Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Tái cấu trúc đầu tư tại UDIC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.75 MB, 109 trang )

1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tái cấu trúc doanh nghiệp là quá trình khảo sát, đánh giá lại cấu trúc
hiện tại và đề xuất giải pháp cho mô hình cấu trúc mới nhằm tạo ra “trạng
thái” tốt hơn cho doanh nghiệp nhằm thực hiện những mục tiêu đề ra trong
những điều kiện, hoàn cảnh luôn thay đổi.
Mục tiêu chung của tái cấu trúc là đạt được một “thể trạng” tốt hơn cho
doanh nghiệp, để doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn dựa trên những nền
tảng về sứ mệnh, tầm nhìn, định hướng chiến lược sẵn có của doanh nghiệp.
Việc tái cấu trúc doanh nghiệp luôn phải được xem xét một cách
thường xuyên liên tục, nếu không tình trạng mất cân bằng của hệ thống có
thể xảy ra bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, vấn đề tái cấu trúc thường được đặt ra
bởi các lý do sau:
Tái cấu trúc xuất phát từ áp lực bên ngoài để thích nghi theo môi trường
kinh doanh đã có những biến đổi về cơ bản. Ví dụ, chính sách cổ phần hóa –
chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, ra nhập AFTA, WTO...
Tái cấu trúc xuất phát từ các áp lực bên trong để phù hợp theo quy mô
tăng trưởng, phát triển của doanh nghiệp. Ví dụ: yêu cầu phân công chuyên
môn hóa sâu hơn hoặc để kịp thời ngăn chặn đà suy thoái của doanh nghiệp
đang tiến đến bờ vực phá sản...
Tái cấu trúc xuất phát từ cả hai luồng áp lực bên ngoài và bên trong.
Việc tái cấu trúc doanh nghiệp có các hoạt động chính sau:
Điều chỉnh cơ cấu các hoạt động: điều chỉnh cơ cấu các mục tiêu chiến
lược, ngành nghề kinh doanh, chủng loại sản phẩm hàng hóa, địa bàn hoạt
động...


2


Điều chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy: tái bổ từ phân công chức năng, nhiêm
vụ, quyền hạn của các bộ phân, các cấp quản lý, các chức danh..
Điều chỉnh cơ cấu thể chế: điều chỉnh các cơ chế, chính sách thông qua
sự rà soát, thay đổi hợp lý hóa từ các quy trình công việc đến các quy chế,
quy định.
Điều chỉnh cơ cấu nguồn lực: điều chỉnh cơ cấu đầu tư tạo lập các nguồn
lực và tái phân bổ sử dụng các nguồn lực.
Những nội dung phải giải quyết khi tái cấu trúc doanh nghiệp:
Tái cấu trúc doanh nghiệp cơ bản: Khảo sát, đánh giá mô hình cấu trúc
hiện tại, thiết lập mô hình cấu trúc công ty mới, xác định trách nhiệm quyền
hạn của từng phòng ban, mô tả công việc cho từng cá nhân, xây dựng hệ
thống quản lý tổng thể, tập huấn triển khai, vận hành và duy trì vận hành hệ
thống quản lý mới...
Tái cấu trúc doanh nghiệp chuyên sâu: bao gồm công việc của tái cấu
trúc doanh nghiệp cơ bản, tái thiết lập chính sách quản trị hành chính, nhân sự
chuyên sâu; tái thiết lập chính sách quản trị chiến lược tiếp thị kinh doanh, tái
thiết lập chính sách quản trị cung ứng, tái thiết lập quản trị sản xuất, kỹ thuật;
tái thiết lập chính sách quản trị kế toán; tái thiết lập quản trị sản xuất, kỹ
thuật; tái thiết lập các chính sách quản trị khác....
Tái cấu trúc sẽ mang lại điều gì cho doanh nghiệp và sự cần thiết phải
tái cấu trúc doanh nghiệp:
Vấn đề của doanh nghiệp là: Hoạt động sao cho hiệu quả ? Làm sao để
nâng cao tính cạnh tranh theo thời gian ? Làm sao để doanh nghiệp phát triển
bền vững.


3

Chủ doanh nghiệp luôn luôn phải quan tâm tới ba vấn đề nói trên kể cả
khi đang phát triển và càng phải quan tâm tới trong bối cảnh suy thoái kinh tế.

Và vấn đề đặt ra cho doanh nghiệp là doanh nghiệp luôn phải tự thay đổi – tái
cấu trúc để giảm thiểu tổn thất.
Như vậy, việc tái cấu trúc là hoạt động cần thiết, nó sẽ đem tới một thể
trạng tốt hơn cho doanh nghiệp, đảm bảo cho doanh nghiệp luôn hoạt động
hiệu quả và có tính cạnh tranh.
Vấn đề tái cấu trúc tại Tổng công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên:
Tại sao trong những năm gần đây, đặc biệt là trong thời gian gần đây thì
cụm từ Tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước luôn được nhắc đến và là một
trong ba nhiệm vụ trọng tâm cấp bách trong quá trình tái cấu trúc tổng thể nền
kinh tế của nước ta. Mục tiêu của tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước là nhằm
nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước, tăng cường vai
trò dẫn dắt nền kinh tế của doanh nghiệp nhà nước, hình thành các doanh
nghiệp nhà nước vững mạnh đủ sức cạnh tranh trông bối cảnh hội nhập quốc
tế ngày càng diễn ra sâu và rộng như hiện nay. Đây là yêu cầu tất yếu, phù
hợp với tiến trình chuyển đổi từ phát triển kinh tế theo chiều rộng sang phát
triển theo chiều sâu, để doanh nghiệp nhà nước thực sự khẳng định vai trò
then chốt của khu vực kinh tế nhà nước.
Tổng công ty đầu tư phát triển hạ tầng đô thị - Công ty TNHH nhà nước
một thành viên là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc ủy ban nhân dân
Thành phố cũng không nằm ngoài xu thế chung đó.
Tổng công ty đầu tư phát triển hạ tầng đô thị được phê duyệt đề án thành
lập tổng công ty đầu tư phát triển hạ tầng đô thị thí điểm hoạt động theo mô
hình công ty mẹ con ngày 23/6/2004. Và tới 13/7/2010 được sự phê duyệt của


4

UBND Thành phố Hà Nội tổng công ty đầu tư phát triển hạ tầng đô thị đã
chuyển đổi sang hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Được hình thành trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Công ty

