Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tiểu Luận Hòa Bình Giải Quyết Các Tranh Chấp Quốc Tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.07 KB, 22 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Hiện nay, khi xu hướng hội nhập ngày càng mở rộng cùng với sự phát
triển, tiến bộ vượt bậc của các quốc gia trên thế giới thì vần đề hợp tác giữa các
quốc gia trở nên khá quen thuộc và cần thiết. Tuy nhiên, bất cứ sự hợp tác, thỏa
thuận nào cũng tiềm ẩn những nguy cơ nảy sinh mâu thuẫn, bất đồng và xảy ra
tranh chấp. Đó có thể là tranh chấp về chính trị, về môi trường, về độc lập chủ
quyền,… Những tranh chấp này đã, đang và sẽ xuất hiện ngày càng nhiều trong
bối cảnh hiện nay với các tranh chấp điển hình như: tranh chấp về môi trường
Arghentina với Uruguay, Hàng rào an ninh giữa Israel với Palestine, tranh chấp
chủ quyền biển đảo giữa Trung Quốc với một số quốc gia đông nam á,… Mỗi
quốc gia đều cần có sự tôn trọng độc lập chủ quyền và có địa vị pháp lý ngang
nhau trong mối quan hệ hợp tác quốc tế, Vì thế để bảo đảm được lợi ích của các
bên tranh chấp nói riêng mà không làm phương hại đến hòa bình, an ninh quốc
tế nói chung, Hiến chương Liên hợp quốc đã liệt kê rất nhiều những biện pháp
hòa bình để tạo cơ hội cho các chủ thể liên quan tự lựa chọn trong quá trình giải
quyết tranh chấp quốc tế nhưng phải dựa trên một nguyên tắc chung đó là:
“Nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế”. Vậy những phương
thức giải quyết tranh chấp được ghi nhận như thế nào trong luật pháp quốc
tế và Hiến chương Liên hợp quốc, cũng như cơ chế giải quyết tranh chấp trong
khuôn khổ Liên hợp quốc đang diễn ra như thế nào trên thế giới hiện nay sẽ
được trình bày trong bài tiểu luận này.

1


NỘI DUNG CHÍNH
I.
1.

Khái quát chung về vấn đề hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế:


Tranh chấp Quốc Tế
1.1
Định nghĩa:
Hiện nay, tuy có rất nhiều văn bản hướng dẫn, cộng đồng quốc tế vẫn
chưa thống nhất định nghĩa tranh chấp quốc tế là gì, cấu thành của tranh chấp
quốc tế ra sao?
Nhìn chung, tranh chấp quốc tế là những vấn đề phát sinh giữa các chủ
thể của luật quốc tế thể hiện những xung đột, mâu thuẫn về những vấn đề cơ
bản của quan hệ quốc tế cũng như các ý kiến quan điểm khác nhau trong việc
giải thích và áp dụng luật quốc tế

1.2

Chủ thể của tranh chấp quốc tế:
- Chủ thể của tranh chấp quốc tế là chủ thể của luật quốc tế bao gồm: các
quốc gia, các tổ chức liên chính phủ (Asean, EU, WTO) các dân tộc đanh dành
độc lập, và chủ thể đặc biệt như tòa thánh Vatican. Trong đó các quốc gia là chủ
thể đặc biệt của tranh chấp quốc tế.
Xung đột giữa các chủ thể khác chủ thể của luật quốc tế không thể
là tranh chấp quốc tế. Do đó cần tránh nhầm lẫn tranh chấp quốc tế với những
tranh chấp khác. Ví dụ: tranh chấp giữa các các doanh nghiệp Việt Nam xuất
khẩu cá basa và hiệp hôi chống bán phá giá của Mỹ không phải là tranh chấp
quốc tế.

1.3

Phân loại:
Hiện nay, xuất hiện ngày càng nhiều các tranh chấp quốc tế mà tính
chất các tranh chấp này ngày một đa dạng nhưng nhìn chung ta có các cách phân
loại tranh chấp quốc tế như sau, và mỗi cách phân loại đều có một tiêu chí nhất

định.

a)
-

Căn cứ vào số lượng chủ thể tham gia
Tranh chấp song phương: tranh chấp giữa hai bên
Tranh chấp đa phương: tranh chấp giữa giữa nhiều bên bao gồm tranh chấp có

b)

tính khu vực và tranh chấp có tính toàn cầu.
Căn cứ vào tính chất của vụ việc:
2


-

Tranh chấp có tính chính trị: thường là tranh chấp về chủ quyền quốc gia đối với
dân cư, lãnh thổ, về lợi ích giữa các bên… liên quan đến các đòi hỏi phải thay
đổi các quy định hiện hành, gắn liền với quyền và nghĩa vụ của các bên. Tranh
chấp thuộc loại này thường rất nguy hiểm, do tính chất phức tạp và có thể tiềm
ẩn khả năng bùng phát các cuộc sung đột, đe dọa hòa bình, ổn định của khu vực

-

cũng như của thế giới.
Tranh chấp có tính pháp lý: là những tranh chấp giữa các bên liên quan đến sự
bất đồng trong việc giải thích hoặc áp dụng các quy định hiện hành, như tranh
chấp về giải thích các điều ước quốc tế. Đây là những tranh chấp tương đối phổ


c)
-

biến trong quan hệ quốc tế.
Căn cứ vào đối tượng tranh chấp:
Tranh chấp về kinh tế
Tranh chấp về thực hiện nghĩa vụ thành viên điều ước quốc tế hoặc tổ chức quốc
tế.
Nhìn chung các cách phân loại trên chỉ có tính chất tương đối, vì trên thực
tế có tranh chấp xảy ra, muốn phân biệt thuộc loại tranh chấp nào không hề dễ
dàng. Không ít vụ tranh chấp vừa mang tính chính trị, vừa mang tính pháp lý.
Do vậy các giải pháp cho mỗi vụ tranh chấp cụ thể cũng cần phải tính tới những
yếu tố này.

d)
-

Căn cứ vào tư cách chủ thể hay quyền năng chủ thể luật QT
Tranh chấp giữa các quốc gia
Tranh chấp giữa các tổ chức QT
Tranh chấp giữa quốc gia và tổ chức liên chính phủ -> Ví dụ tranh chấp giữa
ASEAN và Trung quốc.
Nhìn chung các cách phân loại trên chỉ có tính chất tương đối, vì trên thực
tế có tranh chấp xảy ra, muốn phân biệt thuộc loại tranh chấp nào không hề dễ
dàng. Không ít vụ tranh chấp vừa mang tính chính trị, vừa mang tính pháp lý.
Do vậy các giải pháp cho mỗi vụ tranh chấp cụ thể cũng cần phải tính tới những
yếu tố này.

