HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
LÊ THANH PHƯƠNG
ĐỖ VĂN PHÚC
XÁC ĐỊNH MỘT SỐ CHỈ TIÊU SINH SẢN, CHỈ TIÊU HUYẾT HỌC
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CỦA CHUỘT NHẮT TRẮNG GIỐNG SWISS NHÂN NUÔI TRONG
MỘT SỐ CƠ SỞ NGHIÊN CỨU TẠI HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
2015
NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP - 2016
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
ĐỖ VĂN PHÚC
XÁC ĐỊNH MỘT SỐ CHỈ TIÊU SINH SẢN, CHỈ TIÊU HUYẾT HỌC
CỦA CHUỘT NHẮT TRẮNG GIỐNG SWISS NHÂN NUÔI TRONG
MỘT SỐ CƠ SỞ NGHIÊN CỨU TẠI HÀ NỘI
Chuyên ngành : Thú y
Mã số
: 60.64.01.01
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Bá Tiếp
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
số liệu, kết quả nêu trong luận văn này là trung thực, chính xác và chưa được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Mọi sự giúp đỡ thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích
dẫn trong luận văn này đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 05 tháng 01 năm 2016
Tác giả luận văn
Đỗ Văn Phúc
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ii
LỜI CẢM ƠN
Trước hết tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo công tác tại Học viện
Nông nghiệp Việt Nam nói chung và các thầy cô trong Khoa Thú y nói riêng đã
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt, tôi xin cảm ơn TS. Nguyễn Bá Tiếp – Trưởng bộ môn Giải phẫu –
Tổ chức, khoa Thú y người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình thực
tập và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới gia đình, anh em, bạn bè và
đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành
luận văn này.
Hà Nội, ngày 05 tháng 01 năm 2016
Tác giả
Đỗ Văn Phúc
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iii
MỤC LỤC
Lời cam đoan
ii
Lời cảm ơn
iii
Mục lục
iv
Danh mục các từ viết tắt
vi
Danh mục bảng
vii
Danh mục biểu đồ
viii
Danh mục hình
viii
MỞ ĐẦU
1
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
3
1.1. Sự thuần dưỡng vật nuôi
3
1.2. Lịch sử phát triển và vai trò của chuột thí nghiệm
3
1.3. Chuột nhắt trắng
9
1.4. Sinh sản ở chuột nhắt trắng
12
1.4.1. Lứa tuổi sinh sản
12
1.4.2. Giao phối và ghép đôi
13
1.4.3. Mang thai và sinh con
15
1.4.4. Dinh dưỡng cho chuột sinh sản
16
1.5. Máu
17
1.5.1. Khái niệm về máu
17
1.5.2. Chức năng của máu
18
1.5.3. Sự tạo máu
18
1.5.4 Thành phần của máu
18
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
25
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
25
2.2. Vật liệu nghiên cứu
25
2.3. Nội dung nghiên cứu
25
2.4. Phương pháp nghiên cứu
26
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
28
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iv
3.1. Kết quả theo dõi thời gian mang thai của chuột Swiss
28
3.2. Kết quả theo dõi khả năng sinh sản của chuột Swiss ở đợt ghép số 1
30
3.3. Kết quả theo dõi khả năng sinh sản của chuột Swiss ở đợt ghép số 2
31
3.4. Kết quả theo dõi khả năng sinh sản của chuột Swiss ở đợt ghép số 3
32
3.5. Một số chỉ tiêu sinh lý máu của chuột nhắt trắng giống Swiss
37
3.5.1. Chỉ tiêu hồng cầu
37
3.5.2. Chỉ tiêu hệ bạch cầu của chuột nhắt trắng giống Swiss
39
3.6. Chỉ tiêu sinh hóa máu
44
3.6.1. Protein trong máu chuột nhắt trắng Swiss
44
3.6.2 Hàm lượng glucose, cholesterol và triglycerid trong huyết thanh
44
3.6.3. Nồng độ một số ion trong huyết thanh
45
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
48
TÀI LIỆU THAM KHẢO
50
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TT
Tên viết tắt
1
KLCT
2
CIMADE
3
ĐVTN
Tên viết đầy đủ
Khối lượng cơ thể
Trung tâm nghiên cứu và sản xuất động vật thí nghiệm
chuẩn thức
Động vật thí nghiệm
National Institute for Quality Control Vaccine and
4
NICVB
Biological
(Viện Kiểm định Quốc gia Vắc xin và Sinh phẩm y tế)
Rijksinstituut Voor Volksgezondheid en Milieu
5
RIVM
6
SOP
7
tb
8
A/G
Albumin/ Globulin ratio (Tỷ lệ Albumin/ Globulin)
9
NST
Nhiễm sắc thể
10
cs
Cộng sự
11
fl
femtolit
12
µl
micrôlit
13
g/dl
14
mg/dl
minigam/đêxilit
15
mEq/l
miniequivalent/lit
National Institute of public Health and the environment
Standard Operating Procedure(Quy trình thực hành chuẩn)
Trung bình
gam/đêxilit
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vi
DANH MỤC BẢNG
STT
Tên bảng
Trang
1.1
Chỉ tiêu sinh học của chuột nhắt trắng
10
1.2
Chỉ tiêu sinh sản của chuột nhắt trắng
11
3.1
Thời gian mang thai của chuột Swiss
28
3.2
Kết quả theo dõi khả năng sinh sản của chuột Swiss ở đợt ghép số 1
30
3.3
Kết quả theo dõi khả năng sinh sản của chuột Swiss ở đợt ghép số 2
31
3.4
Kết quả theo dõi khả năng sinh sản của chuột Swiss ở đợt ghép số 3
32
3.5
Bảng tổng hợp chỉ tiêu sinh sản của chuột Swiss
34
3.6
Chỉ tiêu hồng cầu của chuột nhắt trắng Swiss
38
3.7
Tổng số bạch cầu, lâm ba cầu và bạch cầu trung tính
40
3.8
Số lượng bạch cầu đơn nhân, bạch cầu ái toan và bạch cầu ái kiềm
42
3.9
Số lượng tiểu cầu của chuột nhắt trắng giống Swiss
43
3.10 Hàm lượng Protein trong máu chuột nhắt trắng Swiss
44
3.11 Hàm lượng glucose, chlesterol và triglycerid trong huyết thanh
45
3.12 Nồng độ một số ion trong huyết thanh
45
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vii
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
STT
3.1
Tên hình
Tỉ lệ phần trăm theo thời gian mang thai của chuột Swiss
Trang
29
DANH MỤC HÌNH
STT
Tên hình.
