Tải bản đầy đủ (.docx) (99 trang)

Giải pháp mở rộng cho vay mua ô tô tại BIDV bắc hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (696.69 KB, 99 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 2006 đánh dấu những sự kiện quan trọng cho quá trình hội nhập, mở
cửa ngày càng sâu, rộng của nền kinh tế, điển hình là cuối năm 2006 chúng ta đã
ra nhập WTO. Việc trở thành thành viên chính thức của WTO như là một sự ghi
nhận xứng đáng mà thế giới dành cho những cố gắng vượt bậc của đất nước
hình chữ S. Có được thành công này một phần rất lớn là nhờ vào sự đóng góp của
hệ thống NHTM Với tư cách là trung tâm tiền tệ tín dụng của nền kinh tế các
NHTM phải đảm nhận trọng trách cân bằng cung – cầu về vốn cho toàn xã hội.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, việc gia nhập tổ chức thương mại quốc tế
thế giới (WTO) sẽ mang lại nhiều cơ hội và thách thức cho nền kinh tế nói chung
và đặc biệt lĩnh vực ngân hàng nói riêng, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng
không còn là trong nước mà còn là cạnh tranh với cả ngân hàng nước ngoài
Hoạt động của các NHTM nước ta chủ yếu là nhận tiền gửi và cho vay. Trong đó
cho vay là hoạt động mang lại nguồn thu nhập trực tiếp và chủ yếu cho các ngân
hàng. Đây là hoạt động có tầm quan trọng bậc nhất đối với các ngân hàng.Vì vậy
vấn đề đặt ra trong vấn đề hội nhập hiện nay đối với các NHTM là phải nâng cao
hiệu quả hoạt động cho vay. Nền kinh tế đất nước đang trên đà phát triển mạnh
mẽ theo đó đời sống con người cũng được nâng cao, chất lượng cuộc sống ngày
càng được cải thiện. Cùng với đó, các sản phẩm, dịch vụ tiêu dùng ngày càng trở
nên phong phú, đa dạng, phù hợp hơn với nhu cầu của người mua. Tuy nhiên với
mức thu nhập như hiện nay, phần lớn người tiêu dùng khó có thể chi trả cho tất
cả các nhu cầu cùng lúc, đặc biệt đối với những vật dụng đắt tiền. Nếu người tiêu
dùng có thể vay tiền từ ngân hàng thì họ có thể thỏa mãn nhu cầu của mình ngay
trong hiện tại, điều này làm tăng tiêu dùng hàng hóa, thúc đẩy hoạt động sản
xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế chung của toàn xã hội.
Do đó thực hiện hoạt động cho vay tiêu dùng, các NHTM vừa tạo nên sự hài hòa
giữa cung cầu trong lĩnh vực tiêu dùng, vừa góp phần giải quyết được nhiệm vụ
kích cầu tiêu dùng của nền kinh tế.




2
Qua thời gian công tác tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam
– Chi nhánh Bắc Hà Nội, tôi đã có cơ hội tìm hiểu nhiều hơn về các hoạt động, lĩnh
vực kinh doanh của ngân hàng, trong đó có hoạt động cho vay mua ôtô. Ngân
hàng TMCP Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam – Chi nhánh Bắc Hà Nội cũng đã đề
ra mục tiêu đẩy mạnh hoạt động ngân hàng bán lẻ, hướng đến là Chi nhánh đầu
tầu về bán lẻ trên địa bàn phía bắc sông Hồng theo nghị quyết và chỉ đạo của
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Ban lãnh đạo Chi nhánh đã xác định
phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ là nhiệm vụ trọng tâm, có tính chiến lược lâu
dàiđảm bảo an toàn và hiệu quả trong thời điểm hiện nay. Chính vì vậy, việc tìm
ra những giải pháp phát triển hoạt động tín dụng bán lẻ là vấn đề bức xúc và
nhận được nhiều sự quan tâm của Ban lãnh đạo Chi nhánh Bắc Hà Nội.
Xuất phát từ thực trạng đó, tôi đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp mở rộng sản
phẩm cho vay mua ôtô đối với khách hàng cá nhân tại Ngân hàng TMCP
ĐT&PT Việt Nam – Chi nhánh Bắc Hà Nội”để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận cơ bản về cho vay tiêu dùng, cho vay mua ôtô, từ đó
thấy được lợi ích của cho vay đối với nền kinh tế, ngân hàng, khách hàng vay, nhà
sản xuất… Đồng thời tìm hiểu một số nhân tố tác động đến khả năng cạnh tranh
về cho vay mua ôtô.
- Đánh giá thực trạng hoạt động cho vay mua ôtô tại Ngân hàng TMCP
ĐT&PT Việt Nam – Chi nhánh Bắc Hà Nội.
- Đề xuất giải pháp và những kiến nghị với Nhà nước Nhà nước Việt Nam
cũng như các cơ quan chức năng có liên quan nhằm mở rộng hoạt động cho vay
mua ôtô tại Ngân hàng TMCP ĐT&PT Việt Nam – Chi nhánh Bắc Hà Nội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về hoạt động cho
vay mua ôtô và các giải pháp để mở rộng hoạt động cho vay mua ôtô tại Ngân

hàng TMCP ĐT&PT Việt Nam – Chi nhánh Bắc Hà Nội.
- Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động cho vay mua ôtô tại Ngân hàng TMCP


3
ĐT&PT Việt Nam – Chi nhánh Bắc Hà Nội từ năm 2012 đến năm 2014.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn này sử dụng phương pháp chung là các phương pháp: Duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, sử dụng phương pháp thống kê, phương
pháp phân tích - tổng hợp, so sánh, phương pháp dự báo để luận giải các vấn đề
khoa học được đề cập trong nội dung đề tài.
5. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì nội
dung gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng và mua ô tô
đối với khách hàng cá nhân
Chương 2: Thực trạng cho vay mua ôtô đối với khách hàng cá nhân tại
Ngân hàng TMCP Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam – Chi nhánh Bắc Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay mua ôtô đối với
khách hàng cá nhân tại Ngân hàng TMCP Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam – Chi
nhánh Bắc Hà Nội.


4

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ MỞ RỘNG HOẠT ĐÔNG CHO VAY TIÊU DÙNG VÀ MUA
Ô TÔ ĐỐI VỚI KHÁCH HÀNG CÁ NHÂN
1.1. KHÁCH HÀNG CÁ NHÂN VÀ CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI KHÁCH HÀNG CÁ NHÂN

1.1.1. Khách hàng cá nhân của ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Một số khái niệm


Khách hàng cá nhân:
Khách hàng cá nhân của Ngân hàng thương mại là cá nhân có năng lực pháp
luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của
pháp luật; có mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp, có khả năng tài chính đảm bảo trả
nợ trong thời hạn cam kết; có phương án kinh doanh, phương án phục vụ đời sống
khả thi và phù hợp với quy định của pháp luật; thực hiện các quy định về bảo đảm
tiền vay theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam [11].