được từng bước được mở rộng và phát triển, vừa được đổi mới,sắp xếp, từng
bước chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường. Nhìn về mặt tổng thể nói
chung, Tổng công ty trong thời gian qua đã thực hiện tốt các nhiệm vụ của
Đảng và nhà nước giao cho, đồng thời đã từng bước đáp ứng được với sự phát
triển kinh tế xã hội của đất nước, đảm bảo sản xuất và cung ứng bất động sản
cho nền kinh tế. Trong thời kỳ khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế
toàn cầu, Tổng công ty vẫn duy trì được hoạt động sản xuất kinh doanh và
đóng góp quan trọng cho nền kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội cho thị trường
bất động sản Hà Nội.
Mặc dù doanh nghiệp vẫn hoạt động hiệu quả trong thời gian gần đây.
Tuy nhiên với xu hướng phát triển kinh tế thị trường, doanh nghiệp phải bước
vào sân chơi chung với sự cạnh tranh khốc liệt. Cùng với khủng hoảng tài
chính thế giới và suy giảm kinh tế toàn cầu , đặc biệt là sự lao dốc của thị
trường bất động sản trong những năm gần đây khiến doanh nghiệp bộc lộ
nhiều yếu kém dẫn đến nhu cầu cấp thiết phải tiến hành cấu trúc lại doanh
nghiệp.
Bên cạnh vấn đề cấp thiết phải tái cấu trúc xuất phát từ áp lực bên ngoài
thì những vấn đề nội tại bên trong doanh nghiệp cũng là một yêu cầu khách
quan đòi hỏi doanh nghiệp phải tái cấu trúc để đảm bảo tính cạnh tranh trên
thị trường. Bản thân doanh nghiêp vẫn còn rất nhiều yếu kém, trì trệ và bất
cập, và không thể đảm bảo thể trạng tốt để bước vào sân chơi chung với tiêu
chí cạnh tranh công bằng, công khai và minh bạch:


5

Một là, hiệu quả hoạt động thấp: Trong thời gian qua, doanh nghiệp vẫn
giữ được thị phần trên thị trường bất động sản và xây dựng Hà Nội, tuy nhiên
chưa đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế. Tuy có nhiều lợi thế trong việc
sử dụng nguồn lực, nguồn vốn và được ưu đãi trong việc sử dụng đất đai, lãi

suất nhưng hiệu quả sử dụng thấp, lãng phí.
Hai là, hiệu quả đầu tư đang giảm nhanh: Việc phải sử dụng quá nhiều
đồng vốn để tạo ra một đồng doanh thu đang làm giảm hiệu quả đầu tư của
doanh nghiệp.
Ba là, Sức cạnh tranh của doanh nghiệp còn hạn chế: Doanh nghiệp chủ
yếu dựa vào nguồn công việc mang lợi do lợi thế của một doanh nghiệp con
để của UBND Thành phố, năng lực cạnh tranh trong đấu thầu còn hạn chế.
Bốn là, Về mặt tài chính: tình hình tài chính tại doanh nghiệp chưa đảm
bảo được các yêu cầu về an toàn tài chính, tiềm tàng nhiều nguy cơ rủi ro và
đổ vỡ một khi kinh doanh không hiệu quả.
Năm là, Doanh nghiệp đầu tư dàn trải: Doanh nghiệp tập trung đầu tư
theo diện rộng, đa ngành đa nghề dẫn tới việc các ngành nghề lợi thế mũi
nhọn phải gồng mình để gánh cho những ngành nghề sản xuất kinh doanh yếu
kém, không phải là thế mạnh của doanh nghiệp.
Trong khi đó, cũng có những vấn đề bất cập trong nội tại của doanh
nghiệp:
Thứ nhất, về mâu thuẫn lợi ích: Theo lý thuyết hành vi, bất cứ một cá
nhân nào cũng luôn hành động vì lợi ích của cá nhân mình, đối với doanh
nghiệp cũng không ngoài lệ. Tại tổng công ty, Nhà nước là người đại diện
nhân dân quản lý phần vốn, phần tài sản và chính vì không có sự tách bạch về
lợi ích giữa chủ sở hữu (nhà nước mà đại diện là toàn dân) với người điều
hành (giám đốc...) nên mục tiêu làm tăng giá trị doanh nghiệp, tối đa hóa lợi


6

nhuận không được doanh nghiệp thực hiện một cách nghiêm túc, dẫn đến làm
giảm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Thứ hai, Yếu kém về công tác nhân sự: Tại doanh nghiệp nhà nước,
người điều hành được toàn quyền tuyển dụng, bổ nhiệm tất cả các vị trí trừ

cấp phó của họ và một số vị trí quan trọng. Thực tế cho thấy tình trang thường
xuyên xảy ra là tuyển dụng dựa vào mối quen biết, quan hệ với những người
đóng vai trò là người điều hành, là người đã và đang làm việc tại đơn vị. Việc
tuyển dụng, đề bat, bổ nhiệm lại chịu sự can thiệp từ cơ quan chủ quản. Một
doanh nghiệp yếu kém về công tác nhân sự thì không thể níu chân được người
ta, tình trạng chảy máu chất xám chắc chắn sẽ diễn ra, dấn đến tính cạnh tranh
của doanh nghiệp rất kém.
Thứ ba, chịu tác động mạnh từ yếu tố khách quan: Đôi khi vì những chỉ
tiêu của địa phương mà doanh nghiệp phải đầu tư vào những dự án, những
công trình, hạng mục không vì mục tiêu phát triển của doanh nghiệp.
Từ những bất cập nói trên, việc cải cách doanh nghiệp nhằm tăng cường
tính tự chủ và cạnh tranh là một nhiệm vụ quan trọng trong tư duy quản lý
mới. Tuy nhiên, Tái cấu trúc theo chiều rộng hay tái cấu trúc theo chiều sâu ?
Và các hình thức Giao, bán, cho thuê, và cổ phần hóa là các chủ trương đang
được thực hiện trong những năm gần đây. Phương án nào tốt nhất để tái cấu
trúc doanh nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu
• Đề tài luận văn sẽ tập trung nghiên cứu lý luận về cấu trúc đầu tư và
tái cấu trúc đầu tư.
• Phân tích, đánh giá cấu trúc hoạt động đầu tư của Tổng công ty Phát
triển hạ tầng đô thị .


