Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

NHỮNG cú sốc GIÁ cả HÀNG hóa và sự bất ổn của hệ THỐNG tài CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.19 KB, 34 trang )

COMMODITY PRICE SHOCKS AND FINANCIAL SECTOR
FRAGILITY

NHỮNG CÚ SỐC GIÁ CẢ HÀNG HÓA VÀ SỰ BẤT ỔN CỦA HỆ
THỐNG TÀI CHÍNH

1. ABTRACT
This paper investigates the impact of commodity price shocks on
financial sector fragility. Using a large sample of 71 commodity
exporters among emerging and developing economies, it shows that
negative shocks to commodity prices tend to weaken the financial sector,
with larger shocks having more pronounced impacts. More specifically,
negative commodity price shocks are associated with higher nonperforming loans, bank costs and banking crises, while they reduce bank
profits, liquidity, and provisions to nonperforming loans. These adverse
effects tend to occur in countries with poor quality of governance, weak
fiscal space, as well as those that do not have a sovereign wealth fund, do
not implement macro-prudential policies and do not have a diversified
export base.

1. TÓM TẮT
Nghiên cứu này xem xét tác động của các cú sốc giá cả hàng hóa đến sự
bất ổn của hệ thống tài chính. Sử dụng một mẫu lớn của 71 doanh nghiệp
xuất khẩu hàng hóa trong nền kinh tế mới nổi và đang phát triển, nó cho
thấy rằng các cú sốc âm giá hàng hóa có xu hướng làm suy yếu khu vực
tài chính , với những cú sốc càng lớn có tác động càng rõ ràng hơn . Cụ
thể hơn , các cú sốc âm có liên hệ đến sự gia tăng nợ xấu , chi phí ngân
hàng và khủng hoảng ngân hàng , đồng thời chúng làm giảm lợi nhuận
ngân hàng , thanh khoản, và dự phòng cho các khoản nợ xấu. Những ảnh
hưởng xấu này có xu hướng xảy ra ở các nước có chất lượng kém về
quản trị, không gian tài khóa yếu kém, cũng như những quốc gia không
có một quỹ đầu tư quốc gia , không thực hiện các chính sách an toàn vĩ


mô, không có một nền tảng xuất khẩu đa dạng.

2. INTRODUCTION
The recent decline in commodity prices, especially for oil, has revived
once again interest in their economic impact. Most commodities prices
have declined by about 50 percent between mid-2014 and mid-2015,
leading to significant losses in export earnings for commodity exporters
(Figure 1).

2. GIỚI THIỆU
Sự suy giảm gần đây của giá cả hàng hóa , đặc biệt là dầu mỏ, đã làm
sống dậy một lần nữa mối quan tâm đến tác động kinh tế của chúng . Hầu
hết giá mặt hàng này đã giảm khoảng 50 % từ giữa năm 2014 và giữa
năm 2015 , dẫn đến thiệt hại đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu cho
doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa ( Hình 1 )


The large occurrence of commodity price shocks has led to a large
number of studies analyzing the impact of lower commodity prices on
various variables such as economic growth (Deaton and Miller 1995,
Dehn 2000), debt (Arezki and Brückner 2000, Arezki and Ismail 2013),
conflict (Brückner and Ciccone 2009), etc.

Sự xuất hiện nhiều các cú sốc giá hàng hóa đã dẫn đến một số lượng lớn
các nghiên cứu phân tích các tác động của giá hàng hóa thấp trên nhiều
biến số như tăng trưởng kinh tế ( Deaton và Miller 1995, Dehn 2000) ,
nợ ( Arezki và Bruckner 2000, Arezki và Ismail 2013 ) , xung đột
( Bruckner và Ciccone 2009) , vv

Adverse commodity price shocks can also contribute to

financial fragility through various channels.
First, a decline in commodity prices in commoditydependent countries results in reduced export income,
which could adversely impact economic activity and
agents’ (including governments) ability to meet their debt
obligations, thereby potentially weakening banks’ balance
sheets.

Cú sốc âm cũng góp phần vào sự bất ổn tài chính thông qua các kênh
khác nhau.
Đầu tiên, một sự suy giảm trong giá cả hàng hóa ở các nước phụ thuộc
hàng hóa dẫn đến sự suy giảm trong thu nhập từ xuất khẩu, có thể ảnh
hưởng xấu đến hoạt động kinh tế và khả năng của các đại lý (bao gồm cả
các chính phủ) đáp ứng các nghĩa vụ nợ của họ, do đó có khả năng làm
suy yếu bảng cân đối của các ngân hàng.
Thứ hai, một sự đột biến trong việc rút tiền ngân hàng sau sự sụt giảm
giá hàng hóa có thể làm giảm đáng kể tính thanh khoản của các ngân
hàng và có khả năng dẫn đến mất cân bằng thanh khoản. Nếu đủ lớn , các
cú sốc giá cả hàng hóa cũng có thể ảnh hưởng xấu đến bảng cân đối của
ngân hàng ở khoản mục dự trữ ngoại tệ và làm tăng rủi ro mất cân bằng
tỷ giá .
Thứ ba, một sự suy giảm trong giá cả hàng hóa có thể làm giảm năng
lực tài chính của các nhà xuất khẩu (giảm doanh thu) , do đó có thể đẩy

Second, a surge in bank withdrawals following a drop in
commodity prices may significantly reduce banks’ liquidity
and potentially lead to a liquidity mismatch. . If large
enough, commodity price shocks can also adversely affect
bank balance sheets by weighing on international
reserves and increasing the risk of currency mismatches.



Third, a decline in commodity prices can reduce
commodity exporters’ fiscal performance (by lowering
revenue), which in turn may push government to adjust
their budgets to accommodate revenue shortfalls. Often
this can happen in a disorderly manner through the
accumulation of payment arrears to suppliers and
contractors, who in turn are unable to adequately service
their bank loans.

chính phủ phải điều chỉnh ngân sách để thích nghi với sự thâm hụt thu
nhập từ các nhà xuất khẩu . Thường thì điều này có thể xảy ra thông qua
việc tích lũy nợ phải trả cho nhà cung cấp và nhà thầu , làm cho họ
không thể thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với các khoản vay ngân hàng của họ

Tuy nhiên, các tài liệu còn thiếu một phân tích thực nghiệm có hệ thống
về tác động của các cú sốc âm trên các lĩnh vực tài chính. Việc thiếu các
bằng chứng có thể là do sự thiếu dữ liệu về các nước đang phát triển
(Navajas và Thegeya, 2013) và định nghĩa mơ hồ về sự bất ổn tài chính,
đó là khó khăn cho việc định lượng (Francis, 2003). Bất ổn tài chính có
thể được định nghĩa là sự gia tăng khả năng sụp đổ mang tính hệ thống
trong hệ thống tài chính, mà dấu hiệu rõ ràng nhất sẽ là một cuộc khủng
hoảng ngân hàng mang tính hệ thống. Một định nghĩa ít ấn tượng hơn là
bất ổn tài chính có thể được hiểu như là sự nhạy cảm của hệ thống tài
chính với các cú sốc tương đối nhỏ. Điều đó nói rằng, việc xây dựng các
chỉ báo tương ứng sẽ là tương đối phức tạp và không rõ ràng. Đã có các
phân tích gần đây nhất trong các tài liệu nghiên cứu thực nghiệm về tác
động của các cú sốc thương mại lên sự xuất hiện của các cuộc khủng
hoảng ngân hàng (Demirgüç- Kunt và Detragiache, 2000). Việc thiếu các
bằng chứng thực nghiệm khá là đáng ngạc nhiên vì nhận thức ngày càng

tăng của các vấn đề ổn định tài chính ở nhiều quốc gia, và liên kết chặt
chẽ giữa các thị trường hàng hóa và khu vực tài chính.

However, the literature lacks a systematic empirical analysis of the
impact of negative commodity price shocks on the financial sector. The
lack of evidence could be due to the lack of data on developing countries
(Navajas and Thegeya, 2013) and the imprecise definition of the
financial fragility, which is difficult to quantify (Francis, 2003).
Financial fragility can be defined as the increased likelihood of a
systemic failure in the financial
system, for which the most obvious indicator would be a systemic
banking crisis. A less dramatic definition of financial fragility could
capture the sensitivity of the financial system to relatively small shocks.
That said, the corresponding indicator(s) would be relatively more
complex and not obvious to construct. The closest existing empirical
analysis in the literature examines the impact of terms of trade shocks on
the occurrence of banking crises (Demirgüç- Kunt and Detragiache,
2000). The lack of empirical evidence is rather surprising given the Sử dụng một mẫu lớn các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa trong các
growing awareness of financial stability issues in many countries, and the nền kinh tế đang phát triển, nghiên cứu này nhấn mạnh rằng các cú sốc
âm có xu hướng làm suy yếu các lĩnh vực tài chính và có thể dẫn đến các
close link between commodity markets and the financial sector.
cuộc khủng hoảng ngân hàng. Bài viết cố gắng để lấp đầy một khoảng
Using a large sample of commodity exporters among developing trống trong nghiên cứu thực nghiệm bằng cách phân tích tác động của
economies, this paper highlights that negative commodity price shocks các cú sốc âm lên sự bất ổn của khu vực tài chính và nó có ba vấn đề
tend to weaken the financial sector and can lead to banking crises. The chính.
paper attempts to fill a gap in the empirical literature by analyzing the Đầu tiên, các cú sốc âm có xu hướng làm suy yếu các lĩnh vực tài chính
impact of adverse commodity price shocks on the fragility of the và tăng xác suất của các cuộc khủng hoảng ngân hàng, với những cú sốc
lớn có tác động rõ rệt hơn. Cụ thể hơn, các cú sốc âm làm gia tăng nợ
financial sector and has three main findings.
First, negative shocks to commodity prices tend to weaken the financial xấu và chi phí ngân hàng, làm giảm các khoản dự phòng nợ xấu và lợi

sector and increase the probability of banking crises, with larger shocks nhuận ngân hàng (lợi nhuận trên tài sản và lợi nhuận trên vốn chủ sở


having more pronounced impact. More specifically, negative commodity
price shocks increase nonperforming loans and bank costs, reduce the
provisions to non-performing loans and bank profits (return on assets and
return on equity).
Second, these detrimental effects are more common in countries with
poor quality of governance, high public debt, and low financial
development but are less common in countries under IMF-supported
programs, holding sovereign wealth funds (SWF), implementing macroprudential policies, and with a diversified export base.
Third, GDP growth, fiscal performance (fiscal deficit and government
revenue), savings, and debt in foreign currency are the main transmission
channels of commodity price shocks to the financial sector.

hữu).
Thứ hai, những tác động có hại là phổ biến hơn ở các nước có chất
lượng kém về quản trị, nợ công cao, và chậm phát triển về tài chính
nhưng ít phổ biến hơn ở các nước nằm dưới sự hỗ trợ của IMF, nắm giữ
các quỹ đầu tư quốc gia (SWF), thực hiện các chính sách an toàn vĩ mô
và với một nền móng xuất khẩu đa dạng.
Thứ ba, tăng trưởng GDP, năng lực tài chính (thâm hụt tài chính và
doanh thu của chính phủ), tiết kiệm, và nợ bằng ngoại tệ là các kênh
truyền tải chính của các cú sốc giá hàng hóa cho khu vực tài chính.