2.


Nguyên tắc: “ Hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế”

3


Nguyên tắc giải quyết các tranh chấp quốc tế được hình thành và phát
triển gắn liền và là hệ quả tất yếu của nguyên tắc “cấm đe dọa dung vũ lực trong
quan hệ quốc tế”. Trong hệ thống Công ước Lahay năm 1899 và 1907 có công
ước về hòa bình giải quyết xung đột quốc tế, là công ước đa phương đầu tiên đề
cập đến vấn đề quan trọng này. Tuy nhiên, Công ước mới chỉ đưa ra lời kêu gọi
các quốc gia tự nguyện thực hiện các biện pháp trung gian, hòa giải trước khi
dùng vũ lực. Phải đến thế kỷ XX nguyên tắc này mới được ghi nhận tại khoản 3
Điều 2 Hiến Chương Liên Hợp Quốc 1995 và sau đó được quy định cụ thể trong
“Tuyên bố về các nguyên tắc của luật quốc tế điều chỉnh mối quan hệ hữu nghị
và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc” được
Đại hội đồng thông qua theo Nghị quyết số 2625 năm 1970. Các nước thành
viên Liên hợp quốc đều tuân theo nguyên tắc này để giải quyết các bất đồng,
xung đột hay tranh chấp có tính chất quốc tế.
Nội dung của nguyên tắc như sau:
“Nguyên tắc tất cả các quốc gia giải quyết các tranh chấp quốc tế của
mình bằng các biện pháp hoà bình mà không làm phương hại đến hòa bình,
an ninh và công lý quốc tế.
Tất cả các quốc gia sẽ giải quyết các tranh chấp quốc tế với những quốc
gia khác bằng các biện pháp hòa bình mà không làm phương hại đến hòa bình,
an ninh và công lý quốc tế
Mọi quốc gia do vậy sẽ sớm tìm kiếm và chỉ giải quyết các tranh chấp
quốc tế bằng đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài hoặc tòa án; sử
dụng trung gian khu vực, thỏa thuận hoặc những biện pháp hòa bình khác do
các bên lựa chọn. Trong việc tìm kiếm những biện pháp giải quyết tranh chấp,

các bên đồng ý rằng những biện pháp hòa bình sẽ là thích hợp đối với những
hoàn cảnh cụ thể và bản chất của tranh chấp.
Trong trường hợp không đạt được một giải pháp để giải quyết tranh chấp
bằng bất kỳ biện pháp đã nêu ở trên, các bên trong tranh chấp có nghĩa vụ tiếp
tục tìm kiếm những biện pháp hòa bình khác để giải quyết tranh chấp mà các
bên thỏa thuận.
4


Các quốc gia trong tranh chấp cũng như các quốc gia khác sẽ từ bỏ bất
kỳ hành vi nào có thể sẽ làm trầm trọng thêm tình hình hiện tại gây nguy hiểm
cho việc gìn giữ hòa bình và an ninh thế giới, và sẽ hành động phù hợp với
những mục đích và nguyên tắc của Liên hợp quốc.
Các tranh chấp quốc tế được giải quyết trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng
chủ quyền của các quốc gia và phù hợp với nguyên tắc tự do lựa chọn các cách
thức giải quyết tranh chấp. Sự đề nghị, hoặc sự chấp nhận về quá trình giải
quyết mà các quốc gia tự nguyện đồng ý đối với các tranh chấp đang tồn tại
hoặc trong tương lai mà các bên liên quan sẽ không được coi là vi phạm nguyên
tắc bình đẳng về chủ quyền.
Không có điều nào được nói ở trên có ảnh hưởng hoặc phương hại đến
những điều khoản có thể áp dụng của Hiến chương, đặc biệt là những điều
khoản liên quan đến việc giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế.”

Ngày nay với sự ra đời của nhiều tổ chức quốc tế toàn cầu và tổ chức khu
vực, nguyên tắc giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế còn được ghi nhận
trong nhiều văn kiện quốc tế quan trọng khác như: Văn kiện bế mạc của Hội
nghị an ninh và hợp tỏc Chừu Âu năm 1975; Định ước Henxiki năm 1975,…
Nguyên tắc giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế nghiêm cấm các quốc gia
sử dụng vũ lực để giải quyết các tranh chấp với nhau, một mặt xác lập nghĩa vụ
của các bên trong tranh chấp giải quyết bằng các biện pháp hòa bình, mặt khác

cũng quy định các bên tham gia vào tranh chấp có quyền lựa chọn các biện pháp
hòa bình thích hợp để giải quyết. Pháp luật quốc tế không quy định một công
thức giải quyết bắt buộc, cứng nhắc cho mỗi loại hình tranh chấp nhất định, việc
sử dụng một phương thức cụ thể nào hoàn toàn do các bên liên quan thỏa thuận
lựa chọn, chỉ với điều kiện đó phải là những biện pháp hòa bình. Tại Điều 33
Khoản 2 Hiến chương Liên hợp quốc cũng như trong tuên bố trên đã quy định
cụ thể các biện pháp hòa bình mà các bên tranh chấp có thể lựa chọn như: đàm
phán, trung gian, hòa giải, trọng tài, bằng con đường tư pháp, sử dụng những cơ
5


quan hoặc những hiệp định khu vực, hay các biện pháp hòa bình khác do họ lựa
chọn. Hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi
quốc gia, cần phải nỗ lực giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng và công
bằng nhằm duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.
Hành vi tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế sẽ làm hạn chế
đáng kể sự xuất hiện của những tranh chấp. Mặt khác, điều này cũng góp phần
giải quyết nhanh chóng, hiệu quả tranh chấp nếu chúng nảy sinh trong đời sống
quốc tế. Việc giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa bình chiếm một vị trí
và vai trò hết sức quan trọng góp phần ổn định quan hệ quốc tế, duy trì và bảo
vệ hòa bình, an ninh thế giới, tạo điều kiện cho quan hệ quốc tế phát triển.
Liên Hợp Quốc với những phương pháp giải quyết các tranh chấp quốc tế

II.

