Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm dạy học phát huy tính tích cực tự giác học tập của học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 18 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO QUẬN 10
TRƯỜNG TIỂU TRẦN QUANG CƠ

********************

DẠY HỌC PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC
TỰ GIÁC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH

Năm học: 2014- 2015

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Dạy học phát huy tính tích cực, tự giác học tập của học sinh
1


I.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Giáo dục là nền tảng của xã hội, là cơ sở tiền đề để quyết định sự phồn
vinh của đất nước.Giáo dục (GD) cung cấp những hiểu biết về kho tàng tri thức
của nhân loại cho biết bao thế hệ, giúp cho các em những hiểu biết cơ bản cần
thiết về khoa học và cuộc sống. Mặt khác giáo dục còn góp phần hình thành và
bồi dưỡng nhân cách tốt đẹp cho học sinh(HS), đặc biệt là Giáo dục Tiểu học,
đây là bậc học mang tính chất nền móng để các em học tiếp các bậc học cao
hơn.
Vậy để GD có hiệu quả và đạt chất lượng cao, trong quá trình giảng dạy
chúng ta cần biết lựa chọn phương pháp dạy tối ưu nhất, phù hợp với phương
pháp đổi mới, phù hợp với mục tiêu và nội dung của bài học. Song để đi đến
thành công GD đòi hỏi mọi người phải biết và không ngừng nổ lực phấn đấu,
sáng tạo, đổi mới phương pháp dạy học, đầu tư thích đáng vào công việc của
mình. Đây là một công việc vừa mang tính GD vừa mang tính nghệ thuật. Do đó
Đảng và Nhà nước ta đã ghi rõ ở Nghị quyết TW II là “Nâng cao chất lượng
toàn diện ở Tiểu học”. Bộ GD đã đề ra yêu cầu của việc dạy học hiện đại là tăng


cường hoạt động tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh. Đổi mới về phương
pháp dạy học ở tất cả các môn học thông qua việc đổi mới chương trình và sách
giáo khoa từ lớp 1 đến lớp 5 .Đó là yêu cầu tất yếu nhằm nâng cao chất lượng
GD của nhà trường tiểu học ở trong tình hình hiện nay. A.KO Men Xi đã viết
“GD có mục đích đánh thức năng lực nhạy cảm, phán đoán đúng đắn, phát
triển nhân cách...hãy tìm ra phương pháp cho gíáo viên dạy ít hơn, học sinh
hiểu nhiều hơn”.
Và đặc biệt hơn là ở năm học này ngành Giáo dục ta phải thực hiện việc
dạy và học theo Thông Tư 30, HS được nhận xét những lời phê cụ thể để học
sinh chấn chỉnh và phát huy những cái được và những gì chưa được mà không bị
điểm số bị áp lực.
Vậy việc dạy học phát huy tính tích cực, tự giác học tập của học sinh là rất cần
thiết trong trong giai đoạn giáo dục hiện nay.
II.PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
2


Trong năm học này, tôi đã làm công tác giảng dạy và tiến hành nghiên cứu
38 em học sinh các lớp : 2/2 ; trường Tiểu học Trần Quang Cơ , bên cạnh đó tôi
còn học hỏi kinh nghiệm của một số anh chị em đồng nghiệp.
- Cụ thể tình hình các lớp như sau:
+ Lớp 2/2,Tổng số học sinh: 38 em .Trong đó: 22 nữ; 16 nam
- Phần lớn các em có hoàn cảnh gia đình tương đối ổn định, bố mẹ rất quan
tâm đến việc học hành của con cái, đồ dùng học tập và sách vở đầy đủ .
- Đa số các em có ý thức và tinh thần học tập rất tốt, chăm chỉ và ham học
hỏi.
III.MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Với nhu cầu của một xã hội hoá GD đòi hỏi ngành GD phải đổi mới
phương pháp dạy học để tạo ra những thế hệ con người nhận thức sâu sắc, biết
tự giác chủ động sáng tạo trong công việc. Nhìn lại việc học của con em ở lớp

mình , tôi thấy nhận thức của các em còn nhiều hạn chế, ý thức tự học, tự rèn
luyện rất ít, điều kiện học tập có rất nhiều thuận lợi .
Các em chưa xác định được tầm quan trọng của việc học nên không ham
học. Là một người đứng trong ngành nghề dạy học tôi luôn bâng khuâng là làm
thế nào để phát huy tính tích cực , chủ động, tự giác của học sinh trong học tập.
Đây là một vấn đề nóng bỏng cần phải thực hiện nhanh và đúng cách để những
thế hệ do chúng ta đào tạo là những người làm chủ tương lai, đất nước, biết xây
dựng quê hương và đưa trình độ hiểu biết của toàn dân đi lên sánh được với các
nước phát triển trên thế giới. Qua đổi mới các phương pháp dạy học sẽ giúp các
em học sinh mạnh dạn, tự tin hơn trước đám đông, biết cách tự đánh giá việc
học của mình cũng như biết đánh giá kết quả học tập của các bạn khác. Từ đó
các em có tính chủ động hơn trong học tập và biết phấn đấu thi đua nhau để việc
học có kết quả cao hơn.