3. FROM COMMODITY PRICE SHOCKS TO FINANCIAL
FRAGILITY

3.1. Tóm lược về các tài liệu có liên quan
Các tài liệu phân tích tác động của các cú sốc giá cả hàng hóa đến sự bất

ổn tài chính là khá hạn chế. do đó phần này tập trung vào các nghiên cứu
liên quan đến hai thành phần chính của câu hỏi thực nghiệm của chúng
tôi, cụ thể là
(i)
tác động của các cú sốc giá cả hàng hóa;
(ii)
các yếu tố quyết định của sự bất ổn tài chính và khủng hoảng
ngân hàng
Sự sụt giảm giá hàng hóa có xu hướng làm suy yếu năng lực nền kinh tế.
Từ nghiên cứu của mình, Deaton và Miller (1995), và Deaton (1999) cho
thấy suy thoái trong giá hàng hóa quốc tế dẫn đến tăng trưởng kinh tế
thấp hơn trong 35 doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa tiểu vùng Sahara

Phần còn lại của bài báo được tổ chức như sau.
Phần 2 trình bày các nghiên cứu tài liệu.
Phần 3 tập trung vào vấn đề đo lường của các cú sốc giá cả hàng hóa và
mô tả một số sự kiện.
The rest of the paper is organized as follows.
Phần 4 thảo luận về các mô hình kinh tế
Section 2 presents the literature review.
Phần 5 trình bày các phân tích thực nghiệm và kết quả.
Section 3 focuses on measurement issues of commodity price shocks and Phần 6 cung cấp kết luận nhận xét, chỉ ra những hệ quả quan trọng từ các
describes some stylized facts.
phát hiện này.
Section 4 discusses the econometric model while
Section 5 presents the empirical analysis and the results.
Section 6 provides concluding remarks, pointing out key policy 3. TỪ NHỮNG CÚ SHOCK GIÁ HÀNG HOÁ ĐẾN SỰ BẤT ỔN
TÀI CHÍNH
implications of the findings.


3.1. A Brief Review of Related Literature
The literature analyzing the impact of commodity price shocks on
financial fragility is rather limited. This section therefore focuses on
studies related to the two main components of our empirical question,
namely
(i)
the effects of commodity price shocks;
(ii)
the determinants of financial fragility and banking crises.
Commodity price slumps tend to undermine economic performance.


From their seminal papers, Deaton and Miller (1995), and Deaton (1999)
show that downturns in international commodity prices led to lower
economic growth in 35 Sub-Saharan African commodity exporters. In
the same vein, Dehn (2000) found that per capita growth rates were
significantly reduced by large negative commodity price shocks in 113
developing countries over the period 1957-1997. The author also
highlighted that ex-ante price uncertainty does not affect growth. What
matters for growth is the actual realization of negative shocks, not the
prospect of volatile world prices. Bruckner and Ciccone (2010) found
that not only were commodity price shocks negatively associated with
GDP growth, but they also increased the probability of civil war outbreak
in 39 Sub-Saharan African countries during the period 1980-2006.
Villafuerte and Lopez-Murphy (2010) show that countries’ responses to
the 2009 decline in commodity prices illustrated pro-cyclical fiscal
policies, with most of the fiscal adjustment coming from reduction in
current expenditures.

Macroeconomic factors matter for financial fragility. Somewhat closer to

our empirical questions, Babihuga (2007) highlighted that
macroeconomic factors and banking supervision and regulation matter
for financial stability. Using a sample of 96 countries over the period
1998-2005, the author showed that economic growth is negatively
correlated with capital adequacy and non-performing loans (NPLs),
while higher inflation, unemployment, and real interest rates as well as
real exchange rate appreciation reduce bank profits and worsen asset
quality. Financial development and better quality of regulatory
frameworks and supervision tend to dampen these adverse effects. De
Bock and Demyanets (2012) also analyzed the determinants of nonperforming loans in 25 emerging countries during 1996-2010. The
authors found that GDP growth rates, exchange rates, portfolio and bank
flows, and changes in terms of trade are the main determinants of nonperforming loans. In 2014, Hà, Triep and Diep studied the macrodeterminants of non-performing loans and stress testing of 8 Vietnamese

Châu phi. Trong bối cảnh đó, Dehn (2000) nhận thấy rằng bình quân đầu
tốc độ tăng trưởng đã giảm đáng kể bởi các cú sốc âm lớn tại 113 quốc
gia đang phát triển trong giai đoạn 1957-1997. Tác giả cũng nhấn mạnh
rằng giá dự kiến chắc chắn không ảnh hưởng đến tăng trưởng. Điều quan
trọng cho sự tăng trưởng là diễn biến thực tế của những cú sốc âm, chứ
không phải là viễn cảnh biến động giá thế giới. Bruckner và Ciccone
(2010) thấy rằng không chỉ là cú sốc giá cả hàng hóa liên quan đến với
tốc độ tăng trưởng GDP, mà chúng cũng làm tăng khả năng bùng nổ
cuộc nội chiến ở 39 quốc gia tiểu cùng Sahara Châu phi trong thời kỳ
1980-2006. Villafuerte và Lopez-Murphy (2010) cho thấy rằng phản ứng
của các quốc gia với sự suy giảm giá hàng hóa năm 2009 minh họa các
chính sách tài khóa đồng chu kì, với hầu hết các điều chỉnh tài khóa đến
từ việc giảm chi tiêu hiện tại.
Các yếu tố kinh tế vĩ mô là nguyên nhân của sự bất ổn tài chính. Hơi gần
hơn với câu hỏi thực nghiệm của chúng tôi, Babihuga (2007) nhấn mạnh
rằng các yếu tố kinh tế vĩ mô, giám sát ngân hàng và sự điều tiết là cốt
yếu sự ổn định tài chính. Sử dụng một mẫu của 96 quốc gia trong giai

đoạn 1998-2005, các tác giả cho thấy tăng trưởng kinh tế là tương quan
âm với an toàn vốn và nợ xấu (NPL), trong khi lạm phát cao, thất nghiệp
và lãi suất thực cũng như tỷ giá hối đoái thực cao làm giảm lợi nhuận của
ngân hàng và xấu đi chất lượng tài sản. Phát triển tài chính , khung quản
lý và giám sát tốt hơn làm giảm các tác động bất lợi. De Bock và
Demyanets (2012) cũng phân tích các yếu tố quyết định các khoản nợ
xấu tại 25 quốc gia mới nổi trong thời gian 1996-2010. Các tác giả thấy
rằng tỷ lệ tăng trưởng GDP, tỷ giá, danh mục đầu tư và dòng vốn, và
những thay đổi về mặt thương mại là những yếu tố quyết định chính của
nợ xấu. Trong năm 2014, Hà, Triep và Diệp đã nghiên cứu các yếu tố vĩ
mô của các khoản nợ xấu và kiểm tra rủi ro tín dụng 8 ngân hàng thương
mại Việt Nam sử dụng cách tiếp cận VAR(value at risk). Họ nhận thấy
rằng tốc độ tăng trưởng GDP là tương quan âm với nợ xấu, trong khi lãi
suất cho vay là tương quan dương. Ngược lại, không tìm những thống kê
đáng kể về tác động của lạm phát và tỷ giá lên nợ xấu


commercial banks’ credit risk using a value-at-risk (VaR) approach.
They found that GDP growth rate is negatively related to nonperforming
loans while lending rate is positively related to them. In contrast,
inflation and exchange rate were not found to have a statistically
significant impact on nonperforming loans.

Nghiên cứu trước đây tập trung vào vai trò của các yếu tố kinh tế vĩ mô
trong sự xuất hiện của các cuộc khủng hoảng ngân hàng. Trên một mẫu
của 105 quốc gia đang phát triển trong 1975-1992, Eichengreen và Rose
(1998) nhận thấy rằng cuộc khủng hoảng ngân hàng tại các thị trường
mới nổi được gắn liền với các tác động xấu từ bên ngoài. DemirgüçKunt và Detragiache (2000) cho thấy cuộc khủng hoảng ngân hàng có
tương quan nghịch với tốc độ tăng trưởng GDP và GDP thực bình quân
đầu người, trong khi lãi suất thực tế, lạm phát, M2 / dự trữ, và tăng

trưởng tín dụng tương quan cùng chiều với sự xuất hiện của các khủng
hoảng ngân hàng. Các tác giả không phân biệt những cú sốc dương hay
âm và thấy rằng các thuật ngữ đó của cú sốc thương mại không phải là
một yếu tố quyết định quan trọng của cuộc khủng hoảng ngân hàng.
Trong các nghiên cứu tiếp theo, Demirgüç- Kunt và Detragiache (2005)
đã xác nhận kết quả trước đó của họ

Earlier studies focused on the role of macroeconomic factors in the
occurrence of banking crises. On a sample of 105 developing countries
over 1975-1992, Eichengreen and Rose (1998) found that banking crises
in emerging markets are strongly associated with adverse external
conditions. Demirgüç-Kunt and Detragiache (2000) showed that banking
crisis are negatively associated with GDP growth and real GDP per
capita, while real interest rate, inflation, M2/reserves, and credit growth
positively affect the occurrence of banking crises.The authors did not
distinguish positive and negative shocks and found that terms of trade
shocks were not a significant determinant of banking crises. In a follow- Kaminsky và Reinhart (1999) được sử dụng một cách tiếp cận tín hiệu
up study, Demirgüç- Kunt and Detragiache (2005) confirmed their trên một mẫu của 20 quốc gia mới nổi và công nghiệp trong giai đoạn
previous results
1970-1995 cho thấy tốc độ tăng trưởng tiền tệ, lãi suất (cả lãi suất huy
động cho vay và), xuất khẩu suy giảm và tăng tỷ giá hối đoái thực tế là
tín hiệu hàng đầu của một cuộc khủng hoảng ngân hàng. Sử dụng một
mẫu của 100 quốc gia trong giai đoạn 1994-2004, Čihák và Schaeck
(2007) nhấn mạnh rằng đầu tư vốn cao vào tài sản đã điều chỉnh rủi ro
Kaminsky and Reinhart(1999) used a signal approach on a sample of 20 và lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu cũng như GDP bình quân đầu người
industrial and emerging countries during the period 1970-95 to show that cao hơn làm giảm xác suất xảy ra khủng hoảng ngân hàng có hệ thống.
monetary growth, interest rates (both lending and deposit rates),export Ngược lại, sự gia tăng các khoản nợ xấu trên tổng dư nợ và tỷ lệ M2 / dự
downturn and the real exchange rate appreciation are leading signals of a trữ dẫn đến tình trạng hỗn loạn ngân hàng.
banking crisis. Using a sample of 100 countries over the period 19942004, Čihák and Schaeck (2007) highlighted that high capital to risk- Tất cả các nghiên cứu nói trên không tập trung vào những quốc gia giàu
weighted assets and return on equity as well as higher GDP per capita tài nguyên. Hơn nữa, họ không liên kết một cách rõ ràng suy giảm giá

reduce the probability of occurrence of systemic banking crisis. In hàng hóa với sự bất ổn tài chính. Một số các nghiên cứu này chỉ tập trung
contrast,an increase in non-performing loans to total loans and the ratio các yếu tố kinh tế vĩ mô chủ yêu của sự bất ổn ngành ngân hàng, bao
of M2/reserve is conductiveto banking turmoil.
gồm các cú sốc thương mại. Những nghiên cứu này không thực sự chỉ ra
những cú sốc giá hàng hóa xuất khẩu bởi vì thương mại bao gồm giá cả
nhập khẩu và xuất khẩu. Hơn nữa, thương mại bao gồm cả cả sản xuất và
All the aforementioned studies do not focus on resource rich-countries. hàng hóa. Trong khi một số nghiên cứu trên khám phá những hậu quả
Moreover, they do not explicitly link commodity price downturns to của những cú sốc giá cả hàng hóa, họ không tập trung vào lĩnh vực tài


financial sector fragility. A number of these studies only focus on the
macroeconomics determinants of banking fragility, including the terms
of trade shocks. Such studies do not really capture commodity exports
price shocks since a terms of trade index takes into account both import
and export prices. Furthermore, the terms of trade index includes both
manufacturing and commodity goods. While some of papers above
explore the consequences of commodity price shocks, they do not focus
on the financial sector. This paper fills this gap by focusing on the effects
of commodity price downturns on financial sector fragility. The impact
of commodity price shocks on the financial sector could be either directly
or through a number of transmission channels. The next section reviews
several of these transmission channels.
3.2. Transmission Channels
Economic growth and unemployment. Economic growth and
unemployment tend to transmit commodity price shocks. A number of
papers have found that there is a negative relationship between
commodity price shocks and GDP growth (Deaton and Miller 1995,
Deaton 1999, Brückner and Antonio Ciccone 2010, Dehn 2000). This is
particularly the case for negative price shocks. Dehn (2000) shows that
growth rates are significantly reduced by large negative commodity price

shocks. For instance, economic activity dropped by 6 percent in
Venezuela during the 1998 oil price decline.2 Demirguc-Kunt and
Detragiache (2000), Kaminsky and Reinhart (1999) also showed that
higher GDP growth is negatively correlated with the occurrence of
banking crises. Blanchard and Gali (2010) found that negative
commodity price shocks result in a large rise of the unemployment rate.
Makri, Tsagkanos and Bellas, (2014) found that a higher unemployment
rate could increase non-performing loans, thereby jeopardizing the health
of the banking sector. For instance, unemployment rate increased from
27.7 to 29.3 percent in Algeria during the 1998 oil price decline.
Savings and deposits withdrawals. A fall in export revenues following
a price decline may lead to a significant withdrawal of deposits from
domestic banks, jeopardizing financial stability. Cherif and Hasanov
(2012) show that if productivity of the tradable sector is low, oil

chính. Bài viết này lấp đầy khoảng trống này bằng cách tập trung vào
những ảnh hưởng của suy thoái giá hàng hóa lên sự bất ổn tài chính Các
tác động của các cú sốc giá cả hàng hóa trên lĩnh vực tài chính có thể là
trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua một số kênh truyền. Phần tiếp theo sẽ
xem xét một số các kênh truyền dẫn.