Liên Hợp Quốc là một tổ chức quốc tế có mục đích duy trì hòa bình và an
ninh trên thế giới, phát triển các mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc và tiến
hành hợp tác quốc tế giữa các nước trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng và
quyền tự quyết của các dân tộc. Để đạt được những mục đích đó, Liên Hợp
Quốc đã không ngừng đưa ra những nguyên tắc, biện pháp, cách xử sự chung

cho các chủ thể để giải quyết các vấn đề phát sinh trong quan hệ quốc tế được
công bằng, hiệu quả, và nhanh chóng nhất. Trong số đó những biện pháp giải
quyết các tranh chấp quốc tế đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc giữ gìn
hòa bình, an ninh thế giới. Những biện pháp này đã được ghi nhận trong hiến
chương Liên Hợp Quốc 1945 và được phần lớn các quốc gia trên thế giới thông
qua. Dưới đây là một số biện pháp điển hình, thường thấy trong việc giải quyết
các tranh chấp trên thế giới hiện nay:
2.1

Phương pháp đàm phán trực tiếp:
Đây là phương thức được thực hiện thông qua việc đàm phán giữa các bên
tranh chấp để giải quyết những vấn đề mà các bên quan tâm. Đàm phán có vị trí
hết sức quan trọng và thường được các bên ưu tiên lựa chọn áp dụng trong tiến
trình tìm kiếm giải pháp hòa bình cho các tranh chấp.
6


Khi tranh chấp xảy ra, các bên có thể gặp gỡ, trao đổi, thảo luận, thương
lượng, để tìm ra giải pháp hòa bình giải quyết tranh chấp, tiến hành đàm phán về
bất cứ vấn đề gì mà các bên quan tâm. Các cuộc đàm phán đều phải được tiến
hành trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng, và thiện chí giải quyết tranh chấp, có tính
đến sự nhượng bộ lẫn nhau bởi một trong những nguyên nhân dẫn đến tranh
chấp là các bên tham gia có những quan điểm trái ngược nhau dẫn đến những
mâu thuẫn, bất đồng không thỏa thuận được, chính vì vậy để giải quyết được
vấn đề không thể tránh khỏi cần có sự nhượng bộ nhất định nào đó từ các bên.
Về hình thức, đàm phán có thể được tiến hành ở hội nghị quốc tế hoặc
đàm phán thông qua trung gian. Đàm phán ở hội nghị được áp dụng đối với
tranh chấp hai bên hoặc nhiều bên, đàm phán ở hội nghị đảm bảo cho các bên
tham dự thể hiện được quan điểm của mình, đảm bảo quyền lợi của các bên trực
tiếp tham gia tranh chấp và các bên có lợi ích liên quan khác, ví dụ: Hội nghị

Giơneve về Đông dương 1954 gồm 9 phỏi đoàn tham gia.Hình thức này thường
được các nước chưa đủ mạnh về tiềm lực quân sự, kinh tế sử dụng để tranh thủ
sự ủng hộ rộng rói của các nước, các tổ chức quốc tế và dư luận tiến bộ trên thế
giới. Đàm phán thông qua trung gian là việc các bên tham gia tranh chấp không
trực tiếp trao đổi quan điểm, lập trường,ý chí của mình mà thông qua trung
gian, thường là Tổng thư ký Liên hợp quốc hay đại diện đặc biệt của Liên hợp
quốc cùng tham dự
Đàm phán giúp các bên có thể nắm bắt được tâm lý và phản ứng của nhau
một cách trực tiếp, qua đó các bên có thể tác động đến quan điểm và mong
muốn của nhau bằng cách thức cụ thể để từ đó đi đến sự thống nhất chung, tìm
ra giải pháp dung hòa lợi ích của các bên, đẩy nhanh tiến độ giải quyết tranh
chấp, thúc đẩy sự phát triển của luật quốc tế thông qua việc ký kết các hiệp định
song phương và đa phương. Nhưng bên cạnh đó, muốn đạt được kết quả thì khi
tiến hành phương thức đàm phán đòi hỏi các bên có một kế hoạch đàm phán linh
hoạt trong giải quyết các tình huống, đặc biệt trong các cuộc đàm phán đa
phương tại các tổ chức quốc tế, hội nghị quốc tế có nhiều đại diện tham dự. Đàm
7


phán khó có thể sớm đạt được kết quả, bị kéo dài về mặt thời gian vì những lý
do như mừu thuẫn về quyền, lợi ích, quan điểm của khối hay quan điểm của
nhóm nước… Tuy vẫn tồn tại hạn chế, nhưng có thể khẳng định đây là một
trong những biện pháp hữu hiệu và thông dụng nhất. Giải quyết tranh chấp bằng
đàm phán có thể giải quyết triệt để tranh chấp, duy trì được quan hệ hợp tác tốt
đẹp giữa các quốc gia, nhưng cũng có thể dừng lại ở sự thỏa thuận của các bên
mở ra khả năng áp dụng biện pháp hòa bình khác để giải quyết tranh chấp như
trung gian, hòa giải, lập ra các ủy ban điều tra, hay quyết định đưa tranh chấp ra
giải quyết tại trọng tài quốc tế hoặc tòa án quốc tế
2.2
II.1.


Nhóm biện pháp giải quyết thông qua bên thứ ba:
Biện pháp trung gian:
Được quy định trong công ước Lahaye 1899 và 1907 như là một trong các
biện pháp hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế. Bên thứ 3 là chủ thể có uy
tín trên trường quốc tế, khuyến khích các bên tranh chấp ngồi vào bàn đàm
phán. Bên trung gian không tham gia vào đàm phán và không đưa ra các điều
kiện giải quyết các tranh chấp. Giải quyết tranh chấp thông qua trung gian thực
chất là các bên chấp nhận sự tham gia của bên thứ ba. Bên thứ ba có thể là một
hoặc một số quốc gia; một hoặc một số cá nhân có uy tín và cũng có thể là thông
qua cơ quan của tổ chức quốc tế. Với nguyên tắc, cơ quan trung gian phải tôn
trọng ý chí tự quyết của các bên tranh chấp. Các đề nghị khuyến cáo của cơ quan
trung gian liên quan đến vụ tranh chấp chỉ có thể là cơ sở cho các cuộc đàm
phán và thỏa thuận giữa các bên tranh chấp mà không thể có giá trị pháp lý ràng
buộc. Ví dụ: Mỹ và Trung quốc kêu gọi Hàn quốc và Triều Tiên ngồi vào bàn
đàm phán giải quyết tranh chấp xung quanh đảo Yeon Peong - Biện pháp hòa
giải: Bên thứ ba có uy tín trên trường quốc tế khuyến khích các bên ngồi vào
bàn đàm phán và bên thứ ba tham gia trực tiếp vào bàn đàm phán bằng
o Ưu điểm: Các bên nỗ lực giải quyết tranh chấp do sự tác động
của bên thứ ba, tỷ lệ thành công trong giải quyết tranh chấp cao
hơn trong đàm phán trực tiếp, có tính khả thi cao mà vẫn giữ

