Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

ĐỀ CƯƠNG môn CHUYÊN đề văn học CUỐI KHÓA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.83 KB, 26 trang )

ĐỀ CƯƠNG MÔN CHUYÊN ĐỀ VĂN HỌC CUỐI KHÓA
ĐHSPTHK13A

NHÀ VĂN NAM CAO
1. Cuộc đời.
- Nam Cao (1917 - 1951) tên khai sinh là Trần Hữu Tri. Ông sinh ra trong
một gia đình trung nông, đông con tại làng Đại Hoàng, Lí Nhân, tỉnh Hà
Nam.
- Nam Cao là người con duy nhất được ăn học tử tế. Sau khi học hết bậc
Thành chung, ông bôn ba kiếm sống nhiều nơi. Nhưng do sức khoẻ yếu, ông
phải trở về quê kiếm sống bằng nghề dạy học và viết văn. Nam cao đã phải
trải qua những ngày chật vật vì miếng cơm manh áo như những nhân vật trí
thức tiểu tư sản trong các tác phẩm của ông.
- Năm 1943, Nam Cao tham gia nhóm Văn hoá cứu quốc.
- Năm 1948 ông có mặt trong đoàn quân Nam tiến. Ông nhiệt tình tham gia
các hoạt động văn hoá phục vụ kháng chiến.
- Năm 1951, ông đã hy sinh trên đuờng đi công tác vùng địch hậu Liên khu III
khi tài năng đang ở độ chín.
- Năm 1996, Nam Cao được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và
nghệ thuật.
2. Sự nghiệp.
- Sáng tác trước Cách mạng của Nam Cao tập trung vào hai đề tài chính:
cuộc sống người trí thức nghèo và cuộc sống người nông dân.
+ Ở đề tài trí thức tiểu tư sản nghèo, đáng chú ý nhất là các truyện ngắn:
Những truyện không muốn viết, Trăng sáng, Đời thừa, Cười, Nước mắt, Mua
nhà… và tiểu thuyết Sống mòn. Trong khi miêu tả hết sức chân thực tình cảnh
nghèo khổ, bế tắc của những nhà văn nghèo, những ông "giáo khổ trường tư",
học sinh thất nghiệp… Nam Cao đã làm nổi bật tấn bi kịch tinh thần của họ,
những con người có ý thức sâu sắc về sự sống, muốn sống có hoài bão, phát
triển nhân cách nhưng cứ bị gánh nặng cơm áo hàng ngày làm cho "chết mòn"
về tâm hồn.


+ Trong đề tài nông dân, đáng chú ý nhất là các truyện: Chí Phèo, Trẻ con
không được ăn thịt chó, Mua danh, Tư cách mõ, Điếu văn, Một bữa no, Lão
Hạc, Một đám cưới, Dì Hảo, Nửa đêm… Ở một số truyện viết về người nông
dân lưu manh hóa, nhà văn kết án sâu sắc cái xã hội tàn bạo đã hủy diệt cả
nhân tính của những con người vốn có bản tính lương thiện đó.
– Sau Cách mạng tháng Tám, Nam Cao sáng tác để phục vụ công cuộc
kháng chiến. Truyện ngắn Đôi mắt (1948), Nhật kí ở rừng (1948) và tập bút kí


ĐỀ CƯƠNG MÔN CHUYÊN ĐỀ VĂN HỌC CUỐI KHÓA
ĐHSPTHK13A
Chuyện biên giới (1950) của ông thuộc vào những sáng tác đặc sắc nhất của
nền văn học mới sau Cách mạng còn rất non trẻ khi đó.
– Là cây bút có cái gốc nhân đạo rất sâu và một tài năng độc đáo bậc thầy,
Nam Cao xứng đáng được coi là một nhà văn lớn. Chí Phèo và nhiều truyện
ngắn, tiểu thuyết của ông thuộc vào những sáng tác đặc sắc nhất của văn xuôi
Việt Nam.
- Những tác phẩm được xem như là tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao.
+ Trăng sáng (1943), Đời thừa (1943)
+ Đôi mắt (1948).
1. Hình ảnh người nông dân Việt Nam trước CMT8 trong truyện ngắn
Nam Cao.
- Mỗi tác phẩm của nhà văn là một lời tố khổ chân thực, cảm động về cuộc
sống tối tăm, thê thảm của người nông dân.Nông thôn trong tác phẩm Nam
Cao là nông thôn Việt Nam vốn triền miên trong bần cùng, giờ đây đang tiến
tới thảm họa khủng khiếp 1945.
- Cảnh chết đói:
+ Lão Hạc ăn bả chó tự tử để tránh chết đói.
+ Anh Cu Phúc chết lặng lẽ trong xó nhà ẩm thấp trước đôi mắt "dại đi vì quá
đói " của hai đức con (Ðiếu văn).

+ Bà cái Tí chết vì một bửa quá no, một kiểu chết đói (Một bửa no).
+ Cảnh đám cưới chạy đói (Một đám cưới). Một đám cưới của Dần trong
cảnh nghèo, không đón đưa, không may mặc, không cỗ bàn, một đám cưới có
6 người cả nhà gái nhà trai: : "cả bọn đi lũi lũi trong sương lạnh và bóng tối
như một gia đình xẩm lẳng lặng dắt nhau đi tìm chỗ ngủ ".
- Còn biết bao nhiêu truyện thương tâm về người nông dân bị đày đọa nhục
nhằn xung quanh cái đói (trẻ em không biết ăn thịt chó). Nghèo từ ngày mẹ
chết, Ðòn chồng.
- Nam Cao chú ý đến những người thấp cổ bé họng nhất, bị áp bức bất công
nhiều nhất, chịu số phận đen đủi, hẩm hiu.
+ Những kẻ cố cùng như Bình Chức "làm thì cật lực mà quanh năm vẫn
nghèo rớt mùng tơi, chỉ vì một miếng ăn mà cũng không giữ được mà ăn, đứa
nào vớ được nó cũng xoay mà đứa nào xoay cũng chịu". Như Chí Phèo bị cả
xã hội bỏ rơi ngay từ khi mới ra đời. Ðó là Thị Nở một người đàn bà ế chồng,
sinh ra từ một gia đình có mả hủi, bị loài người xa lánh. Ðó là một mụ Lợi,


ĐỀ CƯƠNG MÔN CHUYÊN ĐỀ VĂN HỌC CUỐI KHÓA
ĐHSPTHK13A
Cu Lộ Lang Rận, những người không được loài người coi là người. Ðó là
thân phận trâu ngựa của những đứa ở cho nhà giàu, những cái Tí, cái Dần,
anh Cu Phúc ăn thì chẳng bao giờ đủ no mà công việc và những lời chửi rủa
thì thừa bửa tứa tát.
+ Bị ức hiếp nhiều nhất có lẽ là người phụ nữ trong xã hội; đó là dì Hảo (Dì
Hảo), Nhu (Ở hiền) những cô gái hiền như một ngụm nước mưa, cả đời chỉ
biết yêu thương, nhường nhịn nhưng cả đời chỉ gặp cay đắng phủ phàng. Ðó
là Mụ Lợi (Lang Rận), 36 tuổi vẫn lận đận về chuyện chồng con, chỉ vì nghèo
quá suốt đời đi ở "kể người ta nuôi mụ chỉ biết nuôi, nuôi để mụ hầu hạ người
ta, còn cái sự mụ có chồng hay không có chồng thì mặc mụ ".
Trong xã hội ấy, thân phận người phụ nữ là thân phận nô lệ, luôn bị chà đạp

thô bạo, bất công có khi họ là nạn nhân khốn khổ cùng kẻ mà họ phải thờ
phụng. Những thằng chồng vũ phu, tham ăn tục uống, hành hạ vợ một cách dã
man (Ở hiền, Dì Hảo, Ðòn chồng, Trẻ em không được ăn thịt chó )
Ði vào cuộc đời những con người bị ức hiếp nhiều nhất, càng hiền lành càng
lụi xuống bùn đen, Nam Cao đã làm nổi bật lên tình trạng bất công ghê gớm
trong xã hội: "tại sao trên đời này nhiều sự bất công đến thế ?". câu hỏi không
lời giải đáp đó trong “ Ở hiền" một truyện ngắn có tính chất luận đề nghi vấn,
cái "đạo lí ở hiền gặp lành " cũng là vấn đề Nam Cao đặt ra trong hầu hết tác
phẩm của mình.
+ Truyện ngắn "Chí Phèo"
a. Chí Phèo lương thiện
- Trong làng Vũ đại, Chí Phèo là thằng cùng hơn cả thằng cùng, không cha
mẹ, không người thân thích, không nhà cửa không có miếng đất cắm dùi.
- Tuổi thơ bơ vơ hết đi ở cho nhà máy lại đi ở cho nhà khác, đến tuổi thanh
niên làm canh điền cho Bá Kiến.
-Sống cuộc sống lao động cực khổ của người cố nông, khỏe mạnh, hiền lành,
chất phác.
-Có những ước mơ chân chính: một gia đình nhỏ làm thuê cuốc mướn vợ dệt
vải. Trong xã hội cũ, ước mơ chỉ là ảo tưởng, còn đau xót khổ cực mới là hiện
thực.
- Chí Phèo là một thanh niên có tâm hồn đẹp: yêu - ghét, khinh - trọng rất rõ.
Anh đã phân biệt tình yêu chân chính với thói dâm dục xấu xa. Bị gọi lên bóp
chân, đùi cho bà ba anh chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì.
- Khi tỉnh rượu, anh tha thiết được trở lại với xã hội loài người "thèm lương
thiện muốn làm hòa với mọi người biết bao".
- Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã loé lên một tia chớp trong chuỗi ngày tăm tối
dằng dặc. Sự săn sóc giải dị ở Thị Nở, người đàn bà khốn khổ ấy đã khơi dậy,


ĐỀ CƯƠNG MÔN CHUYÊN ĐỀ VĂN HỌC CUỐI KHÓA

ĐHSPTHK13A
đánh, thức bản chất lương thiện của người cố nông Chí Phèo.
- Lần đầu tiên sau bao năm Chí Phèo nghe tiếng chim hót vui vẻ, tiếng cười
nói của mấy người đi chợ về, tiếng anh thuyền chài gõ đuổi cá. Ðây là tiếng
gọi tha thiết của sự sống đang níu kéo anh trở về với lương thiện.
b. Chí Phèo lưu manh
- Quãng đời lương thiện của Chí Phèo quá ngắn ngủi và chấm dứt khi bị Bá
Kiến cho giải lên huyện rồi đi ở tù : Sau bảy tám năm biền biệt, khi trở về Chí
hoàn toàn thay đổi.
- Hắn không còn là người nông dân nữa mà là phần tử bị loại ra ngoài xã hội.
- Nhà tù thực dân bắt người lúc lương thiện và thả ra thành hung dữ, nhà tù
giết cái phần "người " của Chí, chỉ còn lại cái phần "con". Hiện tượng bi thảm
ấy có tính chất qui luật, tính phổ biến trong cái xã hội ăn thịt người. Trong
truyện ngắn của Nam Cao, ta đã gặp những họ hàng xa gần của Chí Phèo như
Trạch Văn Ðoành, Lê Văn Rự (Ông thiên lôi) "Nửa đêm", Cu Lộ Tư cách mỏ
", Tư Lăng, Binh Chức, Năm Thọ những tiền bối gần xa của Chí Phèo.
- Những cơn say triền miên của Chí dẫn đến hậu quả : say ( chửi; say (cướp
giật; say ( chém giết.
- Chí Phèo sống cuộc đời bản năng thô bạo, cũng giống như những người bạn
say của Chí "lúc nào cũng nghĩ tới màu xanh của một chai rượu văn điển và
màu vàng của một đùi thịt chó nướng".
- Chí Phèo trở thành tên quỉ dữ của làng Vũ Ðại. Chí Phèo sống trần trụi, Chí
Phèo gây tội ác một cách vô ý thức.
- Sau khi bị Thị Nở cự tuyệt, Chí Phèo rơi vào bi kịch của con người không
được làm người, muốn làm lại cuộc đời không được chấp thuận. Trong cơn
tuyệt vọng, Chí vác dao đi trả thù.
- Chí Phèo chưa có ý thức giai cấp rõ rệt nhưng dây không phải là một hành
động trả thù có tính chất bản năng mù quáng. Chí Phèo truy tìm nguyên nhân,
phù hợp với trạng thái như chập chờn say tỉnh của Chí Phèo.
- Chí Phèo chưa có ý thức trả thù Bá Kiến ngay. Trước tiên nghĩ đến bà cô