3


IV.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
1.Phương pháp quan sát:
Đây là phương pháp giúp ta quan sát thái độ, hành vi của học sinh, phát
hiện ra những hành vi, cử chỉ của học sinh trong học tập, sinh hoạt...Để phát huy
tính tích cực, tự giác của học sinh.
2.phương pháp thực nghiệm:
Khi tiến hành nghiên cứu tạo ra một số tình huống, những hoàn cảnh,
những điều kiện rất gần gũi của cuộc sống để đưa đối tượng vào vấn đề, từ đó
nghiên cứu thu lại được những tư liệu cần thiết. Đây là một phương pháp hết sức
quan trọng và rất cần thiết trong nghiên cứu khoa học.
3.Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động:
Qua phương pháp này làm cho người giáo viên thấy được những thiếu
sót và những chỗ hổng của học sinh để có phương pháp làm cho hoạt động của

mình đạt chất lượng cao.
4.Phương pháp tổng hợp kinh nghiệm:
Nhờ phương pháp này mà người nghiên cứu có thể tổng hợp, đúc rút kinh
nghiệm của giáo viên chỉ đạo về việc phát huy tính tích cực, tự giác, độc lập của
học sinh qua các mặt hoạt động học tập, lao động, sinh hoạt tập thể và hoạt động
ngoại khoá, từ đó rút ra bài học và nêu được những biện pháp khắc phục và đề
xuất.
5.Phương pháp đàm thoại:
Với học sinh tiểu học, phương pháp đàm thoại trò chuyện là một hình thức
tốt nhất để giáo viên có thể gần gũi các em, đồng thời thăm hỏi trò chuyện với
một số phụ huynh học sinh.Qua đó chúng ta có thể biết tâm sự, tình cảm,
nguyện vọng của các em về việc học ở lớp cũng như việc học ở nhà của các em
như thế nào? Để từ đó, giáo viên có phương pháp và hình thức tổ chức dạy học
thích hợp nhằm làm cho người dạy đạt kết quả tốt nhất.
6.Phương pháp Bàn tay nặn bột :
Phương pháp “ Bàn tay nặn bột ” được áp dụng chủ yếu vào môn TNXH ,
ở phương pháp này học sinh học tập rất tích cực, được giáo viên đưa ra một tình
4


huống học tập nào đó cụ thể, học sinh tự tìm hiểu qua sách báo hay vốn hiểu biết
của mình để tự trả lời nội dung câu hỏi giáo viên đưa ra , sau đó học sinh tự trao
đổi kết quả mà mình tự nghiên cứu hay suy nghĩ ra, bên cạnh đó các em có thể
chất vấn những vấn đề mà bạn trình bày . Giáo viên chỉ là người tổ chức, giúp
đỡ các em thông qua các hoạt động , chốt lại ý chính của bài . Phương pháp này
giúp học sinh hiểu bài thấu đáo hơn là các em chỉ ngồi thụ động và được nghe
giảng . Vì khi các em tự tìm tòi thì các em sẽ nhớ kiến thức bài học sâu sắc hơn
về những điều trong thực tế.
Ngoài các phương pháp trên tôi còn sử dụng một số phương pháp khác nữa
trong quá trình nghiên cứu.

