạt động thực tiễn.
7
Lý luận ngày càng có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội.
Mỗi ngành, mỗi lĩnh vực cụ thể khác nhau đều phải có lý luận riêng và mỗi
ngành, mỗi lĩnh vực hoạt động cụ thể muốn phát triển được đều phải bắt đầu
bằng việc phát triển lý luận. Có lý luận trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, lý luận
trong lĩnh vực khoa học xã hội, lý luận trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, lý
luận trong lĩnh vực kinh tế, lý luận chính trị…
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: Chính trị là một hiện tượng
lịch sử xuất hiện và tồn tại khi xã hội phân chia giai cấp và hình thành Nhà
nước. Chính trị giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội. Nó cũng là
lĩnh vực hoạt động phức tạp luôn thu hút các nhà tư tưởng đi vào suy nghĩ,
khám phá, cố gắng làm sáng tỏ bản chất đầy bí ẩn của chính trị. Có nhiều quan
điểm khác nhau về chính trị.
Chính trị theo tiếng Hi Lạp là “Politics” có nghĩa là những việc liên quan
đến thành bang, những công việc quốc gia. Trong đó điều cốt lõi nhất, quan
trọng nhất, thực chất nhất là tổ chức ra cơ quan cai trị hay là Chính phủ. Sau
này từ thế kỷ XVI trở đi gọi là Nhà nước [4, tr.7].
“Chính trị - theo nguyên nghĩa của nó là những công việc Nhà nước, là
phạm vi hoạt động gắn với những quan hệ giai cấp, dân tộc và các nhóm xã hội
khác nhau mà hạt nhân của nó là vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực Nhà
nước” [1, tr.507].
Lênin cũng khẳng định “chính trị với nghĩa là công việc Nhà nước, là
việc vạch hướng đi cho Nhà nước, là việc xác định hình thức, nhiệm vụ, nội
dung của Nhà nước” [35, tr.404]. Hơn nữa, chính trị là mối quan hệ giữa các
giai cấp, là đấu tranh giai cấp trong giành, giữ, thực thi quyền lực Nhà nước và
suy cho cùng là vấn đề lợi ích kinh tế. V.I Lênin nêu ra một nguyên tắc cơ bản
trong chính trị mà những người cộng sản phải quán triệt và đó cũng chính là
bản chất của chính trị là: “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế” [38,
tr.349]. Có nghĩa, chính trị do kinh tế quyết định. Các tổ chức chính trị, các
8
hình thức Nhà nước muốn tồn tại và phát triển phải dựa trên một cơ sở kinh tế
của xã hội. Có thể nói, kinh tế là nguồn gốc, là cơ sở của chính trị. Chế độ
chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng và phải thích ứng với cơ sở kinh tế.
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì sẽ giữ địa vị
thống trị xã hội về chính trị.
Là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, song chính trị không phải là “bản
sao”, không phải là biểu hiện thụ động, không phải là “cái gương soi” của kinh
tế. Ngược lại, chính trị có tính độc lập của nó và tác động trở lại mạnh mẽ đến
kinh tế. Nó định hướng cho sự phát triển, lựa chọn các mô hình và điều tiết sự
phát triển của kinh tế. Chính trị thúc đẩy hoặc cản trở sự phát triển của kinh tế,
thâm nhập và chi phối mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì lẽ đó, V.I Lênin đã
khẳng định: Chính trị không thể chiếm vị trí ưu tiên so với kinh tế. Ưu tiên cho
chính trị là ưu tiên cho việc giành lấy quyền lực chính trị và cho xây dựng các
quyết sách chính trị đúng. Kinh tế phát triển phải thông qua chính trị, thông qua
hệ thống đường lối, chính sách pháp luật, quyền lực Nhà nước và giai cấp nào
muốn lãnh đạo kinh tế phát triển, đạt mục tiêu, lợi ích đề ra thì không được sai
lầm về chính trị. Chính trị phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị, đồng thời
luôn tìm cách dẫn dắt xã hội theo tư tưởng chính trị của giai cấp cầm quyền.
Chính trị mang trong nó yếu tố năng động đặc biệt và không có một công thức,
cách thức chung duy nhất nào. Chính trị không phải là con đường thẳng, thuận
lợi dễ đi. V.I Lênin cho rằng: “Chính trị giống đại số hơn là số học, càng giống
toán học cao cấp hơn là toán học sơ cấp”, “Chính trị là vận mệnh thực tế của
hàng triệu con người” [36, tr.150].
