Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Nghiên Cứu Ảnh Hưởng Của Bức Xạ Tia Γ (CO60) Trên Chè Và Đặc Điểm Nông Sinh Học Của Một Số Dòng Chè Đột Biến Mới Được Tuyển Chọn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (805.7 KB, 92 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

PHAN CHÍ NGHĨA

NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA BỨC XẠ
TIA γ (Co60) TRÊN CHÈ VÀ ĐẶC ĐIỂM NÔNG SINH
HỌC CỦA MỘT SỐ DÒNG CHÈ ĐỘT BIẾN MỚI
ĐƯỢC TUYỂN CHỌN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

THÁI NGUYÊN - 2011


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

PHAN CHÍ NGHĨA

NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA BỨC XẠ
TIA γ (Co60) TRÊN CHÈ VÀ ĐẶC ĐIỂM NÔNG SINH
HỌC CỦA MỘT SỐ DÒNG CHÈ ĐỘT BIẾN MỚI
ĐƯỢC TUYỂN CHỌN
Chuyên ngành: TRỒNG TRỌT
Mã số: 60.62.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN TOÀN


THÁI NGUYÊN - 2011


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
hoàn toàn trung thực và chưa được sử dụng cho bảo vệ một học vị nào, mọi sự giúp
đỡ cho việc hoàn thành luận văn này đều đã được cảm ơn, các thông tin trích dẫn
trong luận văn đều đã được ghi rõ nguồn gốc./.

Thái Nguyên, tháng 9 năm 2011
Tác giả luận văn

Phan Chí Nghĩa


ii

LỜI CẢM ƠN
Trong suốt 2 năm học tập, với nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp
đỡ, hướng dẫn tận tình của nhiều cá nhân và tập thể, đến nay luận văn của tôi đã
được hoàn thành.
Tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn tới:
Ban Giám hiệu, Khoa Sau Đại học, Khoa Nông học cùng toàn thể cán bộ,
giảng viên trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên đã giúp đỡ, chỉ bảo tôi trong suốt
quá trình học tập và nghiên cứu tại trường.
Với lòng biết ơn chân thành, tôi gửi lời cảm ơn sâu sắc tới: TS. Nguyễn
Văn Toàn, Phó viện trưởng Viện KHKT NLN Miền núi phía Bắc, người đã tận
tình chỉ bảo động viên và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình làm luận văn và viết

báo cáo.
Ban giám hiệu Trường Đại học Hùng Vương, Khoa Nông - Lâm -Ngư, cùng
các đồng nghiệp đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề
tài và viết luận văn.
Tôi vô cùng biết ơn sự động viên, giúp đỡ của gia đình và bạn bè trong suốt
thời gian học tập và thực hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2011
Tác giả luận văn

Phan Chí Nghĩa


iii

MỤC LỤC
PHẦN 1: MỞ ĐẦU

Trang
1

1.1. Tính cấp thiết của đề tài

1

1.2. Mục tiêu của đề tài

2

1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài


2

PHẦN 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU

3

2.1. Đặc điểm sinh vật học của cây chè

3

2.1.1. Rễ chè

3

2.1.2. Thân, cành chè

3

2.1.3. Mầm chè

6

2.1.4. Búp chè

7

2.1.5. Lá chè

12


2.1.6. Hoa, quả và hạt chè

15

2.2. Tình hình nghiên cứu chọn giống chè trên thế giới và ở Việt Nam

16

2.2.1. Tình hình nghiên cứu chọn giống chè trên thế giới

16

2.2.2. Tình hình nghiên cứu chọn giống chè ở Việt Nam

17

2.3. Phương pháp đột biến và các khái niệm

19

2.3.1. Một số khái niệm

19

2.3.2. Nghiên cứu sử dụng phương pháp đột biến trong chọn tạo giống cây 20
trồng
PHẦN 3: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 24
CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu


24

3.2. Phạm vi nghiên cứu

24

3.3. Nội dung nghiên cứu

25

3.4. Phương pháp nghiên cứu

25

PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

31

4.1. Ảnh hưởng của tác nhân đột biến bức xạ γ (Co60) trên chè

31


iv

4.1.1. Ảnh hưởng của liều lượng xử lý tia γ (Co60) đến quá trình mọc của 31
chè
4.1.2. Ảnh hưởng của liều lượng xử lý tia γ (Co60) đến sự biến dị một số đặc 38
trưng hình thái của chè

4.1.3. Ảnh hưởng của liều lượng xử lý tia γ (Co60) đến chiều cao của chè

45

4.1.4. Ảnh hưởng của liều lượng xử lý tia γ (Co60) đến kích thước và hình 47
thái lá chè
4.2. Đặc điểm nông sinh học của một số dòng chè đột biến mới được tuyển 50
chọn
4.2.1. Đặc điểm hình thái lá của các dòng chè đột biến mới được tuyển chọn

50

4.2.2. Đặc điểm sinh trưởng búp của các dòng chè đột biến mới được tuyển 51
chọn
4.2.3. Đặc điểm năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của các dòng 54
chè đột biến mới được tuyển chọn
4.2.4. Đánh giá chất lượng của các dòng chè đột biến mới được tuyển chọn

55

4.2.5. Đánh giá tính chống chịu sâu bệnh hại của các dòng chè đột biến mới 59
được tuyển chọn
4.2.6. Đánh giá tính đa hình di truyền của các dòng chè đột biến mới được 62
tuyển chọn
PHẦN 4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

68

TÀI LIỆU THAM KHẢO


70

PHỤ LỤC

73


v

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Tia γ (Co60)

: Tia gamma (nguồn đồng vị Coban 60)

CT

: Công thức

Kr

: Kilo rơngen

KT

: Kim Tuyên

PVT

: Phúc Vân Tiên


SCT

: Shan Chất Tiền

TD

: Trung Du


vi

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 4.1: Quá trình mọc của các công thức thí nghiệm giống Kim Tuyên
Bảng 4.2: Quá trình mọc của các công thức thí nghiệm giống Phúc Vân Tiên
Bảng 4.3: Quá trình mọc của các công thức thí nghiệm giống Shan Chất Tiền
Bảng 4.4: Quá trình mọc của các công thức thí nghiệm giống Trung Du
Bảng 4.5: Một số biến dị điển hình của giống chè Kim Tuyên khi sử dụng tác nhân
tia γ (Co60)
Bảng 4.6: Một số biến dị điển hình của giống chè Phúc Vân Tiên khi sử dụng tác
nhân tia γ (Co60)
Bảng 4.7: Một số biến dị điển hình của giống chè Shan Chất Tiền khi sử dụng tác
nhân tia γ (Co60)
Bảng 4.8: Một số biến dị điển hình của giống chè Trung Du khi sử dụng tác nhân
tia γ (Co60)
Bảng 4.9: Biến động chiều cao của các giống chè sau khi sử dụng tác nhân đột biến
γ (Co60)
Bảng 4.10: Biến động kích thước và hình thái lá của các giống chè khi sử dụng tác
nhân đột biến γ (Co60)
Bảng 4.11: Đặc điểm hình thái lá của các dòng chè thí nghiệm
Bảng 4.12: Thời gian hoàn thành đợt búp đầu tiên (vụ xuân/2011)