V.NỘI DUNG:
1.Tình trạng của vấn đề đặt ra và sự cần thiết để tiến hành thực hiện đề
a.Tình trạng chung: Hiện nay trình độ dân trí của nước ta nói chung và
dân trí ở các vùng nông thôn và miền núi nói riêng đang còn rất thấp so với các
nước phát triển và đang phát triển trên thế giới.Vậy làm thế nào để giải quyết
vấn đề đó? Để nâng cao trình độ nhận thức của người dân thì những người đứng
trong ngành giáo dục phải có trách nhiệm khá nặng nề, mà muốn giải quyết
được vấn đề thì đòi hỏi phải đổi mới chương trình SGK, đổi mới PPDH cũng
như hình thức tổ chức dạy học để phù hợp với đối tượng, phù hợp với sự phát
triển của xã hội
b.Tình hình địa phương: Phường 4 quận 10 là một phường có các điều
kiện khá thuận tiện so với một số phường khác trong quận Song trình độ dân trí
ở đây còn thấp, điều kiện kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, sự quan tâm đến việc
học tập của con em trên địa bàn của một số gia đình còn nhiều hạn chế
2.Tính thuyết phục của đề tài:
Trong tình hình hiện nay, việc dạy học lấy học sinh làm trung tâm nó đòi
hỏi ở học sinh một yêu cầu cao là học sinh phải độc lập, tự giác,sáng tạo trong
học tập. Qúa trình dạy học này gồm hai mặt quan hệ hữu cơ với nhau: Hoạt
động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh. Người giáo viên là chủ
thể của hoạt động dạy với hai chức năng tiếp thu và tự chỉ đạo, tự tổ chức. Điều
5


cần chú ý trong học tập là phải hoạt động một cách tích cực chủ động có nhận
thức sâu sắc. Bằng hoạt động học tập học sinh tự hình thành và phát triển nhân
cách của mình không ai có thể làm thay được.
Như vậy, dạy học phải xây dựng trên nhu cầu hứng thú, thói quen, năng lực
của học sinh ở các trình độ khác nhau nhằm làm cho học sinh lĩnh hội được
những kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, thái độ giá trị cần thiết, phát huy được đầy đủ
năng lực của các em.Vai trò của giáo viên là truyền đạt tri thức, là người hướng

dẫn, người cố vấn cho học sinh trong việc học tập. Chỉ có sự phối hợp hữu cơ và
sự liên hệ qua lại chặt chẽ giữa những tác động bên ngoài của giáo viên, biểu lộ
trong việc trình bày tài liệu chương trình và tổ chức công tác học tập của học
sinh với sự căng thẳng trí tuệ “bên trong” của các em mới tạo được cơ sở của sự
học tập có hiệu quả. Tính tích cực nhận thức của bản thân các em càng cao thì
sự cân bằng năng lượng sinh hoá cơ sở tư duy sẽ càng phong phú và những kiến
thức được lĩnh hội càng sâu sắc, đầy đủ hơn và vững chắc hơn.
3.Các giải pháp:
Để kích thích tính tự giác, tích cực, độc lập của học sinh và tạo hứng thú
học tập cho học sinh thì đòi hỏi ở người giáo viên rất nhiều điều.Trước hết đòi
hỏi người giáo viên phải có tay nghề vững vàng, phải biết yêu nghề, mến trẻ tức
là phải có năng lực sư phạm.
Vậy thế nào được gọi là năng lực sư phạm? Năng lực sư phạm là những đặc
điểm tâm lí mà nó giúp cho giáo viên hoạt động có hiệu quả, năng lực sư phạm
gồm:
*Năng lực khoa học
*Năng lực hiểu học sinh
*Năng lực ngôn ngữ
*Năng lực tổ chức
*Năng lực phân phối chú ý
*Năng lực trình bày bài giảng
*Óc tưởng tượng sư phạm

6


Ngoài ra GV muốn phát huy tính tích cực, tự giác, độc lập của học sinh thì
cần phải biết lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức thích hợp. Hiện nay,
để tiến kịp với thời đại thì cần thay đổi một số phương pháp để phát huy tính
tích cực của học sinh để phù hợp với từng nội dung môn học, từng đối tượng và

trong quá trình dạy học tôi đã sử dụng linh hoạt các phương pháp sau để phát
huy tính tích cực, tự giác,độc lập của học sinh trong học tập,cụ thể là:
1.Phương pháp thuyết minh.

9.Phương pháp trò chơi học tập.

2.Phương pháp đàm thoại.

11.Phương pháp quan sát.

3.Phương pháp thảo luận.

12.Phương pháp giải quyết vấn đề.

4.Phương pháp hỏi đáp.

13.Phương pháp khảo sát điều tra.

5.Phương pháp tìm tòi.

14.Phương pháp thực hành luyện tập.