Cho vay khách hàng cá nhân:
Cho vay KHCN là một hình thức tài trợ của ngân hàng cho các khách hàng
là cá nhân: Đó là quan hệ kinh tế mà trong đó ngân hàng chuyển cho các cá nhân
quyền sử dụng một khoản tiền với những điều kiện nhất định được thoả thuận
trong hợp đồng nhằm phục vụ mục đích của khách hàng [11].
1.1.1.2. Đặc điểm cho vay khách hàng cá nhân của ngân hàng thương mại
Cho vay KHCN có những đặc điểm riêng thể hiện sự khác biệt với các loại
hình cho vay khác như sau:
Đối tượng cho vay là cá nhân và các hộ gia đình.
Quy mô khoản vay: hầu hết các khoản cho vay khách hàng cá nhân có quy
mô nhỏ nhưng số lượng khoản vay lớn, do cho vay KHCN đáp ứng nhu cầu của cá
nhân và các hộ gia đình nhằm mục đích tiêu dùng hoặc sản xuất kinh doanh nhỏ,
nên quy mô của một khoản vay tương đối nhỏ so với tài sản của ngân hàng, số



5
lượng các khoản vay lại rất lớn do đối tượng của cho vay là các cá nhân và các
hộ gia đình với số lượng nhiều và nhu cầu tiêu dùng rất đa dạng.
Mục đích vay: nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng hoặc sản xuất kinh doanh
nhỏ của cá nhân, hộ gia đình. Khi nền kinh tế có sự tăng trưởng cao và ổn định,
KHCN sẽ có thái độ lạc quan hơn về tương lai, họ kỳ vọng sẽ có khoản thu nhập
nhiều hơn trong tương lai và do vậy sẽ thúc đẩy sự chi tiêu cho tiêu dùng hoặc
sản xuất kinh doanh ở hiện tại. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái người dân
thường có xu hướng giảm tiêu dùng, giảm đầu tư vào sản xuất kinh doanh, thay
vào đó là sẽ tăng cường tiết kiệm và hạn chế vay mượn từ Ngân hàng.
Rủi ro đối với cho vay KHCN: cho vay KHCN có mức độ rủi ro lớn và được coi
là tài sản rủi ro nhất trong danh mục tài sản của ngân hàng. Xuất phát từ bản
thân khách hàng vay vốn có thể có sự biến động về tình hình tài chính dẫn đến
mất khả năng chi trả hay khi khách hàng cố tình không chịu trả nợ, hoặc do sự
biến động về tình trạng sức khoẻ, công việc… Việc thẩm định khả năng trả nợ của
các cá nhân hoặc hộ gia đình cũng hết sức khó khăn.
Lãi suất cho vay: do quy mô của các khoản vay thường nhỏ (trừ những
khoản cho vay để mua bất động sản), dẫn đến chi phí để cho vay (về thời gian,
nhân lực đi thẩm định, quản lý các khoản cho vay này) cao đồng thời rủi ro của
các khoản vay này cũng rất cao. Do vậy, lãi suất cho vay KHCN thường cao hơn
lãi suất các khoản cho vay khác của NHTM.
Hạn mức cho vay KHCN: là số tiền tối đa mà ngân hàng cho khách hàng vay.
Hạn mức cho vay KHCN được xác định dựa trên các yếu tố như: nhu cầu vốn của
khách hàng, số vốn tự có của khách hàng, giá trị của tài sản đảm bảo.
Đối với các hình thức vay, các ngân hàng thường quy định các hạn mức
khác nhau dựa trên giá trị tài sản đảm bảo hoặc nhu cầu vay hợp lý.
Cuối cùng, ngân hàng sẽ so sánh nhu cầu vay hợp lý (Nhu cầu vay hợp lý của
khách hàng = nhu cầu vốn hợp lý - vốn tự có của khách hàng - vốn khách hàng
vay mượn từ nguồn khác) và hạn mức tín dụng, từ đó xác định số tiền cho vay.
Nếu nhu cầu vay hợp lý > hạn mức tín dụng thì ngân hàng sẽ cho khách hàng vay



6
theo hạn mức tín dụng, nếu nhu cầu vay hợp lý < hạn mức tín dụng thì ngân hàng
sẽ cho khách hàng vay số tiền theo nhu cầu vay hợp lý của khách hàng. Như vậy,
sẽ vừa thoả mãn nhu cầu vay của khách hàng vừa để đảm bảo an toàn cho ngân
hàng.
1.1.2. Vai trò của vốn vay Ngân hàng đối với khách hàng cá nhân
Cuộc sống con người luôn tồn tại những nhu cầu về vật chất và tinh thần,
những nhu cầu đó ngày càng đa dạng và cao hơn bắt đầu từ những hàng hoá
thiết yếu rồi đến những hàng hoá xa xỉ hơn cùng với sự phát triển của nền kinh
tế.
Ở một chừng mực nào đó, tín dụng cá nhân giúp cho các khách hàng linh hoạt
hơn trong việc giải quyết vấn đề thỏa mãn nhu cầu của bản thân. Thay vì phải tích
lũy đủ vốn ở hiện tại để thực hiện kế hoạch của bản thân, người tiêu dùng sẽ khéo
léo phối hợp giữa thoả mãn nhu cầu ở hiện tại với khả năng thanh toán ở hiện tại và
tương lai.
Vai trò này hết sức có ý nghĩa đối với những trường hợp mua sắm các hàng
hoá thiết yếu có giá trị cao như nhà cửa, xe hơi… hay chi tiêu cấp bách như ốm
đau, bệnh tật, ma chay, cưới hỏi... Trong những trường hợp này, thay vì bế tắc
hoặc phải tìm đến những khoản vay nóng ngoài ngân hàng với lãi suất cao ngất
ngưỡng, thì khách hàng có thể an tâm vay vốn từ ngân hàng với lãi suất và thời
hạn vay hợp lý.
Ngoài ra, tín dụng cá nhân còn là kênh các NHTM tài trợ vốn cho hoạt động
sản xuất kinh doanh của các hộ gia đình giúp họ có điều kiện để mở rộng quy mô
sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh trong ngành.
1.1.3.Hoạt động cho vay tiêu dùng của Ngân hàng thương mại đối
với khách hàng cá nhân
1.1.3.1. Khái niệm cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu

của người tiêu dùng, bao gồm cá nhân và hộ gia đình.Các nguồn cho vay tiêu
dùng là nguồn tài chính quan trọng giúp người vay có thể trang trải các nhu cầu


7
trong cuộc sống trước khi họ có đủ khả năng về tài chính để hưởng thụ: Đây là
một nguồn tài chính quan trọng giúp những người vay này trang trải nhu cầu
nhà ở, đồ dùng gia đình và xe cộ…Bên cạnh đó, những chi tiêu cho nhu cầu giáo
dục, y tế và du lịch…cũng có thể được tài trợ bởi cho vay tiêu dùng
Bên cạnh đó, hầu hết các nhà sản xuất đều mong muốn vừa tiêu thụ được hàng
hoá một cách nhanh chóng vừa đảm bảo được thu nhập. Vậy nên khi các Ngân hàng
tài trợ cho người tiêu dùng không chỉ thoả mãn nhu cầu chi tiêu cho chính khách
hàng mà còn thoả mãn cả những nhà sản xuất điều này kích thích nền kinh tế phát
triển hơn.
1.1.3.2. Đặc điểm cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng chính là một hoạt động tài trợ của Ngân hàng thương mại
vì vậy cũng giống như hoạt động tín dụng khác cho vay tiêu dùng cũng có những
đặc trưng cơ bản của như:
a)Đặc điểm về đối tượng cho vay tiêu dùng
Trong cho vay tiêu dùng đối tượng chính là các cá nhân và hộ gia đình, hầu
hết các cá nhân khi tiến hành vay vốn của Ngân hàng để đáp ứng cho mục đích
tiêu dùng đều có thu nhập cao và ổn định. Hơn thế, họ có nhu cầu chi tiêu vượt
quá thu nhập của mình đây cũng chính là những điểm khác biệt so với đối tượng
khách hàng là các doanh nghiệp.
b) Đặc điểm về mục đích cho vay tiêu dùng
Mục đích của cho vay tiêu dùng là nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng của các
cá nhân, hộ gia đình chứ không phải từ mục đích kinh doanh như một số hình
thức tín dụng khác. Nhu cầu đó chủ yếu phục vụ cho những mục đích như: mua
sắm, sửa chữa nhà ở, mua xe hơi…
c)Đặc điểm về nhu cầu và quy mô cho vay tiêu dùng