Trang
1.1
Cấu tạo hemoglobin
20
3.1
Ổ chuột có số lượng con lớn, chuột con đồng đều, khỏe mạnh
33
3.2
Ổ chuột có chất lượng tốt.
33
3.3
Ổ chuột 20 ngày tuổi, đảm bảo chất lượng giao thí nghiệm
33
3.4
Ổ chuột lứa 1
35
3.5
Ổ chuột đẻ lứa 3, chuột con kích thước lớn , đồng đều
36
3.6
Ổ chuột đẻ lứa 3, chuột con phát triển tốt
36
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page viii
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nói đến loài chuột người ta thường nghĩ ngay đến chuột phá hoại mùa màng,
truyền dịch bệnh gây hại cho con người. Tuy vậy, ngoài những tác hại do chúng gây
ra, loài chuột cũng có những điểm có ích đối với khoa học.
Từ năm 1889, loài chuột bắt đầu được sử dụng làm vật nghiên cứu trong
phòng thí nghiệm. Chuột được dùng làm thí nghiệm do thời gian mang thai, sinh
trưởng và vòng đời ngắn nên các nhà khoa học có thể sớm thấy những gì diễn biến
trong nghiên cứu. Hơn nữa, chuột và người có tỷ lệ tương đồng cao về hệ gen. Vì
vậy, chuột được dùng để nghiên cứu bệnh học, sản xuất và kiểm định vắc xin sử
dụng phòng bệnh cho con người.
Nhu cầu của các phòng thí nghiệm y sinh học có sử dụng động vật thí
nghiệm đối với đối tượng chuột nhắt trắng là rất lớn. Trung tâm chăn nuôi động vật
thí nghiệm - Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương Hà Nội mỗi tuần cung cấp cho các
viện nghiên cứu khu vực miền Bắc khoảng 7 – 8 nghìn con chuột. Trại chăn nuôi
Suối Dầu – Viện Vắc xin và Sinh phẩm Nha Trang mỗi năm cung cấp cho công tác
thí nghiệm khoảng 100000 con chuột từ 11- 23g và 150000- 200000 chuột con 1-2
ngày tuổi. Tại Viện Kiểm định Quốc gia Vắc xin và Sinh phẩm y tế, sử dụng nhiều
chuột nhắt trắng, hàng năm cần trên 10000 con phục vụ công tác kiểm định chất
lượng vắc xin và sinh phẩm y tế.
Trong tương lai không xa, nghiên cứu in vivo trong các lĩnh vực độc chất
học, thực phẩm chức năng, di truyền và bệnh di truyền, tiểu đường, bệnh ung thư,
nghiên cứu phát triển dược phẩm và phương pháp trị liệu trong đó có liệu pháp tế
bào gốc… sẽ trở thành những hướng nghiên cứu chính tại Việt Nam. Chính vì vậy
các đàn ĐVTN hạt nhân, đàn tham chiếu sẽ có vai trò quan trọng. Để thiết lập được
những đối tượng ĐVTN như vậy, nghiên cứu các chỉ tiêu sinh sản, chỉ tiêu huyết
học cũng như theo dõi các bệnh trên ĐVTN phải được tiến hành.
Khoa Thú y và một số khoa chuyên môn khác thuộc Học viện Nông nghiệp
Việt Nam cần đến ĐVTN trong giảng dạy. Hơn nữa trường đang và sẽ có nhiều dự
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1
án nghiên cứu liên quan đến ĐVTN. Đàn ĐVTN hạt nhân sẽ tạo cơ sở cho các
nghiên cứu đó. Đặc biệt nghiên cứu này sẽ là cơ sở cho bước chọn tạo, tạo dòng
thích hợp, trao đổi và hợp tác quốc tế từ đó góp phần nâng cao vai trò và đóng góp
của khoa Thú y và của Học viện Nông nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực khoa học
ĐVTN, một lĩnh vực nối kết nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng Sinh học Thú y - Y Dược - Môi trường…tại Việt Nam. Quan trọng hơn nữa động vật thí
nghiệm phục vụ cho công tác nghiên cứu sản xuất vắc xin rất cấp bách trong thú y
hiện nay.
Để chủ động cho việc cung cấp động vật thí nghiệm nói chung và chuột nhắt
trắng nói riêng đảm bảo số lượng và chất lượng, các cơ sở chăn nuôi động vật thí
nghiệm cần biết được nhu cầu sử dụng. Đặc biệt phải có sự hiểu biết rất rõ về các
đặc tính sinh lý sinh sản của loài động vật được nghiên cứu.
Cũng như các loài động vật có vú khác, sinh sản ở chuột nhắt trắng chịu ảnh
hưởng bởi nhiều yếu tố như: độ tuổi sinh sản, lứa đẻ, điều kiện nuôi dưỡng,...
Những yếu tố trên ảnh hưởng rất lớn tới tỉ lệ động dục, khả năng thụ thai, số con đẻ
ra và số con thu được sau quá trình nuôi theo mẹ.
Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Xác định một số chỉ tiêu
sinh sản, chỉ tiêu huyết học của chuột nhắt trắng giống Swiss nhân nuôi trong
một số cơ sở nghiên cứu tại Hà Nội”.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Bước đầu xây dựng các thông số tham chiếu về chỉ tiêu huyết học và chỉ tiêu
sinh sản của chuột nhắt trắng giống Swiss nuôi trong điều kiện Việt Nam.
3. Ý nghĩa của đề tài:
- Kết quả của đề tài sẽ là nguồn tài liệu để phục vụ công tác chăm sóc, nuôi
dưỡng, quản lý, khai thác chuột nhắt trắng sinh sản.
- Bổ sung thêm thông tin vào nguồn tài liệu phục vụ học tập và nghiên cứu.
- Nhằm tăng số lượng chuột nhắt trắng cung cấp phục vụ thí nghiệm.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Sự thuần dưỡng vật nuôi
Theo Đặng Vũ Bình (2006), tất cả những loài gia súc, gia cầm hiện nay đều
có nguồn gốc là động vật hoang dã và đã được thuần dưỡng do bàn tay và trí óc của
con người. Trước khi trở thành những vật nuôi như hiện nay, động vật hoang dã đã
phải trải qua một quá trình chọn lọc, huấn luyện, cải tiến nuôi dưỡng lâu dài.