Thị Nở. Phải chăng theo thói quen của bước chân, Chí đến thẳng nhà Bá
Kiến, nhưng cũng không hẳn là quen chân mà sâu xa hơn là một nhân tố mới
đã xuất hiện trong ý thức của người nông dân.
- Hai chữ "lương thiện" thốt lên ở cửa miệng con người khốn khổ vừa là một
lời cầu mong, một niềm phẩn uất đồng thời là một điều tuyệt vọng.
- Chí Phèo trong trạng thái tỉnh của một cơn say đã lần ra đầu mối của vấn đề.
Chí Phèo hiểu rỏ Bá Kiến đãtước đi cái quyền làm người lương thiện và khả
năng trở lại một người lương thiện. Tiếng gọi đòi trở lại người lương thiện
mang nội dung xã hội và có ý nghĩa giai cấp. Nó như một tia sáng vụt dậy qua
suốt cả cuộc đời cực nhọc tăm tối và đó cũng là giây phút tỉnh táo, có ý thức
nhất, vượt lên khỏi trạng thái bản năng tự nhiên. Chí Phèo muốn được trở lại


ĐỀ CƯƠNG MÔN CHUYÊN ĐỀ VĂN HỌC CUỐI KHÓA
ĐHSPTHK13A
chính mình, trở về với bản chất vốn có của người nông dân sau những năm
tháng dài bi tha hóa.
- Trong tác phẩm của Nam Cao ta thường gặp những nhân vật nông dân xấu
xí, thô lỗ, độc ác, nhục nhã trong cuộc sống của họ.
+ Ðiều đó khiến cho một số người hoài nghi ý nghĩa hiện thực và nhân đạo
của nhiều truyện Nam Cao. Ðúng là trong sự biểu hiện một số truyện Nam
Cao có vẻ tự nhiên chủ nghĩa. Nhưng không như những nhà văn chủ nghĩa
nhìn quần chúng như một lũ vật - người ngu dốt đầy thú tính.
+ Trái lại từ cái bề ngoài xấu xí, có khi rất thú vật của người nông dân đã phát
hiện ra tâm hồn con người. Nam Cao không chỉ nói đến tình cãnh bị bóc lột
về thể chất mà đi sâu vào nổi khổ, tâm hồn con người bị đày đọa, nhân phẩm
bị xúc phạm, giá trị làm người bị tước đoạt.
"Một bữa no" là câu chuyện cay đắng thê thảm về cái chết nhục nhã của một
bà lão khốn nạn
"Ðòn chồng" là câu chuyện về một người đàn bà khác bị sỉ nhục, bêu riếu

hành hạ dã man.
"Lang Rận" là một câu chuyện cực nhục thê thảm nhất. Lang Rận con người
nghèo khổ, bẩn thỉu bị mọi người hắt hủi đã tìm đến với Mụ Lợi - một người
đàn bà xấu xí bị hắt hủi như mình. Nhưng mối tình chính đáng tội nghiệp của
họ trở thành trò bêu riếu trò chơi thú vị kích thích tính tò mò của hai đưá đàn
bà nhà giàu "nồng nộng chơi, không suốt ngày tơ tuốt ", "cười hy hý và phát
lưng nhau đồm độp ... ". Cuối cùng chúng đã đặt Lang Rận vào một tình thế
vô cùng nhục nhã khiến Lang Rận chỉ còn một cách thắt cổ tự tử.
Bị sỉ nhục tàn tệ, người nông dân khốn khổ chỉ có thể hoặc từ bỏ cuộc sống
như Lang Rận, hoặc phải từ bỏ lòng tự trọng nhân phẩm như Cu Lộ, Chí
Phèo.
- Nam Cao đã đanh thép lên án cái xã hội chà đạp người nông dân lương thiện
và dõng dạc bênh vực nhân phẩm của họ ngay trong khi bị nhục mạ một cách
độc ác bất công.
- Miêu tả người nông dân Nam Cao quá thiên về mặt tha hóa nặng nề, những
con người xấu xí đến quái dị, ý nghĩa thẩm mỹ rất mỏng manh.
=> Trước Cách mạng tháng Tám ít có nhà văn hiểu được cách sâu xa ngõ


ĐỀ CƯƠNG MÔN CHUYÊN ĐỀ VĂN HỌC CUỐI KHÓA
ĐHSPTHK13A
ngách sâu kín, những hy sinh thầm lặng mà cao quí trong tâm hồn người nông
dân như Nam Cao. Ðó là chỗ mạnh trong cái tài của nhà văn nhưng trước hết
là ở cái tâm "chữ tâm kia với bằng ba chữ tài " tức là ở tấm lòng tri âm của
nhà văn đối với người nông dân nghèo khổ.
7, Đề tài, tấn bi kịch của người trí thức trước CMT8.
- Nam cao đã để lại cho ta một bức tranh hiện thực, đồng thời cũng để lại cho
ta một thông điệp. Người ta có thể sống mà không cảm thấy đời mình là đời
thừa; không cảm thấy sống là sống mòn, là một cách chết mòn
- Thời kì văn học 1930-1945, không ai vượt được Nam Cao trong việc mô tả

tấn bi kịch của người trí thức, nhất là người tri thức nghèo trong xã hội cũ.
Chỉ xét riêng một truyện ngắn “Đời thừa” (in lần đầu tiên vào cuối năm
1943), ta cũng có thể nhận ra tấn bi kịch ấy với bao nghịch cảnh, bế tắc, xót
xa.
- Hộ, nhân vật chính của “Đời thừa", là một nhà vãn có tài và đầy tâm huyết.
Người đọc có thế nhận ra ở Hộ nhiều nét tự truyện của chính Nam Cao. Hộ đã
từng viết được những tác phẩm có giá trị, được bạn bè cùng giới viết văn và
người đọc yêu mến, cổ vũ. Nhưng, không muốn dừng lại ỏ bất kì chặng nào
của thành công, không bao giờ mãn nguyện với những gì đã được viết ra, Hộ
luôn luôn khao khát vươn tới cái tận thiện tận mĩ của nghệ thuật. Hộ thèm
khát nghĩ đến một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm cùng ra một thời.
- Hộ dốc lòng phụng sự nghệ thuật. Với Hộ, nghệ thuật là tất cả, là trên hết,
niềm đam mê nghệ thuật cao nhất, loại trừ hết mọi đam mê khác. Công việc
hàng ngày của Hộ chỉ còn có hai thứ: đọc và viết, không viết thì đọc, không
đọc thì viết; đọc để càng hoàn thiện thêm cây bút của mình, đọc để thưởng
thức cái đẹp chân chính, cái đẹp cao thượng của văn chương nghệ thuật; viết
để sáng tạo, để thể hiện những khát vọng đẹp đẽ của mình về văn chương thế
sự. Đọc và viết, Hộ quên tất cả cuộc đời nhỏ nhen, quên tất cả những khó
khăn, nghèo túng của một nhà văn nghèo. Trong cách nhìn của Hộ, cả cái
nghèo túng ấy cũng là một nét đẹp, cái đẹp của một nhà văn, một con người
quên mình vì văn chương, nghệ thuật.
- Hộ (và cả Nam Cao nữa) có là một nhà văn nghệ thuật vì nghệ thuật không?
Không. Bởi với Hộ, nghề văn thật là một nghề cao đẹp trong đời, là một nghề
có ý nghĩa phục vụ con người, phụng sự nhân loại - ở mức độ cao. Nó làm
cho con người trở nên phong phú hơn, cao thượng hơn, nhân ái và độ lượng
hơn, gần gũi nhau hơn. Hộ tự đòi hỏi cao và không bao giờ tự bằng lòng về


ĐỀ CƯƠNG MÔN CHUYÊN ĐỀ VĂN HỌC CUỐI KHÓA
ĐHSPTHK13A

mình, vì cái đẹp, sự tuyệt đối của nghệ thuật, đồng thời cũng vì một ý thức
trách nhiệm cao đối với người đọc, đối với nhân loại mà Hộ phụng sự. Đối
với Hộ, đưa ra cho người đọc một tác phẩm mờ nhạt, nông cạn, hơn nữa, lại
viết cẩu thả, là một việc làm thiếu lương tâm, tệ hơn nữa, đó là một sự lừa gạt.
Không muốn chỉ làm một người thợ khéo tay trong nghề văn, Hộ muôn khơi
những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có. Cuộc đời mà
sống với những hoài bão như của Hộ, luôn phấn đấu để vươn tới, đế hoàn
thiện, luôn nhìn thấy mối mâu thuẫn giữa điều đã làm được và điều đáng phải
làm được, luôn cố gắng đế xóa bỏ vươn tới; nguyên chừng ấy thôi dã đủ để
cho người ta không yên, đã đù để người ta phải sầu khổ, nhiều khi cảm thấy
đổ vỡ. Nhưng không chỉ có thế, tấn bi kịch của Hộ còn lớn hơn nhiều!
- Là một người tôn thờ cái đẹp, cái cao thượng trong văn chương, Hộ cùng
muốn sống đẹp trong tư cách một con người. Và Hộ đã có một hành động
đẹp, tuyệt đẹp của lòng nhân ái. Hộ đã cứu danh dự của Từ, cứu sống đời Từ,
cưu mang Từ đúng vào lúc Từ cần đến những điều ấy nhất. Trong tư cách một
người chồng, một người cha, Hộ muốn Từ và các con mình hạnh phúc, ít nhất
là không khổ và không đau khổ. Nhưng Hộ đà làm được những gì? Từ càng
ngày càng khổ, càng gầy gò, xanh xao vì thiếu thốn, đói khát. Các con Hộ thì
càng nheo nhóc, tật bệnh. Nguyên chỉ nhìn thấy cái cảnh ấy cũng đã đau khổ
rồi, đầy bi kịch rồi, bi kịch của một người muốn làm điều tốt, muốn hạnh
phúc cho người khác mà không sao làm được.
- Tuy nhiên bi kịch chính của Hộ là ở chỗ : mối mâu thuẫn giữa khát vọng của
một người nghệ sĩ với ước muốn là một con người tốt đẹp. Để có tiền nuôi vợ
nuôi con (đâu chỉ có mức độ thiếu đói), Hộ phải viết vội những tác phẩm mà
ngay khi viết ra xong, chính Hộ đã thấy chán. Hộ phải chống lại ngay chính
mình, vi phạm ngay những tiêu chuẩn mà Hộ đặt ra cho mình trong tư cách
nhà nghệ sĩ. Viết văn để kiếm tiền, viết vội, viết cẩu thả, đó là điều không thể
tha thứ, không thể bào chữa được, đối với Hộ. Nhưng để làm một người nghệ
sĩ chân chính ư? Thì Hộ phải bỏ mặc vợ con, thậm chí tàn nhẫn với vợ con.
Nhưng như thế, với Hộ, lại là hèn nhát, là vô lương tâm, cũng không thể tha