6.Phương pháp kể chuyện.
7.Phương pháp động não.
8.Phương pháp đóng vai.
Việc đổi mới PPDH tất yếu phải đổi mới hình thức tổ chức dạy học để tạo
một sự tương ứng cần thiết. Sự đa dạng của phương pháp dạy học trong sự phối
hợp của chúng, đòi hỏi phải có một số hình thức tổ chức dạy học thích hợp. Mỗi
hình thức tổ chức dạy học đều có tác dụng tích cực phát triển học sinh một khía
cạnh nào đó. Vì vậy, chúng ta cần phải biết kết hợp nhiều hình thức tổ chức để

phát huy thế mạnh của mỗi hình thức tổ chức dạy học. Phương pháp dạy học
mới, đòi hỏi phải có hình thức tổ chức dạy học tạo cơ hội cho học sinh suy nghĩ
lam việc, trao đổi thảo luận với nhau nhiều hơn, cụ thể là sử dụng các hình thức
dạy học sau:
*Dạy học cá nhân: Là chú ý phát triển năng lực riêng của từng học
sinh. Đồng thời rèn cho các em có thói quen tự học, tự làm việc, hình thức dạy
học cá nhân rất đa dạng, có thể làm việc với phiếu học tập, ngoài ra còn có một
số hình thức khác như: Làm bài tập trong sách, làm các trò chơi, tiến hành các
thí nghiệm, sự thể hiện tài năng, các hoạt động độc lập như: Sưu tầm tranh ảnh,
thu tập tài liệu, khảo sát thực tế nơi mình ở

7


*Dạy học theo nhóm: Tác dụng của việc dạy học theo nhóm là đề cao vai
trò tự hợp tác trách nhiệm cá nhân với tập thể. Đồng thời dạy học theo nhóm rèn
luyện cho học sinh những kĩ năng: Biết lắng nghe lựa chọn, tiếp nhận ý kiến của
người khác để bổ sung vào sự hiểu biết của mình, đồng thời học sinh biết trình
bày ý kiến của mình cho bạn nghe và học được công tác tổ chức, điều khiển.
Dạy học theo nhóm có nhiều hình thức khác nhau:
- Thảo luận về một vấn đề học tập.
- Tìm hiểu, điều tra về một vấn đề thực tế, hay trao đổi chung quanh một đề
tài.
- Ôn tập tổng kết sau một bài hay một chương.
- Thực hiện một bài tập hay một nhiệm vụ học tập.
- Tiến hành một thí nghiệm hay một trò chơi học tập.

Học sinh thảo luận nhóm sôi nổi
* Dạy học theo lớp: Là một hình thức dạy học cơ bản, khá phổ biến trong
dạy học lấy GV làm trung tâm.Trong dạy học lấy HS làm trung tâm, để xuất

hiện nhiều hình thức dạy học phù hợp với các PPDH đề cao vai trò hoạt động
nhận thức của học sinh. Dạy học theo lớp tuy có nhiều tác dụng tích cực, nhưng
không diễn ra suốt buổi học mà chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn, vào những
lúc thích hợp của tiết học như vào đầu, giữa và cuối tiết học.
* Dạy học ngoài trời: Có nhiều nội dung gần gũi, gắn với môi trường tự
nhiên và xã hội xung quanh. Những bài học đó nếu có điều kiện nên tổ chức cho
học sinh học ngoài trời những địa điểm thích hợp như vườn trường, sân trường
8


hoặc những địa diểm gần trường. Vì việc học ngoài trời giúp học sinh có biểu
tượng rõ nét, cụ thể về sự vật, hiện tượng nên nắm bài tốt hơn vì mắt thấy, tai
nghe...Đồng thời rèn luyện kĩ năng quan sát, phát triển tư duy cụ thể. Mặt khác
bồi dưỡng tình cảm đối với thiên nhiên, thói quen hợp tác, học hỏi lẫn nhau.

Các em thực hành trồng cây
* Tham quan: Tham quan là một hình thức để học sinh được học ngoài hiện
trường, thực tế như tham quan các xí nghiệp, đồng ruộng, khu chăn nuôi, nhà
bảo tàng, khu di tích lịch sử, văn hoá hoặc rừng, sông ,hồ, thác nước...
Tham quan có tác dụng nhiều mặt đối với sự phát triển của học sinh. Học
sinh có điều kiện trực tiếp trong thực tế với các nội dung đã được học trong lớp
nên lĩnh hội kiến thức dễ hơn, chắc hơn, nhớ kĩ hơn. Liên hệ thực tế với bài học
HS phát triển kĩ năng quan sát, so sánh, óc tò mò, trí tưởng tượng, bồi dưỡng
hứng thú học tập, tăng cường sự hiểu biết.