Sự thuần dưỡng vật nuôi lúc đầu không có ý thức rõ rệt, sau dần mới trở
thành một công việc có mục đích, kế hoạch, phương pháp, kỹ thuật. Qua nhiều đời
thuần dưỡng vật nuôi đã trở thành một trong những hoạt động chính trong cuộc
sống. Sự thuần dưỡng bắt đầu bằng việc bắt thú hoang huấn luyện, khai thác nó,
biến đổi nó thành gia súc, gia cầm và ngày nay đã đến một giai đoạn cao là tạo nên
những phẩm giống gia súc, gia cầm cao sản có hướng sản xuất nhất định.
Trải qua một quá trình thuần dưỡng lâu dài đó, vật nuôi bắt nguồn từ động
vật hoang dã đã có những thay đổi về khả năng sản xuất (sự thay đổi quan trọng và
có ích nhất đối với đời sống con người); sức sản xuất của vật nuôi tiến theo hướng
nhất định, không những sức sản xuất của vật nuôi so với động vật hoang dã đã được
thay đổi, được nâng cao rõ rệt mà còn đi vào những hướng nhất định theo nhu cầu
đời sống của con người.
Ngoài những thay đổi cơ bản trên, vật nuôi còn có những thay đổi về ngoại
hình, trạng thái thần kinh và chức năng của các hệ cơ quan: như hoạt động của hệ
sinh dục của gia súc cũng khác thú hoang. Thú hoang thường sinh sản theo mùa còn
gia súc có thể sinh sản quanh năm, có các chu kỳ động dục đều đặn.
Một số đặc tính mới của gia súc là thành thục sớm, mức độ vỗ béo nhanh,
khả năng sử dụng và tiêu hóa các chất dinh dưỡng tăng, thời kỳ có chửa ngắn nhưng
khả năng miễn dịch kém.
1.2. Lịch sử phát triển và vai trò của chuột thí nghiệm
Không biết chính xác con người bắt đầu nuôi chuột thành vật nuôi từ khi nào
nhưng hầu như mọi người đều tin rằng người Trung Quốc là những người đầu tiên
nuôi chúng. Người ta thấy có những bản ghi chép về giống chuột đốm và chuột
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3
trắng ở Trung Quốc từ 1100 năm trước công nguyên. Chuột nhắt trắng cũng được
các nhà viết sử thời Hy Lạp và La Mã nhắc đến.
Vào những năm 1700, chuột đã được nuôi, buôn bán làm vật cảnh ở Trung
Quốc, Nhật Bản và châu Âu. Vào thời Nữ hoàng Anh Victoria, đã có giải thưởng
cho chuột cảnh “Fancy”. Năm 1895, Walter Maxey khởi xướng, người Anh sáng
lập ra “Câu lạc bộ Chuột quốc gia”. Đến thế kỷ XX, đã có rất nhiều con chuột cảnh
có màu lông khác nhau do sản phẩm của lại ghép.
Vào thời kỳ này, học thuyết di truyền của Gregor Mendel đã tác động mạnh
lên giới khoa học, chuột nuôi đã được chọn là động vật thí nghiệm nghiên cứu di
truyền. Năm 1902, chuột là động vật có vú đầu tiên dùng để chứng minh Định luật
Mendel. Người ta cũng nhanh chóng nhận ra cần phải có dòng chuột nuôi thuần
chủng để nghiên cứu.
Các chương trình lai tạo giống chuột đã được thực hiện tạo ra các chủng
chuột dùng trong các mô hình nghiên cứu khác nhau phục vụ nghiên cứu sinh y học.
Theo Nguyễn Bá Tiếp, chuột và chuột nhắt là những loài có đóng góp rất
nhiều cho nghiên cứu khoa học. Nói đúng hơn, con người đang cậy thế của mình để
bắt buộc chuột và nhiều loài động vật khác phải chịu thiệt thòi, chịu chết vì sự tồn
tại và cái được gọi là "chất lượng cuộc sống" của loài người. Vì cần protein, người
đã ăn thịt nhiều loại động vật trong đó có thịt chuột. Trong các thử nghiệm thuộc
nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau người ta lại cần đến động vật (trong đó chuột
chiếm tỷ lệ cao nhất).
Với khả năng sinh sản nhanh chóng, không đòi hỏi mặt bằng rộng và không
cầu kỳ về thức ăn, chuột được nuôi và nhân đàn một cách dễ dàng. Hơn nữa, do tính
tương đồng cao trong bộ gen của chuột và bộ gen của người nên hiện nay chuột
được coi là đối tượng số 1 cho các nghiên cứu Y sinh học.
Y sinh học cũng là lĩnh vực nghiên cứu sử dụng chuột làm mẫu thí nghiệm
nhiều nhất. Nếu điểm qua các nghiên cứu từ cơ bản đến ứng dụng trong y dược học,
nông nghiệp, môi trường .v.v. ta lại thấy đâu đâu cũng có "bóng dáng của chuột".
Các gen của chuột và chuột nhắt lần lượt được giải mã để làm giàu ngân hàng gen
nhưng với mục đích chính là phục vụ cho con người. Chuột được dùng để thử tác
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4
dụng bảo hộ và tác dụng phụ của vắc xin, thử tác dụng chữa bệnh của thuốc, của các
tia xạ, tác dụng và ảnh hưởng của một loại thức ăn .v.v.
Theo Nguyễn Đình Nguyên (2008), chuột là một loài động vật gắn liền với
sinh hoạt văn hoá của con người khá lâu đời, đặc biệt với nền văn hoá lúa nước như
Việt Nam. Sự hoà nhập giữa loài chuột với con người trong một quần thể định cư
được xác định từ thời kỳ đồ đá mới (Neolithic) ở Thổ Nhĩ Kỳ (khoảng 6500-5650
trước Công Nguyên). Chuột nhà đã chứng tỏ là loại động vật có vú có khả năng
thích nghi cao nhất với các quần thể định cư đa dạng của con người. Tuy nhiên, mối
quan hệ giữa chuột và người lại mang những ý nghĩa khác nhau, chuột luôn là đối
tượng để con người “tìm và diệt” vì đặc tính sinh thái và tác hại của loài chuột. Qua
hàng thế kỷ nay, một số loài chuột lại rất có ích đối với con người, chuột đã trở
thành “ân nhân” bất đắc dĩ của con người.
Việc sử dụng động vật trong nghiên cứu y học đã đóng góp cho nhân loại
một kho tàng tri thức vô giá về các mặt cơ thể giải phẫu, sinh lý hoc, bệnh lý học và
sau này là mô hình thử nghiệm và di truyền học.