Bảng 4.13: Tốc độ sinh trưởng búp chè vụ xuân các dòng đột biến
Bảng 4.14: Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của các dòng đột biến
Bảng 4.15: Thành phần sinh hoá chủ yếu của các dòng chè đột biến trong búp chè 1
tôm 2 lá non
Bảng 4.16: Kết quả thử nếm cảm quan các dòng đột biến
Bảng 4.17: Diễn biến mật độ bọ cánh tơ của các dòng đột biến
Bảng 4.18: Diễn biến mật độ nhện đỏ của các dòng đột biến
Bảng 4.19: Diễn biến mật độ rầy xanh của các dòng đột biến
Bảng 4.20: Hệ số tương đồng di truyền của các dòng đột biến


vii

DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 4.1: Tỷ lệ mọc của các công thức thí nghiệm sau 5 tháng theo dõi
Hình 4.2: Phương trình tương quan giữa liều lượng xử lý tia γ (Co60) và tỷ lệ mọc
của các giống chè
Hình 4.3: Phương trình tương quan giữa liều lượng xử lý tia γ (Co60) và tần số đột
biến của các giống chè
Hình 4.4: Chiều cao trung bình của các giống chè sau khi sử dụng tác nhân đột
biến γ (Co60)
Hình 4.5: Biểu đồ tốc độ tăng trưởng búp chè trong vụ xuân
Hình 4.6: Sơ đồ hình cây về mối quan hệ di truyền giữa các dòng chè


8

PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Chè là thức uồng có giá trị, tác dụng lâu dài và là đồ uống phổ biến nhất trên

thế giới. Việt Nam là một trong những nước có điều kiện tự nhiên thích hợp cho sự
sinh trưởng phát triển của cây chè. Tuy nhiên hiện nay, năng suất và chất lượng chè
của Việt Nam chưa cao, giá chè xuất khẩu của chúng ta chưa cao, chỉ bằng 70% giá
chè bình quân thế giới. Chính vì vậy mà thu nhập của người làm chè cũng rất thấp.
Mục tiêu trong những năm tới, ngành chè Việt Nam phải đạt giá xuất khẩu tương
đương với thế giới. Để làm được điều này, thì việc chọn tạo ra những giống chè mới
có năng suất, chất lượng cao chuyển giao cho sản xuất đóng vai trò quan trọng hàng
đầu.
Hiện nay, công tác chọn tạo giống chè ở Việt Nam sử dụng nhiều phương
pháp khác nhau như chọn lọc cá thể trực tiếp trên nguồn vật liệu có sẵn trong tự
nhiên, chọn giống bằng phương pháp lai hữu tính hay phương pháp đột biến...
Trong các phương pháp chọn tạo giống nói trên, phương pháp gây đột biến có thể
tạo ra sự thay đổi một hay nhiều tính trạng của cây trồng mà đôi khi bằng các con
đường chọn tạo giống khác không thể làm được. Trong công tác chọn tạo giống cây
trồng bằng phương pháp đột biến, các nguyên tố tạo nguồn bức xạ có vai trò quan
trọng tạo ra các biến dị khi xử lý trên cây trồng, làm cơ sở cho các nhà khoa học
chọn tạo ra giống mới. Chính vì vậy, ngày 02 tháng 06 năm 2010, Thủ tướng Chính
phủ đã có Quyết định số 755/QĐ-TTg về việc Phê duyệt Quy hoạch chi tiết phát
triển, ứng dụng bức xạ trong nông nghiệp đến năm 2020. Một trong những mục tiêu
cụ thể của quyết định là chọn tạo và đưa ra 1 - 2 giống cây trồng một năm, chiếm ít
nhất 40% tổng số giống cây trồng và vi sinh vật mới.
Trong những năm vừa qua, Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm miền núi phía
Bắc đã tiến hành công tác chọn tạo giống chè bằng phương pháp đột biến thực
nghiệm và đã tạo ra một số cá thể, dòng chè có nhiều đặc tính quý như: hàm lượng
axít amin cao, hàm lượng tanin thấp cho chế biến chè xanh, hàm lượng chất thơm
cao, tăng khả năng chống chịu sâu bệnh.


9


Nhằm góp phần nhanh chóng tạo ra các giống chè mới có năng suất cao, chất
lượng và chống chịu tốt phục vụ yêu cầu sản xuất, chúng tôi tiến hành nghiên cứu
đề tài: "Nghiên cứu ảnh hưởng của bức xạ tia γ (Co60) trên chè và đặc điểm nông
sinh học của một số dòng chè đột biến mới được tuyển chọn"
1.2. Mục tiêu của đề tài
Bước đầu xác định hiệu quả của tác nhân gây đột biến bức xạ γ (Co60) trong
công tác chọn tạo giống chè.
Tuyển chọn được 1-2 dòng chè gây đột biến từ bức xạ γ (Co60) có năng suất,
chất lượng cao đưa vào khảo nghiệm.
1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Bổ sung tư liệu mới trong chọn tạo giống chè ở Việt Nam.
- Đề tài góp phần chọn tạo các giống chè có năng suất, chất lượng cao, khả
năng nhân giống vô tính tốt đưa vào sản xuất.
- Đề tài có ý nghĩa thực tế, nhằm giúp thay đổi cơ cấu giống chè, làm tăng
năng suất, chất lượng chè phục vụ cho việc tiêu dùng nội địa và xuất khẩu.