9


Các em tham quan học tập ngoại khóa
* Trò chơi học tập: Đây là một loại hoạt động không thể thiếu được trong

mọi lứa tuổi. Trò chơi giúp các em phát triển.Vì vậy tổ chức trò chơi chú ý
những đặc tính: Vui- Khoẻ- An toàn- Có ích; trong đó bao gồm cả giải trí, thư
giản...được xem là một yếu tố cơ bản của trò chơi.
Trò chơi học tập là một hình thức tổ chức dạy học hấp dẫn học sinh, có hai
đặc điểm cơ bản sau:
+ Mục tiêu và nội dung trò chơi phục vụ cho kiến thức và kĩ năng trọng tâm
của bài học, đó là nội dung chính của bài học.
+ Mang đầy đủ tính chất của một trò chơi: Có luật chơi, cách chơi, gây
hứng thú và sự thi đua giữa học sinh các nhóm.

Các em sắm vai theo câu chuyện
Tóm lại: Đổi mới PPDH cũng như đổi mới hình thức tổ chức dạy học, mục
đích chính là nhằm vào đối tượng học sinh, nhằm phát huy tính tích cực, chủ
động, tự giác của học sinh trong học tập, tập trung vào các vấn đề sau:

10


- Dạy học hướng tập trung vào học sinh: Phương pháp này làm cho học
sinh chủ động, tích cực , sáng tạo và linh hoạt trong học tập.
- Dạy học nêu vấn đề: Là sự tổ chức quá trình dạy học bao gồm việc tạo ra
tình huống có vấn đề trong giờ học, kích thích ở học sinh nhu cầu giải quyết vấn
đề nảy sinh, lôi cuốn các em vào hoạt động nhận thức tự lực nhằm nắm vững
kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo mới, phát triển tính tích cực trí tuệ và hình thành cho
các em năng lực tự mình thông hiểu và lĩnh hội thông tin khoa học mới.
- Tăng cường tính tích cực, tư duy của học sinh khi giáo viên trình bày kiến
thức bằng lời; phương pháp này sẽ củng cố hứng thú học tập của học sinh, nâng
cao tính ham hiểu biết và tò mò trong quá trình thông hiểu các vấn đề nghiên
cứu.
- Lời nói sinh động của giáo viên kết hợp với tính trực quan có hiệu quả to

lớn trong việc dạy học.Việc dạy học trực quan không những làm cho quá trình
học tập thêm sinh động mà nó còn góp phần rèn luyện tư duy phân tích, tập cho
các em nhìn thấy bản chất của các đối tượng ẩn sau các hình thức và những biểu
hiện bề ngoài, kích thích ham hiểu biết của học sinh.
- Cải tiến công tác tự học. Công tác tự học giữ vai trò lớn lao trong việc
nâng cao tính tích cực hoạt động trí tuệ của học sinh khi thông hiểu và tiếp thu
kiến thức mới, không phải vô cớ mà trong giáo dục học coi trọng sự nghiên cứu
của cơ sở lí luận DH của việc tổ chức công tác tự học của học sinh.
- Ngoài 4 nội dung trên, thái độ ngôn ngữ truyền đạt, tình cảm quan hệ giữa
GV và HS cũng giữ vai trò hết sức quan trọng. Do đó đòi hỏi người GV phải là
người mẫu mực, là tấm gương, là thần tượng của các em.
4. Cách giải quyết có hiệu quả:
a. Đối với việc học ở nhà:
- Cho học sinh lập thời gian biểu học ở nhà, ghi rõ từng công việc cụ thể
gắn liền với thời gian cụ thể.
- Tổ chức họp phụ huynh từng kì để trao đổi vấn đề học tập của các em cho
phụ huynh biết rõ đồng thời thông qua hội cha mẹ học sinh, kết hợp với cha mẹ
học sinh để thăm dò quản lí việc học tập của các em.
11


- Thường xuyên liên lạc với gia đình học sinh, đặc biệt là những em cá
biệt,
những em yếu kém để phối hợp giáo dục có hiệu quả, phải có thông tin thường
xuyên giữa gia đình và giáo viên chủ nhiệm.
- Phát huy các phong trào học theo nhóm nhỏ (những em nhà ở gần nhau)
b.Đối với việc học ở lớp:
- Mượn thư viện của trường: Sách,đồ dùng học tập cho những học sinh còn
thiếu.
- Duy trì nề nếp kiểm tra bài cũ, chữa bài tập thường xuyên với hình thức