8


được bí mật. Ngoài ra còn chủ động được thời gian, địa điểm và
o
II.2.

không tốn kém chi phí nhiều.

Nhược điểm: Các bên tranh chấp chịu sự tác động của bên thứ ba

và uy tín trên trường quốc tế sụt giảm.
Biện pháp hòa giải:
Bên thứ ba có uy tín trên trường quốc tế khuyến khích các bên ngồi vào
bàn đàm phán và bên thứ ba tham gia trực tiếp vào bàn đàm phán bằng cách đưa
ra dự thảo giải quyết tranh chấp để các bên tham khảo. Với tư các tham gia tích
cực vào đàm phán giữa các bên tranh chấp, bên hòa giải có phạm vi quyền hạn
và nghĩa vụ rộng lớn hơn, thể hiện ở việc tham gia đàm phán từ đầu cho đến khi
kết thúc, thậm chí có thể điều khiển cả cuộc đàm phán, đưa ra kiến nghị hoặc
đưa ra đề nghị thay đổi yêu sách của các bên tranh chấp nhằm làm cho các bên
xích lại gần nhau hơn, dung hòa các yêu sách của các bên nhưng kiến nghị của
họ không có tính chất bắt buộc đối với các bên. Bên thứ ba có thể là một hoặc
một số quốc gia, cá nhân hoặc tổ chức quốc tế, không tham gia vào vụ tranh
chấp. Biện pháp này có tính hiệu quả cao giúp các bên nỗ lực giải quyết tranh
chấp và nỗ lực thực hiện thỏa thuận. Tuy nhiên, biện pháp này có một số nhược
điểm là không đảm bảo bí mật, chịu sự tác động rất lớn của bên thứ ba, uy tín bị
sụt giảm và các bên không chủ động về thời gian, địa điểm giải quyết
Hòa giải được coi là kết thúc trong các trường hợp sau:

II.3.

-

Vụ tranh chấp đã kết thúc
Các bên tranh chấp chấp nhận các kết luận, khuyến nghị… của bên hòa

-

giải

Các bên hoặc một bên tranh chấp bác bỏ các kết luận hoặc khuyến nghị

đó.
Biện pháp thông qua Ủy ban kiểm tra và Ủy ban hòa giải:
Văn kiện chung về giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế năm 1928
có ghi nhận việc thành lập Ủy ban hòa giải thường trực hoặc Ủy ban hòa giải
đặc biệt. Trong thời hạn sáu tháng, sau khi có đề nghị của một bên tranh chấp, sẽ
thành lập Ủy ban hòa giải thường trực hoặc Ủy ban hòa giải đặc biệt gồm 5
thành viên, mỗi bên tranh chấp chỉ định một thành viên (có thể là công dân của
9


nước mình), 3 thành viên còn lại được lựa chọn dựa trên sự thỏa thuận chung
của các bên. Ủy ban này bao gồm các chuyên gia về lĩnh vực mà các bên tranh
chấp. Nhiệm vụ của ủy ban là sẽ hỗ trợ về mặt chuyên môn, không mang tính
chính trị như hòa giải. Biện pháp này có ưu điểm lớn là được hỗ trợ về mặt
chuyên môn, tính hiệu quả cao, các bên nỗ lực thực hiện. Nhưng vẫn có một số
nhược điểm như không đảm bảo bí mật, chịu sự tác động lớn từ bên thứ ba, uy
tín sụt giảm và các bên không chủ động về thời gian, địa điểm giải quyết, chi phí
tốn kém.
II.4.

Biện pháp thông qua tổ chức quốc tế:
Tổ chức quốc tế chỉ tham gia giải quyết tranh chấp giữa các bên trong tổ
chức đó, và trình tự giải quyết theo quy định riêng của tổ chức với trình tự giải
quyết rõ ràng, chi tiết, các bên nỗ lực thực hiện, tỷ lệ thành công khá cao, có tính
khả thi nhưng đôi khi trình tự giải quyết còn rườm rà, phức tạp, các bên không
chủ động được về thời gian, địa điểm giải quyết, không đảm bảo tính bí mật do
có sự tham gia của bên thứ ba, uy tín sụt giảm.
Ví dụ: Việc giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các thành viên của WTO

được giải quyết trên cơ sở các nguyên tắc công bằng, nhanh chóng, hiệu quả và
chấp nhận được đối với các bên tranh chấp. Căn cứ vào Thỏa thuận về giải quyết
tranh chấp (DSU), các thành viên có thể lựa chọn cho mình các biện pháp giải
quyết tranh chấp khác nhau như: tham vấn, môi giới, hòa giải, trung gian, kể cả
việc lựa chọn thiết chế tài phán quốc tế khác như tài phán trọng tài quốc tế. Sau
khi đã tiến hành các biện pháp nêu trên mà tranh chấp vẫn chưa được giải quyết
thì các bên có thể khiếu nại ra trước cơ quan giải quyết tranh chấp-DSB của
WTO. WTO không thành lập một cơ quan chuyên trách, có thẩm quyền giải
quyết tranh chấp hoàn toàn độc lập mà Đại hội đồngWTO sẽ được triệu tập để
đảm nhiệm phần trách nhiệm của cơ quan giải quyết tranh chấp được quy định
trong thỏa thuận về giải quyết tranh chấp, như vậy Đại hội đồng vừa là cơ quan
thường trực và vừa là cơ quan có chức năng giải quyết tranh chấp (DSB) của
WTO. Khi có tranh chấp, nước khiếu nại cần nêu vấn đề với nước bị khiếu nại
10


và đề nghị tham vấn để tìm ra cách giải quyết. Đề nghị tham vấn phải được
thông báo cho Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB). Trong vòng 10 ngày, cơ
quan bị khiếu kiện phải trả lời đề nghị tham vấn và hai bên bắt đầu quá trình
tham vấn trong khoảng thời gian không quá 30 ngày kể từ ngày bên khiếu kiện
nhận được đề nghị tham vấn.