Thông thường quy mô của khoản vay tiêu dùng không lớn do đối tượng khách
hàng là cá nhân, hộ gia đình. Tùy thuộc vào mục đích sử dụng và thu nhập hàng
tháng của khách hàng mà giá trị các khoản vay thường khác nhau. Tuy nhiên có
một điểm chung là giá trị các khoản vay này thường rất nhỏ so với các khoản vay


8
cho hoạt động sản xuất kinh doanh do đây là khoản vay phục vụ cho mục đích tiêu
dùng của cá nhân, hộ gia đình, thêm vào đó, giá trị của hàng hóa tiêu dùng thường
không quá lớn hoặc khách hàng vay vốn đã có sự tích lũy từ trước đối với những
nhu cầu của mình…
Trong điều kiện hiện nay, khi xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu tiêu dùng
của người dân cũng theo đó đi lên, người tiêu dùng sẽ vay nhiều hơn để đáp ứng
nhu cầu của bản thân, gia đình do không phải ai cũng có khả năng chi trả cho
nhưng nhu cầu tiêu dùng của mình bằng nguồn thu nhập trong thời điểm hiện
tại. Điều này dẫn đến số lượng khách hàng có nhu cầu vay vốn là rất đông khiến
tổng quy mô CVTD trở nên rất lớn.
d)Đặc điểm về rủi ro của cho vay tiêu dùng
Do nguồn trả nợ của cho vay tiêu dùng độc lập với khoản vay, chủ yếu là từ thu
nhập của người đi vay, mà nguồn thu nhập này có thể thay đổi nhanh chóng tùy
theo tình trạng công việc, tình hình kinh tế chung hay tình hình sức khỏe của họ..
Thêm vào đó, việc thẩm định và quyết định cho vay đối với một khoản cho vay tiêu
dùng cũng thường gặp khó khăn do vấn đề thông tin không đầy đủ hoặc thiếu tính
chính xác. Các thông tin cá nhân đưa ra thường không rõ ràng và minh bạch như
các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, việc thẩm định xác minh cũng gặp nhiều
khó khăn…
e) Đặc điểm về lãi suất cho vay tiêu dùng
Lãi suất cho vay tiêu dùng cao do chi phí thẩm định cao để đủ bù đắp những
chi phí lớn trong việc thẩm định khách hàng. Còn hiện nay, trong môi trường cạnh
tranh đã buộc các Ngân hàng thay đổi, lãi suất cho vay tiêu dùng đã có sự thả nổi

nhưng đấy là sự thả nổi chưa hoàn toàn. Nhìn chung lãi suất vẫn được xác định dựa
trên lãi suất dựa trên lãi suất cơ bản.
f)Đặc điểm về nguồn trả nợ của các khoản cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu của khách hàng chưa
có khả năng thanh toán tại thời điểm hiện tại, hoàn toàn không tài trợ nhằm mục
đích kinh doanh. Vậy nên nguồn trả nợ của khách hàng cũng không lấy từ lợi


9
nhuận do khoản vay mang lại như một số hình thức cho vay khác. Mặt khác,
khách hàng thường trả nợ cho ngân hàng bằng một phần hay toàn bộ thu nhập
hàng tháng của mình. Do vậy, từ việc ngân hàng thương mại tài trợ cho các cá
nhân, hộ gia đình trong việc chi tiêu qua đó thúc đẩy những khách hàng về tâm lý
tích luỹ, tiết kiệm, động lực làm việc dẫn tới năng suất lao tăng.
1.1.3.3. Mục đích cho vay tiêu dùng
Mục đích tiêu dùng có thể được kể ra theo 2 loại:
a) Mục đích tiêu dùng cư trú
Các khoản cho vay tiêu dùng cư trú là các khoản vay nhằm mục đích phục
vụ nhu cầu liên quan đến xây dựng, mua sắm hoặc cải tạo nhà ở của cá nhân, hộ
gia đình. Điểm chung nổi bật của các khoản cho vay vì mục đích tiêu dùng cư trú
là thời gian cho vay dài, khoản vay có giá trị lớn, thời hạn cho vay dài và tài sản
đảm bảo thường là tài sản hình thành từ vốn vay.
b) Mục đích tiêu dùng phi cư trú.
Đây là khoản cho vay tiêu dùng nhằm phục vụ các nhu cầu nâng cao, cải
thiện đời sống như mua sắm phương tiện đi lại (xe máy, xe hơi…), đồ dùng gia
đình, chi phí du lich, chi phí học hành hoặc giải trí… Các khoản vay thường mang
tính chất nhỏ lẻ, giá trị nhỏ và thời hạn cho vay ngắn.
1.1.3.4. Vai trò của cho vay tiêu dùng
*Lợi ích đối với ngân hàng
Cho vay tiêu dùng mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng bởi vì lãi suất

của cho vay tiêu dùng cao. Hơn thế nữa, hiện nay nhu cầu vay tiêu dùng tăng
mạnh nên nguồn thu từ hoạt động tín dụng tiêu dùng ngày càng lớn.
Thông qua hoạt động cho vay tiêu dùng Ngân hàng càng tăng cường thêm
mối quan hệ với khách hàng- khách hàng cá nhân. Khi Ngân hàng tài trợ cho
khách hàng cá nhân, hộ gia đình thoả mãn nhu cầu chi tiêu của mình khi họ chưa
đủ khả năng về tài chính sẽ giúp Ngân hàng củng cố và tăng cường thêm về hình
ảnh của mình trong mắt khách hàng đặc biệt là khách hàng cá nhân. Qua đó vị
trí của Ngân hàng dần dần được khẳng định trong tâm trí của đông đảo khách