3.2. Một số kênh truyền dẫn
Tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp. Tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ thất
nghiệp có xu hướng để truyền tải những cú sốc giá cả hàng hóa. Một số
nghiên cứu đã phát hiện ra rằng có một mối tương quan nghịch giữa các
cú sốc giá cả hàng hóa và tăng trưởng GDP (Deaton và Miller 1995,
Deaton 1999, Bruckner và Antonio Ciccone 2010, Dehn 2000). Điều này
đặc biệt đúng đối với các cú sốc giá âm. Dehn (2000) cho thấy rằng tốc
độ tăng trưởng đang giảm đáng kể bởi các cú sốc âm lớn. Ví dụ, hoạt
động kinh tế giảm 6 % tại Venezuela trong suốt thời kì giá dầu suy giảm

năm 1998. Demirguc-Kunt và Detragiache (2000), Kaminsky và
Reinhart (1999) cũng cho thấy tăng trưởng GDP là tương quan nghịch
với sự xuất hiện của các cuộc khủng hoảng ngân hàng. Blanchard và Gali
(2010) thấy rằng cú sốc âm dẫn đến một sự gia tăng lớn về tỷ lệ thất
nghiệp. Makri, Tsaganos và Bella, (2014) cho thấy tỷ lệ thất nghiệp cao
hơn có thể làm tăng các khoản nợ xấu, do đó gây nguy hiểm cho sức
khỏe của ngành ngân hàng. Ví dụ, tỷ lệ thất nghiệp tăng 27,7-29,3 % tại
Algeria trong sự suy giảm giá dầu năm 1998
Tiết kiệm và tiền gửi. Một sự sụt giảm trong doanh thu xuất khẩu theo
sau sự giảm giá có thể dẫn đến việc một lượng tiền gửi khá lớn bị rút
khỏi các ngân hàng trong nước, gây nguy hiểm cho sự ổn định tài chính.
Cherif và Hasanov (2012) cho thấy rằng nếu năng lực của khu vực
thương mại ở mức thấp, các nhà sản xuất dầu sẽ tích lũy tiết kiệm và đầu
tư tương đối ít để bảo vệ chống lại biến động doanh thu quá mức. Bems
và Carvalho (2011) thêm rằng lời giải thích chính là xuất khẩu hàng hóa
xem như tăng giá chỉ là tạm thời, và nên xây dựng khoản tiết kiệm dự
phòng để giải quyết sự không chắc chắn trong tương lai này. Nếu có sự
cố bất ngờ xảy ra ở các NH trong nước, điều này có thể đe dọa ngành tài
chính trong trường hợp của những cú sốc âm có thể dẫn đến việc rút tiền


producers would optimally accumulate high levels of savings and invest
relatively little in order to protect against excessive revenue volatility.
Bems and Carvalho (2011) add that the main explanation is that
commodity exporters consider price increases as temporary, and should
then build up precautionary savings to address this future uncertainty. If
the windfalls are saved in domestic banks, this could threaten the
financial sector in case of negative shocks that could lead to sizeable
withdrawals. For instance, savings were down from 42.6 to 27 percent of
GDP between 1997 and 1998 in Kuwait due to the 1998 price bust, and

from 56.6 to 51.9 percent of GDP between 2013 and 2014 because of the
recent price decline.
Fiscal performance. It is well-known that changes in commodity prices
translate into shifts in fiscal performance (Alesina and others 2008). In
other words, fiscal performance in commodity exporting countries
depends significantly on commodity prices. A decline in international
commodity prices reduces tax revenue and worsens the terms of trade. A
negative price shock translates directly into lower revenues, and if there
is no fiscal adjustment (e.g., through cutting of non-essential
expenditures), it increases fiscal deficits. However, a fiscal adjustment
forced by a commodity bust can reduce the incomes of companies that
depend on government contracts, and their ability to service their loans,
and thereby weakening banks’ balance sheets. Governments with weak
fiscal space often implement disorderly fiscal adjustments through the
accumulation of payment arrears to suppliers and contractors. The
combination of loss of tax revenues and competiveness as well as fiscal
deficits poses a threat to the financial sector. For instance, government
revenue dropped from 40.4 to 34.2 percent of GDP in Angola between
2013. As a consequence, the overall fiscal balance worsened from a
surplus of 0.3 percent of GDP in 2013 to a deficit of 4.8 percent of GDP
in 2014.
Exchange rate and foreign currency debt. As outlined above, a
significant decline in commodity price could result in increasing fiscal
deficits and a decline of international reserves. In such a vulnerable fiscal
position the government as well as domestic banks may be tempted to
borrow in international markets, increasing foreign currency-

khá lớn. Ví dụ, tiết kiệm giảm 42,6% xuống 27 % của GDP từ năm 1997
đến năm 1998 tại Kuwait do sự phá giá năm 1998, và 56,6% xuống 51,9
% của GDP từ năm 2013 và năm 2014 do sự suy giảm giá gần đây.

Năng lực tài khóa. Nó được biết đến những thay đổi trong giá cả hàng
hóa đưa đến thay đổi trong hoạt động tài khóa (Alesina và những người
khác 2008). Nói cách khác, năng lực tài khóa ở các nước xuất khẩu hàng
hóa phụ thuộc đáng kể vào giá hàng hóa. Một sự suy giảm trong giá hàng
hóa quốc tế làm doanh từ thu thuế và thương mại tồi tệ hơn. Một cú sốc
giá âm thể hiện trực tiếp thông qua thu nhập thấp hơn, và nếu không có
sự điều chỉnh chính sách tài khóa (ví dụ, thông qua việc cắt giảm các
khoản chi không cần thiết), nó làm tăng thâm hụt ngân sách. Tuy nhiên,
một điều chỉnh tài khóa gây ra bởi một sự suy thoái hàng hóa có thể làm
giảm thu nhập của công ty phụ thuộc vào hợp đồng chính phủ, và khả
năng đáp ứng các khoản vay, và do đó làm suy yếu bảng cân đối của các
ngân hàng. Chính phủ với không gian tài khóa yếu kém thường xuyên
thực hiện các điều chỉnh tài khóa một cách vô trật tự thông qua việc tích
lũy nợ phải trả cho nhà cung cấp và nhà thầu. Sự kết hợp của thất thu
thuế và khả năng cạnh tranh cũng như thâm hụt tài chính đặt ra một mối
đe dọa cho khu vực tài chính. Ví dụ, thu ngân sách giảm 40,4% còn 34,2
% của GDP trong Angola giữa năm 2013. Kết quả là, các cân đối tài
khóa tổng thể trở nên tồi tệ , từ thặng dư 0,3 % GDP trong năm 2013
thâm hụt 4,8 % GDP trong năm 2014.
Tỷ giá hối đoái và nợ ngoại tệ. Như đã nêu ở trên, một sự suy giảm
đáng kể trong giá hàng hóa có thể dẫn đến tăng thâm hụt tài khóa và sự
suy giảm của dự trữ ngoại hối. Nếu ngân sách dễ bị tổn thương , các
chính phủ cũng như các ngân hàng trong nước có thể bị cám dỗ để vay
tại các thị trường quốc tế, tăng các khoản nợ ngoại tệ.Các yếu điểm cũng
sẽ tăng khi các đại lý trong nước có mức độ giao dịch ngoại tệ cao, ví dụ,
trong các hình thức nợ. Nếu các ngân hàng trong nước có số lượng lớn
các khoản nợ ngoại tệ không được bảo vệ, một sự mất giá đột ngột do sự
lao dốc giá hàng hóa có thể gây ra sự sụt giảm mạnh giá trị thực của các
ngân hàng, do đó làm tăng yếu điểm của khu vực ngân hàng trong nước.
Ví dụ, nợ bằng ngoại tệ tăng 23,3% lên 33,7 % so với GDP giữa năm

2013 và 2014 tại Ghana trong của sự suy giảm gần đây của giá dầu.


denominated debt. Vulnerabilities also increase when domestic agents
have high levels of foreign currency exposures, e.g., in the form of debt.
If domestic banks have large amounts of unhedged foreign currency debt,
a sudden depreciation due to a commodity price bust may cause a sharp
fall in the net worth of banks, thereby increasing the vulnerability of the
domestic banking sector. For instance, debt in foreign currency increased
from 23.3 to 33.7 percent over GDP between 2013 and 2014 in Ghana
during of the recent decline in oil prices.
4. THE IDENTIFICATION STRATEGY
In order to estimate the effect of commodity price shocks on financial
sector fragility, we specify two econometric models. This is largely
because of the nature of our data which are binary variables for banking
crisis data and continuous variables for financial soundness indicators.
We use the panel fixed effects method to estimate the effect of
commodity price busts on financial soundness indicators. More
specifically, we estimate the following equation:

4. CHIẾN LƯỢC XÁC ĐỊNH
Để ước tính tác động của các cú sốc giá cả hàng hóa lên sự bất ổn của
lĩnh vực tài chính, chúng tôi xác định hai mô hình kinh tế lượng. Điều
này phần lớn là vì bản chất của dữ liệu của chúng tôi là các biến nhị phân
cho các dữ liệu cuộc khủng hoảng ngân hàng và các biến liên tục cho các
chỉ số an toàn tài chính. Chúng tôi sử dụng phương pháp mảng cố định
đa nhân tố để ước tính ảnh hưởng của sự suy thoái giá hàng hóa lên các
chỉ số an toàn tài chính. Cụ thể hơn, chúng tôi ước tính các phương trình
sau đây:


Trong đó FSIi,t là chỉ số lành mạnh tài chính và PriceShocksi,t mô tả cho
các cú sốc giá cả hàng hóa. Xmi,t-1 biểu thị các biến kiểm soát lãi suất tại
một thời điểm, và it đại diện cho sai số bao gồm nhân tố cố định đặc thù
quốc gia và một thuật ngữ đặc thù .Mỗi nước trong mẫu khảo sát có đặc
điểm kinh tế, chính trị và thể chế riêng của mình mà chúng có mối tương
quan với các biến giải thích, mô hình mảng đa nhân tố cố định là thích
hợp để đánh giá tác động của các cú sốc giá cả hàng hóa lên các biến số
lành mạnh tài chính. Những kỹ thuật này cho phép chúng ta kiểm soát sự
hiện diện của các ảnh hưởng mang tính đặc thù quốc gia và ngăn chặn
các ước lượng chệch.
Phân tích khủng hoảng ngân hàng được dựa trên một biến phụ thuộc là
một biến giả lấy giá trị của 1 nếu có một cuộc khủng hoảng ngân hàng và
0 nếu ngược lại. Việc xác định các tác động nhân quả của cú sốc giá cả
hàng hóa trên các cuộc khủng hoảng ngân hàng là khó khăn. Nhiễu, sai
số đo lường, lựa chọn lệch, và các lỗi ngẫu nhiên là những vấn đề chính.
Mô hình xác suất thống kê là một trong những mô hình được sử dụng
rộng rãi nhất trong nhóm các mô hình tuyến tính tổng quát trong trường
hợp của các biến nhị phân phục thuộc. Chúng tôi ước tính các phương
trình sau đây:

Where FSIi,t is the financial soundness indicator and PriceShocksi,t
represents commodity price shocks. Xmi,t–1 denotes control variables of
interest at time, and it stands for the error term including a countryspecific fixed effect and an idiosyncratic term. Given that each country in
the sample has its own economic, political, and institutional
characteristics that are likely to be correlated with the explanatory
variables, panel fixed-effects models are more appropriate to estimate the
effects of commodity price shocks on financial soundness variables.
These techniques allow us to control for the presence of country-specific
effects and prevent biased estimates
Banking crisis analysis is based on a dependent variable that is a dummy

taking the value of 1 if there is a banking crisis and 0 otherwise. The
identification of the causal effect of commodity price shocks on banking
crises is difficult. Confounding, measurement errors, selection bias, and Mô hình thống kê các nhân tố cố định có điều kiện là phù hợp hơn cho
random errors are the main issues. Probit and logit models are among the việc phân tích cuộc khủng hoảng ngân hàng. Bởi vì mô hình xác suất


most widely used members of the family of generalized linear models in không cho phép kiểm soát các tác nhân cố định, mà chúng rất quan trọng
the case of binary dependent variables. We estimate the following cho phân tích của chúng tôi như đã giải thích ở trên, bài viết sẽ dựa trên
equations:
mô hình thống kê . Mô hình không điều kiện sử dụng bình phương tối
thiểu biến ước tính giả (như trong mảng tuyến tính) để ước lượng phương
trình (2). Điều này có thể dẫn đến ước lượng không nhất quán của y
trong mô hình thống kê vì chúng ta có một biến phụ thuộc giả. Vấn đề đó
The conditional fixed effects logit model is more suitable for the banking đã được biết đến với thuật ngữ "vấn đề đối số ngẫu nhiên". Tuy nhiên,
crisis analysis. Because probit models do not allow controlling for fixed Andersen (1970) và Chamberlain (1980) cung cấp một ước lượng các
effects, which are important for our analysis as explained above, the tham số cấu trúc mà nó nhất quán ngay cả khi có sự hiện hiện của các đối
paper will rely on logit model. Unconditional models use the least số ngẫu nhiên . This estimator is obtained by conditioning the likelihood
squares dummy variable estimator (as in a linear panel) to estimate function on minimal sufficient statistics for the incidental parameters and
equation (2). This could lead to inconsistent estimation of y in the logit then maximizing the conditional likelihood function. This is the
model since we have a dummy dependent variable. Such issue is known conditional fixed effects estimator, which is used in this paper. The
on the terms “incidental parameters problem”. However, Andersen conditional fixed effects logit model focuses on the variation in the data
(1970) and Chamberlain (1980) offer an estimator of the structural observed within countries. To employ the conditional fixed effects logit
parameters that is consistent even in the presence of incidental model, two conditions should be met:
parameters. This estimator is obtained by conditioning the likelihood
The dependent variable must be measured on at least two
function on minimal sufficient statistics for the incidental parameters and •
then maximizing the conditional likelihood function. This is the occasions for each country.
conditional fixed effects estimator, which is used in this paper. The
The independent variables must change across time for some
conditional fixed effects logit model focuses on the variation in the data •

observed within countries. To employ the conditional fixed effects logit substantial portion of the countries.
model, two conditions should be met:
Both these two conditions are met in the present paper since our study

The dependent variable must be measured on at least two period is 1997-2013 and our control variables are not constant over time.
Fixed effects estimates use only within- individual differences,
occasions for each country.
essentially discarding any information about differences between

The independent variables must change across time for some individuals.
substantial portion of the countries.
Một số biến giải thích có trong 2 phương trình ở trên . Theo các tài liệu
Both these two conditions are met in the present paper since our study trước đây về các yếu tố quyết định chính của các cuộc khủng hoảng ngân
period is 1997-2013 and our control variables are not constant over time. hàng, chúng ta xem xét các biến đại diện cho chính sách tiền tệ , chính
Fixed effects estimates use only within- individual differences, sách tài chính , các mối lo ngại về sự bền vững và ổn định chính sách
essentially discarding any information about differences between kinh tế vĩ mô, và vị thế của ngành tài chính. Cụ thể hơn , chúng tôi bao
hàm sự thay đổi trong tỷ giá, lãi suất thực, tỷ lệ lạm phát , M2 thông qua
individuals.
dự trữ ngoại hối , tăng trưởng tín dụng , GDP thực bình quân đầu người,


A number of explanatory variables are included in equations (1) and (2).
Following previous literature on the main determinants of banking crises,
we consider the variables that proxy for monetary policy, fiscal policy,
macroeconomic policy sustainability and stabilization concerns, and
financial sector position. More specifically, we include a change in the
exchange rate, real interest rate, and inflation rate, M2 over international
reserves, credit growth, real GDP per capita, and public debt. National
currency overvaluation could lead to the vulnerability of the banking
sector since a loss of competitiveness might lead to business failures, and

subsequently a decline in the quality of loans. Rising interest rates reduce
the value of bonds held by a bank, and force the bank to pay relatively
more on its deposits than it receives on its assets, while high rates of
credit expansion may finance an asset price bubble that may cause a
crisis when it bursts.

và nợ công. Định giá quá cao đồng tiền quốc gia có thể dẫn đến các lỗ
hổng trong khu vực ngân hàng khi mất khả năng cạnh tranh có thể sẽ
dẫn đến thất bại kinh doanh , và sau đó là một sự suy giảm về chất lượng
của các khoản vay . Lãi suất tăng làm giảm giá trị của trái phiếu được
nắm giữ bởi một ngân hàng , và buộc ngân hàng phải trả nhiều hơn trên
các khoản nợ của mình hơn là nhận được từ tài sản của mình , trong khi
tăng trưởng tín dụng nóng có thể tài trợ cho một bong bóng giá tài sản có
thể gây ra một cuộc khủng hoảng khi nó bùng nổ.

Liên quan đến dự trữ ngoại hối / M2 , sự không chắc chắn về môi trường
kinh tế và tài chính có thể gây ra một luồng thoái vốn đáng kể, và do đó
gây nguy hiểm cho khu vực tài chính . Cuối cùng , chúng tôi bao hàm cả
nợ công và lạm phát để kiểm soát những mối lo ngại về sự bền vững và
ổn định chính sách kinh tế vĩ mô. Nợ công cao báo hiệu điều kiện tài
chính thắt chặt hơn và làm giảm không gian tài khóa. Các nước mắc nợ
có thể bị đá ra khỏi thị trường tài chính quốc tế vì lịch sử gần đây của
việc nợ cao, do đó không có nguồn tín dụng từ bên ngoài để đối mặt với
Regarding M2/external reserves, the uncertainty about the economic and các vấn đề đang ảnh hưởng lên đến lĩnh vực ngân hàng . Lạm phát cao có
financial environment could trigger a significant capital outflows, and thể ảnh hưởng đến khả năng của chính phủ để điều chỉnh chu kỳ kinh tế
therefore jeopardize the financial sector. Finally, we include public debt và tài chính .
and inflation to control for macroeconomic policy sustainability and
stabilization concerns. High public debt signals tighter financial Cho chiến lược xác định các kênh truyền dẫn, chúng tôi áp dụng một
conditions and reduces fiscal space. Indebted countries could be shut out cách tiếp cận gồm hai bước độc lập . Đầu tiên , chúng tôi ước lượng tác
of international financial markets because of recent history of default or động của các cú sốc giá cả hàng hóa trên mỗi kênh truyền dẫn . Điều này

high debt, therefore no external credit is available to face problems giúp chúng tôi xác định ra kênh truyền. Thứ hai, chúng tôi ước lượng ảnh
affecting the banking sector. High inflation can affect a government’s hưởng của mỗi kênh truyền lên các chỉ số lành mạnh tài chính .
ability to adjust to the economic and financial cycle.
Cho rằng ảnh hưởng của mỗi kênh truyền đến lĩnh vực tài chính là khác
nhau , bước thứ hai này làm rõ biến truyễn dẫn nào là nguyên nhân của
As for the identification strategy for the transmission channels, we adopt một chỉ số lành mạnh mạnh tài chính tương ứng.
an approach of two independent steps. First, we estimate the effect of
commodity price shocks on each transmission channel. This allows us to 5. DỮ LIỆU , ĐO LƯỜNG VÀ CÁC KẾT QUẢ
state whether the outlined channels hold. Second, we estimate the effects
5.1. DỮ LIỆU
of each transmission channel on the financial soundness indicators.
Chúng tôi xây dựng một tập dữ liệu toàn diện của 71 quốc gia từ 1997Given that each transmission channel affects the financial sector 2013. Cơ sở dữ liệu được tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm
differently, this second step clarifies whether a given transmission International Financial Statistics của IMF (IFS) cho chỉ số giá cả hàng
variable matters for a given financial soundness indicator.
hóa, và World Economic Outlook (WEO) cho các biến điều khiển khác


5. DATA, MEASUREMENT ISSUES AND STYLIZED FACTS
5.1. Data
We construct a comprehensive dataset of 71 countries covering the
period 1997-2013. The database is compiled from various sources,
including the IMF International Financial Statistics (IFS) for
commodity price indices, and the World Economic Outlook (WEO)
for various control variables. The United Nation’s Comtrade dataset
serves as a source for data on export and import by commodity and
6
country during the base year (2005). The World Bank’s World
Development Indicators database and various internal IMF datasets
helped in providing additional control variables for our robustness
checks. To be included in the sample, each country and commodity

should meet the following conditions: (i) the country should be a net
exporter of the given commodity during the base year (2005); and (ii)
the commodity must represent at least 10 percent of the country’s total
exports during the base year. The aim of the latter threshold is to
include a maximum of countries. Moreover, we focus on nonrenewable resources including hydrocarbons (oil and gas), and
mineral raw materials. Apart from these criteria, only data availability
restricted our sample (see Table A1 in the appendix for a list of
countries and commodities).
The availability of financial soundness indicators only during the
period from 1997 to 2013 constrains our estimation period. Data on
financial sector fragility are from the financial soundness indicators of
FinStat (IMF and Bankscope), and systemic banking crisis data are
from Leaven and Valencia (2013). Laeven and Valencia (2013) define
banking crisis by two types of events: (i) there are significant signs of
financial distress in the banking system (as indicated by significant
bank runs, losses in the banking system, and/or bank liquidations); and
(ii) there are significant banking policy intervention measures in
response to significant losses in the banking system. They consider the
first year that both criteria are met to be the year when the crisis
became systemic.

nhau. Cơ sở Thống kê dữ liệu Thương mại tiêu dùng của Liên Hợp Quốc
đóng vai trò như một nguồn dữ liệu về xuất khẩu, nhập khẩu của hàng
hóa và dữ liệu về quốc gia trong năm cơ sở (2005) .Cơ sở dữ liệu về các
chỉ số Phát triển Thế giới của WB và nhiều bộ dữ liệu của IMF nội bộ
Ngân hàng Thế giới đã giúp trong việc cung cấp thêm các biến kiểm soát
bổ sung cho các kiểm nghiệm tính bền vững. Để được đưa vào mẫu, mỗi
quốc gia và hàng hóa phải đáp ứng các điều kiện sau đây: (i) quốc gia
phải là một nước xuất khẩu ròng hàng hóa nhất định trong năm cơ sở
(năm 2005); và (ii) các mặt hàng phải đại diện cho ít nhất 10 phần trăm

của tổng kim ngạch xuất khẩu của đất nước trong năm cơ sở. Mục đích
của ngưỡng trên là để bao gồm một số lượng tối đa các nước. Hơn nữa,
chúng tôi tập trung vào các nguồn tài nguyên không tái tạo bao gồm các
hydrocarbon (dầu khí), và nguyên liệu khoáng sản. Ngoài những tiêu chí
này, chỉ có sự sẵn có của dữ liệu hạn chế mẫu của chúng tôi (xem Bảng
A1 trong phụ lục cho một danh sách các nước và hàng hóa).
Sự hiện diện của các chỉ số lành mạnh tài chính chỉ trong khoảng thời
gian 1997 đến 2013 ràng buộc khoảng ước lượng của chúng tôi . Dữ liệu
về sự bất ổn trong lĩnh vực tài chính là từ các chỉ số lành mạnh tài chính
của FinStat ( IMF và Bankscope ) , và dữ liệu khủng hoảng ngân hàng có
hệ thống từ Leaven and Valencia (2013 ) . Laeven và Valencia (2013 )
xác định cuộc khủng hoảng ngân hàng bằng hai loại sự kiện : (i ) có
những dấu hiệu quan trọng của khủng hoảng tài chính trong hệ thống
ngân hàng ( như được chỉ ra bởi phần lớn ngân hàng hoạt động , phá sản
trong hệ thống ngân hàng , và / hoặc thanh khoản của ngân hàng) ; và
( ii ) có những biện pháp can thiệp chính sách ngân hàng đáng kể để phản
hồi với thiệt hại tương đối lớn trong hệ thống ngân hàng. Họ xem xét
năm đầu tiên mà cả hai tiêu chuẩn được đáp ứng là năm mà cuộc khủng
hoảng đã trở thành hệ thống.
Do hạn chế về dữ liệu trên một số chỉ tiêu, chúng tôi sử dụng bảy chỉ số
ổn định tài chính: (i) Nợ xấu (NPL); (ii) dự phòng nợ xấu: (iii) lợi nhuận
trên tài sản: (iv) lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu: (v) tỷ lệ chi phí thu nhập;
(vi) Tài sản thanh khoản cho các khoản nợ và phải trả ngắn hạn; và (vii)
tỷ lệ vốn pháp định/điều lệ so với tài sản điều chỉnh theo trọng số rủi ro.
IMF (2011) nhấn mạnh rằng nợ xấu ngân hàng trên tổng dư nợ và tỷ lệ