thứ được. Hộ đã chẳng từng nêu như một tiêu chuẩn sống là gì: Kẻ mạnh
chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình. Hộ không thể chọn lấy một
trong hai con đường: hi sinh nghệ thuật để làm một người chồng, người cha
tốt, hoặc vì cái đẹp tối thượng của nghệ thuật mà hi sinh phần con người, làm
một con người nhẫn tâm, vô trách nhiệm. Cả hai thứ trách nhiệm ở Hộ đều
được ý thức rất cao. Hộ không có quyền, và không thể chọn lấy và hi sinh bất
kì phần nào tấn bi kịch thường xuyên dai dẳng của Hộ chính là ở đó. Trên cả
hai phương diện trách nhiệm, Hộ đều cảm thấy mình làm được ở mức tồi
nhất. Vì thế mà Hộ luôn luôn lên án mình, tự xỉ vả mình. Tấn bi kịch ấy trở


ĐỀ CƯƠNG MÔN CHUYÊN ĐỀ VĂN HỌC CUỐI KHÓA
ĐHSPTHK13A
thành một chứng u uất trầm kha nơi Hộ, có những lúc đã bộc phát lên. Những
lúc ấy, những lúc say rượu, Hộ đã chọn lấy một, đã muốn tìm một giải phóng
cực đoan nhất. Nhưng rồi tỉnh cơn say, tình thế vẫn vậy, cái vòng luẩn quẩn
vẫn vậy, xem chừng lại nặng nề, bi đát hơn.
- Đời thừa kết thúc bằng một lần tỉnh rượu của Hộ sau một cơn say (trước đó
đã bao nhiêu lần như thế?), Hộ khóc trước cái dáng nằm ngủ khổ sở của Từ,
trong vòng tay gầy yếu của Từ. Cả Từ cũng khóc. Hộ khóc vì hối hận đã tệ
bạc, đã tỏ ra thô bạo với Từ. Nhưng nguyên nhân chính, hẳn Hộ đã khóc cho
nỗi đau của mình, khóc vì cái bế tắc và đẹp nhất của mình. Rồi cả Từ nữa, Từ
cũng khóc vì cô đã mơ hồ nhận ra điều đó.
- Đời thừa có phải là tấn bi kịch muôn đời của người trí thức? Người ta có thể
vừa sống với hoài bão lớn lao hiến dâng cho sự nghiệp, vừa sống với phần
con người tốt đẹp của mình không? Được lắm chứ. Thế thì nguyên nhân bi
kịch của Hộ ở đâu? Chính là ở sự bế tắc chật hẹp của đời sống. Cái vòng lẩn
quẩn mà xã hội đã khép chặt lại trên thân phận người trí thức nghèo trong xã
hội cũ, đặc biệt xã hội Việt Nam thời kì 1930-1945.
=> Với Đời thừa, Nam Cao đã để lại cho ta một bức tranh hiện thực, đồng

thời cũng để lại cho ta một thông điệp. Người ta có thể sống mà không cảm
thấy đời mình là đời thừa; không cảm thấy sống là sống mòn, là một cách chết
mòn. Muốn thế, phải giật tung hết những cái lẩn quẩn, những bế tắc của đời
sống đi. Cuộc khỏi nghĩa tháng Tám đã làm công việc đó.

NHÀ VĂN THẠCH LAM
1. Cuộc đời và sự nghiệp.
- Thạch Lam sinh ngày 7/ 7/1910 tại Hà Nội, nhưng nguyên quán ở làng Cẩm
Giàng, tỉnh Hải Dương. Trong một gia đình có truyền thống văn học.
- Thạch Lam là một nhà văn Việt Nam nổi tiếng thuộc nhóm Tự Lực văn
đoàn. Ông cũng là em ruột của 2 nhà văn khác nổi tiếng trong nhóm Tự Lực
văn đoàn là Nhất Linh và Hoàng Đạo. Ngoài bút danh Thạch Lam, ông còn có
các bút danh là Việt Sinh, Thiện Sỹ
- Đến 1935, ông được giao làm Chủ bút tờ Ngày nay.


ĐỀ CƯƠNG MÔN CHUYÊN ĐỀ VĂN HỌC CUỐI KHÓA
ĐHSPTHK13A
- Khoảng năm 1935, Thạch Lam lấy vợ là bà Nguyễn Thị Sáu. Ông được
người chị (Nguyễn Thị Thế) nhường lại căn nhà nhỏ tại đầu làng Yên Phụ,
ven Hồ Tây (Hà Nội) cho vợ chồng ông ở.
- Năm 1942 , Thạch Lam mất lúc mới 32 tuổi, khi đang còn trong độ tuổi rực
rỡ trên văn đàn.Ông ra đi để lại người vợ trẻ cùng với ba đứa con thơ trong
cảnh nghèo.* Sự nghiệp : Có xu hướng đa dạng các thể loại
- Hầu hết sáng tác của Thạch Lam được đăng báo trước khi in thành sách. Tác
phẩm gồm có:


Gió đầu mùa (tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Đời nay, 1937)




Nắng trong vườn (tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Đời nay, 1938)



Ngày mới (truyện dài, Nhà xuất bản Đời nay, 1939)



Theo giòng (bình luận văn học, Nhà xuất bản Đời nay, 1941)



Sợi tóc (tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Đời nay, 1942)



Hà Nội băm sáu phố phường (bút ký, Nhà xuất bản Đời nay, 1943)

Và hai quyển truyện viết cho thiếu nhi:Quyển sách, Hạt ngọc. Cả hai
đều do Nhà xuất bản Đời Nay ấn hành năm 1940.
. Chọn 1 tác phẩm đặc sắc nhất để phân tích và thấy được sự tin yêu của
nhà văn Thạch Lam với con người.
- Thạch Lam (1910 – 1942) là cây bút có tài nhất trong Tự lực Văn đoàn.
Hàng loạt những truyện ngắn của ông ghi dấu ấn của một tấm lòng nhân ái ,
như làn gió đầu mùa se lạnh, thấm đẫm niềm cảm thông trước những số phận
bất hạnh, những cuộc đời chìm trong bóng tối. Thấp thoáng trong những câu
chuyện của ông bóng hình kỷ niệm của những ngày tháng đã hằn sâu trong ký
ức tuổi thơ Thạch Lam. Hai đứa trẻ, tác phẩm thấm đượm tình người, như

minh chứng tiêu biểu cho một tấm lòng nhân ái.


- Có người đã nhận xét, mỗi truyện ngắn Thạch Lam như một bài thơ trữ tình.
Thế Lữ, một người bạn của ông đã nhận xét: “Sự thực của tâm hồn mà Thạch
Lam diễn trong lời của văn chương phức tạp nhiều hình nhiều vẻ, nhưng bao
giờ cũng đằm thắm, cũng nhân hậu, cũng nghẹn ngào một chút lệ thầm kín
của tình thương”. Tình thương với con người trong Hai đứa trẻ hình thành
trên nền không gian phố huyện nghèo đầy bóng tối, với những cuộc đời lầm
lụi, vất vả mưu sinh: mẹ con chị Tý, bác phở Siêu, gia đình bác Xẩm. Nhưng


ĐỀ CƯƠNG MÔN CHUYÊN ĐỀ VĂN HỌC CUỐI KHÓA
ĐHSPTHK13A
những nhân vật được ông dành cho “chút lệ thầm kín”, yêu thương chân thành
nhất có lẽ là hai chị em Liên và An. Bởi hai đứa trẻ chính là một mảng đời
nghèo túng của hai chị em Thạch Lam tại phố huyện Cẩm Giàng (Hải
Dương). Thế giới phố huyện hiện ra qua góc nhìn trẻ thơ chứa đựng những bí
mật mơ hồ. Hơn ai hết, Thạch Lam hiểu rõ tâm trạng của những em bé không
có tuổi thơ khắc khỏai, đau đớn thế nào, bởi đó chính là những gì nhà văn đã
từng trải nghiệm. Tất thảy những gì nhà văn đem đến trong câu chuyện không
có cốt truyện này: không gian đìu hiu phố huyện, thời gian đi dần vào đêm
khuya, đến những khỏanh khắc sống của Liên và An chờ đợi chuyến tàu cuối
cùng băng qua phố huyện… mang ý nghĩa thông điệp của một tấm lòng chân
thành : đừng bao giờ lãng quên những cuộc đời trong bóng tối! Và chính ông
là người đã khơi dậy những nguồn sáng lạ kỳ để mỗi người đọc chúng ta thấm
thía vẻ đẹp bình dị và sâu sắc của con người.
- Thạch Lam là người ý thức rõ hơn hết về thiên chức của người cầm bút chân
chính trong lời tựa Gió đầu mùa : “Văn chương không phải là cách đem đến
cho người đọc sự thoát ly hay sự quên. Mà trái lại văn chương là một thứ khí

giới đắc lực và thanh cao mà chúng ta có để tố cáo và thay đổi một cái thế
giới giả dối và tàn ác; vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong
phú hơn lên”. Quan niệm ấy đã thể hiện trên từng trang văn, từng dòng cảm
xúc ở Hai đứa trẻ, làm nên phẩm chất hàng đầu ở văn Thạch Lam, làm người
đọc được sống cùng thế giới của lòng nhân ái. Tấm lòng ấy giúp ông tạo dựng
được không khí thắm đượm tình người, đi sâu khai phá những vẻ đẹp rất
người và nói lên những tâm tình khát vọng con người. Người đọc có dịp thẩm
thấu những nét đời thường một cách tinh tế mà nếu vô tình chúng ta rất dễ bỏ
qua, trong một câu chuyện đan xen những yếu tố hiện thực – thi vị trữ tình,
với những ấn tượng và cảm giác không thể phai mờ về cuộc sống và con
người phố huyện.
- Đó là cuộc sống đã được nhà văn tái hiện bằng tất cả những ấn tượng đậm
nét nhất của một thời dĩ vãng. Không gian được dựng lên bằng hồi tưởng giúp
ta suy tưởng sâu sắc hơn về cuộc sống của con người trong những hòan cảnh
đầy ám ảnh bóng tối phủ chụp lên cuộc đời. Mỗi một chi tiết của phố huyện
như khơi dậy bao nỗi niềm con người. Từ một nhịp sống chậm chạp, nặng nề,
rời rạc mở đầu với “tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ từng
tiếng một vang ra để gọi buổi chiều”, một cảm giác lắng buồn cứ tăng dần
cùng âm thanh “ếch nhái” đến “tiếng muỗi vo ve”. Sự yên tĩnh không đem lại
cảm giác êm ả cho lòng người mà tiếp liền đó là những hình ảnh hiện lên qua
ánh nhìn của cô bé Liên, một đôi mắt đầy bóng tối. “Cái giờ khắc của ngày
tàn” cũng mở ra những cuộc đời tàn héo.