10
hàng. Thêm vào đó bên cạnh hoạt động cho vay, Ngân hàng cũng phải tiến hành
huy động vốn mà nguồn vốn dồi dào với chi phí thấp là nguồn vốn huy động từ
dân cư.
Hoạt động cho vay tiêu dùng còn góp phần đa dạng danh mục sản phẩm
dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp. Điều này là rất cần thiết đối với Ngân hàng để
trở thành một Ngân hàng đa năng, nhất là trong môi trường cạnh tranh gay gắt
như hiện nay và hoạt động này còn giúp Ngân hàng phân tán rủi ro, mở rộng thị
trường.
*Lợi ích đối với khách hàng
Ngay khi hoạt động cho vay tiêu dùng ra đời thì họat động cho vay tiêu
dùng ra đời nó đã mang lại nhiều lợi ích cho khách hàng: Nhờ các khoản cho vay
tiêu dùng mà cuộc sống của các khách hàng cá nhân, hộ gia đình được cải thiện
và nâng cao khi mà khả năng tài chính hiện tại chưa đáp ứng đủ nhu cầu của họ.
*Lợi ích đối với kinh tế-xã hội
Cho vay tiêu dùng thúc đẩy nền sản xuất phát triển vì ngoài tác động kích
cầu làm tăng cầu về hàng hoá, dịch vụ thì cho vay tiêu dùng hướng tới thoả mãn
nhu cầu thiết yếu của cá nhân, hộ gia đình. Như vậy hàng hoá được tiêu thụ một
cách nhanh chóng, khả năng thanh toán của người tiêu dùng được đảm bảo vì
thế người sản xuất sẽ tăng sản lượng hàng hoá để đáp ứng nhu cầu của người

tiêu dùng. Bên cạnh đó, một khi người lao động có được những điều kiện vật chất
tốt sẽ tạo nên tâm lý thoải mái trong làm việc, trình độ của họ được nâng, hiệu
quả làm việc tăng dẫn đến năng suất lao động tăng lên, cho vay tiêu dùng là một
đòn bẩy kinh tế quan trọng. Ngoài ra, cho vay tiêu dùng đã làm giảm được tình
trạng cho vay nặng lãi, lành mạnh hoá quan hệ tài chính.
1.1.3.5. Các hình thức cho vay tiêu dùng
Để có thể quản lý tốt cho vay tiêu dùng cần thiết phải phân loại cho vay tiêu
dùng. Tiêu thức sử dụng để phân loại cho vay tiêu dùng là các tiêu thức sau: theo
hình thức bảo đảm, theo phương thức hoàn trả và theo phương thức cho vay
giữa ngân hàng và khách hàng.


11
Sơ đồ 1.1: Các hình thức cho vay tiêu dùng
Theo hình thức bảo đảm

Có đảm bảo

Không đảm bảo

Cho vay tiêu dùng
Theo phương thức hoàn trả

Trả một lần

Trả tuần hoàn

Theo phương thức cho vay

Trực tiếp


Gián tiếp

* Phân loại theo hình thức bảo đảm tiền vay
Các hình thức bảo đảm có thể là bảo đảm bằng uy tín hoặc bảo đảm bằng tài
sản. Đối với bảo đảm bằng uy tín thì hình thức cho vay tiêu dùng phổ biến là cho vay
thế chấp lương ( tín chấp ) hoặc bằng bảo lãnhcủa bên thứ 3. Ngân hàng cho khách
hàng vay tiền để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của khách hàng trên cơ sở thế chấp
bằng lương hay còn gọi là tín chấp. Hình thức này chủ yếu được áp dụng đối với các
khách hàng có việc làm và thu nhập ổn định, thu nhập ngoài việc trang trải các chi
tiêu thường xuyên còn có tích luỹ để trả nợ vay ( công chức, viên chức trong biên chế
nhà nước, nhân viên có hợp đồng lao động dài hạn...) Hình thức vay thế chấp bằng
lương phù hợp với những món vay giá trị không lớn, thời hạn vay ngắn và trung
hạn.
Cho vay tiêu dùng thường yêu cầu có tài sản đảm bảo, do đó theo tiêu thức
này cho vay tiêu dùng được chia thành hai loại:
Loại 1: là các tài sản thuộc sở hữu hoặc sử dụng lâu bền của khách hàng


12
hoặc đảm bảo của bên thứ 3 cho khách hàng của ngân hàng. Những đảm bảo này
không được hình thành từ khoản tín dụng của chính ngân hàng. Có thể chia các
hình thức đảm bảo của loại này thành hai loại nhỏ sau.
Cho vay cầm cố. Đây là hình thức ngân hàng cho khách hàng vay tiền với
điều kiện là khách hàng phải chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho
ngân hàng trong thời gian đã cam kết.
Cho vay thế chấp. Trong hình thức này người vay phải chuyển các giấy tờ
chứng nhận sở hữu (hoặc sử dụng) các tài sản đảm bảosang cho ngân hàng nắm
giữ trong thời hạn cam kết.
Đối với thế chấp bằng tài sản thì những tài sản mang thế chấp thường là

bất động sản như nhà cửa, quyền sử dụng đất...hoặc là những động sản mà việc
ngân hàng nắm giữ nó không thuận tiện như ôtô, xe máy....
Loại 2 Cho vay cóbảo đảm bằng tài sản hình thành từ tiền vay
Khi khách hàng có nhu cầu vay vốn nhưng không có tài sản đảm bảo hoặc
tài sản đó không đáp ứng các điều kiện của ngân hàng thì ngân hàng có thể yêu
cầu khách hàng sử dụng chính tài sản được hình thành từ nguồn tài trợ của ngân
hàng làm vật đảm bảo. Chẳng hạn khách hàng vay tiền mua ôtô thì ngân hàng sẽ
yêu cầu lấy chính chiếc ôtô đó làm vật đảm bảo, khi khách hàng không có khả
năng trả nợ ngân hàng sẽ phát mại ôtô đó thể thu nợ. Để đảm bảo rằng khách
hàng sẽ không bán tài sản hoặc sử dụng không cẩn thận làm giảm giá trị của tài
sản ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải cam kết bảo quản tài sản, mua
bảo hiểm và người thụ hưởng là ngân hàng đồng thời chuyển toàn bộ giấy tờ sở
hữu cho ngân hàng.
*Phân loại theo cách thức hoàn trả
Nếu phân theo cách thức hoàn trả, cho vay tiêu dùng có thể được phân
thành ba loại: cho vay tiêu dùng trả một lần, cho vay, và cho vay tuần hoàn.
Cho vay tiêu dùng trả một lần. Theo cách này, khách hàng thanh toán cho
ngân hàng một lần khi đến hạn và thường áp dụng cho những món vay giá trị
nhỏ, thời hạn cho vay ngắn.


13
Cho vay tiêu dùng . Đây là hình thức trong đó khách hàng sẽ trả nợ cho ngân
hàng thành hai hay nhiều lần liên tiếp theo những kỳ hạn nợ nhất định trong thời hạn
vay. Hình thức này được sử dụng phổ biến đối với những khoản vay có giá trị lớn, thu
nhập thường xuyên của người nhận tài trợ không đủ để thanh toán hết một lần số
tiền vay. Để được nhận tài trợ khách hàng phải trả trước một phần giá trị tài sản mua
sắm. Số tiền trả trước phụ thuộc vào khả năng tài chính của người vay, loại tài sản, thị
trường tiêu thụ tài sản sau khi sử dụng. Phần còn thiếu ngân hàng sẽ cho vay. Điều
này có tác dụng làm cho khách hàng cảm thấy tài sản đó thuộc sở hữu của mình do đó