Due to data limitations on some indicators, we use seven financial
stability indicators: (i) bank non-performing loans (NPLs); (ii)
provisions to NPLs: (iii) return on assets: (iv) return on equity: (v)

cost to income ratio; (vi) liquid assets to deposits and short term
funding; and (vii) regulatory capital to risk-weighted assets.9 IMF
(2011) stressed that banks’ non- performing loans to total loans and
the ratio of liquid assets to short term liabilities are the most important
indicators used by policy makers to monitor the stability of the
financial sector. Since ex ante it is difficult to establish which
indicators matter more for financial fragility, we also generate a
composite index using the aforementioned indicators. To this end, we
first normalize all these indicators between 0 and 1 so that high values
correspond to a sound financial sector and then we compute the mean
of these indicators. It is computed so that high values represent the
aggregate index of the stability of the financial sector.

tài sản thanh khoản cho các khoản nợ ngắn hạn là những chỉ số quan
trọng nhất được sử dụng bởi các nhà làm chính sách giám sát sự ổn định
của khu vực tài chính. Bởi vì là dự tính, rất khó để thiết lập các chỉ số
nào quan trọng hơn cho sự bất ổn tài chính, chúng tôi cũng tạo ra một chỉ
số tổng hợp bằng cách sử dụng các chỉ số nói trên. Để làm điều này , đầu
tiên chúng ta bình thường hóa tất cả các chỉ số giữa 0 và 1 để giá trị cao
tương ứng với khu vực tài chính vững chắc và sau đó chúng ta tính giá trị
trung bình của chỉ số này. Nó được tính toán sao cho giá trị cao đại diện
cho chỉ số tổng hợp của sự ổn định của khu vực tài chính

Dữ liệu từ các nguồn bổ sung đã được biên soạn các phân tích xa hơn của
chúng tôi. Các kênh truyền dẫn như tăng trưởng GDP, thu ngân sách, cán
cân tổng thể, tiết kiệm và nợ bằng ngoại tệ từ cơ sở dữ liệu của WEO và
tỷ lệ thất nghiệp là từ cơ sở dữ liệu from International Labor
Organization .Chỉ số quản trị từ World Bank’s Worldwide Governance
Indicators; mức độ dân chủ từ dự án Polity IV (Marshall và Jaggers
2002) và hồ sơ rủi ro đầu tư là từ International Country Risk Guide

(ICRG). Chúng là thước đo phổ biến nhất của trình độ quản trị quốc gia
bởi mức bao phủ và toàn diện. Các biến ghi nhận chương trình của IMF
và quỹ đầu tư quốc gia (SWF) là các biến giả được lấy từ các tài liệu của
IMF và các nguồn khác nhau,tướng ứng. Nợ công trên GDP là từ cơ sở
dữ liệu của Abbas và những người khác (2010) trong khi tín dụng cho
các doanh nghiệp của chính phủ và công ích là từ FinStat (IFS).
Việc phân loại các cơ chế tỷ giá hối đoái là từ Ilzetzki, Reinhart và
Rogoff (2008), và thông tin về việc sử dụng các công cụ an toàn vĩ mô là
từ Cerutti, Claessens và Laeven (2015). Chúng tôi tính toán sự khác biệt
trước tiên là để tập trung vào việc áp dụng các công cụ mới. Thông tin
về việc đa dạng hóa nên tảng xuất khẩu là từ IMF. Phụ lục A3 tóm tắt các
bộ nguồn dữ liệu được sử dụng trong phân tích.

Data from additional sources were compiled for further our analysis.
Transmission channels such as GDP growth, government revenue,
overall balance, savings and debt in foreign currency are from the WEO
database and unemployment rate is from International Labor
Organization database. Governance indicators are from the World Bank’s
Worldwide Governance Indicators; the degree of democracy—Polity2—
from Polity IV project (Marshall and Jaggers 2002) and the investment
risk profile is from International Country Risk Guide (ICRG). 10 They
are by far the most popular measures of countries’ political governance
thanks to their coverage and comprehensiveness. Variables capturing
IMF programs and sovereign wealth fund (SWF) are dummy variables
collected from IMF documents and various sources, respectively.11
Public debt over GDP is from the database by Abbas and others (2010)
while credit to the government and public enterprises is from FinStat
(IFS).
b. Đo lường cú shock giá
The classification of exchange rate regimes is from Ilzetzki, Reinhart and

Rogoff (2008), and information on the use of macro-prudential
Các tài liệu đã định lượng các cú sốc giá hàng hóa thông qua hai phương
instruments are from Cerutti, Claessens and Laeven (2015). We compute
pháp tiếp cận . Các phương pháp tiếp cận đầu tiên sử dụng sự thay đổi


the first difference in order to focus on the adoption of new instruments. trong giá cả như một thước đo cho những cú sốc ( Arezki và Bruckner
Information on the diversification of export base is from the IMF.12 2010, Bruckner và Ciccone 2010) . Phương pháp này tính toán một chỉ
Appendix A3 summarizes the set of data source used in the analysis.
số quốc gia cụ thể bằng cách sử dụng công thức sau :
a. Price Shock Measures
The literature has quantified commodity price shocks through two
approaches. The first approach uses the change in price as a metric
for shocks (Arezki and Brückner 2010, Brückner and Ciccone
2010). This method computes a country specific index by using the
following formula:
PriceShocksi,t = ∑ceC 8i,c ∆ log(ComPricec,t)
Where (ComPricec,t) is the international price of commodity c in year t,
and 8i,c is the average (time-invariant) value of exports of commodity c
in the GDP of country i.
A disadvantage of this measure is that it does not account for the
potential trend related to price change. This method does not attempt to
isolate the trend and therefore does not ensure that the price index is
stationary. Furthermore, policy makers and company owners could make
some forecasts on commodity prices evolution and then act
endogenously to the price shock. This means that if they anticipate that
the commodity price will decrease, they may accordingly adjust their
policies and therefore address the anticipated price bust. Such policies
could thus increase the endogeneity of the commodity price shock
indices.

The second approach uses a regression that explains the price index by
its lags (up to three) and a time trend, and considers the residuals as the
shock indicator. This method computes shocks following two steps. In
the first stage, a geometrically-weighted price index is computed
following Deaton and Miller (1995):
PIi,t = ∑j=1 ∏ Pj,t
Where PIi,t is the commodity price index in country i for the year t; Pj,t

PriceShocksi,t = ∑ceC 8i,c ∆ log(ComPricec,t)
Trong đó ( ComPricec , t) là giá quốc tế của c hàng hóa trong năm t , và
8I , c là trung bình ( thời gian bất biến) giá trị xuất khẩu của mặt hàng c
trong GDP của nước i .
Một bất lợi của phương pháp này là nó không tính đến xu hướng tiềm
năng liên quan đến thay đổi giá. Phương pháp này không cố gắng để tách
biệt xu hướng và do đó không đảm bảo rằng chỉ số giá là đứng yên. Hơn
nữa , các nhà hoạch định chính sách và chủ sở hữu công ty có thể thực
hiện một số dự báo về sự tăng trưởng giá hàng hóa giá và sau đó tự hành
động với cú shock giá . Điều này có nghĩa rằng nếu họ dự đoán rằng giá
cả hàng hóa sẽ giảm, họ phù hợp có thể điều chỉnh chính sách của họ và
do đó giải quyết được sự đổ vỡ giá được dự đoán trước. Những chính
sách như vậy có thể làm tăng biến nội sinh của các chỉ số đo lường cú
sốc giá hàng hóa.
Cách tiếp cận thứ hai sử dụng phương pháp hồi qui giải thích các chỉ số
giá bằng độ trễ của nó (lên đến ba) và một xu hướng thời gian , và xem
xét các phần còn lại như chỉ số gây sốc . Phương pháp này tính toán
những cú sốc theo hai bước . Trong giai đoạn đầu tiên , một chỉ số giá
hình học được tính toán bởi Deaton và Miller (1995 ) :
PIi,t = ∑j=1 ∏ Pj,t
Trường Pi,t là chỉ số giá hàng hóa trong nước cho năm t ; Pj,t là giá thế
giới của hàng j tại thời điểm t và wi, j là các trọng số đặc thù quốc gia

của hàng hóa tại năm cơ sở ( phần của mặt hàng j trong tổng kim ngạch
xuất khẩu ) . Vì phổ biến trong tài liệu see Combes and others 2014,
Musayev 2014), chúng ta lấy điểm giữa của thời kỳ mẫu (2005 ) là năm
cơ sở . Sau đó, năm 2005 giá trị xuất khẩu riêng biệt cho từng mặt hàng
được chia cho tổng số này để tính toán tỉ trọng hàng hóa đặc thù quốc gia
năm 2005 , wi, j .


is the world price of item j at time t and wi,j is the country-specific
weighting of the commodity at the base year (the share of commodity j in
total exports). As is common in the literature (see Combes and others
2014, Musayev 2014), we take the mid-point of the sample period (2005)
as base year. Then the individual 2005 export values for each commodity
are divided by this total in order to compute 2005 country-commodity
specific weights, wi,j.