ĐỀ CƯƠNG MÔN CHUYÊN ĐỀ VĂN HỌC CUỐI KHÓA
ĐHSPTHK13A

- Những cuộc đời ấy thấp thoáng trong quang cảnh chợ vãn: “Chợ họp giữa
phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”, “mấy đứa trẻ con nhà
nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh

thanh nứa, thanh tre, hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán
hàng để lại”. Những nét phác hoạ đơn sơ ấy làm tăng nét hiện thực điển hình
của phố huyện. Những chi tiết ấy không chỉ chứng tỏ năng lực quan sát tinh
tường của nhà văn mà còn cắt nghĩa cụ thể cho độ nhạy cảm của một tâm hồn
không bỏ qua bất cứ một biểu hiện nhỏ nhặt bình thường của cuộc sống để từ
đó khơi ln những liên tưởng về thân phận con người. Để rồi, ông hướng sự
quan tâm của người đọc về những số phận cụ thể: mẹ con chị Tý ngày đi mò
cua bắt tép, tối dọn hàng nước, chiều nào cũng thế, theo một chu kỳ đều đặn
“từ chập tối cho đến đêm”, một bà cụ Thy nửa điên nửa tỉnh thoáng hiện
nhưng khó quên, một gánh phở bác Siêu với chấm lửa nhỏ và vàng hiện lên từ
đêm tối, một gia đình bác Xẩm… những con nguời ấy đã tô đậm cuộc sống
phố huyện về đêm, hoà cùng gian hàng tạp hoá của chị em Liên và An.
- Cuộc sống ấy chìm trong bóng tối, ảm đạm và buồn tẻ. Ánh sáng cứ bị lấn át
dần. Thạch Lam đã xây dựng bức tranh phố huyện bằng thủ pháp đối lập ánh
sáng và bóng tối rất quen thuộc của chủ nghĩa lãng mạn. Nhưng ngôn ngữ
giàu sức gợi của nhà văn đã đem đến ý nghĩa hiện thực đậm nét cho tác phẩm.
Ánh sáng và Bóng tối không phải là những ý niệm tượng trưng trong văn
Thạch Lam mà hiện hình cụ thể trong từng khung cảnh , từng mảnh đời, ẩn
chứa những xung đột ngấm ngầm của cuộc sống tưởng như bình lặng. Viết về
bóng tối, nhưng thực chất nhà văn muốn hướng người đọc về ánh sáng. Ông
dùng ánh sáng để soi tỏ từng bí ẩn của tâm hồn con người. Ấn tượng về bóng
tối, ánh sáng gắn với cảm nhận của một cô bé Liên – bóng dáng người chị
thân yêu của chính tác giả, dẫn dắt người đọc khám phá những góc khuất của
tâm hồn con người phong phú và sâu sắc. Thông qua đó, nhà văn cũng nói lên
đầy đủ sự thông cảm thương yêu đối với con người bé nhỏ.

NHÀ VĂN NGUYỄN TUÂN
1, Cuộc đời và sự nghiệp.
- Nguyễn Tuân sinh ngày 10 tháng 7 năm 1910 ở phố Hàng Bạc, Hà Nội, quê
ở thôn Thượng Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội.

- Ông trưởng thành trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn, đứng
trước hiện thực tây tàu nhố nhăng sinh ra bất đắc chí.


ĐỀ CƯƠNG MÔN CHUYÊN ĐỀ VĂN HỌC CUỐI KHÓA
ĐHSPTHK13A
- 1929 Nguyễn Tuân bị đuổi học tại trường THPT Chuyên Lê Hồng Phong,
Nam Định ngày nay vì tham gia một cuộc bãi khóa phản đối mấy giáo viên
Pháp nói xấu người Việt. Sau đó ít lâu ông lại bị tù vì đi qua biên giới tới Thái
Lan không có giấy phép. Ở tù ra, ông bắt đầu viết báo, viết văn.
- Đầu những năm 1935, Nguyễn Tuân cầm bút từ khoảng, nhưng nổi tiếng từ
năm 1938 với các tác phẩm tùy bút, bút ký có phong cách độc đáo như Vang
bóng một thời, Một chuyến đi… - Năm 1941, Nguyễn Tuân lại bị bắt giam
một lần nữa và gặp gỡ, tiếp xúc với những người hoạt động chính trị.
- Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân nhiệt tình tham
gia cách mạng và kháng chiến, trở thành một cây bút tiêu biểu của nền văn
học mới.
- Từ 1948 đến 1957, ông giữ chức Tổng thư kí Hội Văn nghệ Việt Nam.
- Năm 1987 Nguyễn Tuân mất tại Hà Nội
- Năm 1996 ông được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí
Minh về văn học nghệ thuật (đợt I).
2, Sự nghiệp sáng tác.
Trước CMT8
• Ngọn đèn dầu lạc
• Vang bóng một thời
• Chiếc lư đồng mắt cua
• Tàn đèn dầu lạc

Một
chuyến

đi

Tùy
bút
• Thiếu quê hương

Tóc
chị
Hoài

Tùy
bút
II
• Nguyễn (1945)
3, Phong cách nghệ thuật

(1939)
(1940)
(1941)
(1941)
(1938)
(1941)
(1940)
(1943)
(1943)

Sau CMT8

• Tình chiến dịch (1950)


Thắng
càn
(1953)
• Tùy bút kháng chiến (1955)
• Tùy bút kháng chiến và hòa bình
(1956)
• Truyện một cái thuyền đất (1958)
• Tùy bút Sông Đà (1960)
• Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972)


(1976)


a/ Trước CMT8:
- Nguyễn Tuân có một phong cách nghệ thuật rất độc đáo và sâu sắc.có thể nói là
cô đúc trong một chử "Ngông": Ngông là thái độ khinh đời làm khác đời dựa trên
cái tài hoa sự uyên bác và nhân cách hơn đời của mình
- Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân chơi ngông một cách cực đoan. Mọi
sở thích, quan niệm riêng đều được đẩy lên thành các thứ chủ nghĩa : chủ nghĩa
duy mỹ, chủ nghĩa xê dịch, chủ nghĩa hưởng lạc, chủ nghĩa ẩm thực,.... Thực ra,
chủ nghĩa độc đáo trong đời sống cũng như trong nghệ thuật mà biểu hiện là thú
chơi ngông của Nguyễn Tuân không chỉ đơn thuần là phản ứng tâm lý của một cá
nhân trước tấn kịch xã hội. Nó còn bao hàm cái khí khái của người trí thức yêu
nước không cam tâm chấp nhận chế độ thực dân, tự đặt những nghịch thuyết để
tách mình ra và vượt lên trên cái xã hội của những kẻ xu thời, thỏa mãn với thân
phận nô lệ. Như vậy, từ bản chất, cái ngông đó bao hàm một nội dung luân lý đạo
đức truyền thống.
- Thể hiện phong cách này, mỗi trang viết của Nguyễn Tuân đều muốn chứng tỏ tài
hoa uyên bác. Và mọi sự vật được miêu tả dù chỉ là cái ăn cái uống, cũng được

quan sát chủ yếu ở phương diện văn hoá, mĩ thuật.
- Trước Cách mạng tháng Tám, ông đi tìm cái đẹp của thời xưa còn vương sót lại
và ông gọi là Vang bóng một thời.
+ Tác phẩm “ Chữ người tử tù “ : Huấn Cao là người cầm đầu cuộc khởi nghĩa
chống lại triều đình nên bị kết án tử hình. Trước khi chịu án chém, ông bị đưa đến
giam tại một nhà tù. Khi trát gửi đến nhà tù, biết trong danh sách có ông Huấn Cao,
người nổi tiếng viết chữ đẹp, viên quản ngục đã cho thầy thơ lại bảo người quét
dọn phòng giam nơi Huấn Cao và những người tử tù sẽ ở. Trong những ngày Huấn
Cao ở tù, viên quản ngục đã biệt đãi ông và những người đồng chí của ông. Sở
nguyện của viên quản ngục là xin được chữ viết của Huấn Cao. Lúc đầu, Huấn Cao
tỏ ý khinh miệt viên quản ngục, nhưng khi hiểu được tấm lòng viên quản ngục, ông
đã quyết định cho chữ vào cái đêm trước khi ông bị xử chém. Trong đêm cho chữ,
ông Huấn cao tay viết như rồng bay phượng múa trên tấm lụa bạch còn viên quán
ngục và thầy thơ lại thì khúm núm bên cạnh. Sau khi cho chữ, ông Huấn Cao
khuyên viên quản ngục về quê để giữ cho “thiên lương” trong sáng. Viên quản
ngục nghe lời khuyên của ông Huấn Cao một cách kính cẩn “Kẻ mê muội này xin
bái lĩnh”.
=> Đó là những con người tài hoa, có vẻ đẹp thanh cao và cuộc sống vượt khỏi
những bó buộc của danh lợi thường tình.Họ là hiện thân của vẻ đẹp xưa mà
Nguyễn Tuân say mê kiếm tìm, chiêm ngưỡng, ngợi ca bằng tất cả tình yêu, niềm
kính phục.
- NT là 1 người tài hoa uyên bác : Sự tài hoa uyên bác của ông thể hiện ở các điểm


sau
+ Tiếp cận mọi sự vật ở mặt văn hóa thẫm mĩ để khám phá và... khen chê.
+ Vận dụng trí thức của nhiều ngành văn hóa nghệ thuật để quan sát hiện thực sáng tạo
hình tượng.
+ Nhìn người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ tạo nên những nhân vật tài hoa
để...đem đối lập với những con người bình thường phàm tục.