10

PHẦN 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1. Đặc điểm sinh vật học của cây chè
2.1.1. Rễ chè
Hệ rễ chè gồm có: rễ trụ (rễ cọc), rễ bên và rễ hấp thu. Quá trình sinh trưởng
và phát triển của bộ rễ có những đặc điểm:
- Khi hạt mới nảy mầm rễ trụ phát triển rất nhanh. Vào khoảng 3 - 5 tháng
sau khi trồng thì rễ trụ phát triển chậm lại và rễ bên phát triển mạnh.
- Thời kỳ cây chè còn nhỏ, rễ trụ luôn luôn phát triển dài hơn phần thân trên
mặt đất. Đến năm thứ 2 và thứ 3 thì tốc độ sinh trưởng giữa phần thân trên đất và
phần rễ mới cân bằng. Rễ bên và rễ phụ trong thời kỳ này rất phát triển, tốc độ lớn
lên và phân cấp của chúng cũng rất nhanh.

- Sự phát triển của rễ chè và thân chè có hiện tượng xen kẽ nhau, khi thân lá
phát triển mạnh thì rễ phát triển chậm lại và ngược lại.
- Rễ trụ của chè thường ăn sâu xuống đất hơn 1 mét, ở những nơi đất xốp,
thoát nước nó có thể ăn sâu tới 2 - 3 mét. Rễ hấp thu được phân bố tập trung ở lớp
đất từ 10 - 40 cm thời kỳ cây chè lớn, rễ tập trung ở gữa hai hàng chè,tán rễ so với
tán cây lớn hơn 2 - 2,5 lần.
Sự phân bố của rễ chè trong đất phụ thuộc vào giống, tuổi của cây, điều kiện
đất đai và chế độ canh tác.
2.1.2. Thân, cành chè
Mỗi giống chè có những đặc điểm và khả năng phân cành khác nhau, có
những giống phân cành thấp (thân bụi, nửa bụi) có những giống phân cành cao,
cành thưa hơn (thân gỗ, bán gỗ). Khả năng phân cành của mỗi giống đều có ảnh
hưởng đến sinh trưởng chiều cao, độ rộng tán, mật độ cành, mật độ búp của tán chè
và qua đó có ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, chất lượng chè.
Các tác giả Trần Thanh - Đỗ Ngọc Quỹ- Nguyễn Văn Niệm [20] cho rằng
đặc điểm phân cành của cây chè là chỉ tiêu quan trọng ảnh hưởng tới khả năng cho
năng suất của giống. Những giống chè có độ cao phân cành thấp, số cành cấp 1
nhiều, cành lớn sẽ có bộ khung tán to, khoẻ, có khả năng cho năng suất cao.


11

Vũ Công Quỳ [13] khi nghiên cứu tương quan hình thái, năng suất ở một số
biến chủng chè kết luận: Đặc điểm hình thái của những giống chè năng suất cao là lá
có khối lượng lớn, mỏng, nhiều búp góc độ phân cành cấp 1 lớn, mô dậu kém phát
triển, tán rộng..
Nguyễn Văn Tạo và cộng sự [14] khi nghiên cứu đặc điểm sinh học của cành
chè PH1sinh trưởng tự nhiên cho rằng hàng năm đợt sinh trưởng đầu tiên mầm xuất
hiện vào khoảng ngày 19/1 và kết thúc vào cuối tháng 3. Đợt sinh trưởng 1 và 5 do
điều kiện thời tiết khô lạnh nên kéo dài từ 79 và 61 ngày.

Khi theo dõi độ dài lóng chè tác gả cho rằng: Độ dài lóng chè phụ thuộc vào
các yếu tố: Vị trí lá trên cành, điều kiện thời tiết mùa vụ, chế độ dinh dưỡng và
giống chè... thường độ dài lóng chè trung bình của 5 đợt sinh trưởng trong năm giữa
lá cá và lá thật, giữa lá thật 9 và lá thật 10 là nhỏ nhất. độ dài lớn nhất là giữa lá thật
3 và lá thật 4, lá thật 4 và lá thật 5. Trong năm đợt sinh trưởng 1 và đợt sinh trưởng
5 có độ dài lóng chè trung bình bé nhất, đợt sinh trưởng 2 có độ dài lóng chè trung
bình lớn nhất.
Kết quả nghiên cứu sinh trưởng của một số giống chè nhập nội trồng tại Thái
Nguyên tác giả Lê Tất Khương [5] cho biết các giống chè có hai dạng hình là thân
bụi và thân gỗ nhỡ. Các giống có dạng thân gỗ nhỡ thường có chiều cao lớn hơn các
giống chè thân bụi. Hai giống có chiều cao thấp nhất là giống Keo Am Tích và Thiết
Bảo Trà. Trong khi đó về thế lá có 5 giống chè thế lá nằm ngang (Trung du, PT95,
Phúc Vân Tiên, Hùng Đỉnh Bạch Thiết Bảo Trà), có 5 giống thế lá xiên (Phú Thọ
10, Hoa Nhật Kim, Long Vân 2000, Kiara 8, TRI 2024) và 2 giống có thế lá rủ (Keo
Am Tích, Nhật Bản 2). Nhưng khi đánh giá về bề mặt lá tác giả khẳng định trong
các giống thí nghiệm có 2 dạng: mặt nhẵn và mặt gồ ghề. Diện tích lá của các giống
chè thí nghiệm dao động từ 10,05 cm2- 36,86 cm2. Với hệ số diện tích lá của các
giống tác giả cho biết dao động từ 0,25- 0,86 m2lá/m2đất.
Khi nghiên cứu một số đặc điểm hình thái của tập đoàn giống chè tại Phú Hộ
thời kỳ kiến thiết cơ bản tác giả Nguyễn Hữu La [7] đã khẳng định; chiều cao cây có
tương quan thuận rất chặt với chiều rộng tán chè (r = 0,72± 0,09) và số cành cấp 1 (r


12

= 0,75±0,090, tương quan chặt với diện tích lá (r = 0,58±0,11), nhưng không có mối
tương quan thuận với chiều dài đốt cành, trọng lượng búp và mật độ búp.
Khi nghiên cứu mối quan hệ giữa đặc điểm hình thái, điều kiện ngoại cảnh
với năng suất chè tác giả Chu Xuân Ái [1] cho rằng: Năng suất chè có mối tương
quan thuận chặt với mật độ búp (r =0,8564) và diện tích lá (r =0,7752), những giống