Trường Qi , j biểu thị khối lượng xuất khẩu của mặt hàng j tại năm cơ
sở . Những giá trị này được giữ cố định theo thời gian và áp dụng cho
các chỉ số giá cả thế giới của các mặt hàng tương tự ( Pj , t) để tạo thành
các chỉ số hình học đặc thù quốc gia của giá xuất khẩu hàng hóa ( PII ,
t) .
Bước thứ hai bao gồm các tính toán các biến sốc . More formally, shocks
are measured as the estimated residuals of an econometric model of the
logarithm of commodity price regressed on its lagged values (up to three)
Where Qi,j denotes the export volume of commodity j at the base year. and quadratic time trend as follows:
These values are held fixed over time and applied to the world price
indices of the same commodities (Pj,t ) to form the country-specific
geometrically-weighted index of commodity export prices (PIi,t).
The second step consists of computing the shock variables. More Các residuals từ các phương trình trên đây là những cú sốc. By doing so,
formally, shocks are measured as the estimated residuals of an one de facto makes the price shock indices stationary and removes

econometric model of the logarithm of commodity price regressed on its predictable elements from the stationary process.
lagged values (up to three) and quadratic time trend as follows:
Chúng tôi dựa trên cách tiếp cận thứ hai trong phân tích thực nghiệm bởi
vì nó là mạnh mẽ hơn và cố gắng để tách biệt xu hướng. Kể từ khi các
nhà hoạch định chính sách có thể đưa ra dự báo giá hàng hóa, loại bỏ các
The residuals from the equations above are the shocks. By doing so, one yếu tố có thể dự đoán lên đến ba năm, đảm bảo the unpredictability of
de facto makes the price shock indices stationary and removes price shocks. Hơn nữa, bởi vì chúng tôi tập trung vào những cú sốc giá
predictable elements from the stationary process.
cả hàng hóa, holding a constant base year deals with shocks from supply
side. Musayev (2014) nhấn mạnh rằng kể từ khi chỉ số sử dụng năm cơ
We build on the second approach in the subsequent empirical analysis sở, nó không đối phó tốt với những thay đổi trong cơ cấu thương mại. Cụ
because it is more robust and attempts to isolate the trend. Since policy thể, chỉ số này does not capture resource discoveries and other quantity
makers can make forecasts on commodity prices, removing the shocks after the base year. Nor does it capture temporary volume shocks
predictable elements up to three years ensures the unpredictability of other than those which happen to occur in the base year itself. Figure 2
price shocks.16 Furthermore, because we focus on commodity price illustrates well how our estimated price shocks capture well observed
shocks, holding a constant base year deals with shocks from supply price changes
side.17 Musayev (2014) stressed that since the index uses a constant base
year, it does not cope well with shifts in the structure of trade. In
particular, the index does not capture resource discoveries and other


quantity shocks after the base year. Nor does it capture temporary
volume shocks other than those which happen to occur in the base year
itself. Figure 2 illustrates well how our estimated price shocks capture
well observed price changes

We then normalize the estimated residuals to re-scale them between 0
and 1. Since price shocks are generated country by country, the
normalization aims to bring all of them into proportion with one another
(see Collier and Dehn, 2001).. Furthermore, given the fact that we are

mainly interested in commodity price busts, we set up positive shocks to
zero and then we normalize negative price shocks so that the new
variable increases with the importance of the shock. In section V, we do
a robustness check by generating a dummy variable that takes the value
of 1 if there is a negative shock and zero otherwise, following Combes
and others (2014).

We then normalize the estimated residuals to re-scale them between 0
and 1. Since price shocks are generated country by country, the
normalization aims to bring all of them into proportion with one another
(see Collier and Dehn, 2001). Furthermore, given the fact that we are
mainly interested in commodity price busts, we set up positive shocks to
zero and then we normalize negative price shocks so that the new
variable increases with the importance of the shock. In section V, we do
5.2. Các kết quả
a robustness check by generating a dummy variable that takes the value
of 1 if there is a negative shock and zero otherwise, following Combes Trong tiểu mục này , chúng tôi mô tả ngắn gọn một số kết quả về mối
and others (2014).
quan hệ giữa các cú sốc giá cả hàng hóa và sự bất ổn của khu vực tài
chính .
5.2. Stylized Facts
Cú sốc giá cả hàng hóa là khá phổ biến ở các nước đang phát triển. Từ
năm 1997 đến năm 2013, đã có 562 trường hợp của những cú sốc dương


In this sub-section, we briefly describe some stylized facts on the
relationship between commodity price shocks and the fragility of the
financial sector.
Commodity price shocks are quite common in developing countries.
From 1997 to 2013, there have been 562 country-year cases of positive

shocks and 693 country-year cases of commodity price downturns. That
said, negative price shocks occur more frequently than price upturns. Do
financial soundness indicators react differently to positive versus
negative price shocks?
Preliminary evidence indicates that negative shocks to commodity prices
tend to worsen financial sector fragility. Figure 3 presents the average of
selected financial soundness indicators during negative and positive
shocks. It illustrates a more dramatic increase of non- performing loans
and banking crises during adverse commodity price shocks, as opposed
to positive price shocks. A similar difference can be observed for bank
profitability where the decline in return on assets (ROA) and return on
equity (ROE) is much larger during price declines

và 693 trường hợp suy thoái giá hàng hóa tại các quốc gia . Điều đó nói
rằng cú sốc giá âm xảy ra thường xuyên hơn so với những đợt gia tăng
giá . Chỉ số lành mạnh tài chính phản ứng khác nhau với những cú sốc
giá dương và âm không?
Bằng chứng sơ bộ cho thấy rằng những cú sốc âm có xu hướng làm gia
tăng sự bất ổn ngành tài chính. Hình 3 trình bày trung bình của các chỉ số
lành mạnh tài chính được lựa chọn trong trong thời kì xảy ra cú sốc giá
âm và dương. Nó minh họa cho một sự gia tăng đột biến về nợ xấu và
khủng hoảng ngân hàng trong những cú sốc bất lợi, trái ngược với các cú
sốc dương. Một sự khác biệt tương tự có thể được quan sát ở lợi nhuận
ngân hàng với sự suy giảm lợi nhuận trên tài sản (ROA) và lợi nhuận
trên vốn chủ sở hữu (ROE) là lớn hơn nhiều trong thời kì suy giảm giá.
Cú sốc bất lợi tác động đến lĩnh vực tài chính ở tất cả các vùng và các
nhóm thu nhập ngay cả khi các tác động khác nhau giữa các nhóm. Hình
3 cho thấy, tuy nhiên, các hiệu ứng khác nhau rất nhiều giữa các khu vực,
cũng như giữa các nhóm thu nhập. Các nước tiểu vùng Sahara Châu phi
bị gia tăng nợ xấu và khủng hoảng ngân hàng, và sụt giảm một trong

ROE, trong khi đó khu vực Đông Á và Thái Bình Dương có thêm suy
giảm lợi nhuận trên tài sản. Mỹ Latinh và các nước vùng Caribe chỉ là
một sự gia tăng nợ xấu và khủng hoảng ngân hàng. Trung Đông và Bắc
Phi làm tốt hơn vì họ chỉ phải chịu một sự gia tăng nhỏ trong nợ xấu.
Hầu hết các nước trong khu vực này là nhà sản xuất dầu quan trọng và
duy trì một bộ đệm tài chính đáng kể, cho phép họ giả quyết ổn thỏa sự
suy giảm giá hàng hóa. Liên quan đến các nhóm thu nhập, các ảnh hưởng
dường như là giống nhau ở các nước đang phát triển và các nước có thu
nhập cao không thuộc OECD, ngoại trừ các cuộc khủng hoảng ngân hàng
mà dường như phổ biến hơn ở các nước đang phát triển.

Adverse commodity price shocks impact the financial sector in all
regions and income groups even if the impact varies across groups.
Figure 3 shows, however, that the effects vary a great deal across
regions, as well as across income groups. Sub-Saharan African countries
experienced an increase in NPLs and banking crises, and a drop in ROE,
while East Asia and Pacific countries experienced in addition a decline in
return on assets. Latin America and Caribbean countries experienced
only an increase in NPLs and banking crises. Middle Eastern and North
African countries do better since they only suffer a small increase in
NPLs. Most of countries of this region are the important oil producers
and hold significant fiscal buffers, allowing them to smooth out
commodity price declines. Regarding income groups, the effects seem to Figure 3. Financial Fragility during Positive and Negative Shocks
be the same both in developing and high income non-OECD countries,
except for banking crises that seem to be more common in the
developing world.
Figure 3. Financial Fragility during Positive and Negative Shocks


Negative shocks to commodity prices are strongly correlated with

financial fragility. Table 1 presents the correlations between adverse
commodity price shocks and financial soundness indicators. Nonperforming loans, bank costs and banking crises are strongly positively
correlated with negative commodity price shocks, while provisions to
non-performing loans are negatively correlated with commodity price

Những cú sốc âm liên quan chặt chẽ với sự bất ổn tài chính . Bảng 1 trình
bày các mối tương quan giữa các cú sốc bất lợi và các chỉ số lành mạnh
tài chính . Nợ xấu , chi phí ngân hàng và khủng hoảng ngân hàng tương
quan thuận với các cú sốc âm, trong khi dự phòng với các khoản nợ xấu
tương quan nghịch với sự lao dốc giá hàng hóa. Điều này là phù hợp với
hình 2 nơi ba chỉ số dường như nhạy cảm hơn với những cú sốc bất lợi.


busts. This is in line with Figure 2 where the three indicators seem to be Theo dự kiến , các chỉ số lành mạnh tài chính liên quan chặt chẽ với nhau
more sensitive to adverse commodity price shocks. As expected, .
financial soundness indicators are strongly correlated with each other.

Hộp 1 thảo luận về sự suy giảm năm 1998 giá dầu , dẫn đến thua lỗ của
Box 1 discusses the 1998 oil price decline, which led to various bank nhiều ngân hàng ở nhiều nước xuất khẩu . Sự sụt giảm hơn 30% giá dầu
failures in many commodity-exporting countries. The fall in international quốc tế giữa cuối năm 1997 và trong năm 1998 đã tạo thành một mối đe
oil prices by more than 30 percent between the end of 1997 and during dọa nghiêm trọng đến khả năng phát triển của ngành tài chính trong
1998 constituted a serious threat to the viability of the financial sector in nhiều nước xuất khẩu dầu . Giá thấp hơn dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh
many oil-exporter countries.20 Lower prices resulted in economic crises tế và thất nghiệp cao , buộc một số các ngân hàng phải đóng cửa và dẫn
and high unemployment, forcing some banks to close and leading to đến sự cứu trợ của các chính phủ trong nhiều trường hợp .
governments’ bailouts in many cases.
Box 1. The Oil Price Collapse of 1998 and Financial Sector Fragility
Ecuador
Seven financial institutions, accounting for 25–30 percent of commercial
banking assets, were closed in 1998-99. In March 1999 bank deposits
were frozen for 6 months. By January 2000, 16 financial institutions

accounting for 65 percent of the assets had either been closed (12) or
taken over (4) by the government. All deposits were unfrozen by March
2000. In 2001 the blanket guarantee was lifted.

Hộp 1. Giá dầu Collapse năm 1998 và bất ổn ngành tài chính
Ecuador
Bảy tổ chức tài chính, chiếm 25-30 phần trăm tài sản ngân hàng thương
mại, đã bị đóng cửa trong 1998-1999. Trong tháng 3 năm 1999 tiền gửi
ngân hàng đã bị đóng băng trong 6 tháng. Đến tháng 1 năm 2000, 16 tổ
chức tài chính chiếm 65 phần trăm của tài sản hoặc đã bị đóng cửa hoặc
bị tiếp quản bởi chính phủ. Tất cả các khoản tiền gửi được mở băng trong
tháng Ba năm 2000.Năm 2001 , biện pháp bảo vệ được dỡ bỏ

Malaysia
The finance company sector was restructured, and the number of Malaysia
companies was reduced from 39 to 10 through mergers. Two finance Các công ty tài chính đã được cơ cấu lại, và số lượng các công ty đã
companies were taken over by the central bank, including the largest giảm từ 39 còn 10 công ty thông qua sáp nhập. Hai công ty tài chính


independent finance company. Two banks deemed insolvent—
accounting for 14 percent of financial system assets—were merged with
other banks.
Nonperforming loans peaked to 25-35 percent of banking system assets
and fell to 10.8 percent by March 2002.
Nigeria
Twenty eight banks were closed and bank non-performing loans reached
43 percent. While the oil price shock was a catalyst to the closure of the
banks, there were a number of existing major banking sector weaknesses
such as poor governance, low capitalization, non-observance of
prudential regulations, etc. At the same time these bank heavily relied

public sector funds as well as foreign exchange trading.