+ Tô đậm cái phi thường gây cảm giác mãnh liệt dữ dội.
- NT là 1 con người có nhân cách đạo đức hơn đời: chổ dựa ở thái độ "ngông" của
ông không chỉ ở sự tài hoa uyên bác mà còn ở đạo đức hơn đời của ông. Cái gốc
của nhân cách đạo đức của NT là lòng yêu nước tinh thần dân tộc niềm tha thiết
với cái đẹp của văn nghệ của phong tục tập quán của thiên nhiên và những thú chơi
tao nhã.
- Nếu trước CMT8 NT luôn bi quan đối với hiện tại và tương lai. Ông chỉ tin vào
cái đẹp của quá khứ. Người tài hoa cái đẹp luôn lạc lõng. cô độc giữa cuộc đời
phàm tục thì sau CMT8 ông vẫn ngợi ca những con người tài hoa ấy vẫn hướng
đến những cái gì phi thường mãnh liệt vẫn vận dụng tri thức của nhiều ngành văn
hóa nghệ thuật để quan sát và mô tả vẫn tô đậm phong cách và cá tính độc đáo của
mình. Điều khác là tinh thần dân tộc và lòng yêu nước được phát huy mạnh mẽ
trong tác phầm của ông. Cái đẹp của người tài hoa có thể tìm thấy trong nhân dân
trên mọi lĩnh vực.
b/ Phong cách nghệ thuật của NT sau CMT8:
* Có những chuyển biến quan trọng. Thái độ ngông nghênh khinh bạc không còn
nữa. Giọng văn chủ yếu là tin yêu đôn hậu.
- Sau Cách mạng, ông không đối lập giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Văn
Nguyễn Tuân thì bao giờ cũng vậy, vừa đĩnh đạc cổ kính, vừa trẻ trung hiện đại.
Nguyễn Tuân học theo "chủ nghĩa xê dịch". Vì thế ông là nhà văn của những tính
cách phi thường, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong cảnh
tuyệt mĩ, của gió, bão, núi cao rừng thiêng, thác ghềnh dữ dội......
- Nguyễn Tuân cũng là một con người yêu thiên nhiên tha thiết. Ông có nhiều phát
hiện hết sức tinh tế và độc đáo về núi sông cây cỏ trên đất nước mình.
- Phong cách tự do phóng túng và ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân đã khiến
Nguyễn Tuân tìm đến thể tuỳ bút như một điều tất yếu.
- Nguyễn Tuân còn có đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của ngôn ngữ văn
học Việt Nam.
- Sau Cách mạng tháng Tám, phong cách Nguyễn Tuân có những thay đổi quan
trọng. Ông vẫn tiếp cận thế giới, con người thiên về phương diện văn hóa nghệ



thuật, nghệ sĩ, nhưng giờ đây ông còn tìm thấy chất tài hoa nghệ sỹ ở cả nhân dân
đại chúng. Còn giọng khinh bạc thì chủ yếu chỉ là để ném vào kẻ thù của dân tộc
hay những mặt tiêu cực của xã hội.Do đó, hoàn toàn có thể khẳng định : cái ngông
tồn tại như hạt nhân, chi phối toàn bộ các phương diện khác của phong cách nghệ
thuật Nguyễn Tuân ; từ đề tài, hệ thống nhân vật cho đến thể loại, giọng điệu, ngôn
ngữ.
- Tuy nhiên trên những trang văn phong cách riêng của ông vẫn rất rõ nét: Thiên
nhiên vẫn còn là những công trình thiên tạo tuyệt vời anh bộ đội ông lái đò thậm
chí chị hàng cốm người bán phở... cũng là những con người tài hoa nghệ sĩ trong
nghề nghiệp của mình.
- NT đã viết được những cái chưa ai viết, khơi được những nguồn chưa ai khơi.
- Chất cổ kính : tác giả có những đặc biệt thích thú với những giá trị truyền thống
lâu đời của dân tộc. Yêu tha thiết tiếng mẹ đẻ và truyền thống của dân tộc VN.
* Mới, lạ, không giống ai - là những đặc điểm dễ nhận thấy ở hệ thống đề tài. Mọi
thứ Nguyễn Tuân bày biện đều có hương vị đặc sản, từ những nguồn "chưa
ai khơi" nên thường tạo được cảm giác rất mạnh, ấn tượng rất sâu.
- Ðến với những trang viết của ngòi bút tài hoa ấy một mặt người đọc thấy say sưa
trước cảnh, tình và tri thức phong phú các các loại được bày biện một cách đẹp đẽ ;
mặt khác, khi cảm giác nhất thời qua đi, bao giờ người ta cũng thấy như quý yêu
thêm một chút, tự hào thêm một chút về dân tộc mình, về thời đại mình đang sống.
Hóa ra những điều tưởng chừng tủn mủn, lặt vặt kia được Nguyễn Tuân gọi về để
làm sống dậy trong chúng những ý nghĩa có tính tư tưởng cao cả, chứ không nhằm
thỏa mãn cảm giác hiếu kỳ, hời hợt.
- Hệ thống nhân vật của Nguyễn Tuân bao giờ cũng mang dáng vẻ riêng, độc
đáo và rất đẹp - vẻ đẹp của tài hoa, của nhân cách. Ở cả hai giai đoạn sáng tác, nhà
văn luôn trân trọng những "đấng tài hoa" và say mê miêu tả, chiêm ngưỡng họ.
Mỗi nhân vật thường sành hơn người ở một thú chơi hoặc một ngón nghề nào đó,
đầy tính nghệ thuật. Ðó là cụ Kép, cụ Sáu, cụ Nghè Móm, ông Phó Sứ, ông Cử

Hai,... những nghệ sĩ bậc thầy của nghệ thuật uống trà, uống rượu, chơi đèn kéo
quân và đánh bạc bằng thơ (trong "Vang bóng một thời". Là ông Thông Phu lắm
tài nhiều tật, cuối cùng đã gục chết trên một ván cờ đất vì uất ức (trong "Chiếc lư
đồng mắt cua"). Tài hoa, một khi đi kèm với nhân cách cao thượng thì càng đáng
kính trọng. Nhân vật Huấn Cao tài hoa với khí phách, nghị lực phi thường là một
tính cách tiêu biểu, được Nguyễn Tuân rất mực yêu thích.
- Sự chuyển dịch của ý thức nghệ thuật theo hướng đưa văn học về với cuộc
sống, phục vụ công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước đã dẫn tới việc mở rộng thế
giới nhân vật của trang viết Nguyễn Tuân. Nhưng không vì thế mà nhà văn đánh
mất tính độc đáo, bất biến của phong cách.Ðó là niềm say mê phát hiện và ngợi ca
những vẻ đẹp của tài hoa, khí phách, của văn hóa dân tộc : "Có cái như là Hoa Kỳ
vừa đánh Hà Nội, vừa thử tài sức và trí lực Hà Nội. Trong cuộc đọ súng đọ lửa với
giặc Hoa Kỳ, quân và dân thủ đô càng đánh càng phát huy truyền thống chống
xâm lược của dân tộc mình. Chắc tay súng, đúng tầm đạn, chiều 5 tháng 5 vừa
qua, tất cả cỡ súng Hà Nội có nòng và tên lửa không nòng đã quần cho một trận
tơi bời (...). Chợ Ngọc Hà không phải vỡ chợ, mà chính là xác thù đã vỡ tan trên
một buổi chợ chiều : mớ rau, xóc cua đồng, mẹt tôm riu đều nhấp nhánh mảnh vụn


đuy ra F.105. Cô gái trại hàng hoa vứt đó cái ô-dòa sắp tưới vườn chiều, cầm vội
tay súng và theo dõi trận mưa đuy-ra đang phá vườn hoa hợp tác".
Hình ảnh người lao động mới trong "Sông Ðà (1960) cũng thật đẹp đẽ, lung
linh giữa vùng hào quang của tài hoa. Chính họ, chứ không ai khác, là những kỹ
sư, nghệ sĩ đang tự nguyện tự hào góp cái tài cái trí của mình để đắp xây cuộc sống
mới, nền văn hóa nghệ thuật mới.
* Tìm đến với tùy bút cũng là con đường tất yếu của cá tính và phong cách
Nguyễn Tuân. Dường như ông chỉ có thể gắn bó với lối văn nào thật sự tự do và
chấp nhận những cảm xúc đậm màu sắc chủ quan. Trong tay ông, thể tùy bút đã
đạt đến đỉnh cao của khả năng ghi nhận và thể hiện đời sống.
- Xét đến cùng, cái duyên riêng không lẫn lộn, không ai bắt chước được của tùy

bút Nguyễn Tuân chính ở sự linh hoạt, phong phú đến thần tình của giọng điệu văn
chương. Có nhiều chi tiết tưởng rất bình thường nhưng bằng giọng điệu độc đáo,
khả năng quan sát sắc sảo, thông minh, hóm hỉnh cộng với hệ thống lý lẽ khúc
chiết, những triết lý có chiều sâu - nhà văn đã khiến nó trở nên lung linh kỳ ảo, gợi
mở nhiều liên tưởng mới lạ. Giọng điệu của tùy bút Nguyễn Tuân thường là giọng
kể. Người dẫn chuyện luôn đóng vai trò quan trọng, trực tiếp tham gia vào câu
chuyện và có quan hệ thân mật, tin cậy với các nhân vật khác. Người ấy thường có
giọng lịch lãm, đôi khi tỏ ra hoài nghi, đùa bỡn nhưng vẫn đảm bảo độ mãnh liệt
của cảm xúc và tầm cao tư tưởng bằng rất nhiều từng trải.
- Ðặc điểm nổi bật của giọng điệu tùy bút Nguyễn Tuân chính là sự phong phú, đa
thanh, thỏa mãn đến hoàn hảo những sắc thái tình cảm tinh tế nhất. Trong mọi tình
huống nhà văn luôn có cách nói phù hợp, không chung chung, tạo được không khí
cần thiết cho ý đồ nghệ thuật của mình. Dường như một khi đã bắt đúng giọng thì
không còn giản đơn là viết nữa, nhà văn trở thành nghệ sĩ, mặc sức vẫy vùng múa
lượn trên đỉnh cao sáng tạo nghệ thuật. Như dòng sông Ðà "vừa hung bạo vừa trữ
tình", mạch văn có lúc cuồn cuộn, ầm ào, gân guốc ; có lúc đằm thắm, sâu lắng,
thiết tha :
"Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi
lại, réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van
xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như
tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa,
đang phá tung rừng lửa, rừng lửa càng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng.
Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân
trời đá".
" Con sông Ðà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện
trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói
núi Mèo đốt nương xuân".
- Nguyễn Tuân có lối ví von, so sánh thật chính xác, mới lạ ; sự vật được
miêu tả trong trường liên tưởng, cảm giác chuyển đổi tinh tế, bất ngờ :
"Nước bể Cô Tô sao chiều nay nó xanh quá quắt đến như vậy ?

- Nhà văn như mê mẩn trong ma lực của ngôn từ và truyền được trọn vẹn đến
người đọc chất men say nhiều khi kỳ quái ấy. Nguyễn Tuân có một kho từ vựng
hết sức phong phú do cần cù tích lũy cả đời, với lòng yêu say mê tiếng mẹ đẻ.
Không chỉ góp nhặt những từ sẵn có, ông còn luôn có ý thức sáng tạo từ và cách


dùng từ mới, lạ. Rất nhiều từ ngữ tưởng như đơn nghĩa hoặc cũ mòn, nhưng khi
vào tay ông, chợt trở nên dồi dào sức biểu hiện. Hãy xem cách ông dùng hai từ
"góa bụa" và "lõa lồ" :
"Hiu quạnh sống trong người mình và chung quanh mình, cái gì cũng gợi
đến những ý vắng, lạnh và cũ và mỏi và ngừng hết. Ngồi ăn một mình cả một mâm
cơm chiều nay, tự nhiên tôi có cái cảm tưởng gở dại là mình đã trở nên một người
góa bụa, hoàn toàn góa bụa. Góa vợ con, thân thích, anh em bạn, góa nhân loại,
góa tất cả. Bát cơm và vào miệng, chỉ là những miếng thê lương".
"Mãi đến bây giờ về gần đến Phố, tôi mới nhớ ra trong xe còn có thêm một
hành khách nữa. Ấy là một người đàn bà, một thứ đàn bà tồi. Tồi ở chỗ lõa lồ
trong câu nói tiếng cười. Tồi ở cái cách phục sức rẻ tiền mà cứ gắng làm ra lộng
lẫy cho kỳ được".
=>
Vốn từ vựng ấy, có lúc Nguyễn Tuân dùng để chơi ngông với đời, hoặc
để trêu ghẹo thiên hạ và xót xa cho thân mình. Ông tự nhận xét : "Ngôn ngữ
của Nguyễn lủng cà lủng củng, dấm dẳn cứ như đấm vào họng. Ðọc lên nghĩa tối
quá lời sấm ông trạng. Nguyễn cứ lập ngôn một cách bướng bỉnh vì đời nó ngu thế
thì không bướng bỉnh sao được". Từ sau Cách mạng tháng Tám, không còn cực
đoan nữa, Nguyễn Tuân dùng ngôn từ như công cụ đắc lực để cất cao lời ngợi ca
tổ quốc, ngợi ca nhân dân mình và giáng những đòn thật cay độc vào bản chất tàn
bạo của kẻ thù.