7

• Từ đó đưa ra đề xuất, kiến nghị giải pháp tái cấu trúc đầu tư cho
doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, tăng tính
cạnh tranh trên thị trường.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
• Đối tượng nghiên cứu là quá trình tái cấu trúc đầu tư tại Tổng công ty

Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị - Công ty TNHH một thành viên.
• Phạm vi nghiên cứu của luận văn giới hạn trong Tổng công ty đầu tư
phát triển hạ tầng đô thị, trong đó tập trung vào công ty mẹ.
4. Phương pháp nghiên cứu :
• Phương pháp tiếp cận và giải quyết các câu hỏi nghiên cứu: Luận văn
sẽ vận dụng cả phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng trong thu
thập và xử lý thông tin, trong đó tập trung chủ yếu vào phương pháp định
tính, phương pháp thống kê và phân tích nhằm đánh giá, đối chiếu và đưa ra
nhận xét đối với thực trạng hoạt động tại UDIC. Trên cơ sở kết quả báo cáo
và điều tra phác họa được cấu trúc của Tổng công ty đầu tư phát triển hạ tầng
đô thị.
• Nguồn dữ liệu:
+ Nguồn dữ liệu thứ cấp: Luận văn sử dụng nguồn dữ liệu thu thập từ
các tài liệu, báo cáo, thông tin nội bộ của Phòng Kế hoạch tổng hợp, Phòng
Hành chính, Phòng Tài chính kế toán và các đơn vị có liên quan, ngoài ra còn
thu thập các dữ liệu bên ngoài: từ các ngân hàng thương mại nhà nước khác,
ngân hàng cổ phần tiêu biểu về việc chất lượng dịch vụ khách hàng, số liệu
thu thập từ mạng internet, sách, báo tạp chí,… Các nguồn dữ liệu được trích
dẫn trực tiếp trong luận văn và ghi chú trong phần tài liệu tham khảo.
• Phương pháp phân tích dữ liệu: Đối với các dữ liệu thu thập được,
luận văn sẽ sử dụng các phương pháp thống kê mô tả để phân tích các dữ liệu
nhằm phát hiện những vấn đề, hạn chế cần chú ý liên quan đến thực trạng
hoạt động của doanh nghiệp. Đồng thời sử dụng phương pháp tổng hợp, phân


8

tích, so sánh và phương pháp chuyên gia để đưa ra được phương án hợp lý
nhất cho doanh nghiệp.
5. Dự kiến các đóng góp của luận văn

Với định hướng tái cơ cấu nền kinh tế vĩ mô trong thời gian gần đây,
Tổng công ty đầu tư phát triển hạ tầng đô thị là một doanh nghiệp nhà nước
nằm trong nhóm các doanh nghiệp sẽ phải tiến hành tái cấu trúc doanh
nghiệp. Tổng công ty đang tiến hành lập Đề án tái cấu trúc. Luận văn hy vọng
sẽ đóng góp được lý luận chung và phương án tái cấu trúc hợp lý cho doanh
nghiệp trong lĩnh vực đầu tư. Giúp doanh nghiệp xây dựng chiến lược và kế
hoạch đầu tư ; cơ cấu lại vốn đầu tư. Từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động và
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường xây dựng
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
6. Kết cấu của luận văn.
Luận văn được trình bày theo kết cấu gồm 4 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan các nghiên cứu về đầu tư trong doanh nghiệp xây
lắp và quá trình tái cấu trúc.
Chương 2. Những vấn đề lý luận về đầu tư và tái cấu trúc doanh nghiệp
Chương 3: Thực trạng hoạt động đầu tư Tổng công ty Đầu tư phát triển
hạ tầng đô thị
Chương 4 : Tái cấu trúc đầu tư Tổng công ty đầu tư phát triển hạ tầng đô
thị.


9

Chương I: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Việc tái cấu trúc các doanh nghiệp nhà nước trong các doanh nghiệp
quản lý nói chung và chuyên ngành nói riêng là một vấn đề quan tâm của các
Nhà nghiên cứu, sinh viên và các nhà quản lý trong và ngoài nước. Đây cũng
là một chủ đề được đề cập và quan tâm tại các Hội nghị trong nước và quốc
tế. Một số nghiên cứu có liên quan như sau:
1.1.


Các nghiên cứu quốc tế có liên quan


10

Theo Cappelli (1995) và nhóm tác giả Morris (1999), hiện nay, tái cấu
trúc và cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước đang được xem xét một cách
phổ biến là những công cụ quan trọng trong chính sách của Chính phủ nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế và khẳng định vai trò của Nhà nước.
Nhằm tìm hiểu vai trò của các thành phần kinh tế khác nhau, sự tham
gia của những chiến dịch đa dạng hoá liên quan hoặc không liên quan, và
những hoạt động kinh doanh có sử dung chiến dịch tái cấu trúc, nhà nghiên
cứu Jun Zhao (2009) đã làm rõ chiến dịch tái cấu trúc của các nhóm công ty ở
Trung Quốc thông qua việc liên kết các nhân tố như cấu trúc doanh nghiệp,
chiến dịch đa dạng hoá và phạm vi kinh doanh của các nhóm doanh nghiệp
này. Nó có thể mở rộng sự hiểu biết của chúng ta về tái cơ cấu doanh nghiệp
trong nền kinh tế chuyển đổi, chẳng hạn như Trung Quốc và Ấn Độ. So với
các hình thức sở hữu khác, các doanh nghiệp nhà nước có xu hướng tăng
phạm vi kinh doanh của họ trong quá trình tái cơ cấu tài sản, trong khi các
doanh nghiệp tư nhân lại có xu hướng giảm phạm vi kinh doanh của họ thông
qua rút vốn và cắt giảm các sản phẩm phụ. Theo ông, hiệu suất thấp trước đây
cũng được phát hiện có liên quan đến tiêu cực để thay đổi trong phạm vi kinh
doanh. Các “cuộc đọ sức” giữa các chiến lược đa dạng hóa liên quan và không
liên quan của các nhóm kinh doanh dẫn đến tăng phạm vi kinh doanh, trong
khi sự không thống nhất giữa hai chiến lược này lại có xu hướng dẫn đến
giảm phạm vi kinh doanh.