có mật độ búp cao, diện tích lá lớn cho năng xuất cao. Giống có chiều rộng lá lớn có
năng suất cao (r = 0,7542) hơn là có chiều dài lá lớn. Các giống khác nhau có phản
ứng khác nhau với điều kiện ngoại cảnh. Trong hai yếu tố nhiệt độ và lượng mưa,
năng suất chè tương quan thuận chặt với lượng mưa hơn là nhiệt độ.
Theo Đỗ Ngọc Quỹ- Lê Tất Khương [10] khi nghiên cứu đặc điểm sinh
trưởng của bộ rễ chè các nhà khoa học Trung Quốc cho rằng: Sự sinh trưởng của bộ
rễ và bộ lá chè có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau về mùa đông tháng 11
- tháng 3 khi cành chè ngừng sinh trưởng thì rễ chè bắt đầu phát triển, mùa xuân
tháng 5 khi búp chè sinh trưởng mạnh thì bộ rễ phát triển chậm lại và tiếp tục như
vậy khi bộ rễ phát triển chậm thì bộ lá, búp sinh trưởng nhanh và ngược lại, trong 1
năm cây chè có 4 - 5 đợt sinh trưởng xen kẽ vừa bộ tán lá và bộ rễ.
- Nghiên cứu về quy luật sinh trưởng của rễ và thân lá chè, ở ấn Độ, Rahman
F, Dutta A.K [29]; cũng cho kết luận tương tự như vậy.
- Nghiên cứu về sự khác nhau của bộ rễ ở các giống chè khác nhau các nhà
khoa học Grudia như Табагари Л.Г [34] đã cho rằng: Các giống khác có bộ rễ sinh
trưởng phát triển khác nhau trong đó các giống chọn lọc thường có bộ rễ sinh
trưởng mạnh hơn bộ rễ của các giống chè địa phương.
Khi nghiên về mối quan hệ giữa lá chè, thế lá và bộ rễ và khả năng chống
chịu của các giống chè tác giả Hadfiel.W. [25] chỉ ra rằng: Những cây chè giống
Trung Quốc lá nhỏ, có thế lá đứng, với bộ rễ phân bố sâu dưới mặt đất có khả năng
chống hạn tương đối tốt.
Tóm lại mỗi giống chè có những đặc điểm phát triển thân cành khác nhau, có
những giống thân bụi, có những giống thân gỗ nhỡ. Vì vậy trong sản xuất phải căn
cứ vào đặc điểm phân cành của từng giống mà bố trí mật độ và khoảng cách trồng


13

thích hợp tạo điều kiện cho cây chè sinh trưởng phát triển tốt. Căn cứ vào mối
tương quan giữa khả năng phân cành với năng suất và chất lượng các giống chè sẽ

giúp cho những nhà chọn tạo giống có những nhận xét bước đầu về khả năng cho
năng suất của các con lai. Với các biện pháp kỹ thuật như đốn hàng năm sẽ làm tăng
khả năng phân cành của cây chè và vì thế sẽ thúc đẩy việc tăng năng suất nương chè
một cách đáng kể. Với những đặc điểm sinh trưởng cành cũng như sinh trưởng của
bộ rễ mà chúng ta quyết định thời kỳ để bón phân có hiệu quả.
2.1.3. Mầm chè
Trên cây chè có những loại mầm: mầm dinh dưỡng và mầm sinh thực. Mầm
dinh dưỡng phát triển thành cành lá, mầm sinh thực phát triển thành nụ hoa và
quả.Mầm dinh dưỡng gồm có:
- Mầm đỉnh: Loại mầm này ở vị trí trên cùng của cành, tiếp tục phát triển
trên trục chính của các cành năm trước, hoạt động sinh trưởng mạnh và thường có
tác dụng ức chế sinh trưởng của các mầm ở phía dưới nó (ưu thế sinh trưởng ngọn).
- Mầm nách: Trong điều kiện sinh trưởng tự nhiên, phần lớn chúng ở trạng
thái nghỉ do sự ức chế của mầm đỉnh. Khi hái các búp đỉnh, mầm nách phát triển
thành búp mới.
- Mầm ngủ: Là những mầm nằm ở các bộ phận đã hóa gỗ của các cành một
năm hoặc già hơn. Những mầm này kém phân hóa và phát triển hơn hai loại mầm
trên. Kỹ thuật đốn lửng, đốn đau, có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của mầm ngủ,
tạo nên những cành chè mới, có giai đoạn phát dục non, sức sinh trưởng mạnh.
- Mầm bất định: Vị trí của loại mầm này không cố định trên thân chè thường
ở sát cổ rễ. Nó chỉ phát triển thành cành lá mới khi cây chè được đốn trẻ lại.
- Mầm sinh thực: Mầm sinh thực nằm ở nách lá. Bình thường mỗi nách lá có
hai mầm sinh thực nhưng cũng có trường hợp số mầm sinh thực nhiều hơn và khi
đó ở nách lá có một chùm hoa. Các mầm sinh thực cùng với mầm dinh dưỡng phát
sinh trên cùng một trục, mầm dinh dưỡng ở giữa, mầm sinh thực ở hai bên. Khi
mầm sinh thực phát triển nhiều ở trên cành chè, thì quá trình sinh trưởng của các


14


mầm dinh dưỡng yếu đi, do sự tiêu hao các chất dinh dưỡng cho việc hình thành nụ
hoa và quả.
Mầm
chè
Đợt
sinh
trưởng

Lá vảy
ốc mở

Lá thật
xuất hiện

Giai
đoạn
ẩn
Thời kỳ
hoạt động

Cành chè
ngừng sinh
trưởng
Giai đoạn
xuất hiện

Mầm chè
phát động

Thời kỳ

hoạt
động
tiềm sinh

2.1.4. Búp chè
Búp chè (đọt chè) là một đoạn non của cành gồm 1 tôm và 2 đến 3 lá non, là
sản phẩm thu hoạch thu hoạch chính của sản xuất chè do vậy đặc điểm của búp chè
không những ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất chè mà còn ảnh hưởng đến chất
lượng nguyên liệu và chè thành phẩm. Người ta chia búp ra làm hai loại: Búp bình
thường và búp mù xoè. Búp bình thường là búp phát triển có 1, 2 lá non và có 1 lá
non chưa mở (gọi là tôm), búp mù xoè là búp chè phát triển không bình thường búp
không có tôm (lá non ra đến đâu có xu thế mở ngay). Các giống chè khác nhau sẽ
có kích thước búp, trọng lượng búp và tỷ lệ búp mù xoè và đặc biệt thành phần sinh
hoá búp khác nhau do vậy chúng cho năng suất và chất lượng nguyên liệu chè khác
nhau.
Thời gian sinh trưởng búp chè của các giống có ý nghĩa quan trọng đối với
năng suất chè. Những giống có thời gian sinh trưởng dài, tốc độ sinh trưởng búp
nhanh thường là những giống có khả năng cho năng suất cao. Trong thực tế sản xuất
người ta thường chú ý xây dựng bộ giống hợp lý cho vùng sản xuất trong đó có
những giống có thời gian sinh trưởng búp dài, có những giống có thời gian sinh
trưởng búp ngắn. Có những giống có thời gian cho búp sớm, có những giống có thời
gian cho búp muộn. Có như vậy chúng ta mới có vùng nguyên liệu có thời gian thu