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, trong những thập niên
cuối của thế kỷ XX, có nhiều mô hình nghiên cứu phi động vật (quan sát và giải
phẫu tử thi và sử dụng dòng tế bào người) để thay thế mô hình động vật, nhưng
cũng chỉ đem lại giá trị khoa học nhất định, động vật vẫn là một trong những mô
hình được sử dụng ưu thế nhất trong nghiên cứu y sinh học. Mỗi năm có khoảng 17
đến 23 triệu con vật được sử dụng để nghiên cứu. Trong số đó, chuột chiếm đến
95% các nghiên cứu trên mô hình động vật. Sở dĩ chuột được sử dụng rộng rãi trong
nghiên cứu y khoa là do kích thước nhỏ, giá thành rẻ, dễ nuôi, sinh sản nhanh, đặc
biệt đời sống ngắn (2 - 3 năm) nên có thể theo dõi được hết đời sống và có thể theo
dõi được cả vài thế hệ. Điểm quan trọng và quý giá nhất là đặc điểm sinh lý và di
truyền học của chuột rất gần với con người. Trên thực tế, mặc dù tinh tinh
(chimpanzee) có cấu trúc di truyền DNA 99% giống với con người, chuột có tỉ lệ
thấp hơn nhưng chuột vẫn luôn luôn là mẫu hình nghiên cứu được ưu tiên hàng đầu
trong nghiên cứu y học. Trong một thập niên gần đây, các nhà khoa học còn nâng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5
cấp mô hình nghiên cứu chuột lên một tầm cao mới là có thể làm thay đổi cấu trúc
gen trong chuột để gây ra các bệnh lý giống như bệnh lý ở người.
Cũng theo Nguyễn Đình Nguyên, ở châu Âu, Robert Hook được coi là người
đầu tiên sử dụng chuột để nghiên cứu thực nghiệm về oxy trong cơ thể sống vào
năm 1614. Từ đó, việc sử dụng chuột với các chủng đặc biệt trở nên ngày càng phổ
biến. Abbie Lathrop, một giáo viên nghỉ hưu người Mỹ, thích chuột và nuôi chúng
trong một trang trại của mình ở Massachusetts vào đầu thế kỷ XX. Năm 1902, các
dòng chuột nuôi của bà trở thành những con vật đầu tiên được Giáo sư Ernest Castle
đưa vào phòng thí nghiệm của Đại học Harvard và sau đó là Đại học Pennsylvania,
khi chúng được phát hiện thấy có mọc các khối u. Sau đó, học trò của Ernest là
Clarence Cook Little (1888-1971) là người có công đầu trong việc tạo các giống
chuột lai thuần chủng, lần đầu tiên được dùng trong nghiên cứu các bệnh ung thư có
tính di truyền. Ông đã tạo ra giống chuột DBA (Dilute, Brown, Agouti), tạm gọi là
chuột thí nghiệm; các chủng chuột đầu tiên do Little lai tạo và vẫn thông dụng cho
đến hiện nay là CBA, C3H, C57BL/6 và BALB/c. Little cũng chính là người đã
thành lập Phòng thí nghiệm Jackson năm 1929, cho đến nay vẫn là một trong những
nơi cung cấp các giống chuột thí nghiệm lớn nhất thế giới.
Theo RIVM (2000), chuột nhắt trắng được biết đến từ thế kỷ thứ 18, ban đầu
được biết như một loài động vật cảnh, đến thế kỷ 19, chúng bắt đầu được sử dụng
rộng rãi trong nghiên cứu gen, sinh sản. Thế kỷ 20, chuột nhắt trắng được sử dụng
trong nghiên cứu di truyền, dinh dưỡng, phôi, từ đây vai trò của chuột nhắt trắng
trong khoa học được nâng dần và sử dụng rộng rãi hơn. Cho tới nay, chuột nhắt trắng
là loài được sử dụng rộng rãi nhất đặc biệt trong nghiên cứu sinh - y học, nghiên cứu
các tính năng, độc tính của thuốc, hiệu quả và độ an toàn của vắc xin và sinh phẩm y
học, sản xuất vắc xin....
* Chuột thí nghiệm tại Việt Nam
Tại Việt Nam có một số nơi nuôi chuột thí nghiệm lớn như: Khu vực chăn
nuôi chuột thí nghiệm tại Viện Vệ sinh dịch tễ học Trung ương, Viện Pasteur TP.
HCM, trại Suối Dầu thuộc Viện Vắc xin và sinh phẩm y tế Nha Trang…
Trung tâm nghiên cứu và sản xuất động vật thí nghiệm chuẩn thức
(CIMADE) - Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương là một cơ sở chăn nuôi động vật thí
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6
nghiệm lớn tại khu vực miền Bắc cũng như trên cả nước đã được chuẩn thức hóa,
mỗi tuần sản xuất và cung cấp cho các viện nghiên cứu khu vực miền Bắc khoảng 7
– 8 nghìn con chuột.
Trại Chăn nuôi Suối Dầu hàng năm cung cấp cho công tác thí nghiệm, kiểm
định vắc xin, sinh phẩm y tế, sinh phẩm sử dụng trong thú y gần 100000 con chuột
nhắt trắng (11g-23g); 3000 - 5000 con chuột lang (250g trở lên) và 150000 200000 chuột nhắt 1- 2 ngày tuổi. Tại đây nuôi dưỡng chuột nhắt trắng giống Swiss,
chuột DDY của Nhật. Để tránh phối giống đồng huyết, chuột thường được luân
chuyển và đổi giống với các trại chăn nuôi khác ở Hà Nội hay TP.HCM...( Hồ Thị
Hồng Nhung, 2008).
Tại Viện Kiểm định quốc gia Vắc xin và Sinh phẩm y tế, hai dòng chuột nhắt
trắng được nuôi phục vụ thí nghiệm là chuột Swiss, chuột nhắt trắng thuần chủng
BALB/c và chuột lang, hàng năm sản xuất và sử dụng lên đến hơn 15000 con chuột
Swiss, 1000 con chuột BALB/c và 1000 con chuột lang. Tuy nhiên, nhu cầu chuột
nhắt trắng đối với công tác kiểm định chất lượng các loại vắc xin và sinh phẩm y tế
không ổn định, không cố định về thời gian cũng như số lượng mẫu yêu cầu kiểm tra
chất lượng tại cùng một thời điểm. Trong một số trường hợp lượng chuột sản xuất
ra không được sử dụng do lượng mẫu ít nhưng cũng có thời gian chuột sản xuất rất
nhiều vẫn không đủ cung cấp cho thí nghiệm từ đó buộc phải đi mua từ cơ sở khác
để đảm bảo cung cấp kịp thời.