Chính trị là một lĩnh vực hoạt động đặc biệt của con người, nó có quan hệ
chặt chẽ với hoạt động thực tiễn của con người, biểu hiện lợi ích kinh tế nhất
định của các tầng lớp dân cư trong xã hội, gắn liền với vận mệnh của nhân dân.
Chính trị được đưa vào thực tiễn cuộc sống nhờ hệ thống thiết chế chính trị,
Đảng phái chính trị, nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội.
9
Tuỳ theo cách thức tiếp cận mà có những quan niệm khác nhau về chính
trị, song theo nghĩa chung nhất, chính trị được hiểu là đại diện của các quan hệ
giữa các giai cấp, quan hệ về giai cấp mà cốt lõi là quan hệ giai cấp về kinh tế.
Mục đích của chính trị là vấn đề chính quyền sẽ thuộc về tay giai cấp nào, chính
Đảng nào.
Từ sự phân tích nêu trên về khái niệm lý luận và khái niệm chính trị, có
thể khái quát chung về khái niệm lý luận chính trị như sau: Lý luận chính trị là
lý luận trong lĩnh vực chính trị. Lý luận chính trị ra đời khi xã hội có giai cấp và
đấu tranh giai cấp để đại diện cho lợi ích của một Đảng, một giai cấp nhất định trong
xã hội. Lý luận chính trị là hệ thống các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính
sách của một Đảng, một giai cấp để giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước.
Đảng Cộng Sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng. Đồng
thời, căn cứ vào những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước trong từng giai
đoạn cách mạng, Đảng xác định cho mình những quan điểm cơ bản chỉ đạo
hành động và lãnh đạo quần chúng, xây dựng nên một hệ thống quan điểm tư
tưởng, lý luận là những chủ trương, đường lối, chính sách...
Trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đối với
Đảng ta hiện nay, lý luận chính trị của Đảng bao gồm: Lý luận về chủ nghĩa xã
hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; về nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa; về giai cấp đặc biệt là giai cấp công nhân và đấu
tranh giai cấp; về xây dựng Nhà nước, xây dựng Đảng trong điều kiện hiện nay
của Việt Nam.
Nghị quyết hội nghị lần thứ Năm Ban chấp hành Trung ương khoá X đề
ra nhiệm vụ, giải pháp đối với công tác lý luận trong tình hình mới bao gồm
những vấn đề sau:
- “Nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin,
làm rõ những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin, những vấn đề cần bổ
10
sung và phát triển cho phù hợp với thực tiễn đất nước và thời đại; đẩy mạnh
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh…”
- Tiếp tục làm sáng tỏ nhận thức, quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, tập trung vào các vấn đề: độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế; tăng trưởng kinh tế
với phát triển văn hoá và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; phát huy và thực
hành quyền dân chủ của nhân dân; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân…
- Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về Đảng cầm quyền, về đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng, về thực thi và phát huy dân chủ trong Đảng,
nâng cao tầm trí tuệ và văn hoá, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
- Nghiên cứu sự phát triển văn hoá và con người Việt Nam về lý tưởng,
đạo đức, lối sống, đặc biệt đối với thế hệ trẻ. Nghiên cứu những vấn đề mới
trong lý luận và phê bình văn học, nghệ thuật phù hợp với quá trình phát triển,
đồng thời phê phán, đẩy lùi các khuynh hướng, quan điểm lệch lạc, sai trái.
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về chiến lược bảo vệ tổ quốc
trong tình hình mới; đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, nhà nước và
nhân dân; những vấn đề đặt ra trong trong cuộc đấu tranh tư tưởng - lý luận
trong thời kỳ mới.
- Nghiên cứu những vấn đề cơ bản của thời đại ngày nay và của thế giới
đương đại. Chủ động nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc các lý thuyết phát triển,
các trào lưu lý luận và các thành tựu khoa học xã hội thế giới.
- Đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục lý luận trong hệ thống các
trường chính trị, các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp trong
cả nước; khắc phục sự lạc hậu của chương trình, nội dung, phương pháp dạy và
học, bảo đảm tính cơ bản, hệ thống, hiện đại và phù hợp với thực tiễn Việt
Nam…”[17, tr.9].
11
Do đó, có thể hiểu bản chất lý luận chính trị của Đảng ta hiện nay là: Chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Học tập lý luận chính trị, bồi dưỡng, giáo dục lý luận chính trị chính là
nhằm xây dựng, phát triển, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các quan điểm đường lối của Đảng, hình thành hệ giá trị cách mạng và
khoa học trong cán bộ, đảng viên và toàn xã hội. Do vậy yêu cầu đặt ra đối với
đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện là phải nắm vững các đặc trưng cơ bản của
lý luận chính trị, đó là:
Thứ nhất, tính trừu tượng và tính khái quát hoá cao.