2.3

Phương pháp thông qua cơ quan tài phán quốc tế:
Phương pháp thông qua cơ quan tài phán quốc tế Một trong những lựa
chọn thông dụng của các bên nhằm giải quyết tranh chấp quốc tế là thông qua cơ
quan tài phán quốc tế. Về bản chất, tài phán quốc tế là cách thức hòa bình để
giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các phương pháp, thủ tục tư pháp do các
quốc gia lựa chọn. Nhìn chung, các cơ quan tài phán quốc tế tồn tại chủ yếu

dưới hai dạng là Tòa án quốc tế và Trọng tài quốc tế.
3.1.

Trọng tài quốc tế:

Trong lịch sử quan hệ quốc tế, trọng tài quốc tế là phương thức được sử
dụng từ rất sớm để giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể luật quốc
tế. Trọng tài quốc tế đã được sử dụng tương đối rộng rãi để giải quyết các tranh
chấp trong nhiều lĩnh vực. Đặc biệt các tranh chấp liên quan đến việc giải thích
và áp dụng điều ước quốc tế thì trọng tài quốc tế được đánh giá là biện pháp hữu
hiệu, công bằng và hợp lý nhất trong trường hợp các biện pháp ngoại giao được
áp dụng không thành công.
Tòa trọng tài không có thẩm quyền đường nhiên, cơ sở xác định thẩm
quyền của tòa trọng tài là sự nhất trí của các bên tranh chấp về việc đưa vụ tranh
chấp ra giải quyết tại trọng tài. Sự nhất trí này phải được thể hiện một cách rõ
ràng, minh bạch trong điều ước quốc tế về trọng tài.
Về phân loại, dựa vào cơ chế hoạt động, trọng tài quốc tế được phân
thành trọng tài thường trực và trọng tài vụ việc.
-

Trọng tài thường trực có trụ sở và làm việc thường xuyên, liên tục, có
quy chế hoạt động thủ tục rõ ràng, có các nhân viên chuyên nghiệp
11


giúp đỡ các bên trong quá trình tố tụng, có kinh nghiệm thực tiễn, dựa
trên những kinh nghiệm này mà tòa có thể giúp các bên chỉ định được
các trọng tài viên có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm thực tế thích
-


hợp tạo thuận lợi cho quá trình giải quyết tranh chấp.
Trọng tài vụ việc được thành lập khi các bên tranh chấp lựa chọn thành
lập hội đồng trọng tài gồm các trọng tài có uy tín và kinh nghiệm. Sau
khi giải quyết xong tranh chấp, hội đồng trọng tài tự giải tán. Số trọng
tài trong một tổ luôn luôn là số lẻ. Điểm mạnh của tòa là khả năng linh
hoạt đáp ứng yêu cầu của các bên, tiết kiệm được án phí do không phải
chịu chi phí điều hành.

Phán quyết của trọng tài quốc tế có giá trị bắt buộc đối với các bên tranh chấp,
có giá trị chung thẩm nên trình tự thủ tục nhanh tỷ lệ thành công cao, các bên
không có quyền khiếu nại mà chỉ có quyền đề nghị trọng tài xem xét lại phán
quyết. Tuy nhiên vì phán quyết chỉ có giá trị tham khảo nên trên thực tế không
có cơ chế nào đảm bảo thực hiện phán quyết này mặt khác biện pháp này mang
lại chi phí tốn kém, không đảm bảo bí mật, uy tín trên trường quốc tế sụt giảm

12


Tòa án công lý quốc tế ICJ

3.2.

Toà án Công lý Quốc tế (tiếng Anh: International Court of Justice – ICJ)
là một phân ban trực thuộc Liên Hiệp Quốc, được thành lập vào năm 1945 với
tiền thân là Toà án Thường trực Công lý Quốc tế (Permanent Court of
International Justice) có từ năm 1922. Tòa bắt đầu chính thức nhận hồ sơ, thụ lý
và giải quyết tranh chấp các vấn đề giữa các quốc gia thành viên có liên quan,
cũng như làm công tác cố vấn pháp luật cho Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc và
Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, cũng như các ủy ban khác trực thuộc Liên
Hiệp Quốc như đã ghi rõ trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc từ 1946. Tòa án

công lý quốc tế là một trong sáu cơ quan chính của Liên Hợp Quốc, Gồm có 15
thẩm phán được bổ nhiệm bởi Đại hội đồng LHQ và Hội đồng Bảo an LHQ dựa
trên danh sách tiến cử bởi Tòa án Trọng tài thường trực. Nhiệm kỳ của thẩm
phán là 9 năm, không hạn chế việc tái đắc cử miễn là đảm bảo quy tắc không có
hai thẩm phán cùng quốc tịch. Một phần ba tòa được bầu lại mỗi 3 năm và trong
5 thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an LHQ, mỗi nước luôn có một
thẩm phán đại diện trong tòa. Vấn đề được quyết định theo nguyên tắc thiểu số
phục tùng đa số, và mọi phán quyết được đưa ra là phán quyết cuối cùng, không
phải phúc thẩm.
o

Thẩm quyền ICJ
Có hai dạng thẩm quyền: thẩm quyền giải quyết các tranh chấp quốc tế và
thẩm quyền tư vấn.
-

Tư vấn
ICJ có thẩm quyền tư vấn theo yêu cầu của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc

và các tổ chức chuyên môn được Đại hội đồng cho phép. Thẩm quyền này được
quy định tại điều 96 Hiến chương Liên Hợp Quốc:
“Đại hội đồng hay Hội đồng bảo an có thể yêu cầu Tòa án quốc tế cho ý
kiến tư vấn về mọi vấn đế pháp lý
Các cơ quan khác của Liên Hợp Quốc và các tổ chức chuyên môn nếu
được sự cho phép của Đại hội đồng cũng có quyền hỏi ý kiến tư vấn của Tòa án
quốc tế về những vấn đề pháp lý có thể đặt ra thông qua hoạt động của mình.”
13