* Những tiến bộ trong việc tạo giống chuột trong phòng thí nghiệm
Mặc dù chuột được sử dụng nhiều nhất trong nghiên cứu y sinh học nhưng
không phải tất cả các loại chuột đều dùng được. Các chủng chuột dùng trong nghiên
cứu y sinh hiện đại đều phải có cấu trúc di truyền xác định rõ. Các chủng chuột đã
xác định về mặt di truyền đều phải có cấu trúc giống hệt hoặc rất sát nhau để có thể
tái sinh sản theo cách cho lai thuần chủng các thế hệ trong thực nghiệm và để cho
có thể biết được kiểu hình và kiểu gen. Những thập niên gần đây, các nhà khoa học
đã có thể tạo ra những con chuột thí nghiệm có cấu trúc di truyền hoặc có kiểu hình
bệnh lý theo ý muốn qua các phương thức chuyển hoặc tách gen. Chuyển và tách bỏ
gen trong chuột để phục vụ cho mục đích nghiên cứu là một cuộc cách mạng trong
công nghệ sinh học. Chuột chuyển gen là chuột được cấy vào cơ thể một gen ngoại
lai và chuột tách gen là tách bỏ hoặc bất hoạt một hay một đoạn gen đặc hiệu nào đó.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7
Chuột nhắt trắng (Mus musculus), được lựa chọn là mô hình nghiên cứu chuẩn
trong phòng thí nghiệm y sinh do khả năng thích nghi cao và khả năng có thể lai tạo
các dòng gen thuần chủng tiện lợi cho nghiên cứu các bệnh có liên quan mật thiết với
bệnh lý ở người. Đặc biệt từ khi công nghệ chuyển và tách gen kỹ thuật cao ra đời,
chuột càng chứng tỏ là một sự lựa chọn đúng đắn của con người trong nghiên cứu
khoa học. Chẳng hạn một chủng chuột đặc hiệu, chủng 129 và các chủng phụ của nó
được coi là đặc biệt giá trị do chúng có thể tạo các bào gốc phôi có khả năng thay đổi
được cấu trúc di truyền trong quá trình nuôi cấy và rồi được đưa trở lại vào trong tử
cung của chuột vật chủ. Các nghiên cứu sử dụng biện pháp biến đổi gen trực tiếp của
các chủng phụ nhóm 129 đã cho phép công nghệ tạo đột biến gen theo ý muốn để tạo
ra các giống chuột có các đặc tính bệnh lý đặc hiệu, hay còn gọi là chuột chuyển gen
(transgenic mouse) hoặc chuột bất hoạt gen (knockout mouse) cũng như các giống
chuột có mang gen bệnh lý của người hay chuột chuyển gen người (humanized
mouse). Ngày nay, việc sử dụng chuột chuyển gen trong phòng thí nghiệm y sinh đã
trở nên phổ biến.
Theo Hồ Thị Hồng Nhung (2008), hai loại động vật dùng thí nghiệm nhiều
nhất là chuột nhắt (mice) và chuột cống (rat).
Từ 2 loài này, đã được lai tạo hàng ngàn chủng chuột khác nhau tuỳ theo
mục đích thí nghiệm. Phân loại theo tính năng, chia ra 2 loại chuột thí nghiệm:
chuột thuần chủng và chuột biến đổi gen.
Chuột thuần chủng là các loại chuột dùng cho các kiểm nghiệm an toàn
thuốc, thực phẩm, mỹ phẩm, cung cấp các nguồn tế bào phôi, tế bào gốc, cung cấp
tế bào lai, sản xuất các chế phẩm sinh y học, nghiên cứu hoá chất gây ung thư… hay
trong giảng dạy.
Chuột chuyển gen dùng để nghiên cứu cơ bản, di truyền học phân tử, các
bệnh chuyển hóa, ung thư, tiểu đường vv...như: hội chứng Down dùng dòng chuột Ts65Dn; bệnh xơ cứng Cystic Fibrosis (CF) – dùng chuột The Cftr knockout; ung
thư: p53 knockout; tăng nhãn áp gây mù (Glaucoma): DBA/2J; tiểu đường týp 1
bệnh tự miễn; tiểu đường týp 2 do rối loạn chuyển hoá sau 40 tuổi; bệnh động kinh
ở trẻ em; bệnh tim mạch; bệnh mất dinh dưỡng cơ; ung thư cổ tử cung; HIVAIDS... cứ mỗi loại bệnh sẽ tương ứng một đến vài dòng chuột chuyển gen.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8
1.3. Chuột nhắt trắng
Theo RIVM (2000), chuột nhắt trắng là một loài động vật được sử dụng rất
phổ biến. Chúng là thành viên bộ gặm nhấm, họ Muridae, chi Mus. Các nhà khoa
học gọi chuột thí nghiệm là Mus dometicus dometicus (hay Mus musculus
domesticus). Chuột có vóc dáng nhỏ, sinh sản nhanh tạo ra số lượng lớn trong thời
gian ngắn, dễ chăm sóc, giá thành rẻ.
Chuột nhắt trắng có bộ răng mọc dài liên tục, vì thế thức ăn phải có độ cứng
chắc nhất định. Chúng là loài ưa hoạt động về đêm, ăn nhiều hơn vào thời gian
chuyển từ tối sang sáng và từ sáng sang tối. Chuột nhắt trắng có kích thước nhỏ, khi
trưởng thành chiều dài chỉ đạt 12-15cm tính từ mũi tới đuôi, chiều dài của đuôi dài
tương đương chiều dài của cơ thể. Chuột đực thường có kích thước lớn hơn so với
chuột cái. Tuy nhiên, kích thước và KLCT của chuột phụ thuộc nhiều vào giới tính,
giống và tuổi của chuột, chế độ ăn, số lượng chuột được nuôi trong mỗi lồng và đặc
biệt là điều kiện môi trường nuôi dưỡng.
Chuột nhắt trắng động dục sớm, từ khoảng 5-7 tuần tuổi ở chuột đực và 4-6
tuần tuổi ở chuột cái, tuổi thành thục sinh dục ở chuột đực là 10 tuần và chuột cái
khoảng 8-10 tuần, chuột cái có thể có chu kỳ động dục lần đầu khi mới 25-28 ngày
tuổi. Thời gian mang thai của chuột ngắn khoảng 20 ngày, số lượng con sinh ra mỗi
lứa từ 4-15 con, đây là đặc điểm rất thuận lợi để tạo ra một số lượng động vật thí
nghiệm lớn trong một khoảng thời gian ngắn.