thúc đẩy họ bảo quản tài sản và nỗ lực trả nợ đồng thời giúp hạn chế rủi ro tín dụng
cho ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng tuần hoàn. Trong thời gian đã thoả thuận căn cứ vào
nhu cầu chi tiêu và thu nhập từng thời kỳ khách hàng thực hiện vay và trả nợ
nhiều kỳ một cách tuần hoàn. Dư nợ tại một thời kỳ hoặc tổng dư nợ trong kỳ
không được vượt quá giới hạn tối đa cho phép. Khách hàng rất thuận tiện khi sử
dụng hình thức này vì chỉ phải làm thủ tục vay một lần, nhưng có thể vay nhiều
lần nhằm tài trợ cho nhu cầu vay thường xuyên, không xác định trước.
Cho vay theo thẻ tín dụng, cho vay thấu chi tuần hoàn là các hình thức cho
vay tiêu dùng tuần hoàn phổ biến hiện nay. Đối với cho vay theo thẻ tín dụng, khách
hàng được cấp thẻ và một số dư tối đa, sử dụng thẻ để thanh toán cho tiền hàng hoá,
dịch vụ ở các cơ sở chấp nhận thẻ. Khi sử dụng thẻ, trung tâm thẻ sẽ ghi nợ vào tài
khoản của khách hàng và đến cuối tháng, khách hàng sẽ nhận được giấy báo của
ngân hàng phát hành thẻ liệt kê chi tiết các khoản mục phải thanh toán. Trong thời
hạn cho phép, thường là 30 ngày nếu khách hàng thanh toán( nộp tiền vào tài
khoản) thì sẽ không bị tính lãi, nếu quá thời hạn đã quy định khách hàng sẽ phải trả
một khoản lãi.
*Căn cứ vào phương thức cho vay giữa ngân hàng và khách hàng vay vốn
Cho vay tiêu dùng được chia thành hai loại: cho vay tiêu dùng gián tiếp và
cho vay tiêu dùng trực tiếp.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp: là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua lại


14
các khoản nợ phát sinh do những công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hoá cho người tiêu
dùng.
Thông thường cho vay tiêu dùng gián tiếp được thực hiện theo sơ đồ sau:
Ngân hàng
5


3

1
4

Người tiêu dùng

Người bán lẻ
2

1-Ngân hàng ký kết hợp đồng với công ty bán lẻ về việc tài trợ cho người
tiêu dùng mua hàng.
2-Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết hợp đồng mua bán chịu hàng
hoá. Thông thường, người tiêu dùng phải trả trước một phần giá trị của món
hàng cần mua. Công ty giao hàng cho người tiêu dùng.
3-Công ty bán bộ chứng từ bán chịu hàng hoá cho ngân hàng.
4-Ngân hàng thanh toán tiền cho Công ty bán lẻ.
5-Người tiêu dùng thanh toán tiềncho Ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp có một số ưu điểm sau:
Cho phép Ngân hàng dễ dàng tăng doanh số cho vay tiêu dùng, tiết kiệm,
giảm được chi phí trong cho vay. Giúp ngân hàng mở rộng quan hệ với khách
hàng và các hoạt động ngân hàng khác.
Bên cạnh những ưu điểm thì cho vay tiêu dùng gián tiếp cũng có những
nhược điểm như: ngân hàng không tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng đã
được công ty bán lẻ bán chịu do đó ngân hàng không kiểm soát được việc lựa
chọn khách hàng của công ty bán lẻ nên rủi ro khách hàng khôngtrả được nợ cao.
Nghiệp vụ cho vay tiêu dùng gián tiếp có tính phức tạp đòi hỏi trình độ chuyên
môn của cán bộ tín dụng cao.
Cho vay tiêu dùng trực tiếp là hình thức trong đó ngân hàng tiếp xúc với



15
khách hàng, cho khách hàng vay và thu nợtrực tiếp từ người vay. Quá trình cho
vay tiêu dùng trực tiếp có thể tóm tắt qua sơ đồ sau:

Ngân hàng
5

1

3
4

Người bán lẻ

Người tiêu dùng

2

1- Ngân hàng và người tiêu dùng ký hợp đồng vay.
2- Người tiêu dùng trả trước một phần tiền mua hàng cho công ty
3- Ngân hàng thanh toán số tiền còn thiếu cho công ty bán lẻ hoặc khách
hàng tự thanh toán cho công ty bán lẻ.
4- Người tiêu dùng nhận hàng hoá đã mua.
5- Người tiêu dùng thanh toán nợ vay cho Ngân hàng.
So với cho vay tiêu dùng trực tiếp, cho vay tiêu dùng gián tiếp có nhiều ưu
điểm hơn như là ngân hàng tiếp xúc trực tiếp với khách hàng do đó có điều kiện
để tìm hiểu và lựa chọn khách hàng, từ đó ra được các quyết định phù hợp với lợi
ích của cả hai bên. Việc quan hệ trực tiếp với khách hàng còn giúp ngân hàng có
thể bán các sản phẩm khác, xây dựng hình ảnh tốt đẹp của ngân hàng.

Việc phân chia cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại chỉ mang
tính tương đối và theo một vài tiêu thức mà em cho rằng phổ biến và quan trọng
ở các ngân hàng. Qua việc phân loại này chúng ta có thể thấy rằng hoạt động cho
vay tiêu dùng rất phong phú và đa dạng, và các ngân hàng trong quá trình hoạt
động của mình luôn đưa ra các hình thức mới nhằm thu hút khách hàng và cũng
là để đáp ứng những nhu cầu mới của khách hàng.
1.2. MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY MUA Ô TÔ ĐỐI VỚI KHÁCH
HÀNG CÁ NHÂN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Khái niệm và các phương thức cho vay cá nhân mua ô tô


16
Khái niệm:Cho vay cá nhân mua ô tô là một hình thức cho vay tiêu dùng,
trong đó ngân hàng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền nhằm
mục đích mua ôtô, với nguyên tắc hoàn trả gốc và lãi làm nhiều lần trong thời
hạn đã thỏa thuận [3].
Hiện nay, cùng vớisự phát triển của nền kinh tế thị trường, NHTM đã cho ra đời
nhiều phương thức cho vay phù hợp với nhu cầu của từng đối tượng khách
hàng.Phương thức cho vay mua ôtô ngày càng được nhiều NHTM áp dụng và mở
rộng trong tương lai vì đây là mộy thị trường đầy tiềm năng với triển vọng lợi nhuận
cao.
Đặc điểm cho vay mua ôtô là một hình thức của cho vay nên nó mang đầy
đủ các đặc điểm của cho vay nói chung. Bên cạnh các đặc điểm chung đó, hoạt
động cho vay mua ôtô còn có những đặc điểm riêng sau:
1.2.1.1. Đặc điểm về đối tượng và phạm vi cho vay mua ôtô
Đặc điểm về đối tượng



Đối tượng của loại cho vay này chính là giá trị hình thành lên chiếc xe. Giá

trị này bao gồm nhiều loại chi phí khác nhau như: chi phí mua xe, chi phí đăng kí
xe, chi phí bảo hiểm, chi phí vận hành sửa chữa, chi phí nộp thuế... Tùy thuộc vào
từng ngân hàng mà đối tượng cho vay mua ôtô có thể bao gồm hoặc không bao
gồm các chi phí khác ngoài giá mua xe. Tuy vậy, để hạn chế rủi ro, các ngân hàng
thường chỉ cho vay với một tỷ lệ phần trăm nhất định dựa trên chi phí mua xe.
Đặc điểm về phạm vi cho vay



Khách hàng có thể được chia làm 02 nhóm chính sau:
 Nhóm khách hàng là các hãng, doanh nghiệp