giáo viên hoặc cán sự lớp theo dõi kiểm tra.
- Kiểm tra thường xuyên về tinh thần, ý thức chuẩn bị DDHT của các em
thông qua tổ trưởng, lớp trưởng.
- Có hình thức nhắc nhở , khen thưởng cụ thể, kịp thời và hợp lí. Động
viên, khuyến khích kịp thời những em chăm học và nhắc nhở những em lười học
và không chú ý trong giờ học.
- Câu hỏi kiểm tra ngắn gọn, sát nội dung bài học và phù hợp với ba đối
tượng học sinh: giỏi, khá, trung bình để học sinh nắm bài được tốt.
- Thường xuyên tổ chức cho học sinh hoạt động và thảo luận theo nhóm, tổ
chức trò chơi hoặc sắm vai tuỳ theo môn học, bài học.
- Tạo hứng thú cho học sinh bằng cách nêu gương và thi đua giữa các tổ,
nhóm hoặc giữa các cá nhân...
- Bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo học sinh yếu vào các buổi nghĩ trong
tuần.
- Thay đổi phương pháp dạy học theo hướng tích cực cụ thể từng môn.
* Đối với môn toán:
- Khi hướng dẫn HS trả lời bài cũ: GV yêu cầu HS trả lời ngắn gọn, nắm
vững kiến thức trọng tâm, trả lời hoặc làm bài tập có liên quan đến kiến thức đã
học, hoàn thành bài với phép tính dễ hiểu với bước giải nhanh nhất.
- Khi hướng dẫn học bài mới ở nhà: GV yêu cầu HS nghiên cứu bài tập ở
nhà trước, đọc và tập làm một số bài tập trong sách giáo khoa.
12


- Khi đến lớp: GV sử dụng nhiều phương pháp như:Trực quan, đàm thoại ,
thuyết trình, thực hành. Bởi vì học sinh tiểu học, tư duy của các em là trực quan
sinh động đến tư duy trìu tượng. Do đó, GV phải sử dụng triệt để các DDDH.
Bên cạnh đó GV nên dành nhiều thời gian cho HS thực hành nhằm phát huy óc
tưởng tượng, tư duy sáng tạo của các em. Sau mỗi dạng bài chúng ta nên cho
HS chốt kiến thức bài đó.

- Tạo hứng thú cho các em bằng cách:Tổ chức thi giải toán nhanh; đố vui
để học hoặc trò chơi học tập; thi điền đúng điền nhanh kết quả giữa các cá nhân ,
giữa các tổ, nhóm...Sau đó cho học sinh cả lớp nhận xét, đánh giá, GV bổ sung
và tuyên dương,
*Đối với môn tiếng việt:
- Khi hướng dẫn học sinh trả lời bài cũ: Yêu cầu học sinh đọc bài và trả
lời câu hỏi ngắn gọn, đúng nội dung và đảm bảo kiến thức trọng tâm, mức độ
hoàn thành từ 50% trở lên.
- Khi hướng dẫn HS học bài mới ở nhà, GV yêu cầu:
+ Đối với phân môn tập đọc: Yêu cầu HS đọc bài trước, tìm hiểu kĩ cách
đọc, tập đọc diễn cảm và trả lời câu hỏi trong sách giáo khoa vào vở nháp.
+ Đối với phân môn chính tả: Yêu cầu học sinh đọc trước bài cần viết, tập
chép bài đó vào vở ở nhà.
+ Đối với phân môn Tập làm văn: Yêu cầu HS đọc đọc phần nhận xét và
trả lời các câu hỏi để tự rút ra bài học và áp dụng bài học đó để viết đoạn văn
ngắn được tốt hơn, diễn đạt hay hơn , chú ý hơn ở những điểm thực tế của sự vật
đang tả nhằm làm cho bài văn sinh động hơn .
+ Đối với phân môn Luyện từ và câu: Yêu cầu HS đọc đọc phần nhận xét
và trả lời các câu hỏi để tự rút ra bài học và áp dụng bài học đó để làm các bài
tập phần luyện tập.
- Khi dạy bài mới: GV sử dụng triệt để các ĐDDH có liên quan đến bài
học, sử dụng phương pháp: Trực quan; đàm thoại; giảng giải; hỏi đáp; thực
hành; phân tích; tổng hợp; tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm và hoạt động
sắm vai...
13