15

hoạch và chế biến sản phẩm dài, khắc phục được tính thời vụ của sản xuất chè, khai
thác và đáp ứng hết công suất của các nhà máy chế biến.
Khi nghiên cứu về sự hình thành các đợt sinh trưởng của cây chè tác giả Liên
Xô Khi cây chè có 5 lá thật thì ở nách các lá thứ nhất, thứ hai đã có mầm nách, khi

có lá thứ 6 xuất hiện thì có mầm nách ở lá thứ 3 và khi có 7 lá thì mầm nách thứ 4
xuất hiện… tác giả cũng cho rằng khi mầm chè qua đông 2 lá đầu tiên bao bọc mầm
chè là lá vẩy ốc, tiếp đó là lá cá. các mầm nách của lá thứ 4 và thứ 5 của đợt sinh
trưởng thứ nhất sẽ phát triển thành búp của đợt sinh trưởng thứ 2.
Бахтадзе К.Е [30] khi nghiên cứu về sự sinh trưởng của búp chè cho rằng:
Sự sinh trưởng của búp chè phụ thuộc vào điều kiện khí hậu, ở những vùng có mùa
đông rõ rệt, búp chè sẽ ngừng sinh trưởng vào mùa đông và cây chè sẽ được phục
hồi vào thời kỳ có nhiệt độ không khí ấm lên, ngược lại ở những nước nhiệt đới
(quần đảo Gjava) Srilanca hay Nam ấn Độ do có điều kiện thời tiết thuận lợi đặc
biệt là nhiệt độ nên búp chè sẽ sinh trưởng liên tục, thời vụ thu hoạch búp chè
quanh năm vì vậy người ta coi đây là lợi thế của vùng đất này.
Mỗi loại cây trồng khi hình thành mầm và để mầm phát triển đòi hỏi phải có
tổng nhiệt độ nhất định. Tác giả Squi [27] khi nghiên cứu trên cây chè ở Mallawi đã
kết luận: Tổng nhiệt độ hữu hiệu cần thiết để cho một mầm chè (0,2cm) sinh trưởng
thành búp chè có thể thu hoạch được (dài 8-15 cm) vào khoảng 500oc- 6000c mà
theo tác giả có đến 2/3 nhiệt độ này là cung cấp cho sinh trưởng búp.
Mỗi giai đoạn cây chè sinh trưởng khác nhau vì vậy sự hình thành và phát
triển của búp chè cũng như các lứa búp chè cũng khác nhau nhưng yếu tố nhiệt độ
có vai trò rất quan trọng trong quá trình hình thành các lứa chè. Nghiên cứu về vấn
đề này tác giả Stephen- Carr [28] cho biết, chu kỳ thay thế búp chè (đợt sinh
trưởng) có thể căn cứ vào nhiệt độ không khí tối thiểu và nhiệt độ tối đa để dự đoán
một lứa búp mới sinh trưởng, phát triển.
Ảnh hưởng của mùa vụ qua yếu tố nhiệt độ không khí với chu kỳ thay thế
búp ở các vùng địa lý khác nhau đã chứng minh quan điểm trên. Các vùng chè Châu
Phi Munaze (mallawi) ở vĩ độ 16005 nam, độ cao 650 m so với mặt nước biển, nhiệt


16

độ không khí có ý nghĩa từ 18-240c, độ dài chu kỳ hái búp là 42 ngày vào mùa sinh

trưởng chính, 70 ngày vào những tháng mùa đông lạnh. Trong khi đó ở vùng
Chipirga (Zimbabue) vị trí 20015 vĩ độ nam, độ cao 850 m so với mặt nước biển,
nhiệt độ hàng năm lạnh hơn Munaze 20c, chu kỳ hái búp dài hơn từ 15-20 ngày.
Theo tác giả sự khác nhau về mùa vụ dẫn đến sự thay đổi sản lượng trong năm ở
các vùng chè.
Nghiên cứu số đợt sinh trưởng của các giống chè PH1, 1A, TH3 Trung
Du, TRI777 trong điều kiện có đốn hái và trong điều kiện tự nhiên tác giả Lê Tất
Khương [4], Cho thấy: Tuỳ điều kiện tự nhiên giữa các giống ít có sự sai khác
về số đợt sinh trưởng, số đợt sinh trưởng tự nhiên của các giống biến động từ 3,4
- 3,6 đợt/năm. Tuy nhiên, trong điều kiện có đốn, có hái giữa các giống có sự sai
khác đáng kể về số đợt sinh trưởng giữa các giống chè, biến động từ 5,5 - 6,2
đợt/năm.
Nghiên cứu về khả năng sinh trưởng của các giống chè nhập nội trồng tại
Thái Nguyên tác giả Lê tất Khương [5] cho biết: Trong điều kiện không đốn hái có
7 giống có số đợt sinh trưởng cao hơn đối chứng từ 0,1- 0,4 đợt (cao nhất là giống
PT95- 4,2 đợt), 2 giống có số đợt sinh trưởng thấp hơn đối chứng (giống chè Trung
du), thấp nhất là giống Hoa Nhật Kim: 3,6 đợt.
Khi nghiên cứu ảnh hưởng của độ ẩm không khí với sinh trưởng búp chè tác
giả Hadfiel [25] cho biết; độ ẩm không khí có liên quan mật thiết với sinh trưởng
của búp chè. Nếu độ ẩm không khí thấp trong thời gian dài, hàm lượng nước trong
búp chè giảm, búp chè mọc chậm. Khi nhiệt độ không khí cao, độ ẩm không khí
thấp, cường độ sinh trưởng búp và quang hợp giảm, cây chè sẽ bị thiếu nước và lúc
đó cây chè có xu hướng sinh trưởng chậm lại.
Nghiên cứu về vấn đề này tác giả Carr- Stephen [24] nhận xét hầu hết các
vùng chè có lượng mưa trung bình 150 mm/tháng sẽ cho sản phẩm liên tục. Tổng
lượng mưa cả năm là 1800 mm cây chè sẽ sinh trưởng phát triển tốt, nếu lượng mưa
trong năm dưới 1500 mm mà không tưới nước cây chè sẽ phát triển kém, năng suất
thấp.