được tiếp quản bởi các ngân hàng trung ương, bao gồm cả công ty tài
chính độc lập lớn nhất nước. Hai ngân hàng được coi là mất khả năng
thanh toán - chiếm 14 phần trăm của hệ thống tài sản tài chính, được sáp
nhập với ngân hàng khác. Nợ xấu lên đến đỉnh điểm với 25-35 % tổng tài
sản hệ thống tài ngân hàng và giảm xuống còn 10,8 % vào tháng 3 năm
2002.
Nigeria
28 ngân hàng bị đóng cửa và các khoản nợ xấu lên đến 43 phần trăm.
Trong khi cú sốc giá dầu là một chất xúc tác cho sự đóng cửa các ngân
hàng, đã tồn tại một số điểm yếu lớn ngành ngân hàng như quản trị kém,
vốn hóa thấp, không tuân thủ các quy định bảo đảm an toàn, vv Đồng
thời các ngân hàng chủ yếu dựa quỹ của khu vực công cũng như thương
mại quốc tế

Philippines
After January 1998 one commercial bank, 7 of 88 thrifts, and 40 of 750
rural banks were placed under receivership. The banking system Philippines
nonperforming loans reached 12 percent by November 1998, and 14 Sau tháng 1 năm 1998, một ngân hàng thương mại, 7 trong số 88 quỹ tiết
percent in 1999.
kiệm, và 40 trong số 750 ngân hàng nông thôn được đặt dưới sự tiếp
quản. Nợ xấu hệ thống ngân hàng đạt 12% vào tháng 11/1998, và 14%
Russia
vào năm 1999.
Nearly 720 bank were deemed insolvent. These banks accounted for 4
percent of sector assets and 32 percent of retail deposits. According to Nga
the central bank, 18 banks holding 40 percent of sector assets and 41 Gần 720 ngân hàng được coi là mất khả năng thanh toán. Những ngân
percent of household deposits were in serious difficulties and required hàng này chiếm 4% tài sản của ngành và 32% dư nợ thương mại. Theo
rescue by the state.

các ngân hàng trung ương, 18 ngân hàng chiếm khoảng 40 phần trăm tài
sản của ngành và 41 phần trăm tiền gửi hộ gia đình đã gặp khó khăn
Vietnam
nghiêm trọng và yêu cầu sự giải cứu của nhà nước.
Two of four large state-owned commercial banks-accounting for 51
percent of banking system loans- were deemed insolvent; the other two Việt Nam
experience significant solvency problems. Several joint stocks banks Hai trong bốn ngân hàng thương mại nhà nước -chiếm 51% dư nợ của hệ
were in severe financial distress. The banking system nonperforming thống ngân hàng- tưởng chừng như là vỡ nợ, hai ngân hàng khác gặp
loans reached 18 percent in late 1998.
phải các vấn đề về khả năng thanh toán. Một số ngân hàng cổ phần rời
vào tình trạng khủng hoảng tài chính nghiêm trọng. Nợ xấu hệ thống
6. EMPIRICAL RESULTS
ngân hàng lên đến hơn 18% vào cuối năm 1998.


6.1. Baseline Results
Overview
There is strong evidence that negative commodity price shocks weaken
the financial sector (Table 2).21 More specifically, provisions to nonperforming loans, return on assets (ROA) and return on equity (ROE) are
negatively associated with negative commodity price shocks, while nonperforming loans are positively associated with adverse commodity price
shocks. Furthermore, the composite index measuring the stability of the
financial sector declines following negative commodity price shocks.

6. CÁC KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
6.1. Các kết quả cơ sở
Tổng quan

Có bằng chứng mạnh mẽ rằng các cú sốc giá âm làm suy yếu các lĩnh
vực tài chính (Bảng 2 ) .21 Cụ thể hơn , dự phòng cho các khoản nợ
xấu , lợi nhuận trên tài sản ( ROA ) và lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu

( ROE ) có tương quan âm với các cú sốc giá âm , trong khi các khoản nợ
xấu tương quan dương với những cú sốc bất lợi. Hơn nữa, chỉ số tổng
As a result of this fragility, negative shocks to commodity prices increase hợp đo lường sự ổn định của khu vực tài chính sụt giảm sau cú sốc âm .
the probability of banking crises occurring. The coefficients associated to
non-performing loans and provisions to non-performing loans significant
at 1 percent level (Table 2, columns 1 and 2, respectively). More Như một kết quả của sự bất ổn này , các cú sốc âm tăng xác suất xảy ra
specifically, a fall of 3.6 standard deviations in commodity prices, which của các cuộc khủng hoảng ngân hàng . Các hệ số liên quan đến nợ xấu và
correspond to a fall of 50 percent in commodity prices similarly to the dự phòng nợ xấu phần lớn ở mức 1%( bảng 2, cột 1 và 2, tương ứng ) .
current prices decline, results in an increase of non-performing loans of Cụ thể hơn , sự sụt giảm 3,6 độ lệch chuẩn của giá hàng hoá , tương ứng
3.5 percentage points and a fall of provisions to NPLs by 41 percentage với mức giảm 50 phần trăm trong giá hàng hóa tương tự như giá suy
points.22 A negative shock in commodity prices reduces economic giảm hiện nay ,kết quả là sự gia tăng 3,5 điểm phần trăm của nợ xấu là và
activity and creates unemployment, which in turn deteriorate the ability làm giảm khoản dự phòng nợ xấu 41 điểm phần trăm .Một cú sốc âm
of borrowers to service their debts, thereby increasing NPLs. trong giá hàng hóa giảm hoạt động kinh tế và tạo ra tình trạng thất nghiệp
Furthermore the drop in income following adverse commodity price , do đó làm mất khả năng của các cơn nợ đáp ứng các nghĩa vụ nợ của họ
shocks reduces the extent of provisions available to cover non- , do đó làm tăng nợ xấu. Hơn nữa sự sụt giảm thu nhập sau cú sốc bất lợi
làm giảm mức dự phòng cho nợ xấu
performing loans.
Regarding bank profitability, we find that ROA and ROE are negatively
correlated with negative commodity price shocks ((Table 2, columns 3
and 4, respectively). The coefficients associated with the two variables
are statistically significant at 1 percent level. A decline by 50 percent in
commodity prices pushes ROA down by 0.4 percentage points and ROE
down by 3.7 percentage points. This could be explained by the fact that
the fall in economic activities following negative shocks to commodity
prices reduces the net income of the banks. Also, the inability of some

Về lợi nhuận ngân hàng , chúng tôi thấy rằng chỉ số ROA và ROE là tỷ lệ
nghịch với những cú sốc âm ( ( bảng 2, cột 3 và 4, tương ứng ) . Các hệ
số kết hợp với hai biến số có ý nghĩa thống kê ở mức 1 phần trăm . Một
sự suy giảm của 50 phần trăm trong giá cả hàng hóa đẩy ROA giảm 0,4

điểm phần trăm và ROE giảm 3,7 điểm phần trăm. Điều này có thể được
giải thích bởi thực tế rằng sự sụt giảm trong hoạt động kinh tế sau cú sốc


borrowers to pay back loans cuts banks’ profits.
This combination of increasing NPLs, decreasing provisions to NPLs and
declining profits raises the fragility of the financial sector and often leads
to banking crises. Indeed, the coefficient associated with the composite
index is negative and statistically significant at 5 percent level (see Table
2, column 8), while the one associated with banking crises is positive and
significant at 5 percent level (see Table 2, column 9). In other words, a
one standard deviation increase in commodity price reduces the
aggregate index of the stability of the financial sector by 0.34 standard
deviation and increases the probability of banking crises occurring by 0.8
standard deviation. However, negative commodity price shocks do not
seem to affect bank costs, regulatory capital to risk-weighted assets, and
liquid assets to deposits and short-term funding. The coefficients
associated to these variables are statistically insignificant.
Negative commodity price shocks have a limited lasting impact on
financial fragility. The coefficient associated with commodity price
shocks in t — 1 is only significant and negative for provisions to NPLs
(Table 2, column 2), while the t — 2 one is significant and positive for
NPLs and bank costs to income ratio (see Table 2, columns 1 and 5,
respectively). This said, the lasting effects of adverse commodity price
shocks are a decline of provisions to NPLs and an increase of NPLs and
bank costs. These results are consistent with the current effects of
negative commodity price shocks, except bank costs. A fall of 50 percent
in commodity price at t — 2 drives up bank costs by 11.7 percent points.
This is largely due to the fact that the banks have to manage higher bad
loans without necessarily recovering a lot of them.


âm giảm thu nhập ròng của ngân hàng . Ngoài ra , một số cơn nợ mất khả
năng trả nợ làm mất đi các khoản lợi nhuận của các ngân hàng .

Sự kết hợp này làm tăng nợ xấu , giảm dự phòng nợ xấu và giảm lợi
nhuận, tăng sự bất ổn của khu vực tài chính và thường dẫn đến cuộc
khủng hoảng ngân hàng. Thật vậy , các hệ số tương ứng với các chỉ số
tổng hợp là âm và phần lớn ở mức 5 phần trăm ( xem bảng 2 , cột 8 ) ,
trong khi hệ số tương ứng với khủng hoảng ngân hàng là dương và phần
lớn ở mức 5 phần trăm ( xem bảng 2 , cột 9 ) . Nói cách khác , một sự gia
tăng độ lệch chuẩn của giá cả hàng hóa làm giảm chỉ số tổng hợp của sự
ổn định của khu vực tài chính 0,34 độ lệch chuẩn và tăng xác suất của
các cuộc khủng hoảng ngân hàng xảy ra 0,8 độ lệch chuẩn. Tuy nhiên ,
cú sốc âm dường như không ảnh hưởng đến chi phí ngân hàng , tỷ lệ vốn
pháp định/điều lệ so với tài sản điều chỉnh theo trọng số rủi ro, và tài sản
thanh khoản cho các khoản nợ và khoản phải trả ngắn hạn

Cú sốc giá cả hàng hóa có một tác động hạn chế lên sự sự bất ổn tài
chính . hệ số tương ứng với những cú sốc giá cả hàng hóa trong t - 1 là
đáng kể và nghịch chiều đối với các khoản dự phòng nợ xấu ( bảng 2, cột
2 ) , trong khi t - 2 là có đáng kể và cùng chiều đối với nợ xấu và chi phí
ngân hàng lên tỷ lệ thu nhập ( xem Bảng 2 , cột 1 và 5, tương ứng ) .
Điều này cho biết , những tác động lâu dài của những cú sốc bất lợi là
một sự suy giảm của các khoản dự phòng nợ xấu và tăng nợ xấu cũng
như chi phí ngân hàng. Các kết quả này phù hợp với các hiệu ứng hiện
tại của các cú sốc âm , trừ chi phí ngân hàng. Một sự sụt giảm của 50
phần trăm trong giá cả hàng hóa tại t – 2 làm tăng chi phí ngân hàng 11,7
điểm phần trăm . Điều này phần lớn là do thực tế là các ngân hàng phải
quản lý các khoản nợ xấu cao hơn mà không nhất thiết phải phục hồi đa
Control variables

Other control variables are in line with our expectations. An appreciation số chúng.
of the exchange rate results in an increase of NPLs and a fall in
provisions in provisions to NPLs (Table 2). The appreciation of the real Các biến điều khiển
exchange rate decreases the competiveness of the economy, causing a Các biến điều khiển khác là phù hợp với mong đợi của chúng tôi. Việc
loss of income for producers of tradable goods including commodities, định giá cao tỷ giá dẫn đến sự gia tăng nợ xấu và một sư sụt giảm trong
which in turn weaken their ability to service their debts. This is in line dự phòng nợ xấu (Bảng 2). Định giá cao tỷ giá hối đoái thực làm giảm


with previous literature (Klein 2013). The real interest rate appears as an
important factor for the financial factor. Indeed, it is positively associated
with NPLs, bank costs, and bank crises; and negatively correlated with
provisions to NPLs and bank profits. This is consistent with DemirgüçKunt and Detragiache (2000). An increase in the real interest rate
imposes a burden on debt services which is weighing heavily on the
ability of banks’ borrowers to service their debt. This also holds for
inflation rate and the ratio of M2 to foreign exchange reserves. As
expected, the richer the country, the lower the probability of occurrence
of banking crises (Demirgüç-Kunt and Detragiache 2000). Furthermore,
we found that public debt is positively associated with NPLs and bank
costs and negatively correlated with bank crises, and high credit growth
tends to reduce financial stability.