NHÀ VĂN NGUYỄN CÔNG HOAN
* Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan.

- Từ khi xuất hiện trên văn đàn tới nay, truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công
Hoan vẫn khẳng định được vị thế vững chắc trong mạch nguồn văn học dân tộc,
qua sự sàng lọc khắc nghiệt của thời gian. Truyện ngắn trào phúng của ông được
tái bản nhiều lần, tiếng cười khỏe khoắn, bộc trực, đượm tình người của ông vẫn
luôn vang lên trong những thời khắc có ý nghĩa của cuộc sống qua sự dàn dựng và
biểu diễn của các nghệ sĩ sân khấu nổi tiếng. Sức hấp dẫn đặc biệt có được bởi ý
nghĩa xã hội, giá trị nhân văn được chuyển tải qua tác phẩm và thế giới nhân vật
độc đáo, sinh động của ông.
- Hàng trăm nhân vật với hàng trăm tính cách trong truyện ngắn trào phúng của
Nguyễn Công Hoan luôn tạo được ấn tượng riêng, không lẫn, và cũng luôn thể
hiện được bản chất xã hội. Quan lại cường hào với đủ các bộ dạng, đủ cách ăn
chặn, ăn cắp, ăn cướp… cứ lần lượt hiện lên như là minh chứng hùng hồn của xã
hội đồng tiền. Thói hư tật xấu của con người trong xã hội cũ cũng được ông liệt kê
đầy đủ với các biến thể khác nhau… Số phận bất hạnh của người lao động cũng
lắm cảnh nhiều dạng, không ai giống ai… Làm nên sức hấp dẫn đặc biệt này phải
kể đến nhiều biệt tài như: năng khiếu hài hước, sự quan sát tinh tế…, đặc biệt là
nghệ thuật khắc họa nhân vật trong truyện ngắn trào phúng của ông.
- Xuất phát từ cái nhìn cuộc đời là sân khấu hài kịch và con người chỉ là những kẻ
diễn trò, đã xây dựng các nhân vật trong truyện ngắn trào phúng với mục đích
nhằm lật tẩy, lột trái, phơi bày bộ mặt thật của xã hội đương thời. Nhân vật của ông
trước hết là nhân vật của sân khấu hài kịch. Vì vậy, ông đặc biệt hướng ngòi bút


của mình vào việc khắc họa diện mạo, cử chỉ, hành động, ngôn ngữ, chứ không tập
trung vào việc khám phá, phân tích tâm lý bên trong của nhân vật.
- Đọc truyện của Nguyễn Công Hoan, ta bắt gặp một thế giới nhân vật đông đúc,
đa dạng và đặc sắc. Tác giả Phong Lê đã điểm danh họ: “những phu phen, thợ
thuyền, dân quê, những địa chủ, lý dịch, cường hào; những nghị viên, dân biểu,
quan lại (huyện, phủ, bố, án, tuần…); những ký, lục, phán, tham; những con buôn,
tư sản, chủ thầu; những giáo chức, nghệ nhân, viết văn, làm báo; những me tây, cô

đầu, kép hát, những gái điếm, con sen, thằng nhỏ, những “ván cách”, lính cơ, thầy
quyền, những bồi bếp, tây trắng, tây đen…” Nguyễn Công Hoan đã dày công khắc
họa thế giới nhân vật đông đúc, đa dạng ấy khiến cho họ trở nên đặc sắc, sinh
động, đầy sức sống.
1. Khắc họa diện mạo
Nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan trước hết là nhân vật của sân
khấu hài kịch. Để làm nổi bật tính chất hài hước, ông sử dụng triệt để và tài tình
biện pháp phóng đại. Dường như dưới ngòi bút của Nguyễn Công Hoan, những kẻ
mà ông cho là ăn bẩn, thích ăn bẩn đều hiện lên với những hình thức đặc thù. Đó là
cái béo hùng vĩ, ít ai có thể tưởng tượng được. Người đọc phải phì cười trước diện
mạo của huyện Hinh:
“Chà! Chà! Béo ơi là béo! Béo đến nỗi giá như có thằng dân nào vô ý buột mồm
nói ra một câu sáo rỗng nhờ bóng quan lớn là ông tưởng ngay nó nói xỏ ông...
Nguyên cái da mặt ông nhỏ, mà có lẽ vì ông béo quá nên lỗ chân lông căng ra,
căng thẳng quá đến râu không có chỗ nào lách ra ngoài được”. Và trên cái bộ mặt
béo đến quái thai ấy là hai hàng lông tơ “đứng ở hai bên miệng ông, nó hình
thành hai cái dấu chua nghĩa” (Đồng hào có ma).
Béo đến dị hình dị dạng là hình thức đặc thù của bọn có quyền, có tiền, tham lam,
thích ăn bẩn. Nguyễn Công Hoan đã công thức hóa khi khắc họa diện mạo, hình
thức bọn này. Nhưng cái tài của ông chính là ở chỗ kết hợp biện pháp phóng đại
với lối so sánh độc đáo tạo nên được những nét rất riêng, đáng buồn cười trong
từng nhân vật.
Ta gặp trong Đàn bà là giống yếu hình ảnh một bà phủ với khuôn mặt long trọng
như “chiếc bánh dầy đám cưới”, hoặc hình ảnh một bà chủ mà chỉ thoạt trông thì
phải bảo là “một đống hai ba cái chăn bông cuộn lại với nhau, sắp đem cất
đi” nếu “chưa nom rõ cái mặt phị, cái cổ rụt, cái thân nung núc, và bốn chân tay
ngắn chùn chụt” (Phành phạch). Với bà phán Tuyên (Cho tròn bổn phận) thì là
hình ảnh một cây thịt tuy hơi cổ thụ nhưng chưa có vẻ gì cằn cỗi. Mỗi nhân vật ở
dạng này đều có điểm chung được tạo thành từ nguyên nhân thích ăn bẩn. Nhưng
giũa chúng cũng có những nét rất riêng qua lối so sánh đặc sắc, độc đáo của

Nguyễn Công Hoan. Người đọc không thể không cười một cách khoái trá khi bắt
gặp những hình ảnh như vậy.


Với Nguyễn Công Hoan, không chỉ giới quan lại, tư sản… được miêu tả chân dung
bằng ngòi bút trào phúng mà mọi nhân vật trong tác phẩm đều mang diện mạo, bộ
dạng sân khấu hài kịch. Đó là kẻ ăn mày mà cái đói, cái rét đã làm biến dạng nhân
hình với “cái nón toạc tung cả cạp, đã đóng khố lại mặc cái áo rách cụt cả tay,
thành ra bốn chân tay khẳng khiu, đen thui thủi, dài ngoằng ngoẵng”(Răng con
chó nhà tư sản). Đó là diện mạo của thằng ăn cắp trông giống như một con khỉ
ghẻ đáng sợ:
“Hai mắt trắng dã, lấm la lấm lét. Tóc thì bồng lên như tổ quạ. Da đen thui thủi,
mặt rạn như men lọ cổ. Hai tay thọc vào túi cái áo tây tang, xơ xác như tổ đỉa...”
(Thằng ăn cắp).
Nhân vật luôn được Nguyễn Công Hoan chú ý khắc họa dưới nhiều góc độ khác
nhau. Khi viết về bản chất tham lam, thích ăn bẩn của giới quan lại, địa chủ, tư sản
thì nhân vật hiện lên với hình dạng hài hước, châm biếm qua sự béo đến biến dạng.
Nhưng dưới góc độ chính trị, ông miêu tả lũ người đó với vẻ mặt, hình dáng của
chính những vai hề trên sân khấu hài kịch (Đào kép mới).
Bằng nghệ thuật phóng đại, cường điệu, ngòi bút của ông như muốn vật hóa, đồ
vật hóa nhân vật của mình . Về điểm này, tác giả Nguyễn Đăng Mạnh cho
rằng:“Nghệ thuật phóng đại của Nguyễn Công Hoan đã tạo nên được biết bao
trận cười đậm đà, khoái trá - một phong cách trào phúng bộc trực, bạo, khỏe rất
gần với nghệ thuật dân gian”(2). Người đọc phì cười khi tác giả tả cái bụng của
Nguyệt: “Cái bụng Nguyệt vài tháng nữa thì tròn bằng cái thúng” (Oằn tà oằn),
hoặc khi tác giả miêu tả “cũng môi đỏ, cũng đít cong” về cô vợ của Samandji.
Người đọc cũng bắt gặp nghệ thuật khắc họa diện mạo nhân vật theo hướng vật
hóa trong Chí Phèo của Nam Cao, nhưng không tuân theo mô hình kiểu Nguyễn
Công Hoan.
Có thể nói, những nhân vật của Nguyễn Công Hoan mang diện mạo sân khấu diện mạo phù hợp với tính cách. Nghệ thuật khắc họa diện mạo nhân vật trong

truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan thật đặc sắc và độc đáo, phù hợp
với quan niệm nhân sinh của ông về cuộc đời và con người.
2. Nghệ thuật khắc họa hành động nhân vật
Nếu như, diện mạo nhân vật của Nguyễn Công Hoan phù hợp với tính cách, bản
chất thì hành động, cử chỉ của nhân vật làm lộn trái, phơi bày bản chất nhân vật.
Mỗi nhân vật của ông đều phơi bày những hành động thể hiện xung đột thảm hại
có tính chất phổ biến giữa bản chất, tính cách với địa vị, thân phận xã hội của con
người. Đó là những hành động giàu kịch tính, luôn tạo được sự bất ngờ - một yếu
tố quan trọng trong cách xây dựng truyện trào phúng. Để tạo được cái hồn trong
tác phẩm, Nguyễn Công Hoan sử dụng biện pháp tương phản và tăng cấp trong


việc miêu tả hành động của nhân vật.
Cô Nguyệt lẳng lơ, dâm đãng với những lời thề bồi đầy danh dự:
“Tuy tôi chưa là vợ anh, nhưng cũng như là cô vợ nên tôi dốc một lòng chung thủy
thì chữ trinh tôi giữ nguyên cho anh. Nếu anh ngờ tôi loan chung phượng chạ thì
đây này, tôi sẽ chết như thế này này!” (Oẳn tà roằn).
Một bà tham, bà phán bày tỏ sự biết ơn với công lao, sự khó khăn vất vả của người
chồng bằng cách bỏ chồng, bỏ con vì cuộc sống mới giàu sang (Thế là mợ nó đi
Tây). Một gái làm tiền (Ngựa người và người ngựa) với cách ăn mặc sang trọng
mà phải nhảy tọt xuống đất khi anh phu xe đòi hai hào rưỡi. Và khi lộ rõ chân
tướng đã phải lừa anh phu xe trốn mất để lại sự choáng váng, thất vọng của con
“ngựa người” đó. Mỗi một nhân vật đều tự bộc lộ mình bằng hành động. Ta thấy
xót thương cho sự bất hạnh của người phu xe đã bị lừa mất tiền công và hai hào
bởi con “người ngựa”, nhưng cũng thấy được sự ranh ma, khôn lỏi trong con
“ngựa người” đó qua hành động chỉ chạy “dưỡng lão” thôi, đít nhổm mạnh mà
chân bước ngắn.
- Nhân vật của Nguyễn Công Hoan thể hiện những hành động hết sức lôgic, hợp
với bản chất của nó. Với ông, đã là quan lại, địa chủ, bọn giàu có trong xã hội thì
đích thị là những kẻ thích ăn bẩn và toàn là hành động đê tiện, bẩn thỉu. Nguyễn