17

Nghiên cứu về sinh trưởng búp chè trong điều kiện không đốn và có đốn tác
giả Djemukhate [2] chỉ ra rằng: Trong điều kiện để giống hay không đốn các mầm
chè được phân hoá trong vụ thu, vụ đông và hình thành búp trong vụ xuân. ở những
nương chè có đốn thì sự phân hoá mầm chè chủ yếu diễn ra trong vụ xuân. Như
vậy ở nương chè có đốn và hái búp thường xuyên thì sinh trưởng búp chè bắt đầu
muộn hơn một số ngày so với nương chè để giống hay không đốn.
Khi nghiên cứu mật độ búp/tán của một số giống chè trồng tại Thái Nguyên
tác giả Lê Tất Khương (1997) [4] cũng cho rằng, các giống chè khác nhau có mật
độ búp trên tán khác nhau và những giống có mật độ búp cao thường là những
giống có khả năng cho năng suất cao..
Khi nghiên cứu mối quan hệ giữa sinh trưởng búp chè với sản lượng chè
của tác giả Nguyễn Văn Toàn [16] cho rằng: Sản lượng búp chè do 2 yếu tố: Số
lượng búp trên cây và trọng lượng búp quyết định, trong đó số lượng búp/cây có
tương quan chặt hơn đối với sản lượng, đây là yếu tố rất nhạy cảm có thể thay đổi
theo những điều kiện canh tác và các biện pháp kỹ thuật áp dụng. Còn trọng lượng
búp có tương quan thuận không chặt với sản lượng, đây là yếu tố ổn định và nó do
đặc điểm của giống quyết định, vì thế số búp/ cây có ý nghĩa rất lớn đối với sản lượng
của cây chè.
Khi định hướng cho quá trình chọn giống chè theo hướng năng suất cao các
tác giả cho rằng: Đặc điểm của những cây chè có sản lượng cao ít nhất phải có mật độ
búp cao (số lượng búp nhiều) và kích thước lá lớn. Vì vậy trong công tác chọn tạo
giống để tạo ra được những giống chè có năng suất cao, chúng ta phải hướng tới chọn
những chè có mật độ búp lớn. Trong sản xuất vấn đề đặt ra là bằng cách áp dụng các
biện pháp kỹ thuật để tạo điều kiện cho cây chè có mật độ búp lớn (số búp trên cây
nhiều) có như vậy mới có nương chè năng suất cao.
Khi nghiên cứu tương quan giữa số búp/tán và năng suất búp của nương chè
tác giả đưa ra kết luận : Tương quan giữa số lượng búp và năng suất chè là tương
quan chặt r = 0,956 ± 0,064 [30].



18

Khi nghiên cứu về mối tương quan giữa năng suất chè với một số chỉ tiêu
sinh học Tác giả Nguyễn Thị Ngọc Bình [2] đã kết luận: Năng suất của các giống
chè tương quan thuận chặt với số lượng búp (r = 0,8901) và hệ số diện tích lá (r =
0,7128), tương quan thuận nhưng không chặt với khối lượng búp (r =0,1022) và
diện tích lá (r = 0,1009)
Khi theo dõi một số giống chè nhập nội trồng tại Phú Hộ Phú Thọ Hoàng
Quang Tuấn [21] đã kết luận: Nhìn chung các giống chè trong thí nghiệm đều sinh
trưởng mạnh từ giữa tháng 3 hàng năm. Trong đó giống Long Vân 2000 là giống
sinh trưởng nhanh và cũng là giống sớm kết thúc đợt sinh trưởng. Tuy nhiên với
giống chè này nhanh có hiện tượng mù xoè do vậy cần có kế hoạch thu hái sớm để
tránh ảnh hưởng đến năng xuất và phẩm cấp. Giống Keo Am Tích là giống sinh
trưởng chậm nhất thời gian từ khi bật búp đến khi đạt tiêu chuẩn hái khoảng 58
ngày. Theo dõi tổng số búp/cây tác giả kết luận: trong số các giống chè thí nghiệm,
giống có số búp trên cây cao nhất là giống Long Vân 2000 với 32,26 búp/cây và
thấp nhất ở giống Thiết bảo Trà 23,93 búp/cây.
Tóm lại búp chè là sản phẩm thu hoạch chính của cây chè, sự sinh trưởng
búp ở các giống chè rất khác nhau. Trong các giống chè có những giống trong năm
búp sinh trưởng sớm, có những giống búp sinh trưởng muộn vì vậy trong sản xuất
để có thể có búp thu hoạch đều trong năm nên bố trí một cơ cấu giống hợp lý bao
gồm có cả những giống cho búp sớm, cả những giống cho búp muộn để có thể có
sản phẩm chè thu hoạch suốt trong năm. Mật độ búp và trọng lượng búp là những
yếu tố quyết định đến năng suất và chất lượng búp chè. Trọng lượng búp chè chủ
yếu do đặc điểm của giống quyết định vì vậy trong việc xác định cơ cấu giống cho
vung sản xuất nên chọn và bố trí những giống chè có trọng lượng búp chè lớn để có
được những nương chè năng suất cao. Số lượng búp trên cây (mật độ búp) là yếu tố
quan trọng nhất vì vậy vấn đề đặt ra trong sản xuất phải áp dụng những biện pháp

kỹ thuật để tạo điều kiện cho cây chè sinh trưởng phát triển tốt, có diện tích tán lớn,
cây chè phải ra nhiều búp. Với các biện pháp đốn hàng năm luôn làm cho tán chè