11


Trong thập kỷ qua, các cổ đông ở phố Wall đã phát minh ra nhiều
phương pháp khác nhau để chuyển đổi cổ phiếu bị đánh giá thấp của công ty
thành sự làm giàu nhanh chóng. Tuy nhiên, chiến thuật của họ đã để lại những
hậu quả tiêu cực to lớn cho một số công ty. Trên thực tế, nhiều công ty đã cơ
cấu lại các khoản nợ khổng lồ và một vài hậu quả trong hoạt động. Mục đích
nghiên cứu của Alkhafaji (1992) là để kiểm tra các lý do đằng sau nó đã phát
ra như một sự bùng nổ trong các hoạt động tiếp quản thù địch. Nghiên cứu
thảo luận về tầm quan trọng và ý nghĩa của chuyển dịch cơ cấu, nguyên nhân
của sự thâu tóm các tập đoàn và chiến lược quốc phòng nhằm chống lại một
cách có hiệu quả các hoạt động sáp nhập bên ngoài.
Tái cấu trúc doanh nghiệp là hoạt động như tinh giản biên chế nhằm
ngăn chặn một vòng xoáy đi xuống trong hoạt động kinh doanh của công ty
hoặc duy trì vòng xoáy đi xuống đó (Lindsley, Brass và Thomas, 1995). Tinh
giản biên chế cũng đã được phản ánh trong kết quả khác nhau, được tìm thấy
trong các tài liệu của nhiều nhà nghiên cứu trước. Các nhà nghiên cứu đã nhận
ra bản chất kép của tinh giản biên chế bằng việc phân loại các hoạt động theo
tình hình tài chính của công ty trước khi công bố thu hẹp quy mô. Diana R.
Franz, Dean Crawford, Deborah J. Dwyer (1998) phát hiện ra các phản ứng
tiêu cực của giá cổ phiếu trong các công ty đang còn vững mạnh về tài chính
ngay trước khi có thông báo tinh giản biên chế, nhưng một phản ứng nhỏ hơn
được thống kê cho thấy các công ty này đều đang trong tình trạng khủng
hoảng tài chính. Kết quả được đưa ra ddax khẳng định rằng những quan điểm
về sự cắt giảm biên chế trong thị trường chứng khoán đều phù hợp với lý
thuyết được đề xuất bởi Lindsley, Brass và Thomas (1995).


12

E.Dockery và W.E.Herbert (2000) cho rằng quản trị doanh nghiệp của
hệ thống kinh tế chuyển đổi ở Đông Âu có thể khác quản trị doanh nghiệp ở

các nước công nghiệp hóa. Các tác giả đã mô tả các hệ thống quản trị ở Ba
Lan, nơi sử dụng các quỹ đầu tư quốc gia thuộc ban giám sát và Bộ Tài chính
để đối phó với việc tái cơ cấu doanh nghiệp được tư nhân hóa. Đồng thời vạch
ra môi trường tài chính tại Ba Lan và vai trò của các quỹ đầu tư quốc gia tại
đây; thảo luận về các vấn đề quản trị công ty phát sinh từ mối quan hệ giữa
các quỹ đầu tư quốc gia và Ban giám sát; nhận diện các vấn đề liên quan
nhưng nghi ngờ khả năng áp dụng các hệ thống quản trị doanh nghiệp
Anh/Mỹ hoặc Đức vào giải quyết các vấn đề đó. Nhóm tác giả hy vọng rằng
nghiên cứu của họ sẽ cung cấp lý luận cơ sở cho việc nghiên cứu sâu hơn về
những vấn đề này.
1.2. Các nghiên cứu trong nước có liên quan


13

Trong tuyên bố kết thúc tại Hội nghị lần thứ 3 của Ủy ban Trung ương
khoá 11 (Thứ sáu ngày 10 tháng 10, năm 2011), Tổng Bí thư Ban chấp hành
trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam – ông Nguyễn Phú Trọng đã nhấn
mạnh: Trong năm 2012 và những năm tới, Việt Nam sẽ ưu tiên hàng đầu
trong kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội gắn
với đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tập trung vào ba
lĩnh vực quan trọng bao gồm: tái cơ cấu đầu tư, đặc biệt là đầu tư công; tái cơ
cấu thị trường tài chính; và tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các
tập đoàn kinh tế nhà nước,…
Theo ông Nguyễn Minh Phong (2012), trong tái cơ cấu doanh nghiệp
nhà nước, đặc biệt là tái cơ cấu các tập đoàn kinh tế nhà nước cần phải ngăn
chặn tình trạng các tập đoàn kinh tế nhà nước đầu tư rộng khắp ra các lĩnh vực
và ngành kinh doanh chính bên ngoài. Hội nghị Ban chấp hành trung ương
Đảng lần thứ ba đã đưa ra yêu cầu buộc các doanh nghiệp này phải hoàn thành
thu hồi vốn đầu tư trong các lĩnh vực ngoài ngành trước năm 2015 và tập

trung vào phát triển doanh nghiệp nhà nước trong các lĩnh vực quan trọng, có
ý nghĩa quan đối với nền kinh tế quốc gia. Các ngành quan trọng chủ yếu
thuộc về khối chuyên môn kinh tế kỹ thuật, liên quan đến kết cấu hạ tầng kinh
tế xã hội, dịch vụ công, ổn định vĩ mô nền kinh tế. Hội nghị đã tiến hành
nghiên cứu, sửa đổi các quy định cho phép doanh nghiệp nhà nước được phép
đầu tư tối đa 30% tổng vốn đầu tư trong các lĩnh vực ngoài còn ở mức 20%.
Trong các lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, đầu tư của công ty nhà
nước không vượt quá 20% vốn pháp định của người thụ hưởng (tổ chức nhận
góp vốn); Tuy nhiên, phần vốn góp của công ty và công ty con nắm giữ trong
công ty và nhóm không quá 30% vốn pháp định của người thụ hưởng,…