Công Hoan thật tài tình khi tả hành động này của huyện Hinh một cách bất ngờ và
thú vị:“…tự nhiên như không, ông cúi xuống thò tay nhặt đồng hào đôi sáng
loáng, thổi những hạt cát nhỏ ở giầy bám vào, rồi bỏ tọt vào túi”. Đó là hành động
ăn cắp của kẻ có trình độ ăn cắp đạt tới mức nghệ thuật. Thật vậy, trình độ ăn cắp,
ăn cướp của quan lại quả là cao. Ăn cướp một cách trắng trợn mà vẫn không mang
tiếng xấu trước dư luận. Ngay những kẻ ăn cướp cũng phải phục vì cướp trên tay
tài sản cướp được của thằng ăn cướp một cách đàng hoàng (Thằng ăn cướp) .
- Sự vô liêm sỉ đến mức tàn nhẫn của bọn giàu có vượt ra khỏi lẽ tự nhiên ở đời
qua hành động. Chúng mượn ngày giỗ bố (Báo hiếu, trả nghĩa cha) để khoe
khoang, phô trương thanh thế, trong khi chúng nhẫn tâm đuổi người mẹ đẻ ra khỏi
nhà vì sợ bị xấu mặt. Cũng thật là bỉ ổi và nhơ nhuốc khi một kẻ muốn tiến thân đã
dùng đạo “xuất giá tòng phu” để bắt vợ cống cho quan trên (Xuất giá tòng phu)
hay lấy bốn chữ “tiết hạnh khả phong’’ bằng cách hiến thân. Trong cái xã hội
thượng lưu đó đầy rẫy sự xấu xa, bỉ ổi và đê tiện. Một ông tham quan tự “ăn cắp”
ví của mình rồi “tôi vờ thế, chứ ví đây này, có mất đếch đâu!”vì sợ tốn kém (Mất
cái ví). Không chỉ có vậy, giữa những kẻ tự cho mình thuộc tầng lớp thượng lưu
cũng ăn cắp của nhau, lừa bịp lẫn nhau (Cái ví ấy của ai, Phúc tinh)…
Sau mỗi một hành động của nhân vật, tiếng cười bật lên với nhiều cung bậc khác
nhau. Đó là tiếng cười khoái trá, sảng khoái. Đó cũng là tiếng cười mỉa mai, châm
biếm, đả kích, đầy chua xót. Đó còn là tiếng cười căm phẫn xã hội đồng tiền đưa
đẩy con người vào những hoàn cảnh trớ trêu mà cái bi, cái hài xen lẫn hòa trộn.
Đọc Kép Tư Bền, người đọc cảm nhận được đằng sau tiếng cười là hoàn cảnh


thương tâm, đầy nước mắt. Người kép hát tài hoa phải diễn trò mua vui trong hoàn
cảnh bố lâm bệnh nguy kịch. Tâm trạng đau khổ nhưng Tư Bền vẫn phải diễn trò.
Màn một, màn hai, màn ba, anh đều phải “hò, hét, ngâm, cười, múa, nhẩy để mua
gượng lấy những tràng vỗ tay”. Cùng với những tràng vỗ tay hưởng ứng, ngợi
khen của khán giả ở từng màn là tâm trạng đau đớn, khổ tâm của anh trước sự ngày
càng nguy kịch của cha mình. Và đến khi buổi diễn kết thúc sau những tiếng vỗ tay

thì cũng là lúc Tư Bền không bao giờ gặp lại cha. Thật là một vở diễn bi hài kịch.
Nguyễn Công Hoan đã đặt các nhân vật trong các tình huống mâu thuẫn hài hước
khác nhau để từ đó bộc lộ bản chất bằng chính hành động tạo nên tiếng cười hài
hước. Đó là những hành động làm nổi bật lên mâu thuẫn giữa nội dung và hình
thức, giữa tự nhiên và cái trái tự nhiên (Cái vốn để sinh nhai), giữa khả năng và ý
đồ (Đào kép mới)... để từ đó mỉa mai, châm biếm, đả kích bộ mặt thật của xã hội
đương thời.
3. Ngôn ngữ đối thoại
Nguyễn Công Hoan đặc biệt chú trọng miêu tả diện mạo, hành động cử chỉ của
nhân vật bằng ngôn ngữ đối thoại đặc sắc. Qua ngôn ngữ đối thoại, ông đã bắt các
nhân vật tự bộc bạch bản chất, phơi bày được hiện thực xã hội.
Ngôn ngữ đối thoại đa dạng và phong phú
Ngôn ngữ đối thoại trong truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan có ba
kiểu chủ yếu: người kể chuyện đối thoại với nhân vật, người kể chuyện đối thoại
với độc giả và nhân vật đối thoại với nhân vật.
Mở đầu truyện Đồng hào có ma, chỉ bằng lời đối thoại với độc giả ông đã phơi
bày bản chất thích ăn bẩn của huyện Hinh và giải thích cái béo đến dị dạng dị hình
của hắn:
“Tôi cực lực công kích sách vệ sinh đã dạy ta ăn uống phải sạch sẽ, nếu ta muốn
được khỏe mạnh béo tốt. Thuyết ấy sai, trăm lần sai, nghìn lần sai! Vì tôi thấy sự
thực ở đời này bao nhiêu những anh béo, khỏe đều là những anh thích ăn bẩn cả.
Thì đấy, các ngài hãy nhìn ông huyện Hinh, hẳn các ngài phải chịu ngay rằng tôi
không nói đùa!”.
Đây là cách giải thích rất Nguyễn Công Hoan (chữ dùng của tác giả Nguyễn Đăng
Mạnh).
Đọc truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan, ta bắt gặp nhiều kiểu đối
thoại, đa dạng, phong phú. Ở mỗi truyện ngắn có thể có nhiều kiểu đối thoại được
vận dụng một cách linh hoạt tạo ra sự sinh động của những màn hài kịch, phơi bày
tính chất giả dối bất lương, lừa bịp của hiện thực đương thời.
Với Oẳn tà roằn, Nguyễn Công Hoan đã để nhân vật đối thoại với nhân vật nhằm



mục đích bắt nhân vật nói lên điều không muốn nói. Tiếng cười hài hước của độc
giả hướng vào Nguyệt khi phải chứng kiến cuộc đối thoại giữa bà đỡ và Nguyệt về
chuyện đẻ con so hay con rạ
Vận dụng sáng tạo và linh hoạt ngôn ngữ đối thoại, Nguyễn Công Hoan đã tạo
mạch nối giữa tiếng cười dân gian và tiếng cười hiện đại. Đoạn đối thoại giữa cô
Bống (Đàn bà là giống yếu) với chồng (quan phủ) một mặt bộc lộ trọn vẹn bản
chất dâm đãng, tham lam tới mức trơ trẽn của bà phủ: ngủ với trai khi chồng đi
vắng, thế nhưng vẫn lớn tiếng đe dọa khi bị bắt quả tang, mặt khác gợi người đọc
trở về với khái quát đậm màu triết lí của dân gian: gái đĩ già mồm.
Ngôn ngữ đối thoại giàu kịch tính
Ngôn ngữ đối thoại trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan hướng tới phơi bày bản
chất của con người, của xã hội bằng tiếng cười trào phúng giàu kịch tính. Đó là thứ
ngôn ngữ chứa đựng yếu tố hấp dẫn, tạo được sự bất ngờ, lột trái hiện tượng, phơi
bày mâu thuẫn hài hước. Người đọc phải phì cười khi hiện tượng kẻ ăn cắp bị bắt,
bị đánh nhừ tử chỉ vì: “Nó ăn của tôi …hai xu …bún riêu… rồi… nó quịt… nó
chạy!” (Thằng ăn cắp). Câu nói kết thúc truyện diễn ra trong sự mệt mỏi với hơi
thở hổn hển của bà hàng rong đã lột trái mâu thuẫn hài hước giữa hiện tượng ăn
cắp to tát với sự thật nhỏ con. Giá trị hài hước của câu chuyện chỉ được bộc lộ bởi
yếu tố đầy bất ngờ này.
Trong Nỗi lòng ai tỏ, kết quả thật đáng sợ lại được giải thích bằng nguyên nhân
hết sức đơn giản khiến người đọc cảm thấy ngỡ ngàng: “Từ lúc ăn xong bữa cơm
sáng đến giờ chẳng ai hiểu vì lẽ gì, cô Tuyết cứ thở ngắn than dài. Rồi chờ cho mẹ
đi chơi, cô lên giường đắp chăn thút thít khóc mãi”. Rồi cả ngày hôm đó, cô Tuyết
còn buồn lắm, cô trằn trọc và thở dài chỉ vì một nguyên nhân giản đơn được thể
hiện trong một câu ngắn gọn: “Cô đặt báo xuống, rên rỉ: Vân chết! Trời ơi!”(3).
Ngôn ngữ giàu kịch tính xuất hiện nhiều trong truyện ngắn trào phúng của Nguyễn
Công Hoan. Khi kết hợp với thủ pháp tăng cấp, tác giả đưa người đọc từ ngạc
nhiên này tới ngạc nhiên khác và bật cười khi hiểu rõ câu chuyện.

=> Bằng tài năng bậc thày, bằng cảm quan trào phúng độc đáo, Nguyễn Công
Hoan đã sáng tạo một thế giới nhân vật hấp dẫn, sống động. Thế giới nhân vật độc
đáo và đặc sắc của ông đã làm nên tiếng cười trào phúng khỏe khoắn, giòn giã,
sảng khoái...