Cũng bởi vì kích thước nhỏ cho nên các đặc tính sinh lý của chuột nhắt trắng
dễ bị ảnh hưởng và thay đổi rất nhanh khi điều kiện môi trường xung quanh thay
đổi. Nếu nhiệt độ phòng nuôi tăng hoặc giảm đi 2 - 30C có thể làm thay đổi đặc tính
sinh lý của con vật.
Chuột nhắt trắng rất nhạy cảm với mùi, tiếng động và thay đổi thời tiết. Tuy
nhiên, loài vật này lại kém nhạy cảm với màu sắc đặc biệt là màu đỏ. Vì thế, đối với
phòng nuôi chuột nhắt trắng cần đảm bảo luôn sạch sẽ, thoáng mát và tránh tiếng
động mạnh.
Nhiệt độ thích hợp nuôi chuột nhắt trắng tốt nhất trong khoảng 20 - 240C, độ
ẩm trong khoảng 45 - 75%. Chuột nhắt trắng khi mới sinh có KLCT trung bình
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9
khoảng 0,5 - 1,5g. Tuy rất nhỏ nhưng chúng phát triển rất nhanh, dứt sữa sau 18 21 ngày tuổi, lúc đó chuột có thể đạt KLCT từ 8 -12g. Chúng phát triển nhanh trong
khoảng 3 - 8 tuần tuổi và chậm dần cho tới khi đạt 6 tháng tuổi thì gần như không
phát triển.
Theo các số liệu từ RIVM (2000), Johan van der Gim (1990), và Bennet
and Vickey (1970), mô tả một số chỉ tiêu theo dõi trên chuột nhắt trắng như sau:
Bảng 1.1: Chỉ tiêu sinh học của chuột nhắt trắng
Chỉ tiêu
KLCT trưởng thành
Theo Johan van der
Theo RIVM
Chuột đực: 20 - 40g
Chuột cái: 18 - 40g
Gim
20 - 35g
Số cặp NST
40
40
Lượng thức ăn thu nhận
15g/100g KLCT/ngày
3 – 6 g/ngày/con
Lượng nước uống
15g/100g KLCT/ngày
4 – 7 ml/ngày/con
Lượng nước tiểu thải ra
1 - 1,5ml/ngày
-
Vòng đời (năm)
1,5 - 2
-
Nhiệt độ trực tràng (oC)
37 - 380C
36 - 380C
Nhịp tim/phút ( lần/ phút)
400 - 700
300 - 800
Thể tích máu
5,8 - 7,0 ml/100g KLCT
-
Nhịp thở ( lần/phút)
60 - 220
-
Ghi chú: (-) không có dữ liệu
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10
Về các chỉ tiêu sản được giới thiệu ở các tài liệu có sự khác nhau thể hiện ở
bảng sau:
Bảng 1.2: Chỉ tiêu sinh sản của chuột nhắt trắng
Chỉ tiêu
RIVM
J.P. Bennet và
Johan van der
B.H.Vickey
Gim
Chuột đực:
50 ngày
10 tuần
(20 - 35g)
Chuột cái:
35 - 60 ngày
8-10 tuần
(20 - 30g)
Tuổi động dục lần đầu ( ngày)
25-28
-
28 - 35
Chu kì động dục (ngày)
4-5
4-5
4-5
Tuổi sinh sản
56 - 70 ngày
10
Thời gian động dục (giờ)
14
Rụng trứng 2 - 3
± 13
giờ
Thời gian mang thai (ngày)
19 - 21
19 (từ 17 đến 21)
19 (từ18 đến 21)
Thời gian mang thai giả (ngày)
10 - 13
-
-
Số lượng chuột con/lứa
4 - 12
11
6 - 12
Khối lượng sơ sinh (g)
0,5 - 1,5
1,5
1 - 1,5
Tuổi dứt sữa (ngày)
18 - 21
21
18 - 21
KLCT khi dứt sữa (g)
8 - 12
7 - 15
8 - 14
4-6
-
-
Có khả năng
-
< 24 giờ
Khoảng cách giữa 2 lần sinh
(tuần)
Động dục sau sinh
Ghi chú: (-). Không có dữ liệu
Theo các tài liệu khác nhau, có sự khác nhau ở một số chỉ tiêu sinh lí và sinh
sản chửa chuột.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11
Chuột nhắt trắng giống Swiss là một dòng không thuần chủng được dùng rất
phổ biến trong các thí nghiệm trong các nghiên cứu sinh và y học.
1.4. Sinh sản ở chuột nhắt trắng
1.4.1. Lứa tuổi sinh sản
Chuột có thể giao phối và mang thai sớm nhất khi 4 tuần tuổi. Tuy nhiên, để
cho chuột sinh sản tại thời điểm đó sẽ rất khó khăn. Các nhà chuyên môn khuyến
cáo chỉ nên cho chuột sinh sản khi đạt 12 tuần tuổi trở lên, cho sinh sản quá sớm sẽ
ảnh hưởng tới chất lượng cả chuột mẹ và chuột con. Chuột mẹ và chuột con sẽ có
sức sống yếu và vòng đời của chuột sẽ rút ngắn.
Tùy thuộc vào dòng chuột, một con cái không nên nhân giống qua 8 tháng
tuổi, sau 8 tháng tuổi chuột trở nên già hiệu quả sinh sản sẽ giảm. Tuy nhiên, có một
số dòng chuột có thể nhân giống lâu hơn.
Theo Ruth Robinson (1995), chuột cái thành thục về tính từ rất sớm. Lần
động dục đầu tiên có thể xuất hiện khi chuột đạt 24 ngày tuổi. Tuy nhiên, chuột cần
phải đạt 7 - 9 tuần tuổi để đạt thành thục về thể vóc. Chuột cái có chu kỳ động dục
4-6 ngày. Độ dài chu kỳ động dục của chuột chịu ảnh hưởng bởi số lượng chuột
nuôi trong mỗi lồng. Nếu nuôi nhốt riêng lẻ, có thể chuột phát triển chu kỳ động dục
bất thường, có thể rất dài hoặc động dục liên tục. Nếu nhốt chuột cái với mật độ lớn,
tất cả chúng sẽ không động dục hoặc có biểu hiện mang thai giả, việc mang thai giả
ở chuột nuôi thành nhóm được biết đến như hiệu ứng LEE- BOOT.