Để xây dựng hệ thống lý luận, trong quá trình nhận thức, tư duy con
người luôn diễn ra quá trình trừu tượng hoá, khái quát hoá hững tri thức thu
được về thế giới, những quy luật vận động và phát triển của các lĩnh vực khác
nhau trong đời sống xã hội.
Các hình thức thể hiện lý luận nói chung, lý luận chính trị nói riêng như
khái niệm, nguyên lý, quy luật, phạm trù… đều là kết quả của quá trình trừu
tượng hoá, khái quát hoá cao của tư duy con người trong quá trình nhận thức
thế giới.
Nhờ có đặc trưng trừu tượng hoá, lý luận hướng con người vào việc tìm
ra chân lí, nắm bắt những mối quan hệ khách quan có tính bản chất, phát hiện ra
các quy luật chi phối sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng trong thế
giới. Khái quát hoá giúp cho con người xây dựng các khái niệm, phạm trù, từ đó
xây dựng nên các lí thuyết khoa học. Khái quát hoá được thực hiện trên cơ sở
một số thuộc tính, đặc tính quan trọng nào đó đã được tư duy trừu tượng tách ra
khỏi những thuộc tính, đặc tính khác. Từ những thuộc tính đã được trừu tượng
hóa, tư duy đi đến khái quát thành cái chung bản chất, mang tính quy luật.
Mang đặc trưng tính trừu tượng hoá và khái quát hoá cao nên lý luận, lý
luận chính trị là hệ thống tri thức đem lại cho con người sự hiểu biết sâu sắc về
12
bản chất, tính quy luật các mối liên hệ tất nhiên… trong sự vận động và phát
triển của sự vật hiện tượng và do đó giúp cho con người có thể tiếp cận bản chất
sâu xa của sự vật vốn thường bị che lấp bởi các hiện tượng ngẫu nhiên, đơn lẻ,
bề ngoài; giúp cho con người không ngừng khám phá thế giới, đáp ứng nhu cầu
thực tiễn đặt ra.
Hai là, tính chính xác và logíc chặt chẽ
Tính thống nhất và chặt chẽ về lôgíc với tính chính xác và độ tin cậy cao
của lý luận khoa học nói chung, lý luận chính trị nói riêng thể hiện ở chổ các
khái niệm, nguyên lý, phạm trù, quy luật… phản ánh các mặt, các yếu tố, các
quá trình khác nhau của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan nhưng
chúng có mối liên hệ, quan hệ biện chứng, hỗ trợ, bổ sung cho nhau. Do đó,
một lý luận trong đó có lý luận chính trị muốn trở thành lý luận khoa học phải
là một hệ thống mang tính chỉnh thể, toàn vẹn, thống nhất, không thể là sự tuỳ
tiện, chắp vá, cắt xén với khả năng phản ánh chính xác sự vật hiện tượng như nó
đã hình thành, tồn tại, vận động, phát triển; dự báo được xu hướng vận động và
phát triển của sự vật.
Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống lý luận điển hình về tính
chính xác và lôgic chặt chẽ. Vì thế, nó trở thành khoa học về những quy luật
chung, phổ biến của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Một lý luận mang tính chính xác và lôgic chặt chẽ sẽ có tác dụng tích cực
đối với hoạt động thực tiễn của con người, sẽ được con người, cộng đồng, nhất
là các lực lượng cách mạng nhanh chóng tiếp thu, ủng hộ.
Ba là, tính liên hệ, thống nhất với thực tiễn.
Quan hệ giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ bản
của lý luận khoa học nói chung và chủ nghĩa Mác - Lênin nói riêng. Theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, lý luận thuộc về lĩnh vực hoạt động tinh thần,
còn thực tiễn thuộc về hoạt động vật chất, là sản xuất là cuộc đấu tranh để bảo
vệ sự tồn tại của con người trước thiên nhiên và xã hội. V.I Lênin khẳng định:
13
“Thực tiễn cao hơn nhận thức vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến
mà cả của tính hiện thực trực tiếp” [34, tr.230].
Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn, lý luận có tồn tại, có sức sống hay không
phụ thuộc ở mức độ phù hợp ở vai trò định hướng, gợi mở, chỉ dẫn, giải quyết
những vấn đề của đời sống thực tiễn. Thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển
buộc lý luận phản ánh đời sống thực tiễn cũng phải không ngừng được bổ sung,
phát triển, đồng thời phải thường xuyên tổng kết thực tiễn để làm cho tri thức lý
luận ngày càng phản ánh chính xác hơn, sâu sắc hơn, phong phú hơn đời sống
thực tiễn.
Tuy nhiên, lý luận cũng có tính độc lập tương đối của nó, không hoàn
toàn thụ động mà lý luận cũng đóng vai trò tích cực trở lại đối với thực tiễn. Lý
luận là kim chỉ nam giúp cho thực tiễn đạt kết quả cao. Lý luận vạch ra phương
hướng cho thực tiễn, chỉ rõ phương pháp thực hiện có hiệu quả nhất để đạt mục
đích, đặc biệt là lý luận cách mạng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa: “Không
có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng” [32, tr.30].
Lý luận đem lại sức mạnh cho con người trong quá trình nhận thức và cải
tạo thế giới. Nếu không có nhận thức đúng thì càng không thể có hành động
đúng. Nhờ có lý luận, hoạt động của con người trở nên tự giác, tích cực, chủ
động và tránh được tình trạng tự phát, mò mẫm.
Lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng, tác dộng, bổ sung làm
phong phú lẫn nhau, là điều kiện, tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của nhau.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
là một nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý
luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng; Lý luận mà không liên hệ với
thực tiễn là lý luận suông” [51, tr.496] (diễn văn khai mạc lớp học lý luận khoá
I trường Nguyễn Ái Quốc ngày 7/9/1957). Đối với Hồ Chí Minh lý luận cách
mạng có vai trò to lớn đối với cán bộ đảng viên và toàn thể nhân dân thúc đẩy
cách mạng tiến lên. Người cũng thường xuyên nhắc nhở Đảng và Nhà nước khi
14
xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách, biện pháp phải xuất phát từ thực
tiễn, từ những đòi hỏi bức thiết của thực tiễn cách mạng. Theo Người: “Lý luận
phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm theo lý luận” [49, tr.235].
Nhờ có lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin soi đường, Đảng cộng sản Việt
Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo vào điều kiện
hoàn cảnh cụ thể Việt Nam, lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành nhiều thắng
lợi to lớn. Vì thế, Đảng và Bác hồ luôn coi trọng việc bồi dưỡng, giáo dục lý
luận cho cán bộ, đảng viên, nhất là bồi dưỡng, giáo dục lý luận chính trị, coi đó
là yêu cầu cơ bản không thể thiếu trong công tác xây dựng Đảng. Bác đã chỉ rõ
“Đảng ta tổ chức trường học lý luận cho cán bộ là để nâng cao trình độ lý luận
của Đảng ta đặng giải quyết sự đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng và tình hình
thực tế của Đảng ta để Đảng ta có thể làm tốt hơn công tác của mình, hoàn
thành tốt nhiệm vụ cách mạng vĩ đại của mình” [52, tr.497]. Quán triệt nguyên
tắc thống nhất lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin được Chủ tịch Hồ
Chí Minh cụ thể hoá sẽ chống được mọi biểu hiện của chủ nghĩa chủ quan duy
ý chí, bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều, rập khuôn, máy móc…
Đảng ta kiên định, bảo vệ, phát triển, và vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách sáng tạo phù hợp thực tiễn đất nước
trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể đã thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, nền
kinh tế thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kéo dài. Vì thế, “đẩy mạnh tổng kết
thực tiễn và nghiên cứu lý luận” [24, tr.134] đã trở thành nhiệm vụ hàng đầu
trong công tác lý luận. Nghị quyết TW 5 (khoá X) khẳng định “Công tác tư
tưởng, lý luận là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trong trong toàn bộ hoạt
động của Đảng; là lĩnh vực trọng yếu để xây dựng, bồi đắp nền tảng chính trị
của chế độ, tuyên truyền giáo dục, động viên và tổ chức nhân dân thực hiện các
nhiệm vụ cách mạng, khẳng định và nâng cao vai trò tiên phong của Đảng về
chính trị, lý luận, trí tuệ, văn hoá và đạo đức; thể hiện vai trò đi trước, mở
đường trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.
15
Bốn là, thống nhất giữa tính Đảng và tính khoa học.