19

tăng nhanh kết hợp với biện pháp hái đúng kỹ thuật thúc đẩy cho cây chè ra nhiều
búp, làm tiền đề cho việc tạo ra nương chè có năng suất cao.
2.1.5. Lá chè
Lá chè cũng như lá các loại cây trồng khác là cơ quan quang hợp để tổng hợp
các chất dinh dưỡng từ khí trời và làm nhiệm vụ hô hấp duy trì sự sống của cây. Với
cây chè lá còn có ý nghĩa hơn vì ngoài chức năng trên nó là sản phẩm thu hoạch.
Mỗi giống chè có những đặc điểm hình thái lá như kích thước lá, mầu sắc, hình
dạng khác nhau. Đặc điểm của lá chè có liên quan trực tiếp tới khả năng sinh
trưởng, khả năng cho năng suất và chất lượng nguyên liệu chè.
Бахтадзе К.Е [30] Nghiên cứu quan hệ giữa lá chè và năng suất đã đề ra các
chỉ tiêu về lá làm căn cứ chọn giống chè như: màu sắc, kích thước lá, cấu tạo giải
phẫu lá..
Sau khi nghiên cứu mối quan hệ giữa màu sắc lá với chất lượng chè tác giả
kết luận: Dạng lá chè có màu vàng là đặc trưng và tương quan có lợi cho các chỉ
tiêu sinh hoá, nó phân biệt với lá có mầu sắc khác ở chỗ có sự khác nhau của hàm
lượng Chlorophyll, Tanin và một số chỉ tiêu khác. Dạng lá có mầu cà phê sáng đặc
trưng có lợi cho các chỉ tiêu sinh lý. Từ những kết quả nghiên cứu trên đã làm cơ sở
định hướng cho các nhà chọn tạo giống chè có thể đi theo các hướng khác nhau để
tạo ra những giống chè cho sản phẩm phù hợp với thị trường. Và nhờ những định
hướng đó có thể rút ngắn được thời gian chọn tạo giống theo những mục tiêu định
trước.
Viện sĩ Бахтадзе К.Е [30] khi nghiên cứu kích thước lá chè đã đi đến kết
luận: Kích thước lá chè biến động theo giống chè và tuổi của cây chè, trong đó
những giống chè ấn Độ thường có kích thước lá lớn nhất và kích thước lá của

những chè Nhật Bản thường nhỏ nhất.
Nghiên cứu về quan hệ giữa lá chè với năng suất chất lượng chè Бaркадзе
И.Г [30] cho rằng: Góc lá tối ưu cho quang hợp của cây chè là 450, lá chè màu vàng
là đặc trưng có lợi cho các chỉ tiêu sinh hoá búp chè.


20

Khi nghiên cứu quan hệ giữa màu sắc lá và chất lượng chè Werkhoven.J [23]
cho rằng: Nguyên liệu chè của những giống có lá màu vàng, có lông, cho sản phẩm
chè chất lượng cao hơn nguyên liệu của những giống có lá màu xanh thẫm, không
có lông. Như vậy mầu sắc lá chè cũng là một chỉ tiêu hình thái có vai trò trong việc
đánh giá phân loại giống và chất lượng các giống chè.
Nghiên cứu quan hệ giữa lá chè trưởng thành và lá thứ 3 của búp chè tôm
ba lá tác giả Бахтадзе К.Е [29] cho rằng: Lá thứ 3 của búp 1 tôm 3 lá thường có
diện tích bằng 40% lá trưởng thành.
Nghiên cứu của Hadfiel.W. [25] về chỉ số diện tích lá của các giống chè và
đã rút ra kết luân: Chỉ số diện tích lá của những giống chè có thế lá bình thường là
3-4 và của những giống chè có thế lá đứng là 5-7. Giống chè Trung Quốc chỉ số
diện tích lá cao hơn có khả năng trồng và phát triển tốt trong điều kiện ánh sáng đầy
đủ và cho năng suất cao hơn kiểu giống Assam.
Nguyễn Đình Nghĩa [11] khi theo dõi về mầu sắc lá của các giống chè đã rút
ra kết luận: Những cây chè có sản lượng cao thường là những cây, lá xanh đậm,
bóng nhoáng, dầy. Những giống chè có tỷ lệ chiều dài lá/chiều rộng lá (d/r) bằng
2,2 sẽ có sản lượng cao hơn những cây có tỷ lệ này nhỏ hơn 2,2. Sản lượng búp mù
xoà (không có tôm) và tỷ lệ búp có tôm giảm nhanh ở những giống có tỷ lệ d/r lá
lớn hơn 2,2. Giống có dạng lá bầu dục (tỷ lệ d/r lá nhỏ hơn 2,2) sản lượng cao hơn
giống có dạng lá hình mũi mác. giống chè Trung du có diện tích lá nhỏ thường cho
năng suất thấp, búp nhanh mù xoè.
Nghiên cứu cấu trúc lá chè các tác giả Nguyễn Văn Toàn - Trịnh Văn Loan,

(1994) [17], cho rằng các giống chè có sản lượng búp cao thường có góc lá từ 40 60o, khoảng cách giữa 2 lá lớn. Nghiên cứu tương quan giữa khoảng cách giữa 2 lá
của các giống chè với sản lượng búp chè các tác giả cũng cho rằng: Khoảng cách
giữa 2 lá có tương quan thuận với sản lượng búp chè (r = 0,624 ± 0,034).
Khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa diện tích lá với sản lượng búp chè
các tác giả cho rằng: Trong khoảng diện tích lá chè từ 6 cm2 - 36 cm2, khi diện


21

tích lá tăng thì sản lượng búp chè cũng tăng. Tuy nhiên những giống có diện tích
lá quá lớn thì không tuân theo quy luật này.
Nghiên cứu kích thước lá chè của các giống chè khác nhau các tác giả
Nguyễn Văn Toàn - Trịnh Văn Loan [17] Lê Tất Khương (1997) [4] đều cho rằng,
các giống chè khác nhau có kích thước lá chè khác nhau, do vậy các giống khác
nhau cũng có khả năng cho năng suất khác nhau. Nghiên cứu quan hệ giữa hệ số
diện tích lá với khả năng cho năng suất của các giống chè các tác giả Đỗ Văn Ngọc
[9] cho rằng: Hệ số diện tích lá có tương quan thuận với tổng số búp chè (R = 0,69)
và có tương quan thuận với năng suất búp chè.
Theo Nguyễn Văn Toàn [16], đặc điểm giống chè có năng suất cao ít nhất
phải có hệ số diện tích lá lớn (tạo ra số búp nhiều) và kích thước lá lớn (có khối
lượng búp lớn).
Theo Vũ Văn Vụ - Trần Văn Lài [22] cơ quan làm nhiệm vụ quang hợp ở
thực vật chủ yếu là lá. Đặc điểm hình thái cũng như cấu tạo giải phẫu của lá ảnh
hưởng trực tiếp đến quang hợp. Đối với cây chè vấn đề tăng hiệu suất quang hợp
cho cây thông qua chọn tạo giống có vai trò quan trọng và đặc biệt vì lá chè vừa là
sản phẩm thu hoạch, vừa là bộ máy quang hợp. Để khai thác hết tiềm năng sinh vật
học vốn có của bộ lá chè, cho đến nay ở Việt Nam đã có những công trình nghiên
cứu về đặc điểm hình thái và giải phẫu của lá nhằm góp phần tạo cơ sở nâng cao
hiệu quả sử dụng những giống chè chọn lọc.
Nghiên cứu hệ số diện tích lá và quan hệ giữa hệ số diện tích lá với năng suất

và các yếu tố cấu thành năng suất, tác giả Đỗ Văn Ngọc [8] cho biết: Hệ số diện tích
lá có tương quan thuận với tổng số búp/ tán chè (r =0,69- 0,57). Khi nghiên cứu hệ
số diện tích lá của các giống chè các tác giả chỉ rõ những giống chè có năng suất cao
thường có hệ số diện tích lá từ 4-6.
Tóm lại đối với cây chè lá có ý nghĩa rất quan trọng, nó không những là cơ
quan quang hợp và cũng là một phần của sản phẩm thu hoạch. Hơn thế nữa, lá chè
còn có liên quan với năng suất và chất lượng. Căn cứ vào mầu sắc lá chúng ta có
thể phần nào nhận xét được chất lượng của giống chè đó. Diện tích lá và thế lá cũng