- Đặc biệt phương pháp trực quan, hoạt động nhóm và hoạt động sắm vai
giúp cho HS có hứng thú học tập và giúp cho học sinh học sôi đông hơn. Từ đó
tăng hiệu quả giờ học, còn phương pháp thực hành thì giúp các em biết vận

dụng kiến thức vào thực tế và củng cố kiến thức cho các em.Tạo hứng thú cho
các em bằng phương pháp nêu gương, thi đua giữa các cá nhân, giữa các nhóm,
tổ... qua các trò chơi học tập...
* Đối với môn tự nhiên và xã hội
- Khi hướng dẫn học sinh trả lời bài cũ: GV yêu cầu HS trả lời ngắn gọn và
đúng trọng tâm, mô tả ví dụ rõ ràng .
- Hướng dẫn học bài mới ở nhà: GV yêu cầu HS quan sát tranh, đọc trước
bài, nắm chắc ý chính, trả lời hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa, những hiểu
biết thực tế liên quan đến bài học sau.
- Khi giảng bài mới: GV sử dụng tích cực hoạt động nhóm, thảo luận
nhóm, GVchỉ là người tổ chức còn HS là người thực hiện.
- Tạo hứng thú cho học sinh bằng cách: Tổ chức học tập theo nhóm, tổ
chức thi đua giữa các nhóm, tổ chức các trò chơi học tập, động viên, khen
thưởng HS kịp thời, đúng lúc.
5.Kết quả áp dụng đề tài:
Ở trường Tiểu học hiện nay nói chung và lớp 2/2; tôi đang nghiên cứu nói
riêng, với PPDH mới kết hợp với hình thức tổ chức dạy học mới (Dạy học cá
nhân, theo nhóm, theo lớp, dạy học ngoài trời, tham quan, trò chơi học tập..) đã
làm cho HS học tập một cách tích cực, tự giác, độc lập và sáng tạo.Mặt khác còn
kích thích được phong trào thi đua học tập trong lớp . Do đó, kết quả mang lại
rất khả quan; nhiều em rụt rè nay đã hăng say phát biểu xây dựng bài, lớp học
sôi nổi, HS hứng thú, tiếp thu kiến thức nhanh chóng, DH theo hướng đổi mới sẽ
huy động được năng lực, nghệ thuật sư phạm của GV. Thực tế cho thấy rằng
người GV không chỉ cung cấp cho HS những tri thức, kĩ năng cần thiết mà còn
truyền đến cho các em cả lương tâm, tình cảm và trách nhiệm của chính mình.

14


*KẾT QUẢ HỌC TÂP CUỐI HỌC KỲ 1 – NĂM HỌC 2014- 2015

( Áp dụng nhận xét theo thông tư 30 của Bộ Giáo dục )
- 100 % HS hoàn thành yêu cầu tất cả môn học .
- 100 % HS đạt về mặc Phẩm chất.
- 80 % HS tham gia học tập ngoại khóa.

Cả lớp cùng vui ở cuối học kỳ I
VI. PHẦN TỔNG KẾT:
1. Bài học kinh nghiệm:
Qua những lần đi tìm hiểu thực tế hoàn cảnh gia đình HS và đặc biệt là
những giờ lên lớp giảng dạy. Bản thân tôi đã rút ra cho mình những bài học bổ
ích.
Dạy học vừa mang tính khoa học , vừa mang tính nghệ thuật. Muốn dạy
học có hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu đào tạo hiện nay của Đảng và Nhà nước.
Đòi hỏi người GV phải nổ lực ,sáng tạo, không ngừng cải tiến phương pháp để
nâng cao hiệu quả giảng dạy. Nhằm thực hiện tốt chủ trương của ngành Giáo
dục : “Môi trường thân thiện ; Học sinh tích cực”.
a.Về công tác giảng dạy:
Muốn nâng cao hiệu quả và học tập hứng thú trong quá trình giảng dạy, đòi
hỏi người giáo viên phải chuẩn bị: kế hoạch dạy học, hệ thống câu hỏi:
- Thâm nhập kĩ giáo án, hiểu rõ ý đồ sách giáo khoa .
15


- Có thiết kế khoa học, hệ thống câu hỏi ngắn gọn rõ ràng dễ hiểu.
- Lựa chọn phương pháp dạy học, có hiểu quả.
- Sử dụng tốt các câu chuyển ý, chuyển đoạn, tạo ra sự liên kết chặt chẽ,lô
gic của bài dạy.
- Sử dụng tối đa DDDH và có hiệu quả trong từng tiết dạy, trong từng môn
học.
- GV phải có vốn hiểu biết nhất định và kiến thức xã hội.