Income groups and regions
The effects of adverse commodity price shocks differ across regions and
income groups. Table 3 reports results by region and Table 4 by income
group.23 The results are consistent with those presented in Table 2.
Negative commodity price shocks affect NPLs (level or provisions to) in
Europe and Central Asia, Middle East and North Africa; while they
impact bank profits and capital in Asia and Pacific. In Latin America and
the Caribbean, negative commodity price shocks affect financial sector
health in general, and in particular NPLs (level and provisions to bad

loans) and bank liquidity. Adverse commodity price shocks tend to cause
banking crises in Sub-Saharan Africa and Latin America and Caribbean,
two regions which depend strongly on commodity exports and revenues.
Sub-Saharan African countries also suffer from bad loans (high NPLs
and low provisions to) following unfavorable commodity price evolution.
Table 4 shows that adverse commodity price shocks increase NPLs and
bank costs and push down provisions to NPLs and bank profits in both
developing countries and high-income non-OECD countries. While
negative commodity price shocks increase NPLs and reduce provisions
to NPLs in upper middle- and lower middle-income developing
countries, they increase bank costs only in upper middle income
countries.

khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, gây mất nguồn thu nhập cho người
sản xuất hàng hóa thương mại, từ đó làm suy yếu khả năng đáp ứng các
nghĩa vụ nợ của họ. Điều này phù hợp với nghiên cứu trước đây (Klein
2013). Lãi suất thực xuất hiện như là một yếu tố quan trọng cho yếu tố
tài chính. Thật vậy, nó tương quan thuận với nợ xấu, chi phí ngân hàng,
và các cuộc khủng hoảng ngân hàng và tương quan nghịch với các khoản
dự phòng nợ xấu và lợi nhuận ngân hàng. Điều này phù hợp với
Demirgüç-Kunt và Detragiache (2000). Sự gia tăng trong lãi suất thực áp
đặt một gánh nặng cho các dịch vụ tín dụng, đó là gánh nặng lên khả
năng của các con nợ của ngân hàng thực hiện nghĩa vụ nợ của họ. Điều
này cũng có ý nghĩa đối với tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ M2 / dự trữ ngoại hối.
Như mong đợi , nước giàu hơn, xác suất xảy ra các cuộc khủng hoảng
ngân hàng thấp hơn (Demirgüç-Kunt và Detragiache 2000). Hơn nữa,
chúng tôi thấy rằng nợ công tương quan thuận với nợ xấu và chi phí ngân
hàng và tương quan nghịch với khủng hoảng ngân hàng, và tăng trưởng
tín dụng cao có xu hướng làm giảm sự ổn định tài chính.
Nhóm thu nhập và khu vực

Những tác động của các cú sốc bất khác nhau giữa các vùng và các nhóm
thu nhập. Bảng 3 báo cáo kết quả theo từng khu vực và Bảng 4 bởi nhóm
thu nhập .23 Kết quả này phù hợp với những gì đã trình bày trong Bảng
2. cú sốc âm ảnh hưởng đến nợ xấu (mức độ hay các khoản dự phòng) ở
châu Âu và Trung Á, Trung Đông và Bắc Phi; trong khi chúng ảnh
hưởng đến lợi nhuận ngân hàng và vốn ở châu Á và Thái Bình Dương. Ở
châu Mỹ Latinh và vùng Caribê, các cú sốc âm ảnh hưởng đến sức khỏe
ngành tài chính nói chung và nợ xấu nói riêng (mức độ và dự phòng
khoản nợ xấu) và thanh khoản ngân hàng. Cú sốc bất lợi có xu hướng
gây ra khủng hoảng ngân hàng ở tiểu vùng Sahara châu Phi và Mỹ Latin
và Caribbean, hai khu vực mà phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu hàng hóa
và doanh thu. Các nước tiểu vùng Sahara châu Phi cũng bị nợ xấu (nợ
xấu cao và dự phòng thấp) sau sự bùng phát giá hàng hóa bất lợi. Bảng 4
cho thấy rằng những cú sốc bất lợi làm tăng nợ xấu và chi phí ngân hàng
và đẩy các khoản dự phòng nợ xấu đi xuống và lợi nhuận ngân hàng ở cả
nước đang phát triển và các nước thu nhập cao không thuộc OECD.
Trong khi các cú sốc âm làm tăng nợ xấu và giảm các khoản dự phòng
nợ xấu ở các nước đang phát triển có thu nhập trên và dưới mức trung


Moreover, in emerging markets, negative shocks to commodity prices bình, chúng chỉ làm tăng chi phí ngân hàng ở các nước thu nhập trên
result in an increase of NPLs and a decline of ROA and provisions to trung bình.
NPLs.
Hơn nữa, tại các thị trường mới nổi, các cú sốc âm dẫn đến sự gia tăng
của nợ xấu và sự suy giảm của ROA và khoản dự phòng nợ xấu.
6.2. Transmission Channels
This section explores the main channels through which adverse
commodity price shocks affect the financial sector. As outlined above,
we assess the channels of GDP growth, government revenue, fiscal
deficits, savings, unemployment and debt in foreign currency. Since

these transmission channels could be direct or indirect, we first estimate
the effects of negative shocks to commodity prices on each variable and
then we estimate the effects of each variable on the financial sector.
Results are reported in Table 5 and Table 6.

6.2. Các kênh truyền dẫn

Phần này khám phá những kênh chính mà qua đó những cú sốc bất lợi
ảnh hưởng đến khu vực tài chính. Như đã nêu ở trên, chúng tôi đánh giá
các kênh của tăng trưởng GDP, thu ngân sách, thâm hụt ngân sách, tiết
kiệm, tỷ lệ thất nghiệp và nợ bằng ngoại tệ. Vì các kênh truyền dẫn có
thể là trực tiếp hay gián tiếp, đầu tiên chúng tôi ước tính các tác động của
các cú sốc âm trên mỗi biến và sau đó chúng tôi ước tính ảnh hưởng của
mỗi biến trên các lĩnh vực tài chính. Kết quả được báo cáo trong bảng 5
Adverse commodity price shocks are conducive to financial sector và 6.
fragility through the transmission channels aforementioned. Table 5
shows that negative shocks to commodity prices lower GDP growth, Cú sốc bất lợi dẫn đến sự bất ổn của ngành tài chính thông qua các kênh
government revenues, and savings (columns 1, 2 and 6, respectively), truyền nói trên. Bảng 5 cho thấy rằng các cú sốc âm đến giá hàng hóa
while they increase debt in foreign currency and unemployment làm giảm tốc độ tăng trưởng GDP, thu ngân sách, và tiết kiệm (cột 1, 2,
(columns 3 and 4).24 As highlighted in Section 2, economic slowdown 6, tương ứng), trong khi chúng làm tăng nợ bằng ngoại tệ và tỷ lệ thất
and unemployment, combined with savings withdrawal, and loss of nghiệp (cột 3 và 4) . Như đã nhấn mạnh trong phần 2, suy thoái kinh tế
revenue jeopardize the financial sector. Moreover, Table 6 illustrates that và thất nghiệp, kết hợp với rút tiết kiệm, và thất thu gây nguy hiểm cho
the above-mentioned variables affect the financial sector as expected and khu vực tài chính. Hơn nữa, Bảng 6 cho thấy rằng các biến nói trên ảnh
that the transmission channels vary depending on the financial sector hưởng đến lĩnh vực tài chính như mong đợi và rằng các kênh truyền khác
indicator.
nhau tùy thuộc vào các chỉ tiêu ngành tài chính.
Indeed, GDP growth and savings seem to be the transmission channels
for NPLs and banking crises occurring since the two variables are
negatively and significantly associated with NPLs and banking crises
(columns 1 and 9, respectively). In other words, a commodity price bust

that reduces GDP growth and savings results in an increase of NPLs
leading to a banking crisis. Beyond GDP growth and savings,
unemployment, government revenues and debt in foreign currency are
additional transmission channels for provisions to NPLs (Table 6,
column 2). With respect to banks’ profitability, we find that GDP growth

Thật vậy, sự tăng trưởng GDP và tiết kiệm dường như là kênh truyền dẫn
cho nợ xấu và khủng hoảng ngân hàng vì hai biến tương quan nghịch với
nợ xấu và khủng hoảng ngân hàng (cột 1 và 9, tương ứng). Nói cách
khác, một sự tan vỡ giá hàng hóa làm giảm tốc độ tăng trưởng GDP và
tiết kiệm đưa đến một gia tăng của nợ xấu dẫn đến một cuộc khủng
hoảng ngân hàng. Ngoài tốc độ tăng trưởng GDP và tiết kiệm, tỷ lệ thất


is the main transmission channel (Table 6, column 3 and 4), while
unemployment is the main one for bank costs (column 5). Government
revenues and debt in foreign currency are the main transmission channels
for liquid assets to deposits and short-term funding
7. SENSITIVITY ANALYSIS AND ROBUSTNESS CHECKS
7.1. Sensitivity Analysis
Overall approach
Existing policy framework influence how countries absorb commodity
price shocks. The recognition that commodity price shocks are an
important source of financial fragility raises questions about the
appropriate framework to ensure financial stability in face of these
shocks. While there is not much that macroeconomic policy can do to
prevent commodity price shocks, the impact of these shocks on the
banking system will depend upon the economic, financial and political
conditions in place when the shocks occur.
We follow previous literature by focusing on what matters for a couple

of conditional factors and a given financial soundness indicator. For
instance, there is a vast literature on the relationship between banking
crises and exchange rate regimes, but not yet on the relationship between
NPLs and exchange rate regime. Thus, we prefer estimating whether the
effect of commodity price shocks on banking crises is different given the
exchange rate regime, rather than estimating for NPLs. This rule holds
for the other estimates of this section. This helps us to save space and be
in line with previous literature. Then, macro- prudential policies and
export diversification are tested for the financial soundness indicators,
while all the other variables are estimated for banking crisis.

We first focus on the conditional factors for banking crises. More
precisely, we estimate equation (2) for several groups of countries
according to their economic policy and institutional setting, such as the
presence of IMF programs, sovereign wealth fund, the quality of
governance, the level of financial development and debt, and the

nghiệp, thu ngân sách và nợ bằng ngoại tệ là kênh truyền dẫn bổ sung
cho các khoản dự phòng nợ xấu (Bảng 6, cột 2). đối với khả năng sinh lời
của các ngân hàng, chúng tôi cho thấy rằng tốc độ tăng trưởng GDP là
kênh truyền tải chính (Bảng 6, cột 3 và 4), trong khi tỷ lệ thất nghiệp là
một trong những kênh chính cho các chi phí ngân hàng (cột 5). thu ngân
sách của chính phủ và nợ bằng ngoại tệ là các kênh truyền tải chính cho
tài sản thanh khoản.
7. PHÂN TÍCH ĐỘ NHẠY CẢM VÀ CÁC KIỂM TRA TÍNH BỀN
VỮNG
7.1. Phân tích độ nhạy cảm
Tiếp cận tổng quan
Khung chính sách hiện có chi phối các quốc gia hấp thụ những cú sốc giá
cả hàng hóa như thế nào . Việc nhận thức rằng các cú sốc giá cả hàng hóa

là một nguồn gốc quan trọng của sự bất ổn tài chính đặt ra câu hỏi về một
khung pháp lý phù hợp để đảm bảo sự ổn định tài chính khi đối mặt với
những cú sốc này . Trong khi không có nhiều chính sách kinh tế vĩ mô có
thể ngăn chặn các cú sốc giá cả hàng hóa , tác động của các cú sốc cho hệ
thống ngân hàng sẽ phụ thuộc vào điều kiện kinh tế , tài chính và chính
trị tại quốc gia có những cú sốc xảy ra.
Chúng tôi bám theo các tài liệu trước đó bằng cách tập trung vào những
gì quan trọng đối với một vài yếu tố điều kiện và một chỉ số lành mạnh
tài chính nhất định. Ví dụ , có vô vàn tài liệu về mối quan hệ giữa các
cuộc khủng hoảng ngân hàng và cơ chế tỷ giá hối đoái, nhưng chưa xem
xét mối quan hệ giữa nợ xấu và cơ chế tỷ giá hối đoái. Do đó , chúng tôi
thích việc ước tính xem tác động của các cú sốc giá cả hàng hóa trên các
cuộc khủng hoảng ngân hàng là khác nhau cho chế độ tỷ giá hối đoái
nhất định , hơn là ước tính nợ xấu . Quy tắc này cũng áp dụng cho các
ước tính khác của phần này . Điều này giúp chúng ta tiết kiệm không
gian và phù hợp với nghiên cứu trước đây . Sau đó , các chính sách an
toàn vĩ mô và đa dạng hóa xuất khẩu được kiểm nghiệm cho các chỉ số
lành mạnh tài chính , trong khi tất cả các biến khác được ước tính cho
cuộc khủng hoảng ngân hàng.


×