Trong Chương 4 từ Điều 65 đến Điều 68 Quy chế Tòa án quốc tế có quy

định cụ thể hơn về những kết luận tư vấn của Tòa án.
-

Giải quyết tranh chấp

Tại Khoản 1 Điều 36 Quy chế Tòa án quốc tế quy định: Tòa án tiến hành
xét tất cả các vụ tranh chấp mà các bên đưa ra và tất cả các vấn đề được nêu
riêng trong hiến chương Liên hợp quốc hay các điều ước quốc tế hiện hành.
Tòa giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể là các quốc gia,
không phân biệt quốc gia đó có phải là thành viên Liên Hợp Quốc hay không.
Điều này được cụ thể hóa từ nguyên tắc f (nguyên tắc thứ 6) trong bảy nguyên
tắc hoạt động của ICJ
Trong mọi trường hợp xảy ra tranh chấp, thẩm quyền của Tòa được xác
định trên cơ sở ý chí của chủ thể đang tranh chấp.
Khi thẩm quyền của Tòa được xác lập thì thẩm quyền này là độc lập, dựa
trên ý chí tự nguyện từ các bên hữu quan, mà không bị bất cứ sức ép chính trị
hay kinh tế nào.
Trên thực tế các trường hợp được đưa ra giải quyết tại Tòa án quốc tế bao
gồm rất nhiều lĩnh vực như: quyền về lãnh thổ (vụ tranh chấp giữa Pháp và Anh
năm 1953, giữa Bỉ và Hà Lan năm 1959, giữa Ấn Độ và Bồ đào nha năm
1960…), liên quan tới Luật biển (tranh chấp giữa Anh và Nauy về đánh cá…),
các cuộc tranh chấp liên quan đến nguyên tắc và luật lệ quốc tế trong việc phân
định ranh giới thềm lục địa, trên biển và trên bộ (tranh chấp giữa Libi và Manta
năm 1985, Canada và Mỹ năm 1984, Đan mạch và Nauy năm 1993…), về bảo
vệ ngoại giao, bảo vệ môi trường, thực hiện các nghĩa vụ của lực lượng ủy thác
tại lãnh thổ Tây Nam châu Phi, các vấn đề liên quan đến xung đột khu vực, việc
thực hiện các Công ước quốc tế của các nước… các trường hợp liên quan giữa
Liên hợp quốc và các nước thành viên như việc phái viên của Liên hợp quốc bị
sát hại, đóng góp của các nước vào ngân sách hoạt động giữ gìn hòa bình… Thủ
tục giải quyết tranh chấp được Quy chế Tòa án quốc tế quy định cụ thể tại

Chương 3 gồm 26 điều từ Điều 39 đến Điều 64.
o

Cơ sở xác định thẩm quyền
14


Thẩm quyền của Tòa được xác định dựa trên cơ sở thỏa thuận của các bên
tranh chấp. Việc thỏa thuận của các bên được biểu hiện bằng những cách sau:


Thỏa thuận đưa từng vụ việc cụ thể ra Tòa (special agreement)

Các quốc gia tranh chấp thỏa thuận đưa vụ việc ra Tòa sau khi xảy ra
tranh chấp bằng các điều ước quốc tế.
Ví dụ: Hungary và Slovakia đã ký một bản thỏa thuận vào ngày 7 tháng 4
năm 1993 để đưa vụ việc liên quan đến dự án Gabcikovo Nagymaros ra ICJ. Đó
là dự án xây dựng đập Gabcikovo trên sông Danube, trong đó Hungary kiện
Tiệp Khắc (hiện nay chỉ còn Slovakia) đã vi phạm nghĩa vụ hợp tác thiện chí
(nguyên tắc láng giềng thân thiện – good neighborliness), gây tác hại đến những
nguồn tài nguyên dùng chung. Theo bản thỏa thuận đó, ICJ có thẩm quyền giải
quyết vụ việc nêu trên.


Quy định trong Điều ước quốc tế mà các bên tham gia
(jurisdictional clause)

Một cách phổ biến để xác định thẩm quyền của Tòa là thông qua thỏa
thuận của các bên. Khi tham gia các điều ước quốc tế, các bên đã quy định đưa
các tranh chấp ra ICJ. Thông thường các quốc gia thông qua các Điều ước quốc

tế, đã thỏa thuận trước với nhau sẽ đưa ra Tòa tất cả các vụ việc liên quan đến
việc áp dụng và giải thích điều ước.
Ví dụ: Vụ Gruzia đưa đơn kiện Nga vi phạm Công ước quốc tế về loại bỏ
mọi hình thức phân biệt chủng tộc (International Convention on the Elimination
of All Form of Racial Discrimination – CERD) mà cả Gruzia và Nga đều là
thành viên. Trong đó, điều 22 CERD quy định: “Bất cứ tranh chấp nào giữa hai
hay nhiều quốc gia liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công ước này, mà
không được giải quyết bằng đàm phán hay những thủ tục được quy định riêng
trong Công ước này, sẽ được giao cho ICJ theo đề nghị của một bên, trừ khi các
bên liên quan đồng ý lựa chọn phương thức giải quyết khác”. Tòa xem xét và
đưa ra kết luận Tòa có thẩm quyền xét xử vụ việc. Như vậy, thẩm quyền của ICJ
được xác định dựa trên quy định của Điều ước quốc tế mà các bên tham gia.