14

Quản lý và cơ chế hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước được
chuyển đổi thành hình thức công ty cổ phần và các công ty trách nhiệm hữu
hạn cho phù hợp với quy định của Luật kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng trên
thị trường (liên quan đến kinh doanh tạo ra lợi nhuận),… Trong ngắn hạn,
việc sửa đổi các quy định không phù hợp trong việc xác định giá trị doanh
nghiệp, lựa chọn đối tác chiến lược, bán cổ phiếu ưu đãi cho người lao động,
… là cần thiết. Hơn thế nữa, việc xác định vai trò của chủ sở hữu hoặc đại
diện chủ sở hữu và quyền quản lý hoạt động sản xuất trong các công ty được
đầu tư của Chính phủ cho mục đích chung; xác định vai trò, trách nhiệm và
quyền hạn của Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành viên; đặc biệt, việc
phân cấp quản lý liên tục và rõ ràng và xác định các các cá nhân và các tổ
chức liên quan chịu trách nhiệm về quản lý doanh nghiệp nhà nước; công bố
công khai thông tin, thủ tục, tài liệu, danh mục dự án; tăng cường quản lý,
giám sát, thanh tra, kiểm toán các dự án nhà nước cũng đều rất quan trọng.
Ngoài ra, cũng cần thiết cho hệ thống giám sát nhà nước được phép thêm các
quy định đầu tư công dưới sự giám sát của cộng đồng; xác định quyền và

trách nhiệm của cộng đồng trong việc giám sát các hoạt động của doanh
nghiệp; nghiên cứu và điều chỉnh một cách rõ ràng các hành động bị cấm và
ban hành các chế tài nghiêm ngặt để đối phó với những hành vi vi phạm ở các
mức độ khác nhau, góp phần ngăn chặn các hành động tiêu cực và làm cơ sở
pháp lý để giải quyết các sai phạm trong đầu tư của doanh nghiệp nhà nước,…
Để tiếp tục thảo luận về áp lực tái cơ cấu đối với nền kinh tế trong thời
gian tới, ông Thắng (2010) cho rằng nếu các dự án tái cấu trúc được thực hiện
bởi một nhóm các cán bộ chuyên trách chỉ bó hẹp trong phạm vi chuyển dịch
cơ cấu, thiếu thông tin, thiếu trách nhiệm và bị ảnh hưởng bởi những lợi ích
ngắn hạn, thì các dự án đó sẽ không khả thi, không đầy đủ và đồng đều, từ đó
sẽ gây ra thiệt hại chung cho nền kinh tế.


15

Nền kinh tế của Việt Nam đã trải qua những giai đoạn tái cơ cấu lớn.
Về cơ bản, nói chung, nền kinh tế Việt Nam vẫn duy trì đặc điểm chung của
một nền kinh tế kém phát triển với cấu trúc khu vực, sản phẩm và công nghệ
lạc hậu; cơ cấu lao động và khu vực không tương xứng; khả năng cạnh tranh
thấp và dễ bị tổn thương cao,… Theo Chỉ thị của Chính phủ, việc thực hiện
các dự án tái cơ cấu là để tận dụng điều kiện thuận lợi nhằm kịp thời bổ sung,
thay thế và đổi mới trang bị bằng công nghệ và máy móc hiện đại giúp ổn
định và phát triển kinh tế quốc gia. Tái cơ cấu bao gồm tái cơ cấu kinh tế, tái
cơ cấu sản xuất, tái cơ cấu đầu tư, sản phẩm và tái cơ cấu ngành, sắp xếp lại
và tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước,…
Mục tiêu chính của quá trình cải cách của Việt Nam là tạo ra một nền
kinh tế thị trường với đặc điểm xã hội chủ nghĩa. Theo Viện Nghiên cứu quản
lý kinh tế trung ương (2006), những cải cách doanh nghiệp tại Việt Nam có ba
thành phần chính. Các thành phần đầu tiên bao gồm doanh nghiệp nhà nước
được cổ phần hóa và tái cơ cấu để giảm bớt những vấn đề được làm suy yếu

khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Thành phần thứ hai là cải thiện hành
vi của doanh nghiệp bằng cách thiết lập các cơ chế quản trị doanh nghiệp có
hiệu quả và tăng cường kỷ luật tài chính. Thành phần thứ ba là quy định của
các tổ chức hỗ trợ và cơ sở hạ tầng cần thiết cho một nền kinh tế dựa vào thị
trường doanh nghiệp. Chuyển dịch cơ cấu là sự phát triển các chương trình
phúc lợi xã hội để đối phó với những điều chỉnh của nền kinh tế - hệ quả của
các cuộc cải cách, cho phép các doanh nghiệp tập trung vào các mục tiêu
thương mại và chiến lược dài hạn của họ.


16

Cổ phần hóa và tái cơ cấu của khu vực doanh nghiệp nhà nước tại Việt
Nam là nhằm tập trung quyền sở hữu và quản lý nhà nước trong tay các doanh
nghiệp lớn thuộc những ngành công nghiệp chiến lược, đồng thời thu hồi
quyền sở hữu nhà nước và hỗ trợ từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tái cơ cấu
doanh nghiệp nhà nước được gắn liền với chuyển dịch cơ cấu kinh tế của khu
vực doanh nghiệp nói chung và cải cách quản trị doanh nghiệp (CIEM, 2006).
Sự sáng tạo trong chiến lược của các doanh nghiệp nhà nước lớn liên quan
đến việc chuyển đổi của họ thành doanh nghiệp hiện đại và sự hình thành của
các nhóm doanh nghiệp lớn có khả năng cạnh tranh với các công ty đa quốc
gia lớn. Các doanh nghiệp này phải đối mặt với những thách thức quan trọng
trong việc khắc phục các vấn đề hiện tại của doanh nghiệp nhà nước, đồng
thời việc duy trì sự hiệu quả và linh hoạt sẽ là cần thiết để cạnh tranh thành
công trên thị trường quốc tế.