- GV cần tạo điều kiện để HS tích cực, chủ động, sáng tạo chiếm lĩnh tri
thức.
Để đạt được những mong muốn đó, bản thân tôi ngay từ bây giờ tôi xác
định rằng muốn trở thành một người GV thực sự thì trước hết phải có lòng yêu
nghề, mến trẻ, lòng say mê nghề nghiệp và ý chí quyết tâm cao. Phải có ý thức
trách nhiệm đối với bản thân, đối với nghề nghiệp và xã hội.
Để chuẩn bị cho một giờ lên lớp, GV cần phải chuẩn bị rất chu đáo về mọi
công việc như: DDDH, giáo án và thâm nhập giáo án một cách kĩ càng. Khi
đứng lớp phải bình tĩnh, tự tin, tác phong nhanh nhẹn, ngôn ngữ truyền đạt rõ
ràng để làm sao hướng đẫn HS cho hiểu nội dung bài một cách dễ dàng. Đồng
thời khai thác nội dung để phát huy tính sáng tạo của HS khá ,giỏi.
b.Về công tác chủ nhiệm:
GV chủ nhiệm có một vai trò hết sức quan trọng, GV chủ nhiệm thường là
người dạy chủ yếu của lớp, đồng thời tổ chức lãnh đạo, điều hành, kiểm tra đánh
giá mọi hoạt động và mối quan hệ ứng xử trong phạm vi lớp mình phụ trách,
nhằm hình thành nhân cách của HS. Với vai trò, vị trí như vậy GV chủ nhiệm
còn là cầu nối liền giữa nhà trường với đời sống xã hội.
Để trở thành người GVCN giỏi thì ngoài những công việc trên, người GV
phải rèn cho mình những năng lực sau:
- Phải quan tâm chăm sóc, gần gũi với học sinh.
- Phải xây dựng nề nếp học tập tốt, có quy định về nội quy của lớp.
- Phải thường xuyên kiểm tra, đôn đốc các em thực hiện tốt nội quy,nề nếp
của trường, lớp.
16


- Xây dựng và phát triển quan hệ, kết hợp với lực lượng giáo dục trong và
ngoài nhà trường theo phương châm xã hội hóa giáo dục nhằm mục tiêu giáo
dục học sinh.
Thông thường trẻ ở Tiểu học tin tưởng tuyệt đối vào GV, đặc biệt là

GVCN. Do đó phẩm chất và năng lực của GVCN là nhân tố hết sức quan trọng
đối với việc đảm bảo chất lượng giáo dục nói chung.
2.Kiến nghị đề xuất
a. Đối với nhà trường:
- Nên duy trì thường xuyên tổ chức hội thảo, chuyên đề về công tác dạy
học( tiết chuyên đề toàn giáo viên toàn trường cùng dự để học hỏi trau dồi kinh
nghiệm trong giảng dạy)
- Quán triệt hơn nữa tinh thần học tập của học sinh.
- Có thêm nhiều sách tham khảo.
b.Đối với địa phương, gia đình:
- Phải có biện pháp cứng rắn đối với những HS thường xuyên đi học muộn,
phối hợp với gia đình đối với những trẻ chưa có thái độ học tập tốt hoặc có
những hành vi đạo đức chưa tốt với bạn bè và mọi người xung quanh, nhằm uốn
nắn cho các em có những hành vi , thói quen tốt.
- Gia đình phải chú trọng quan tâm đến việc học hành của con cái nhiều
hơn.
- Gia đình cần dành nhiều thời gian giám sát việc học ở nhà của con em.
- Cần mua sắm và kiểm tra sách vở, đồ dùng học tập cho học sinh đầy đủ
trước khi đến lớp.
KẾT LUẬN :
Trong quá trình giảng dạy, tôi đã sử dụng một số biện pháp trên để nhằm
giúp cho học lĩnh hội kiến thúc một cách tốt nhất và biết áp dụng những kiến
thức ấy vào các bài tập cụ thể hoặc vào điều kiên thực tế của cuộc sống, có
những kỹ năng ứng xử phù hợp với từng tình huống, qua đó thấy được sự trưởng
thành của các em hơn.
17


Tuy bản thân có nhiều cố gắng sử dụng tất cả các phương pháp dạy học để
giảng dạy cho học sinh nhưng chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu sót. Kính mong

quý Thầy, Cô, Hội đồng khoa học và bạn bè đồng nghiệp bổ sung để bản thân
rút kinh nghiệm và thực hiện tốt hơn .
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI THỰC HIỆN

Nhận xét của Hội đồng sáng kiến trường tiểu học Trần Quang Cơ.

…………………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………
Chủ tịch Hội đồng sang kiến kinh nghiệm

18



×