Các hãng, doanh nghiệp có nhu cầu mua ôtô để phục vụ kinh doanh hoặc phục
vụ cho công việc chung của công ty. Họ cần mua ôtô để phục vụ việc đi lại, công tác và
các hoạt động khác có liên quan. Do vậy, họ tìm đến ngân hàng để được vay vốn và
dành vốn mình có để đầu tư vào hoạt động kinh doanh khác đem lại lợi nhuận cao
hơn.
Với các doanh nghiệp chuyên kinh doanh trong lĩnh vực du lịch, vận tải, các


17
hãng taxi, họ thường vay vốn để mua hàng loạt xe ôtô để phục vụ nhu cầu kinh
doanh của mình... Các ngân hàng cần chú ý đến nhóm này vì số tiền họ vay là khá lớn
 Nhóm khách hàng là cá nhân, hộ gia đình

Những khách hàng này thường có thu nhập cao, ổn định và có nhu cầu mua
ôtô để phục vụ việc đi lại hàng ngày, loại xe mà họ hướng tới là: xe con, xe du lịch
nhỏ...họ thường quan tâm đến những ôtô sang trọng, hiện đại, tiện dụng và có giá trị
cao.
Nhu cầu đi lại bằng ôtô của nhóm khách hàng này ngày càng tăng do thu

nhập và chất lượng cuộc sống của họ ngày càng tăng. Do đó, trong tương lai, số
lượng cho vay của nhóm này sẽ ngày càng tăng.
1.2.1.2. Đặc điểm về thời gianmua ôtô
Theo nguyên tắc, cho vaythường áp dụng với các món vay trung và dài hạn,
thời hạntùy thuộc vào từng ngân hàng mà có thể mở rộng tới 20 năm. Tuy vậy, với
cho vaymua ôtô, ngân hàng thường quy định thời hạn cho vay từ 1 đến 6 năm tùy
thuộc vào tài sản đảm bảo, mục đích sử dụng vốn, nguồn và khả năng trả nợ của
khách hàng. Thời gian cho vaymua ôtôkhông nên quá dài vì dễ làm giá trị tài sản tài
trợ là ôtô bị giảm mạnh, hơn nữa, nếu thời gian cho vay loại này quá dài thì thiện
chí trả nợ của người vay sẽ giảm và việc thu hồi nợ của ngân hàng sẽ gặp nhiều khó
khăn.
1.2.1.3. Đặc điểm về quy mô và số lượng món vay



Đối với các doanh nghiệp, các hãng mua ôtô phục vụ mục đích kinh doanh
Số lượng khách hàng thuộc nhóm này không nhiều nhưng món vay của họ
lại có giá trị lớn. Những công ty du lịch thường vay mua xe du lịch loại lớn có giá
trị cao. Các hãng taxi tuy chỉ mua ôtô giá trị trung bình, nhưng số lượng xe họ
mua lại lớn. Các công ty vận tải thường vay ngân hàng để mua những chiếc xe đã
qua sử dụng, nhưng giá trị của chúng cũng không hề nhỏ. Vì vậy, ngân hàng phải
đặc biệt chú ý đến những món vay loại này.



Đối với các hộ gia đình, cá nhân: mua ôtô phục vụ mục đích tiêu dùng và
các doanh nghiệp mua ôtô nhằm phục vụ nhu cầu đi lại hay công tác.


18

1.2.1.4. Đặc điểm về lãi suất cho vaymua ôtô
Đối với hoạt động cho vay, có thể áp dụng lãi suất cố định hoặc lãi suất thả
nổi, ngân hàng cũng có thể áp dụng lãi suất hỗn hợp bằng cách quy định mức lãi
suất cố định vào đầu năm, lãi suất các năm sau đó bằng lãi suất được lấy làm cơ
sở(có thể là lãi suất huy động có kỳ hạn) cộng với một mức cố định.
1.2.1.5. Đặc điểm về rủi ro cho vay mua ôtô
Do khách hàng thường dùng tài sản thế chấp bằng chính ôtô mua và khả
năng trả nợ khách hàng phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của họ nên hoạt động
cho vay mua ôtô có độ rủi ro cao. Khả năng thu nợ của ngân hàng sẽ bị ảnh
hưởng nếu thu nhập của người vay bị giảm sút hoặc mất việc.
Để hạn chế rủi ro với loại hình cho vay này, ngân hàng thường yêu cầu
khách hàng phải thế chấp giấy tờ xe bản chính tại ngân hàng, còn khách hàng sẽ
sử dụng bản sao có công chứng để lưu thông. Ngoài ra, khách hàng còn phải mua
bảo hiểm vật chất cho xe trong suốt thời gian vay vốn, nếu có sự cố xảy ra, ngân
hàng sẽ là người thụ hưởng toàn bộ số tiền bảo hiểm đó. Vì thế, trên thực tế, hoạt
động cho vaymua ôtô được đánh giá là hoạt động có mức rủi ro thực tế thấp.
* Phương thức cho vay trực tiếp người mua.
Theo phương thức cho vay trực tiếp đối với người mua này, ngân hàng sẽ
thanh toán số tiền mua ôtô cho doanh nghiệp sản xuất hay bán lẻ ôtô, sau đó,
khách hàng sẽ trả tiền trực tiếp cho ngân hàng làm nhiều lần theo thỏa thuận.
Dưới đây là sơ đồ khái quát phương thức cho vay trực tiếp đối với người
mua:

Ngân hàng

(4)

(1)

Người mua ôtô


(3)

Doanh nghiệp bán ôtô
(2)


19
Sơ đồ 1.2: Phương thức cho vay trực tiếp đối với người mua
Các bước thực hiện:
Bước 1: người mua ôtô và ngân hàng kí kết hợp đồng tín dụng để ngân
hàng trả tiển cho doanh nghiệp bán ôtô. Ngân hàng cần phân tích tình hình tài
chính của người mua và yêu cầu tài sản đảm bảo
Bước 2: doanh nghiệp bàn giao ôtô cho người mua và ký hợp đồng với người
mua.
Bước 3: doanh nghiệp tập trung hóa đơn bán hàng đưa lên ngân hàng để
ngân hàng thanh toán
Bước 4: hàng kì như thỏa thuận, người mua trực tiếp trả tiềncho ngân
hàng.
* Phương thức tài trợ cho doanh nghiệp bán ôtô
Với hình thức này, ngân hàng sẽ tài trợ cho doanh nghiệp bán ôtô (một
phần hay toàn bộ tùy theo thỏa thuận của hai bên và mức độ tin cậy của ngân
hàng và doanh nghiệp). Sau khi bán hàng, các doanh nghiệp được nhận ngay số
tiền bán ôtô và làm đại lý thu tiền cho ngân hàng.
Dưới đây là sơ đồ khái quát phương thức ngân hàng tài trợ cho doanh
nghiệp bán ôtô

Ngân hàng

(1)


Người mua ôtô

(2)

(3)

(5)

Doanh nghiệp bán ôtô

(4)
Sơ đồ 1.3: Phương thức tài trợ cho doanh nghiệp bán ôtô
Các bước thực hiện:
Bước 1: ngân hàng kí hợp đồng với doanh nghiệp bán ôtô về việc tài trợ cho
người muaôtô. Đối với phương thức này, ngân hàng phải phân tích tình hình tiêu