Ở các chuột nhốt thành từng cặp hoặc nhóm nhỏ chu kỳ động dục thường
đều hơn. Tuy nhiên, có một số trường hợp chuột không động dục nhưng sau khi cho
tiếp xúc với nước tiểu chuột đực, chúng sẽ động dục sau khoảng 72 giờ. Chuột cái
đồng loạt động dục và đạt đỉnh vào khoảng đêm thứ 3 sau khi tiếp xúc với chuột
đực được biết đến như hiệu ứng Whitten.
Cả chuột đực và chuột cái đều có thể bắt đầu sinh sản ở 6 tuần tuổi và tiếp tục
cho đến khi chúng khoảng 12 tháng tuổi. Chuột cái đẻ lứa đầu và chuột cái sau 9 tháng
tuổi có số lượng con sinh ra ít hơn so với các chuột ở các độ tuổi sinh sản khác.
Chuột sinh sản nên có thời gian nghỉ giữa mỗi lứa đẻ, không nên cho chuột
sinh sản liên tiếp. Một con chuột có thể thụ thai ngay sau khi sinh (động dục sau
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12
đẻ). Vì thế, không nên nhốt chung một con đực với một con cái khi chuột cái sinh
con. Một chuột mẹ nên có 3 - 4 tuần phục hồi sau mỗi lứa đẻ. Nếu không có thời
gian nghỉ, ở chu kỳ sinh sản sau dễ xảy ra biến chứng, các biến chứng có thể bao
gồm như: khó sinh, chuột con sinh ra có trọng lượng nhỏ, chuột con và chuột mẹ
không khỏe, tuổi thọ của con mẹ ngắn hơn có khi cả chuột mẹ và chuột con bị chết
và nhiều vấn đề khác.
Một con cái không nên có nhiều hơn 3 lứa trong quá trình sinh sản. Nếu cho
sinh sản quá dài sẽ ảnh hưởng tới chất lượng chuột con.
Theo Viện Kiểm định Quốc gia Vắc xin và Sinh phẩm y tế, chuột nhắt trắng
được ghép 3 lứa đẻ cho mỗi vòng đời chuột, chuột đực được sử dụng tối đa 9 tháng
tuổi. Trong quá trình nuôi sinh sản, các chuột không đảm bảo sức khỏe, có các biểu
hiện bệnh lí đều được loại bỏ (SOP: TN03 -01).
Chuột đực thường trưởng thành chậm hơn so với chuột cái khoảng 2 tuần.
Theo RIVM (2000), ở loài chuột, feromone đóng vai trò rất quan trọng đối
với quá trình sinh sản, chu kì động dục cũng như thời gian động dục chịu tác dụng
rất nhiều bởi feromones của con đực. Chuột cái có thể không động dục khi không
có mùi của con đực. Tuy nhiên, các nhà khoa học cũng cho rằng nếu chuột cái tiếp
xúc với một con đực lạ thứ hai 48 giờ sau khi giao phối thành công sẽ ngăn cản hợp
tử làm tổ và con cái sẽ động dục trở lại sau 4 - 5 ngày.
Điều này rất quan trọng trong quá trình chăm sóc chuột sinh sản, sự xuất
hiện feromones của con đực có khả năng gây động dục hàng loạt cũng như ngăn cản
mang thai trong quá trình vệ sinh, thay lồng chuột hàng ngày.
Theo John (1990), trong thời gian mang thai 19 - 21 ngày, chuột cái sẽ không
tiết sữa. Nếu xảy ra quá trình giao phối ở lần động dục đầu tiên sau khi sinh, chuột có
thể đồng thời vừa tiết sữa vừa mang thai. Quá trình tiết sữa có thể làm kéo dài thời gian
mang thai tăng thêm 3-5 ngày. Động dục sau sinh có thể xảy ra trong vòng 24 giờ.
1.4.2. Giao phối và ghép đôi
Tốt nhất là ghép thành cặp một đực và một cái. Tuy nhiên, phải đảm bảo
lồng chuồng đủ rộng trong quá trình ghép đôi, ngoài ra phải đảm bảo chất lượng và
số lượng chất lót chuồng.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13
Các nhà khoa học tại đại học California cho rằng: với 2 - 4 con cái ghép cùng
một con đực trong 1 lồng cho kết quả sinh sản tốt. Nếu duy trì liên tục một con đực và
một con cái trong 1 cái lồng, chúng có thể sinh sản theo chu kỳ liên tục 18 - 28 ngày.
Đối với loài chuột từ khi thành thục về tính hoặc sau khi ghép đôi, chuột đực
thường xảy ra hiện tượng đánh nhau. Nếu cho tiếp xúc với một cá thể lạ dễ gây ra
hiện tượng cắn nhau. Vì thế, khi ghép chuột phải đúng cách để tránh tình trạng cắn
nhau. Khi ghép chuột, chuột đực và chuột cái nên được tiếp xúc một khoảng thời
gian nhất định trước khi ghép đôi thực sự. Có một số con đực hung hăng sẽ cắn con
cái nhưng sẽ không có vấn đề gì xảy ra và trường hợp này thường hiếm gặp. Cũng
có khi con cái cắn lại con đực, điều này thường xảy ra hơn vì một số trường hợp con
đực quá hung hăng trong khi đó con cái không trong chu kỳ động dục, chúng sẽ cắn
lại như một phản xạ phòng vệ. Điều này thường thấy sau quá trình ghép sinh sản có
nhiều tiếng kêu và tiếng động bất thường. Tuy nhiên, nếu chuột vẫn tiếp tục cắn
nhau, thì nên tách riêng các cặp sinh sản này, nếu không tách riêng có thể chuột sẽ
cắn nhau đến chết. Trong quá trình chọn sinh sản không nên chọn những con có đặc
tính quá hung hăng để làm giống.( Johan, 1990)
Chu kỳ động dục của con cái khoảng 3 - 5 ngày. Do đó, một con cái thường
mang thai trong vòng 1 - 5 ngày kể từ thời gian ghép đực. Có thể để con đực và con
cái cùng với nhau càng lâu càng tốt để tăng hiệu quả thụ thai nhưng không nên để
quá 16 ngày kể từ ngày đầu ghép. Một con chuột có thể có con sau sớm nhất là 19
ngày từ ngày ghép và muộn nhất là 24 ngày tính đến ngày ghép cuối cùng.
Rất khó theo dõi chu kỳ động dục của chuột, thường chuột chỉ chịu đực trong
vòng 12 giờ. Chuột có thai sẽ không động dục cho đến sau khi sinh. Để biết chắc
chắn chuột có thai có thể kiểm tra cơ quan sinh dục của con cái. Nếu không có thai
âm hộ sẽ mở cũng có khi sưng và đỏ.