NHÀ VĂN NGUYỄN MINH CHÂU
Các giai đoạn sáng tác.
* Sáng tác trước năm 1975 :


- Trước khi cuộc kháng chiến chống Mỹ bùng nổ trong cả nước, Nguyễn Minh
Châu đã có hơn 10 truyện ngắn và bút ký in trên tạp chí Văn nghệ quân đội. Nhưng
phải đến tiểu thuyết “Cửa sông”(1967) thì con đường văn học của Nguyễn Minh
Châu mới thực sự định hình.
- Tiếp đó, tập truyện ngắn “Những vùng trời khác nhau”(1970) và nhất là tiểu
thuyết “Dấu chân người lính”(1972) đã đưa Nguyễn Minh Châu vào trong số
những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn học chống Mỹ.
1. Tiểu thuyết "Cửa sông"
“Cửa sông” là cuốn tiểu thuyết in đậm dấu ấn thời sự của những ngày đầu đất nước
bước vào cuộc chiến tranh chống Mỹ. Câu chuyện về một làng quê ở vùng cửa
sông ven biển miền Trung vào những ngày đầu cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ.
Cuộc sống ở một làng quê vừa bình tĩnh, chủ động vừa khẩn trương khi chiến tranh
xảy đến. Cái mà nhà văn đã cảm nhận và thể hiện được là sự vững vàng, bình tĩnh
của chúng ta đón nhận tình thế mới, và điều quan trọng hơn nữa là chính cuộc
chiến tranh đã gắn kết hết thảy mọi người, từ các thành viên trong gia đình ông
Lâm đến mọi người dân làng Kiều, giúp họ vượt qua những ngăn cách để gần nhau
hơn trong một tâm trạng chung, một mối lo toan chung. Cửa sông là “hình ảnh về
quê hương ta trong chiến tranh” (Phong Lê)
2. Tiểu thuyết "Dấu chân người lính
- Tiểu thuyết Dấu chân người lính(1972) gồm ba phần: Hành quân, Chiến dịch

bao vây, Đất giải phóng,
- Dựng lại những khung cảnh rộng lớn và hào hùng của cuộc chiến tranh với những
cảnh vượt Trường Sơn của các binh đoàn chủ lực, rồi những chiến dịch Khe SanhTà Cơn với những trận chiến ác liệt trên vùng đất Quảng Trị. Cùng với việc tái
hiện bối cảnh và không khí lịch sử, ngòi bút Nguyễn Minh Châu đã tập trung khắc
hoạ hình tượng người lính cách mạng với hàng chục nhân vật thuộc các thế hệ
khác nhau. Đông đúc và sinh động nhất là thế hệ trẻ, mà tiêu biểu là Lữ, Khuê,
Cận. Đến với quân đội từ những vùng, miền, những hoàn cảnh xuất thân khác
nhau, nhưng ở họ đều mang những phẩm chất chung của thế hệ trẻ thời ấy: lòng
yêu nước và ý thức trách nhiệm với tổ quốc niềm say mê chiến đấu, tâm hồn trong
sáng. Bên cạnh một Lữ giàu mơ mộng, lãng mạn, nhạy cảm là Khuê thông minh,
sắc sảo, tinh nhạy - họ như là sự bổ sung cho nhau để tạo nên gương mặt lí tưởng
của thế hệ trẻ trong ý đồ sáng tạo của nhà văn. Nhân vật chính uỷ Kinh cũng để lại
được những ấn tượng đẹp về thế hệ những người lính lớp trước từng trải qua hai
cuộc chiến tranh. Phẩm chất nổi bật ở người cán bộ này là tình yêu thương sâu sắc
của ông với mọi chiến sĩ, được thể hiện bằng sự gần gũi, chăm lo rất cụ thể với
các chiến sĩ. Dấu chân người lính lôi cuốn người đọc bằng chất sử thi hào hùng
cùng với màu sắc trữ tình lãng mạn, nhất là ở những trang miêu tả thiên nhiên,
những rung động trong tâm hồn các nhân vật.


3. Tập truyện ngắn "Những vùng trời khác nhau"
- Tập truyện ngắn Những vùng trời khác nhau (1970) gồm bảy truyện ngắn, chủ
yếu được viết trong những năm đầu chiến tranh chống Mỹ. Tất cả đều là những câu
chuyện, những hình ảnh trong chiến tranh.
- Cùng với hình ảnh người lính, thì đậm nét hơn cả lại là một số nhân vật phụ
nữ, như Thận (Nhành mai), Bà mẹ (Bà mẹ xóm Nhà thờ), Nguyệt (Mảnh trăng). Ở
tập truyện ngắn đầu tay này, ngòi bút tác giả chưa phải đã thật sự già dặn trong
nghệ thuật kể chuyện, tổ chức kết cấu, tạo tình huống. Một số truyện còn được xây
dựng theo mạch kể chuyện khá đơn giản. Đặc sắc hơn cả là truyện Mảnh trăng (về
sau, khi in trong tuyển tập truyện ngắn có tên là Mảnh trăng cuối rừng). Ở tập

truyện ngắn này cũng đã bộc lộ một số đặc điểm trong bút pháp của Nguyễn Minh
Châu là sử dụng hình ảnh biểu tượng: nhành mai, mảnh trăng trong những truyện
ngắn cùng tên, dòng suối (trong Nguồn suối).
=> Đề tài trước năm 1975 : ở thời kỳ này của Nguyễn Minh Châu là cùng với việc
thể hiện cảm hứng sử thi bao trùm cả thời đại, nhà văn cũng đã bộc lộ sự nhạy cảm
trước những câu chuyện tình đời, những số phận éo le của con người, dù đó mới
chỉ là những âm trầm, nốt lặng xen vào bản giao hưởng hào hùng. Đồng thời nhà
văn còn thể hiện vẻ đẹp lí tưởng của con người thời đại. Đó là câu chuyện éo le,
khó xử của ông Vàng với hai bà vợ trong Cửa sông, là mối tình nồng nàn mà
ngang trái của Lượng và Xiêm, là tình yêu giàu tính lí tưởng mà thầm lặng của Lữ
với cô văn công Thu Hiền, là nỗi đau của chính uỷ Kinh trước cái chết của Lữ, đứa
con trai hy sinh lúc còn quá trẻ trong Dấu chân người lính.
* Sáng tác sau năm 1975 :
- Những năm cuối thập kỷ 70 Nguyễn Minh Châu là nhà văn nhạy cảm với những
biến đổi của đời sống xã hội ngay sau chiến tranh. Hai cuốn tiểu thuyết Miền
cháy và Lửa từ những ngôi nhà cùng xuất bản năm 1977 đã mang đến sắc điệu mới
trong sáng tác của nhà văn.
1. Miền cháy
Miền cháy là câu chuyện của đất nước vừa ra khỏi cuộc chiến tranh phải đối mặt
với bao nhiêu khó khăn và thách thức- nhiều cái là hậu quả của chiến tranh, nhiều
cái lại mới nảy sinh sau cuộc chiến và ngay trong hàng ngũ những người chiến
thắng. “Bước ra khỏi một cuộc chiến tranh cũng phải có đầy đủ trí tuệ và nghị lực
như bước vào một cuộc chiến tranh”, đó là điều mà nhà văn muốn gửi đến bạn đọc
qua câu chuyện của gia đình mẹ Êm và những con người vừa đi ra từ cuộc chiến
trên một vùng đất khốc liệt nhất suốt cuộc chiến tranh: Quảng Trị, miền đất gánh
chịu sự tàn phá, huỷ diệt đến từng thôn xóm, từng tấc đất và sự mất mát đau
thương dội xuống mỗi gia đình, mỗi con người. Ở cuốn tiểu thuyết này, Nguyễn
Minh Châu cũng đã sớm cảnh báo về những ung nhọt hiểm hoạ của cái xấu, cái ác
đang mọc ra ngay trong hàng ngũ cách mạng sau ngày chiến thắng. Những cán bộ
được nhân dân che chở nuôi dưỡng trong thời kỳ chiến tranh, nay có quyền lực đã



bắt đầu xa rời nhân dân, quan liêu, thờ ơ trước số phận của người dân. Nguyễn
Minh Châu qua Miền cháy còn muốn nêu cao tinh thần hoà hợp, lòng khoan dung những cái cần phải có lúc này ở mỗi con người nhất là ở những người chiến thắng
để lấp đi những hố sâu ngăn cách, để chung tay xây dựng lại cuộc sống trên một
nước đã phải gánh chịu quá nhiều đau thương tàn phá. Cảnh kết thúc truyện là một
chi tiết mang tính biểu tượng
cho thông điệp nói trên của nhà văn: bà mẹ Êm cầm tay thằng Sinh đặt vào lòng
bàn tay người cha tội lỗi của nó - viên trung tá nguỵ mà trong lúc trốn chạy đã bắn
lén người chiến sĩ giải phóng và cũng là đứa con trai cuối cùng của bà.
2. Lửa từ những ngôi nhà
Tiểu thuyết Lửa từ những ngôi nhà được Nguyễn Minh Châu viết trong những
năm cuối chiến tranh, nhưng phải đến 1977 mới được ra mắt độc giả. Qua câu
chuyện một chuyến về phép của người lính từ chiến trường về thành phố, hình ảnh
của hậu phương hiện ra không êm ả như nhiều sách hồi đầu chiến tranh thường mô
tả, mà tiềm ẩn không ít vấn đề. Nhưng vượt lên tất cả mọi thiếu thốn, khó khăn vẫn
là một hậu phương vững chắc với những con người tất cả dành cho tiền tuyến, và
mỗi người lính đều được truyền ngọn lửa từ mỗi ngôi nhà, mỗi tấm lòng của người
hậu phương.
Đặt người lính vào trong môi trường sinh hoạt ngày thường ở hậu phương, Nguyễn
Minh Châu cũng nhìn họ ở một cự li gần, thấy cả những thiếu hụt ở nơi họ và điều
đó như một dự báo về trở ngại đối với người lính khi họ trở về sau chiến tranh.
3. Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành
- Là câu chuyện về người đàn bà tên Quỳ, với những kỷ niệm thời chiến tranh
cùng người yêu của cô là anh trung đoàn trưởng Hòa. Hòa hy sinh, Quỳ luôn dằn
dặt, khổ đau và rồi cô lấy Ph (bạn cũ của Hòa) làm chồng. Rồi tai họa rơi xuống,
Ph bị đi tù. Quỳ luôn sống trong những mộng tưởng. Người ta đưa cô vào bệnh
viện tâm thần. Hòa bình đã không thể làm lành hết những vết thương ở trong cô.
Có lẽ vì thế cô luôn phải sống cô đơn, phiêu du cùng hoài niệm. Sự khắc nghiệt
của chiến tranh đã in dấu lên cuộc đời của mỗi thân phận con người bé nhỏ.

=> Bi kịch của cuộc đời Qùy là bi kịch người phụ nữ thông minh tài giỏi, đem đến
cho bạn đọc sự chiêm nghiệm, trải nghiệm về con người sau chiến tranh.
4. Bến quê.
Nhĩ – nhân vật chính của truyện – từng đi khắp nơi trên trái đất, cuối đời bị lâm
bệnh hiểm nghèo, đến nỗi không thể tự chuyển dịch lấy vài mươi phân trên chiếc
phản gỗ kê bên cửa sổ. Nhưng chính lúc này, Nhĩ phát hiện ra bãi bồi bên kia sông
của quê hương mình thật đẹp, thật quyến rũ. Và cũng phải đến lúc này, Nhĩ mới
cảm nhận được hết sự tần tảo vất vả, tình yêu thương và đức hi sinh thầm lặng của
vợ mình là chị Liên. Trong lòng anh bỗng trào dâng một khao khát: được đặt chân
một lần lên cái bờ bãi bên kia sông. Anh nhờ cậu con trai thực hiện giùm mình ước
mơ ấy . Đứa con không hiểu ý bố nên nhận lời một cách miễn cưỡng. Trên đường
đi, cậu ta lại sa vào đám chơi phá cờ trên hè phố và để lỡ chuyến đò duy nhất trong
ngày. Từ tình huống này, Nhĩ chiêm nghiệm ra được cái quy luật phổ biến của đời


×