17

Cải cách kinh tế ở Việt Nam được hình thành bởi một số đặc điểm khác

biệt, phản ánh những chính sách áp dụng bắt buộc và các đặc điểm đặc biệt
khác của nền kinh tế. Đầu tiên, đặc trưng phản ánh sự lựa chọn chính sách cơ
bản – quyền sở hữu cộng đồng và kiểm soát của ngành công nghiệp – sẽ được
giữ lại. Lựa chọn này phần nào giải thích lý do tại sao cải cách doanh nghiệp
đã được các doanh nghiệp nhà nước (CIEM, 2006; Thắng & Quang, 2007) tập
trung vào rất nhiều. Thứ hai, mặc dù cạnh tranh xảy ra rất mạnh mẽ không
phải là ở tất cả các ngành công nghiệp, nhưng nó diễn ra ở nhiều ngành. Sự
đáp ứng lại thị trường bằng các hành vi kinh tế của các doanh nghiệp ngày
càng tăng, như là kết quả của sự cạnh tranh và phát triển của các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh, và cải cách quản lý doanh nghiệp nhà nước. Phạm vi quyền
sở hữu công cộng đã được thu hẹp đáng kể trong những năm gần đây, trong
khi phạm vi cho sở hữu tư nhân đã được mở rộng. Thứ ba, hầu hết các doanh
nghiệp nhà nước có doanh thư ở mức tương đối thấp, và cơ cấu hiện hành đã
phần nào phản ánh vấn đề này.
Tóm lại, tổng quan về các nghiên cứu trên cho thấy các nhà nghiên cứu
trong nước luôn luôn tiếp cận vấn đề theo hướng quản lý nhà nước, ít khi theo
hướng quản lý doanh nghiệp, đặc biệt là trong các doanh nghiệp thuộc sở hữu
và kiểm soát của Chính phủ trong lĩnh vực xây dựng và bất động sản. Trên
thực tế, các nghiên cứu về tái cấu trúc cơ cấu quốc tế và quốc gia rất phong
phú về nội dung và phương pháp tiếp cận. Các nghiên cứu đó đã chỉ rõ cơ sở
lý luận cho việc tái cơ cấu doanh nghiệp và coi đó là một giải pháp chiến lược
để thiết lập lại vị trí, vai trò trong môi trường kinh doanh đầy cạnh tranh. Cụ
thể, một số nghiên cứu đã chỉ ra các giải pháp tái cơ cấu trong các lĩnh vực
chủ yếu là tài chính, ngân hàng,…


18

Ở Việt Nam, tái cơ cấu đã được nghiên cứu ở cấp độ của các tập đoàn
nhà nước không thuộc sở hữu và kiểm soát nhiều của Chính phủ. Hầu hết các

nghiên cứu về các yếu tố quyết định tái cơ cấu này đều được dựa trên mẫu của
công ty. Tương đối ít biết về lý do tại sao các công ty nhà nước Việt Nam lại
thay đổi cấu trúc của nó. Vì vậy, nảy sinh ra một nhu cầu về các cuộc nghiên
cứu chuyên sâu về các yếu tố quyết định tái cơ cấu của các doanh nghiệp nhà
nước. Ngoài ra, không có bất kỳ nghiên cứu chính thức nào về tái cơ cấu
doanh nghiệp trong lĩnh vực xây dựng và bất động sản của Việt Nam từ quan
điểm của một nhà quản lý. Vì vậy, luận án nghiên cứu này không chỉ góp
phần xây dựng quá trình tái cơ cấu cụ thể đối với Tổng công ty Đầu tư phát
triển hạ tầng đô thị - Công ty mẹ, mà còn hệ thống hoá và phát triển lý luận
tái cơ cấu doanh nghiệp nói chung và tái cấu trúc lập luận của các tập đoàn,
đặc biệt là ở một nước đang phát triển như Việt Nam. Nghiên cứu này được
thiết kế để kiểm tra sự phù hợp của các lý thuyết quản lý trong tái cơ cấu tổ
chức trong một bối cảnh cụ thể. Kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp các tài liệu
trong vấn đề tái cấu trúc doanh nghiệp trong bối cảnh Việt Nam, cũng như
cung cấp cho các học viên cũng như các viện nghiên cứu tài liệu chuyên sâu
trên cả hai phương diện lý thuyết và thực tế.


19

CHƯƠNG 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ VÀ TÁI CẤU TRÚC CỦA
DOANH NGHIỆP HOẠT ĐỘNG TRONG LĨNH VỰC XÂY DỰNG
2.1 Doanh nghiệp xây dựng trong nền kinh tế quốc dân:
2.1.1 Khái niệm về doanh nghiệp xây dựng và sản phẩm xây dựng:
Xây dựng là một trong những ngành kinh tế then chốt, chiếm tỷ trọng
lớn trong nền kinh tế quốc dân với những đặc điểm riêng biệt như: là ngành
duy nhất tạo ra tài sản cố định cho nền kinh tế quốc dân dưới dạng công trình
xây dựng, thông qua hoạt động đầu tư và xây dựng cho phép giải quyết một
cách hài hòa các mối quan hệ trong xã hội, hoạt động trong lĩnh vực xây dựng

là những hoạt động trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội, trực tiếp tạo
nên tổ ng sản phẩm quốc dân, tham gia đóng góp vào ngân sách quốc gia
thông qua các loại thuế và nó có thể gây ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế
nếu quản lý kém hiệu quả
Doanh nghiệp xây dựng là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản ,
có trụ sở giao dịch ổn định được thành lập hoặc đăng ký kinh doanh theo quy
định của pháp luật nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực
xây dựng như xây dựng nhà các loại, xây dựng các công trình kỹ thuật dân
dụng, xây dựng công trình đường sắt và đường bộ, công trình công ích...
( Theo quyết định số 10/2007/QĐ – TTg ngày 23 tháng 1 năm 2007)
Sản phẩm được tạo ra bởi các doanh nghiệp xây dựng rất phong phú và
đa dạng chủ yếu là các sản phẩm dưới dạng hữu hình bao gồm:
+ Sản phẩm đầu tư XD
- Là các công trình, hạng mục công trình xây dựng đã hoàn thành,
được bàn giao, nghiệm thu và đưa vào sử dụng.


20

- Là thành quả của phát triển khoa học kỹ thuật, công nghệ, kinh tế, tổ
chức sản xuất ở một thời kỳ nhất định.
- Sản phẩm đầu tư xây dựng có tính liên ngành, những lực lượng tham
gia vào chế tạo sản phẩm chủ yếu là: Chủ đầu tư, doanh nghiệp nhận thầu xây
lắp, doanh nghiệp tư vấn, doanh nghiệp sản xuất các yếu tố đầu vào, doanh
nghiệp cung ứng tổ chức dịch vụ tài chính, ngân hàng….
+ Sản phẩm xây dựng của các doanh nghiệp xây dựng
.- Chỉ bao gồm kiến trúc, kết cấu làm chức năng nâng đỡ, bao che, lắp
đặt máy móc thiết bị.
- Đơn vị đo sản phẩm xây dựng của doanh nghiệp xây dựng:
Tính theo hiện vật: m2 hay m3 khối tích xây dựng đã hoàn thành bàn giao.