20
thụ, khả năng mở rộng quy mô và khả năng thu hồi tiền sau khi bán ôtô của doanh
nghiệp.
Bước 2: doanh nghiệp bán ôtô cho người mua và kí hợp đồngvới người
mua.
Bước 3: doanh nghiệp tập trung hóa đơn bán ôtô trình lên ngân hàng để
ngân hàng thanh toán.
Bước 4: hàng kì theo quy định, doanh nghiệp bánôtô thu tiềncho người
mua.
Bước 5: doanh nghiệp bán ôtô nộp tiền đã thu của người mua cho ngân
hàng.
1.2.2. Mở rộng cho vay mua ô tô đối với khách hàng cá nhân

củaNgân hàng thương mại
1.2.2.1. Khái niệm
Mở rộng cho vay mua ô tô đối với khách hàng cá nhân của Ngân hàng
thương mại là sự gia tăng doanh số, tăng lợi nhuận từ hoạt động cho vay mua ô
tô đối với khách hàng cá nhân trên cơ sở đáp ứng tốt nhất nhu cầu và làm hài
lòng khách hàng, tăng uy tín của Ngân hàng [3].
Việc mở rộng đi song song với việc kiểm soát an toàn vốn vay trong hoạt
động cho vay cá nhân mua ô tô của Ngân hàng thương mại. Mở rộng cho vaymua
ôtô là ưu tiên hàng đầu của các NHTM hiện nay vì nó phù hợp với nhu cầu cũng
như xu hướng phát triển của nền kinh tế. Hơn thế nữa, nếu cho vaymua ôtô được
mở rộng thì chính nó quay trở lại thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Để đánh giá việc mở rộng hoạt động cho vay mua ôtô cần phải xem xét
nhiều chỉ tiêu và kết hợp chặt chẽ với nhau mới có một kết luận chính xác việc mở
rộng đó có được thực hiện hiệu quả không. Thông thường, các NHTM thường sử
dụng một số chỉ tiêu cơ bản dưới đây để đánh giá mức độ mở rộng của hoạt động
cho vaymua ôtô:
1.2.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá việc mở rộng cho vay mua ô tô đối với khách
hàng cá nhân của NHTM


21
a) Chỉ tiêu định tính
-

Quy trình tín dụng: chỉ tiêu này thể hiện về thời gian và công tác thẩm định đối
với khách hàng, tính linh hoạt và tạo thuận tiện cho kháchhàng vay.

-

Tiêu chuẩn thỏa mãn nhu cầu của khách hàng: thái độ làm việc, trao đổi với

khách hàng, phong thái lịch sự, nhiệt tình, có trách nhiệm.

-

Chính sách tín dụng của Ngân hàng: có phù hợp với điều kiện của khách hàng
không, có thỏa mãn nhu cầu của khách hàng không.

-

Mức độ đa dạng hóa sản phẩm cho vaymua ôtô: Đây là chỉ tiêu phản ánh khả
năng cung ứng sản phẩm và thỏa mãn nhu cầu của khách hàng của ngân hàng.
Nếu trong chính sách của mình, ngân hàng có thể cung cấp một số lượng phong
phú và đa dạng các sản phẩm cho vaymua ôtô như: cho vay mua xe ôtô mới, cho
vay mua xe ôtô đã qua sử dụng... thì đương nhiên ngân hàng đó có thể thu hút
nhiều khách hàng hơn do khách hàngcó nhiều sự lựa chọn hơn. Nó cũng phản
ánh việc mở rộng hoạt động cho vaymua ôtô của ngân hàng.

b) Chỉ tiêu định lượng


Doanh số cho vay: Doanh số cho vay là tổng số tiền mà Ngân hàng đã cho
vay trong thời kỳ (tháng, quý, năm) đây là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh quy mô cho
vay qua các năm.



Dư nợ cho vay:Dư nợ cho vay là số tiền mà ngân hàng hiện đang còn cho
vay tính đến thời điểm nhất định, tổng dư nợ này bao gồm cả số nợ quá hạn, đây
chính là nhược điểm của chỉ tiêu này khi đánh giá việc mở rộng cho vaymua ôtô.
Nó có thể không đánh giá chính xác nếu tỷ lệ nợ quá hạn của cho vaymua ôtô lớn

hơn mức quy định. Chính vì vậy cần kết hợp chặt chẽ với chỉ tiêu nợ quá hạn và tỷ
lệ nợ quá hạn sẽ được trình bày ở dưới đây
Dư nợ cho vaymua ôtô được hiểu là số tiền mà ngân hàng hiện đang còn
cho khách hàng vay nhằm mục đích mua ôtô theo phương thứctính đến một thời
điểm nhất định.
Dưới đây là công thức tính dư nợ cho vaymua ôtô được áp dụng


22
Dư nợ cho =

Doanh số cho +

Dư nợ cho -

Doanh số thu

vaymua

vaymua

vaymua ôtô

nợ cho vaymua

kỳ trước

ôtô trong kỳ

ôtô


ôtô

kỳ này
trong kỳ
Dựa vào công thức trên ta thấy:

Nếu dư nợ cho vaymua ôtô kỳ này tăng so với kỳ trước tức là doanh số cho
vaymua ôtô trong kỳ lớn hơn doanh số thu nợ cho vaymua ôtô trong kỳ, ta có sự
mở rộng cho vaymua ôtô tại NHTM.


Tỷ trọng dư nợ cho vay ( R)
Chỉ tiêu này mang tính tương đối, phản ánh quy mô các món vaymua ôtô
trong tổng số các món vay được ngân hàng giải ngân. Sự tăng trưởng của chỉ
tiêu này cho thấy sự mở rộng của hoạt động cho vay .
Chỉ tiêu này được tính theo công thức sau:
W=

Dư nợ cho vaymua ôtô
Tổng dư nợ

Tỷ trọng này tăng cũng phản ánh việc mở rộng cho vaymua ôtô. Trên thực
tế, có 2 nguyên nhân dẫn đến R tăng:
-

Thứ 1: Dư nợ cho vaymua ôtô tăng lên nhiều hơn so với mức tăng của
tổng dư nợ cho vay. Điều này thể hiện chính sách mở rộng cho vaymua ôtô .

-


Thứ 2: Do dư nợ cho vaymua ôtô không tăng, thậm chí còn giảm, tuy vậy,
mức giảm của tổng dư nợ lại nhiều hơn. Trường hợp này vẫn có thể được coi là mở
rộng đối với cho vaymua ôtô. Đây là kết quả của chính sách thắt chặt tín dụng trong
NHTM.
Chỉ tiêu này cũng sẽ không phản ánh một cách chính xác việc mở rộng cho
vaymua ôtô nếu nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn tại ngân hàng cao. Do đó, cần kết
hợp chặt chẽ xem xét các chỉ tiêu về nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn.


-

Tốc độ tăng dư nợ cho vaymua ôtô
Đây cũng là một chỉ tiêu tương đối phản ánh mức độ mở rộng cho vaymua ôtô
nhanh hay chậm. Tốc độ tăng dư nợ của hoạt động cho vaymua ôtô được xác
định theo công thức sau:


23
G=

-

Dư nợ cho vaymua ôtô kỳ này – Dư nợ cho vaymua ôtô kỳ trước

Dư nợ cho vaymua ôtôkỳ trước
Khi G > 0: Phản ánh sự mở rộng đối với cho vaymua ôtô(Dư nợ cho vaymua ôtô
kỳ này tăng hơn kỳ trước)

-


Khi G <= 0: Nhìn chung, trong trường hợp này, NHTM không mở rộng cho
vaymua ôtô. Tuy nhiên, nếu tỷ trọng dư nợ cho vaymua ôtô Wtăng, thì vẫn có sự
mở rộng cho vaymua ôtô.