22

biểu hiện khả năng sinh trưởng phát triển của giống chè. Chính vì vậy sẽ giúp cho
các nhà chọn giống có những định hướng chọn giống nhất định theo hướng đầu ra
của sản phẩm, và vì thế có thể rút ngắn được thời gian chọn tạo và khảo nghiệm các
giống chè.
2.1.6. Hoa, quả và hạt chè
Cây chè sau trồng tuỳ điều kiện sinh trưởng mà có khả năng ra hoa đậu quả
khác nhau. Nếu cây trồng bằng hạt thường sau 2 năm sẽ có hoa và quả lần thứ nhất,
cây trồng bằng cành giâm sẽ cho quả sớm hơn.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Kính [6] hoa chè là loại hoa lưỡng tính, đài hoa
có 5-7 cánh. Trong một hoa có rất nhiều nhuỵ đực từ 200-400, noãn sào thượng có
3-4 ô. Phương thức thụ phấn của cây chè chủ yếu là thụ phấn khác hoa, tự thụ phấn
chỉ đạt 2-3%. Khả năng ra nụ, ra hoa của cây chè thường rất lớn nhưng tỷ lệ đậu quả
lại rất thấp khoảng 12%.
Khi nghiên cứu số lượng nụ, hoa và khả năng đậu quả của các giống chè
trong điều kiện Thái Nguyên tác giả Lê Tất Khương [4], cho rằng: Trong điều kiện
sinh trưởng tự nhiên cây chè ra nhiều nụ hoa hơn so với trong điều kiện có đốn, hái.
Các giống chè thuộc biến chủng Assan, Shan có số nụ hoa ít hơn so với các giống
thuộc biến chủng Trung Quốc lá to. Theo tác giả Các giống chọn lọc có nguồn gốc

thuộc biến chủng Shan, Assam có thời gian nở hoa chậm hơn giống Trung du
(thuộc biến chủng Trung Quốc lá to) từ 10 - 25 ngày và có quả chè chín muộn hơn
giống Trung du từ 5 đến 10 ngày.
Theo tác giả Nguyễn Văn Niệm – Trần Thị Lư và Nguyễn Thị Minh Phương
[12] Khi nghiên cứu về khả năng đậu quả của giống chè 1A đã kết luận: Đặc điểm
cây chè là cây giao phấn, ở giống chè 1A các bộ phận của hoa đều lớn và phát triển,
riêng nhuỵ bị thoái hoá và độ dài chỉ bằng 1/3 so với giống PH1và giống Trung du,
đầu nhuỵ chỉ có 2 nhánh vì vậy hạt phấn của các cây khác không vào được hoa của
1A , kể cả đem hạt phấn thụ lên nó cũng không đậu quả. Trong khi đó hoa của
giống PH1 rất phát triển nhuỵ dài, nhị dài, hoa to, cánh hoa nhiều, đầu nhuỵ phân 3,
có hoa phân 4 nên khả năng sinh sản hữu tính rất mạnh, tỷ lệ đậu quả cao. Kết quả


23

của tác giả Lê Tất Khương [4] khi nghiên cứu khả năng ra hoa và đậu quả của một
số giống chè tại Thái Nguyên cũng có kết luận tương tự về khả năng đậu quả của
giống chè 1A.
Như vậy mỗi giống chè có khả năng ra hoa và đậu quả khác nhau, thời gian
ra hoa và đậu quả cũng khác nhau. Ngày nay với sự phát triển của khoa học kỹ
thuật, công nghệ nhân giống vô tính đối với cây chè đã đạt được những kết quả nhất
định, do vậy việc trồng chè bằng hạt ít được áp dụng do những nhược điểm của nó.
Tuy nhiên nghiên cứu về khả năng ra hoa và đậu quả, đặc biệt là thời gian nở hoa
của các giống chè có ý nghĩa rất quan trọng trong vấn đề lai tạo, bố trí các cặp bố
mẹ để lai tạo cho hợp lý và có hiệu quả.
2.2. Tình hình nghiên cứu chọn giống chè trên thế giới và ở Việt Nam
2.2.1. Tình hình nghiên cứu chọn giống chè trên thế giới
Trên thế giới hiện nay thì việc tuyển chọn giống và nhập nội giống là hai
hướng chủ yếu trong nghiên cứu, chọn tạo giống chè mới. Từ những giống chè mới
chọn lọc được trong nước và các giống tốt nhập nội các nhà khoa học đã tiến hành

khảo nghiệm, so sánh, khu vực hóa, mở rộng trong sản xuất là hướng đi của nhiều
nước trên thế giới nhằm xác định giống tốt cho từng vùng, từng khu vực, đáp ứng
theo nhu cầu của thị trường xuất khẩu.
Trung Quốc là nước có lịch sử trồng chè, chế biến và tiêu thụ chè lâu nhất
thế giới. Ngay từ thời nhà Minh đã có những loại chè thương phẩm nổi tiếng vè chất
lượng như Bạch Kê Quan, Đại Hồng Bào, Ngự Trà, Thiết Quan Âm, Long Tỉnh.
Hiện nay giống chè của Trung Quốc rất đa dạng và phong phú, có nhiều giống nổi
tiếng như: Chính Hòa, Đại Bạch Trà, Thiết Bảo Trà, Hoa Nhật Kim, Hùng Đỉnh
Bạch. Năm 1989 Trung Quốc đã đăng ký 52 giống nhà nước. Hiện nay, Trung Quốc
có 17 cơ quan nghiên cứu về chè, đã có 90 giống chè được công nhận là giống quốc
gia.
Ấn Độ, bằng phương pháp chọn giống đã chọn ra những giống chè có năng
suất cao chất lượng tốt. Bộ giống chè của Ấn Độ chủ yếu làm nguyên liệu chế biến


×