Tính theo giá trị: giá trị dự toán đã hoàn thành bàn giao.
+ Sản phẩm xây dựng trung gian: các gói công việc, các giai đoạn hay
đợt xây dựng đã hoàn thành bàn giao thanh toán.
+ Sản phẩm xây dựng cuối cùng: là công trình hay hạng mục công
trình xây dựng đã hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng.
So với các ngành sản xuất khác, ngành XDCB có những đặc điểm về
kinh tế - kỹ thuật riêng biệt, thể hiện rất rõ nét ở sản phẩm xây lắp và quá trình
tạo ra sản phẩm của ngành. Điều này đã chi phối đến công tác kế toán chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp
+ Mang tính cố định: các công trình xây dựng gắn liền với địa điểm,
đất đai, do đó khi tiến hành thực hiện một công trình cần phải thăm dò, khảo
sát địa hình có phù hợp, có đủ điều kiện để xây dựng hay không tránh tính
trạng xây dựng trên địa bàn không phù hợp gây sụt lún, rạn nứt… làm ảnh
hưởng đến chất lượng công trình, tốn kém chi phí sửa chữa, khắc phục sự cố.


21

Điều này đòi hỏi phải kiểm tra quản lý vốn ngay từ khâu đầu tiên để xác định
đúng địa điểm và điều kiện địa hình thi công.
Sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất còn các điều kiện sản xuất
(xe máy, thiết bị thi công, người lao động...) phải di chuyển theo địa điểm đặt
sản phẩm. Đặc điểm này làm cho công tác quản lý sử dụng, hạch toán tài sản,
vật tư rất phức tạp do ảnh hưởng của điều kiện thiên nhiên, thời tiết và dễ mất
mát hư hỏng...
+ Mang tính đơn chiếc, sản xuất theo đơn đặt hàng
Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc giá thỏa thuận
với chủ đầu tư (giá đấu thầu), do đó tính chất hàng hóa của sản phẩm xây lắp
không thể hiện rõ, chủ yếu được sản xuất theo đơn đặt hàng của chủ đầu tư
Mỗi sản phẩm xây lắp được thiết kế riêng theo yêu cầu về kiến trúc,

công dụng, tính năng khác nhau và địa bàn khác nhau cũng khác nhau, các
công trình có thể giống nhau về diện tích, số tầng… nhưng khác nhau về yêu
cầu đối với vật liệu, mỗi công trình khác nhau tuỳ vào mục đích và yêu cầu
khác nhau của chủ đầu tư có thể lựa chọn những loại vật liệu khác nhau hay ở
các địa bàn khác nhau thì giá cả nhân công, nguyên vật liệu khác nhau nên
những công trình có quy mô tương tự nhau chi phí cũng khác nhau. Điều này
đòi hỏi nhà quản lý phải nắm rõ đặc điểm của từng công trình để có biện pháp
quản lý vốn hiệu quả
+ Chịu ảnh hưởng trực tiếp của điều kiện địa phương, mang tính cá
biệt cao về công dụng: Việc thi công xây lắp không chỉ được thực hiện ở một
địa phương riêng biệt mà còn có thể thực hiện ở nhiều địa phương, liên quan
đến nhiều địa phương như xây dựng đường giao thông liên tỉnh, đường sắt,
cảng biển…giá cả chi phí phát sinh ở các địa phương là khác nhau cũng như


22

các chính sách, chủ trương về đầu tư ở các địa phương là khác nhau do đó đòi
hỏi phải cân nhắc cho phù hợp tránh thất thoát, lãng phí.
Mỗi sản phẩm mang tính cá biệt cao về công dụng như nhà ở, trường
học, cầu cống, bệnh viện… Với mỗi loại sản phẩm yêu cầu định mức chi phí
vật liệu chính, vật liệu phụ, nhân công, thiết bị là khác nhau, để quản lý tốt
vốn cần nắm rõ được điều này tránh tình trạng chi phí bỏ ra không hiệu quả
trong khi không đủ vốn để chi trả cho những chi phí cần thiết.
+ Chủ yếu nằm ngoài trời hay trong lòng đất: Các sản phẩm xây dựng
chủ yếu là nhà cửa, cầu cống, cảng biển, sân bay, đường xá… là những sản
phẩm nằm ngoài trời hay trong long đất, chịu sự tác động khắc nghiệt của
thiên nhiên nhất là các yếu tố thiên tai có thể gây gián đoạn quá trình sản xuất,
từ đó ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Đặc điểm này đòi hỏi các doanh
nghiệp xây dựng khi tiến hành xây dựng các dự án phải lập tiến độ thi công

phù hợp nhằm giảm thiểu những tác động tiêu cực của thời tiết như thời tiết
mưa lớn ảnh hưởng đến chất lượng bê tông công trình, các đơn vị có thể thiết
lập tiến độ để giai đoạn thi công này vào mùa khô còn mùa mưa thì tiến hành
phần hoàn thiện, trát trong nhà…
+ Có quy mô lớn, thời gian hình thành sản phẩm dài
Sản phẩm xây lắp là những công trình xây dựng, vật kiến trúc... có quy
mô lớn, kết cấu phức tạp mang tính đơn chiếc, thời gian sản xuất sản phẩm
xây lắp lâu dài...thời gian xây dựng được tính bằng tháng, quý, năm chứ
không tính được bằng giờ, phút như hoạt động sản xuất sản phẩm hàng hoá
thông thường khác. Chính vì giá thành sản phẩm xây dựng thường chịu ảnh
hưởng rất lớn của yếu tố trượt giá, nếu không được tính toán hợp lý có thể
doanh nghiệp thi công sẽ bị lỗ do giá cả vật liệu, chi phí nhân công leo thang.


23

Một công trình xây dựng được thi công theo từng giai đoạn, yếu tố
thời gian có thể làm hao hụt, hư hỏng phần sản phẩm đã được thi công dẫn
đến tốn kém chi phí khắc phục, sửa chữa.
+ Sản phẩm được tạo thành do sự hợp tác của nhiều đơn vị: Trong nền
kinh tế thị trường hiện nay, cùng với sự phát triển của công nghệ, kỹ thuật,
trình độ quản lý… Một công trình xây dựng không chỉ là các công trình xây
lắp đơn thuần mà là một hệ thống đồng bộ từ nhà cửa, trang thiết bị, hệ thống
cảnh quan xung quanh, môi trường và các dịch vụ liên kết. Ví dụ xây dựng
bệnh viện ngoài cấu trúc khung xương bên ngoài cần có các trang thiết bị
đồng bộ đi kèm hay như một dự án khu đô thị cần phải có cảnh quan đồng bộ,
khu mua sắm, khu vui chơi giải trí, trường học, bệnh viện … đi kèm. Với khả
năng của một doanh nghiệp xây lắp là rất khó khăn do đó cần phải có sự liên
kết với nhiều đơn vị khác có trình độ, kinh nghiệm trong các vấn đề liên quan
để đảm bảo chất lượng công trình tốt và san sẻ gánh nặng chi phí. Tuy nhiên