 Doanhthu cho vaymua ôtô

Đây là chỉ tiêu tuyệt đối, quan trọng, phản ánh quy mô cho vaymua ôtô của
ngân hàng qua các thời kỳ . Doanh thu từ hoạt động cho vaymua ôtô là tổng số tiền
mà ngân hàng cho khách hàng vay trong kỳ theo phương thứcnhằm mục đích mua
ôtô.
 Lãi suất cho vay mua ô tô

Đây là chỉ tiêu phản ánh yếu tố giá cả của khoản cấp tín dụng. Việc duy trì
một mức lãi suất hợp lý sẽ góp phần thúc đẩy khả năng cạnh tranh so với các
Ngân hàng khác và qua đó góp phần mở rộng quy mô đối với hoạt động cho vay
cá nhân mua ô tô.
 Nợ quá hạn, nợ xấu cho vay mua ôtô

Nếu các khoản cho vay mua ôtô đến hạn thanh toán mà khách hàng lại
không thanh toán được nợ và ngân hàng không cơ cấu lại thời hạn trả nợ, khoản
nợ này sẽ bị chuyển thành nợ quá hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn của hoạt động cho
vaymua ôtô được xác định theo công thức sau:
Nợ quá hạn cho vaymua ôtô
Tổng dư nợ cho vaymua ôtô X 100%
Nếu các khoản nợ quá hạn này khách hàng không có khả năng thanh toán
Tỷ lệ nợ quá hạn =

sẽ bị chuyển thành nợ xấu. Tỷ lệ nợ xấu của hoạt động cho vay mua ô tô được xác
định theo công thức sau:

Tỷ lệ nợ quá hạn =

Nợ quá hạn cho vay mua ôtô
Tổng dư nợ cho vay mua ôtô

X 100%

Các chỉ tiêu này tuy không trực tiếp phản ánh việc mở rộng cho vay mua


24
ôtô, nhưng đây là chỉ tiêu quan trọng dùng để đánh giá chất lượng của việc mở
rộng hoạt động cho vay mua ôtô. Hoạt động cho vay mua ôtô được coi là có hiệu
quả khi tỷ lệ quá hạn, nợ xấu nằm trong giới hạn cho phép, thường thì các ngân
hàng luôn cố gắng duy trì tỉ lệ này ở dưới mức 5%. Nếu chỉ tiêu này vượt quá 5%
và ngày càng cao thì việc mở rộng cho vay được coi là không có hiệu quả vì việc
mở rộng này có thể dẫn đến thua lỗ cho ngân hàng
 Số lượng khách hàng cho vay mua ôtô

Số lượng khách hàng cho vay mua ô tô = Số lượng khách hàng cho vay kỳ
này – Số lượng cho vay mua ô tô kỳ trước.
Nếu số lượng khách hàng kỳ này tăng so với kỳ trước hoặc giá trị trung
bình của các món vaymua ôtô kỳ này cao hơn kỳ trước, thì dư nợ cho vaymua ôtô
kỳ này tăng lên, phản ánh mức độ mở rộng cho vaymua ôtô.
Thêm nữa, nếu giá trị trung bình của các món vaymua ôtô càng cao có
nghĩa số khách hàng vay các món vay có giá trị lớn càng nhiều. Do vậy, nếu giá trị
trung bình của các món vaymua ôtô tăng cùng với số lượng khách hàng làm dư
nợ cho vaymua ôtô tăng thì ta có được sự mở rộng cho vay cả về số lượng khách
hàng và số tiền của mỗi món vay. Hơn thế nữa, nếu số lượng khách hàng càng
nhiều, chứng tỏ ngân hàng đã đáp ứng được nhu cầu vaymua ôtô của khách

hàng.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng cho vay mua ô tô
đối với khách hàng cá nhân của Ngân hàng thương mại
1.2.3.1. Nhân tố từ môi trường vĩ mô

-

Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý là một nhân tố tạo ảnh hưởnglớn tới cho vaymua ôtô
của NHTM.
Theo Luật Doanh nghiệp năm 2006:“ Mọi thành phần kinh tế đều có quyền
tự do kinh trong khuôn khổ của pháp luật”. Như vậy, hình thức cho vay đối với
cho vaymua ôtô tất yếu phải tuân thủ các quy định của nhà nước, luật các TCTD,
luật NHNN và các quy định khác. Sự chặt chẽ, đồng bộ của pháp luật sẽ góp phần


25
tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, tạo sự trật tự và ổn định của thị trường
để hình thức cho vaymua ôtô nói riêng và hoạt động kinh tế - xã hội nói chung
diễn ra thông suốt và hiệu quả.
Trong hệ thống pháp lý mà hoạt động cho vay mua ôtô chịu ảnh hưởng, dễ
dàng nhận thấy luật thuế xuất nhập khẩu có ảnh hưởng lớn đến hoạt động này.
Vấn đề này sẽ được trình bày kỹ ở những phần sau.

-

Môi trường kinh tế
Hoạt động cho vaymua ôtô phụ thuộc rất lớn vào mức độ thu nhập của
người dân cũng như sự phát triển của các doanh nghiệp. Xét trong một chu kỳ
kinh tế, khi nền kinh tế đang ở thời kỳ hưng thịnh, tốc độ tăng trưởng cao và ổn

định, người dân có mức thu nhập khá và yên tâm về mức thu nhập ổn định trong
tương lai, vì vậy, nhu cầu mua ôtô của họ sẽ tăng cao. Hoạt động cho vay mua ôtô
nhờ đó mà có cơ hội mở rộng và phát triển. Trái lại, khi nền kinh tế rơi vào tình
trạng suy thoái, mất ổn định, mức thu nhập của người dân cũng không chắc
chắn, thì người dân sẽ hạn chế đi vay tiền mua ôtô vì khi đó họ chỉ mong muốn
đảm bảo cuộc sống của mình ở mức bình thường mà không nghĩ đến việc đi vay
tiền mua ôtô để thỏa mãn nhu cầu cao hơn.

-

Môi trường văn hóa – xã hội
Môi trường văn hóa – xã hội có ảnh hưởng tương đối lớn tới hoạt động cho
vaymua ôtô tại các ngân hàng thông qua việc tác động đến quyết định đi vay mua
ôtô của khách hàng. Quyết định này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: thói quen,
tâm lý, trình độ dân trí, phong tục tập quán...Việc mở rộng hoạt động cho vaymua
ôtô sẽ gặp khó khăn khi người dân tại địa bàn đó không có thói quen đi lại bằng
ôtô hay họ không có thói quen vay vốn ngân hàngđể mua ôtô và ngược lại.
1.2.3.2. Nhân tố từ phía khách hàng
Khách hàng là người cuối cùng quyết định việc có lựa chọn hình thức cho
vaymua ôtô hay không. Vì vậy, các nhân tố từ phía khách hàng có ảnh hưởng
không nhỏ đến việc mở rộng hoạt động cho vaymua ôtô và do đó, việc nghiên cứu
các nhân tố ảnh hưởng từ phía khách hàng là rất cần thiết.


×