Tuyên bố đơn phương chấp nhận thẩm quyền của Tòa
15


Thẩm quyền của ICJ còn được xác định thông qua tuyên bố của các quốc
gia chấp nhận thẩm quyền xét xử của Tòa (như là một nghĩa vụ bắt buộc) trong
quan hệ với bất kỳ quốc gia nào khác cũng chấp nhận những nghĩa vụ tương tự,
trong tất cả các tranh chấp liên quan đến những vấn đề được liệt kê tại Điều 36
khoản 2 Quy chế Tòa án quốc tế bao gồm:
-

Việc giải thích các điều ước
Vấn đề bất kỳ liên quan đến Luật quốc tế
Sự xuất hiện của bất kì nhân tố nào mà sự hình thành của nó sẽ dẫn đến

-


một vi phạm nghĩa vụ quốc tế
Bản chất hoặc phạm vi bồi thường đối với việc vi phạm nghĩa vụ quốc
tế

Các quốc gia chịu sự điều chỉnh của Quy chế Tòa án quốc tế có thể đưa ra
tuyên bố đơn phương chấp nhận thẩm quyền của Tòa vào bất cứ thời điểm nào.
Ví dụ: Austraylia tuyên bố đơn phương chấp nhận thẩm quyền của ICJ
ngày 22/3/2002; Cameron ngày 3/3/1994; Tây Ban Nha 20/10/1990… Tuyên bố
của các quốc gia công nhận thẩm quyền của ICJ dựa trên nguyên tắc có đi có lại.
Tức là thẩm quyền của Tòa chỉ tồn tại trong phạm vi những đồng thuận trong
tuyên bố của các bên về vấn đề được đưa ra. Sự có đi có lại đó là một trong
những đặc trưng quan trọng của phương thức này. Do đó mọi quốc gia công
nhận thẩm quyền bắt buộc của Tòa đều có quyền đưa ra ICJ tranh chấp với một
hoặc một vài quốc gia khác chấp nhận những nghĩa vụ tương tự thông qua việc
đưa đơn kiện lên ICJ.

o

Giá trị pháp lý của các phán quyết của tòa án

Về lý thuyết, các phán quyết của ICJ mang tính giá trị chung thẩm – có
giá trị pháp lý cao nhất và có giá trị bắt buộc đối với các bên. Trong một số
trường hợp phán quyết của tòa có tác động gián tiếp đối với bên thứ ba, VD: Các
thành viên của điều ước quốc tế đa phương không thể bỏ qua phán quyết của tòa
liên quan đến việc giải thích điều ước đó.

16



Phán quyết của tòa sẽ được đảm bảo bằng cơ chế tự cưỡng chế - cưỡng
chế tập thể. Cụ thể nếu một bên không thực hiện thì bên còn lại có quyền yêu
cầu Hội Đồng Bảo An phán quyết.
Tuy nhiên trên thực tế, các phán quyết của tòa chỉ mang ý nghĩa chính trị
hơn là có hiệu lực thi hành, và mọi việc đều tùy thuộc vào thiện chí của các
nước.
Ví dụ: Trong năm 2004, Tòa ra một phán quyết đầy tranh cãi bằng việc
lên án hàng rào an ninh Isaren, kết tội hành động của Isaren là vi phạm luật quốc
tế và phải phá bỏ hàng rào này ngay lập tức, cũng như bồi hoàn chi phí thiệt hại
cho người Palestine. Trước quyết định của tòa án Isaren đã phản đối quyết liệt
và vẫn tiếp tục xây dựng, củng cố hàng rào an ninh.
Một ví dụ khác về tranh chấp giữa thái lan và Campuchia vào năm 1959
liên quan đến ngôi đền Preah Vihear. Tranh chấp diễn ra vào năm 1959, đến
năm 1962 ICJ đã ra phán quyết trao chủ quyền ngôi đền cho Campuchia, tuy
nhiên năm 2009 xung đột lại xảy ra và giờ đây, hai bên đều không muốn đưa ra
tòa án, nhưng cả hai vẫn đang tranh chấp.
III.

Việt Nam trong vấn đề hòa bình giải quyết các tranh chấp
Trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam luôn lấy

hòa bình, nhân nghĩa làm đạo lý, không có tư tưởng xâm lược, bành trướng.
Các cuộc đấu tranh của nhân dân ta là để tự vệ, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền
đất nước, độc lập của dân tộc. Ngay từ các cuộc đấu tranh chống quân Nam
Hán, quân Tống, quân Mông – Nguyên, quân Minh, quân Thanh xâm lược...
tinh thần ấy đã được khẳng định.
Ngày nay, thực tiễn hơn 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhà
nước ta đã có những bước đi đúng đắn trong việc giải quyết các tranh chấp
quốc tế trên con đường hòa bình, tôn trọng và tuân thủ nghiêm túc luật pháp
quốc tế, tích cực tham gia giữ gìn hòa bình, an ninh trên thế giới, thực hiện

đường lối ngoại giao độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển. Với tinh
thần đó, khi giải quyết vấn đề liên quan đến biên giới lãnh thổ, Đảng và Nhà
17


nước ta luôn kiên định bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc lên trên hết và
cố gắng tìm mọi giải pháp hòa bình có thể.
Điển hình là trong thời gian vừa qua, Trung Quốc đưa giàn khoan nước
sâu cùng với lực lượng tàu hùng hậu, thời điểm cao điểm lên tới hơn 100 tàu,
trong đó có cả tàu có vũ trang, tàu quân sự và máy bay hộ tống đi vào vùng
biển Việt Nam và đã hạ đặt giàn khoan này tại vị trí nằm sâu trên 80 hải lý
trong Thềm lục địa và vùng Đặc quyền Kinh tế của Việt Nam. Các hành
động phun vòi rồng có cường độ mạnh, dùng tàu đâm vào tàu công vụ và dân
sự của Việt Nam đã khiến nhiều tàu hư hại, và gây thương tích. Đây là hành
động vi phạm chủ quyền biên giới lãnh thổ của Việt Nam, vi phạm Luật pháp
Quốc tế, UNCLOS, DOC và đe dọa đến hòa bình, ổn định, an ninh và an toàn
hàng hải ở Biển Đông. Những việc làm sai trái và lời lẽ ngang ngược, phía
Trung Quốc đã lộ rõ ý đồ từng bước chiếm biển Đông, hiện thực hóa yêu
sách “đường lưỡi bò”, bành trướng, bá quyền trong khu vực và thế giới.
Trước tình hình phức tạp của vấn đề biển Đông, quán triệt Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, Đảng ta đã có đường lối đối ngoại khôn khéo,
mềm mỏng nhưng kiên quyết, lấy độc lập, tự chủ là yếu tố hàng đầu để giải
quyết mọi vấn đề. Cụ thể:
“Cần phải ứng phó một cách kiên quyết, bền bỉ, linh hoạt, tuân thủ
luật pháp quốc tế, nhằm giữ được chủ quyền của ta, môi trường hòa bình, ổn
định để phát triển đất nước vừa duy trì được cục diện quan hệ với Trung
Quốc.
Cần tiếp tục chủ động, kiên trì đẩy mạnh đồng bộ đấu tranh trên
thực địa, đấu tranh ngoại giao, công tác thông tin tuyên truyền và đấu tranh
dư luận tăng cường sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng và trong nhân dân;