Nói tới tính Đảng là nói tới tính giai cấp, còn tính khoa học là sự phản
ánh đúng thực tế khách quan, tôn trọng sự thật. Lý luận nói chung, lý luận chính
trị nói riêng bao hàm trong nó đặc trưng thống nhất giữa tính Đảng và tính khoa
học. Lý luận chính trị của giai cấp công nhân, giai cấp vô sản là chủ nghĩa Mác
- Lênin xuất phát và phản ánh khách quan nhu cầu và lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động phù hợp với nguyện vọng của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động thế giới cho nên lý luận đó đảm bảo tính thống nhất giữa tính
Đảng và tính khoa học.
Trong lý luận chính trị, tính Đảng và tính khoa học có mối quan hệ biện
chứng không thể tách rời, tính Đảng càng cao thì tính khoa học càng sâu sắc,
tính Đảng và tính khoa học làm điều kiện, tiền đề tồn tại, phụ thuộc lẫn nhau,
không thể loại bỏ cái này, coi trọng cái kia. Do vậy, “Khoa học càng được tiến
hành một cách dũng cảm và vô tư thì nó càng phù hợp với lợi ích và nguyện
vọng của giai cấp công nhân” [45, tr.451].
Thực tiễn cho thấy, việc xuyên tạc sự thật thường gắn liền với sự xa rời
lập trường, quan điểm lợi ích của giai cấp công nhân. Mọi cách xem xét, đánh
giá trái với quan điểm, lập trường, lợi ích của giai cấp công nhân đều không
phản ánh đúng xu hướng phát triển của lịch sử. Xuất phát từ lợi ích của các giai
cấp phi vô sản hoặc chịu ảnh hưởng của những quan điểm đó sẽ không bao giờ
phản ánh đúng sự thật lịch sử và như thế sẽ không có tính Đảng và tính khoa
học. Cho nên một lý luận, lý luận chính trị sẽ là khoa học khi đảm bảo thống
nhất giữa tính Đảng và tính khoa học, đây cũng là đặc trưng cơ bản mang tính
chất cách mạng, tính khoa học của lý luận chính trị.
Lý luận chính trị không có mục đích nào khác ngoài mục đích thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ cách mạng cho nên nhiệm vụ quan trọng của nó là định
hướng cho con người trong nhận thức và hành động để cải tạo thế giới. Khi
đó, tính khoa học là tiền đề, là cơ sở và tính Đảng giữ vai trò định hướng cách
16
mạng để loại trừ cái cũ, cái lạc hậu, xây dựng cái mới tiến bộ, hợp quy luật.
V.I Lênin coi trọng chủ nghĩa Mác là cơ sở lý luận vững như đá hoa cương, có
“sức hấp dẫn không gì cưỡng nổi đã lôi cuốn nhưng người xã hội chủ nghĩa
của tất cả các nước theo lý luận đó chính là ở chỗ nó kết hợp tính khoa học
chặt chẽ và cao độ (đó là đỉnh cao nhất của khoa học xã hội), với tinh thần
cách mạng” [29, tr.421].
Lý luận chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam được xây dựng trên nền
tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, gắn liền với tổng kết thực
tiễn có vai trò hết sức quan trọng trong việc cung cấp những luận cứ khoa học
cho việc xây dựng, bổ sung và phát triển đường lối đổi mới và thực hiện thắng
lợi các mục tiêu, chủ trương kế hoạch đề ra. Lý luận chính trị của Đảng ta chính
là sự kế thừa và phát triển những tinh hoa trí tuệ của dân tộc và thời đại, khái
quát những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học trên thế giới. Là sự tổng
kết, đúc kết những kinh nghiệm từ thực tiễn phong trào đấu tranh cách mạng
của dân tộc và nhân dân thế giới, sự vận dụng sáng tạo và phát triển của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, trong hoàn cảnh
cụ thể mới, đồng thời cũng chính là một điển hình về sự thống nhất cao giữa
tính Đảng và tính khoa học.
Ngoài những đặc trưng cơ bản đó là tính khái quát và tính trừu tượng,
tính chính xác và lôgic, tính thống nhất lý luận và thực tiễn, tính Đảng và tính
khoa học, lý luận chính trị còn có một số đặc trưng khác như: tính hệ thống và
tính kế thừa, là hệ thống mở có khả năng bổ sung và phát triển…
Với ý nghĩa là lý luận tiền phong, lý luận chính trị giúp cho Đảng Cộng
sản hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng, nhất là trong giai đoạn hiện nay;
chúng ta quyết tâm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta càng phải
chú trọng phát triển lý luận chính trị với đầy đủ các đặc trưng trên, góp phần bổ
sung “cơ sở lịch sử của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư
liệu mà Mác ở thời mình không thể có được” [47, tr.465].
17