Khi một con đực giao phối với một con cái xong, sẽ tạo thành một màng
mỏng chặn ở âm hộ con cái giúp ngăn cản con đực khác giao phối tiếp theo. Màng
mỏng này ban đầu là dạng nhày trắng sau đó cứng lại, màng mỏng này có khi nhìn
thấy có khi không do nó nằm sâu bên trong. Việc quan sát thấy lớp màng mỏng này
giúp ta có thể khẳng định con đực đã giao phối với con cái. Tuy nhiên, điều này
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 14
không có nghĩa là con cái đã mang thai mà chỉ giúp khẳng định con đực đã giao
phối với con cái tại thời điểm đó.
Có thể sử dụng quy trình kiểm soát cân nặng của chuột cái để đánh giá chuột
mang thai hay không nhưng nó không đảm bảo hiệu quả 100%. Con cái sẽ giảm
một vài gam trong vòng một hoặc 2 ngày sau khi giao phối, sau đó trọng lượng bắt
đầu tăng dần khi chuột mang thai. Một số trường hợp sau khi ghép, chuột tăng trọng
nhưng không phải do chuột mang thai (mang thai giả) hoặc ngược lại có một số
chuột không tăng trọng nhiều trong suốt thời kỳ mang thai.
Một số chuột có thể ăn con sơ sinh của mình nếu có mùi của con khác. Tuy
nhiên, các nghiên cứu cho thấy một con chuột cái có thể tự hủy bỏ và hấp thụ bào thai
của mình bất cứ lúc nào sau khi mang thai 2 ngày nếu có mùi của con đực khác so với
con đực đã ghép. Nguyên nhân của vấn đề này là do kích thích tố, những kích thích tố
này gửi tín hiệu đến khi có con chuột đực khác. Trong trường hợp này là do con đực
mới có sức sống mạnh hơn, có khả năng tốt hơn trong việc duy trì nòi giống, con cái có
thể hủy bỏ thai để chuẩn bị cho một chu kỳ động dục mới. (Johan, 1990; RIVM, 2000).
1.4.3. Mang thai và sinh con
Chuột nhắt trắng có thời gian mang thai trong khoảng 19 - 21 ngày tối đa là
24 ngày sau khi ghép ngày cuối cùng. Khi mang thai, chuột tăng trọng lượng rất
nhanh. Chuột cái sắp đẻ, bụng to quan sát giống như nuốt một quả bóng. Tuy nhiên,
một số trường hợp chuột không thay đổi hình dạng trong suốt quá trình mang thai.
Một số chuột cái khi mang thai bụng rất to nhưng khi sinh lại được ít con,
một số khác nhìn nhỏ hơn nhưng lại mang thai với số lượng lớn. Một số mang thai
số lượng ít nhưng kích thước con lớn và một số trường hợp mang thai với số lượng
nhiều nhưng kích thước con nhỏ nên rất khó phân biệt. Kích thước mang thai của
chuột mẹ không quyết định số con chuột mẹ có khả năng sinh ra.
Theo Johan (1990), số lượng chuột con đẻ ra trong một lứa trong khoảng từ 6
đến 12 con, thời gian mang thai trong khoảng 18 - 21 ngày, chuột con có thể cai sữa
từ 18 - 21 ngày và có trọng lượng khoảng 8 - 12g.
Chuột cái sinh sản khoảng 4 - 7 con mỗi lứa và giai đoạn mang thai là 19
ngày. Con con sinh ra chưa mở mắt và không có lông. Con cái đẻ khoảng 8 lứa
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 15
trong suốt quãng đời. Mặc dù thế, nếu các điều kiện thuận lợi, chúng có khả năng
cứ 24 - 28 ngày sẽ đẻ một lứa. Khoảng 5 - 8 tuần cơ quan sinh dục của con con phát
triển hoàn chỉnh (thành thục về tính).
Số lượng con con sinh ra phụ thuộc vào điều kiện môi trường, chế độ nuôi
dưỡng và lứa sinh sản của chuột. Thông thường chuột đẻ khoảng 3 - 12 con con mỗi
lứa. Có một số chuột nuôi trong phòng thí nghiệm có thể đẻ lên đến 25 con con
trong 28 ngày. Tuy nhiên, những con chuột sinh sản trong phòng thí nghiệm làm
được điều này là rất khó.
Theo Cao Văn Sung (1980), thời gian chuột chửa khoảng 18 - 21 ngày, đẻ 4 8 con và đẻ 6 - 8 lần trong một năm.
Theo các nhà cung cấp giống chuột lớn trên thế giới, chuột mang thai 19 - 21
ngày, tuổi tách mẹ là 3 tuần. Tuổi thành thục 6 - 8 tuần, trọng lượng trung bình con
non lúc sinh khoảng 1g, cai sữa đạt 8 - 12g. Khối lượng trưởng thành khoảng 30 40g (con đực thường lớn hơn con cái). Vòng đời trong phòng thí nghiệm vào
khoảng 1,5 - 2,5 năm. Mỗi con cái trong cuộc đời có thể đẻ 6 - 8 lứa với số con giao
động từ 4 - 8 con mỗi lứa. Độ tuổi sinh sản khoảng 6 - 8 tháng, con đực có thể dùng
tới 24 tháng.
Số lượng con sinh ra mỗi lứa phụ thuộc vào số lượng trứng giải phóng ở mỗi
chu kỳ động dục, số lượng, chất lượng tinh trùng của con đực và tỉ lệ chết trước
sinh. Điều này có thể thay đổi phụ thuộc vào độ tuổi của chuột và điều kiện môi
trường bên ngoài (chế độ ăn, stress, sự hiện diện của con đực lạ và dòng chuột
(phản ánh các yếu tố di truyền). Tỉ lệ chết trước sinh ở các dòng cận giao có thể lên
đến 10 - 20%.
Theo Bennet and Vickery (1970), số lượng con trung bình ở những con chuột
khác nhau là khác nhau. Đối với mỗi con chuột thì lứa thứ 2 có số con sinh ra lớn nhất
sau đó giảm dần, khi đến lứa 6 thì số lượng con sinh ra rất thấp, ít hơn so với lứa 1. Khả
năng sinh sản của chuột tăng nhẹ từ đầu năm đến cuối mùa hè sau đó giảm dần.
1.4.4. Dinh dưỡng cho chuột sinh sản
Thành phần của thức ăn trong quá trình nuôi dưỡng có một tác động lớn lên
sức khỏe, hiệu xuất chuyển hóa của động vật.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 16