đồng thời tranh thủ cao nhất sự ủng hộ quốc tế đối với chủ quyền lãnh thổ
của ta, lập trường chính nghĩa của ta.”
Để thực hiện đường lối đối ngoại đó, Việt Nam đã có nhiều biện
pháp đấu tranh quyết liệt. Qua các cuộc tiếp xúc, điện đàm, cũng như trong
nội dung Công hàm của Bộ Ngoại giao, ta đã kiên quyết phản đối Bộ Ngoại
18


giao Trung Quốc, bác bỏ quan điểm, hành vi sai trái của phía Trung Quốc,
khẳng định và nhấn mạnh khu vực Giàn khoan Hải Dương-981 và các tàu
của Trung Quốc hoạt động nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa của Việt Nam; hoạt động của Giàn khoan và các tàu bảo vệ của
Trung Quốc đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền và quyền tài phán quốc
gia của Việt Nam được quy định trong Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển
năm 1982, vi phạm Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông 2002
(DOC), vi phạm Thỏa thuận về các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn
đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc. Việt Nam yêu cầu Trung Quốc
rút ngay giàn khoan và các tàu ra khỏi vùng biển của Việt Nam. Và Việt
Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý, chứng cứ lịch sử khẳng định chủ quyền không
thể tranh cãi của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa; quyền chủ quyền,
quyền tài phán đối với vùng kinh tế đặc quyền và thềm lục địa được xác định
phù hợp với Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982. Đề nghị hai
bên giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán và các biện pháp hòa bình phù
hợp luật pháp quốc tế, bao gồm Hiến chương Liên hợp quốc và Công ước
của Liên hợp quốc về Luật biển. Mặt khác, chúng ta tích cực hợp tác với các
nước trong khu vực để tìm tiếng nói chung, cùng tìm ra giải pháp giải quyết
và mục tiêu trước hết là đoàn kết giữa các nước trong vấn đề tranh chấp biển
Đông trước sự gây hấn ngày càng hung hăng của Trung Quốc. Việc hợp tác
không chỉ trên lĩnh vực ngoại giao mà còn trên nhiều lĩnh vực khác. Vì Đảng
và Nhà nước ta hiểu rõ ảnh hưởng, tổn thất mà chiến tranh gây ra cho nhân

dân ta trong hai cuộc chiến tranh cứu quốc.
Hiện nay Trung Quốc còn vẫn tiếp tục thực hiện các hành vi ngang ngược
như xây dựng đảo nhân tạo, xây dựng trường học, mở điểm du lịch, đưa quân
đội và các vũ khí hạt nhân ra khu vực quần đảo Hoàng Sa nhằm thôn tính và
quân sự hóa khu vực biển đông. Trước tình hình đó, chúng ta vẫn tiếp tục
giải quyết vấn đề tranh chấp biển Đông bằng đường lối đối ngoại trên. Điều
này giúp chúng ta tranh thủ được sự ủng hộ của quốc tế, tạo ra sức mạnh
ngoại lực để có thể giải quyết vấn đề bằng giải pháp hòa bình trên cơ sở tôn
19


trọng độc lập dân tộc. Bên cạnh các hoạt động đối ngoại tích cực như trên,
trong công tác đối nội chúng ta cũng cần phải bình tĩnh, tỉnh táo, tránh các
hoạt động quá khích, vượt ngoài tầm kiểm soát, tạo cớ cho các thế lực bên
ngoài xuyên tạc, công kích ta. Đồng thời tăng cường công tác đối ngoại nhân
dân, đưa tin về phản ứng của các tổ chức quần chúng, cung cấp thông tin và
vận động bạn bè quốc tế phản đối các hành vi sai trái của Trung Quốc, ủng
hộ lập trường của Việt Nam. Cung cấp thông tin có định hướng cho các tổ
chức chính trị xã hội, đoàn thể, góp phần tạo sự đồng thuận, niềm tin vào các
chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta đối với việc bảo vệ
chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Tăng cường công tác giáo dục
thế hệ trẻ về chủ quyền an ninh quốc gia thông qua nhiều hình thức hiệu quả
hơn. Trước xu hướng toàn cầu hóa, việc nâng cao nhận thức, tư duy và tình
cảm của thế hệ trẻ về tình yêu đất nước và tinh thần dân tộc càng đóng vai trò
quan trọng đối với việc bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia và giữ gìn hòa
bình trên thế giới.

20



KẾT LUẬN
Hiện nay quan hệ hợp tác quốc tế ngày càng phát triển, sự gia tăng của
quan hệ hợp tác quốc tế này lại tiềm ẩn nguy cơ nảy sinh, bất đồng. Thậm chí
có thể nói số lượng tranh chấp thường tỷ lệ thuận với tốc độ phát triển của
quan hệ quốc tế. Do vậy để đảm bảo lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp
mà không làm phương hại đến hòa bình và an ninh quốc tế thì các chủ thể
của luật quốc tến cần phải sử dụng khéo léo các biện pháp giải quyết tranh
chấp mà Hiến Chương Liên Hợp Quốc đã quy định sao cho vừa hợp tình vừa
hợp lý, tránh xảy ra xung đột, căng thẳng cho các bên.
Tuy nhiên điều quan trọng để những biện pháp này được thực hiện một
cách hiệu quả đó trên hết vẫn là sự thiện chí và thỏa thuận của các bên. Bởi
lẽ, nếu nếu khong thiện chí, vụ tranh chap có thể bị kéo dài và lâm vào tình
trạng bế tắc, càng gây căng thẳng giữa các bên. Ngay cả việc thực hiện
những phán quyết mang tính chất bắt buộc của trọng tài quốc tế cũng cần tới
sự thiện chí và tự nguyện của các bên.

21


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.
2.
3.
4.

Giáo trình Công pháp quốc tế trường Đại Học Kiểm Sát Hà Nội
Hiến Chương Liên Hợp Quốc 1945
Công ước viên 1969
/>

5.

lien-hop-quoc.html
/>
6.

tranh-chap-quoc-te-tai-toa-an-cong-ly-quoc-te-37862/
/>
22



×