việc xem xét năng lực và uy tín của đơn vị hợp tác rất quan trọng, doanh
nghiệp xây dựng không những cần phải tính toán phần công việc của mình
như thế nào để đảm bảo có lãi mà còn phải lựa chọn đối tác phù hợp tránh bỏ
dở hoặc phá vỡ hợp đồng giữa chừng gây gián đoạn công việc và tốn kém chi
phí để tìm đối tác thay thế, cũng như việc xác định rõ các điều khoản cam kết
trong thoả thuận liên doanh tránh thiệt thòi cho đơn vị mình.
+ Là sản phẩm tổng hợp liên quan đến cảnh quan, môi trường, ý nghĩa
công trình, KT-XH và an ninh quốc phòng.
Mỗi sản phẩm của ngành xây dựng đều có liên quan mật thiết, là một
bộ phận trong cấu thành tổng thể cảnh quan, môi trường, văn hoá xã hội, an
ninh quốc phòng. Chính vì thế khi xây dựng công trình cần tuân thủ, đảm bảo


24

trung hoà trong tổng thể đó để tránh những chi phí phát sinh do vi phạm hoặc
phải dừng thi công gây tốn kém, lãng phí những chi phí ban đầu bỏ ra.
2.1.2 Đặc điểm của doanh nghiệp xây dựng:
Một là: Xây dựng là một ngành kinh tế thâm dụng vốn
Sản phẩm của ngành xây dựng thường có quy mô lớn, kết cấu phức
tạp, mang tính đơn chiếc, thời gian xây dựng kéo dài. Những nguyên vật liệu
ban đầu của nó là những tài sản nặng vốn và chi phí cố định của nó khá cao,
chính vì thế vốn đầu tư vào đó là rất lớn trong khi thời gian hoàn thành sản
phẩm để đưa vào sử dụng kéo dài, việc thu hồi vốn không thể diễn ra nhanh
chóng trong một thời gian ngắn, điều này lý giải số vốn bị thâm dụng vào các
sản phẩm dở dang của ngành là rất lớn. Đây là một trong những đặc điểm gây
khó khăn cho việc quản lý và sử dụng vốn trong các đơn vị xây dựng do chịu
tác động lớn của yếu tố lãi suất và trượt giá. Số vốn mà doanh nghiệp phải
ứng trước cho việc đầu tư xây dựng các công trình thường là vốn đi vay, phải
chịu chi phí lãi trong thời gian kéo dài, trên thực tế lãi suất vay ngân hàng có

mức chênh lệch khá cao so với lãi suất huy động trên thị trường, những gói lãi
suất ưu đãi thường không đến tay các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong khi đây
lại là những doanh nghiệp cần vốn hơn cả. Yếu tố trượt giá cũng dẫn đến việc
giá cả các yếu tố đầu vào như nguyên vật liệu ,nhân công tăng cao trong khi
giá thầu một công trình không được chủ đầu tư chấp thuận thay đổi hay được
chấp thuận điều chỉnh giá nhưng mức điều chỉnh thấp hơn tốc độ trượt giá dẫn
đến nguy cơ nhà thầu phải chịu rủi ro vì phải gánh chịu những chi phí phát
sinh do yếu tố trượt giá và tăng lãi suất khi đi vay bên cạnh việc vốn của mình
bị ứ đọng trong các công trình.
Hai là: Ngành xây dựng rất nhạy cảm với chu kỳ kinh doanh của nền
kinh tế quốc dân.


25

Có thể thấy rất rõ việc tăng trưởng hay suy thoái của nền kinh tế được
phản chiếu rất rõ nét qua hoạt động của ngành xây dựng. Khi nền kinh tế tăng
trưởng doanh số và lợi nhuận của ngành sẽ tăng cao do nhu cầu xây dựng được
mở rộng, ngược lại khi nền kinh tế suy thoái, các công trình xây dựng sẽ bị đình
trệ do thiếu vốn đầu tư bởi người dân sẽ giảm nhu cầu xây dựng và mua bán nhà
cửa, Chính phủ cũng không mở rộng đầu tư vào các công trình cơ sở hạ tầng như
cầu cống, sân bay, bến cảng, bệnh viện, các ngân hàng thương mại cũng hạn chế
cho vay đầu tư xây dựng điều này làm cho doanh số của ngành xây dựng cũng vì
thế mà sụt giảm nghiêm trọng. Với các công trình vốn ngân sách nhà nước đang
thực hiện, việc giải ngân sẽ rất chậm chạp, tiến độ thực hiện không được thanh
toán kịp thời trong khi số vốn mà doanh nghiệp ứng trước để tiến hành thi công
công trình là rất lớn, thông thường lớn hơn nhiều so với giá trị được chủ đầu tư
tạm ứng hoặc thanh toán. Với các công trình ngoài nguồn vốn ngân sách cũng
gặp nhiều khó khăn do chủ đầu tư không đủ khả năng chi trả các khoản nợ cho
nhà thầu do thị trường tiêu thụ sụt giảm, luồng tiền đầu tư mua nhà, bất động sản

từ người dân giảm sút so với kỳ vọng của chủ đầu tư, việc vay vốn từ các ngân
hàng thương mại là rất khó khăn do nền kinh tế suy thoái các ngân hàng rất hạn
chế cho vay. Như vậy các doanh nghiệp xây dựng sẽ gặp rất nhiều khó khăn
trong cả việc huy động cũng như thu hồi vốn.
Ba là: Vốn cố định trong doanh nghiệp xây dựng chiếm tỷ trọng khá lớn.
Để tiến hành sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp xây dựng cần
phải đầu tư máy móc trang thiết bị ban đầu rất lớn, thời gian sử dụng của các
trang thiết bị này thường kéo dài trong nhiều năm, chi phí được phân bổ dưới
dạng chi phí khấu hao tài sản, vòng quay khấu hao chậm do đó việc thu hồi
vốn cũng sẽ kéo dài trong nhiều năm. Vốn của doanh nghiệp xây dựng bị ứ
đọng trong các tài sản đầu tư đó cũng vì thế mà rất lớn.


×