Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Ảnh Hưởng Của Việc Bổ Sung Na – Butyrate Vào Khẩu Phần Ăn Tới Trạng Thái Đường Tiêu Hoá, Tình Trạng Tiêu Chảy Và Hiện Quả Nuôi Lợn Con Giống Ngoại Sau Cai Sữa Từ 21 Đến 60 Ngày Tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.38 MB, 92 trang )

1

Đại học thái nguyên
trờng đại học nông lâm
--------------------------------------------

Nguyễn Thị Lệ

Tờn ti:
Nghiên cứu ảnh hởng của việc bổ sung Na -Butyrate vào khẩu
phần ăn tới trạng thái đờng tiêu hoá, tình trạng tiêu chảy và
hiệu quả nuôi lợn con giống ngoại sau cai sữa từ 21 đến 60 ngày
tuổi

Chuyờn ngnh: Chăn nuôi
Mó s: 60 6240

TểM TT LUN VN THC S KHOA HC NễNG NGHIP

Thái Nguyên - 2010


2

MỞ ĐẦU
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Kể từ khi kháng sinh được phát hiện bởi Flemming năm 1928, nó đã
góp phần to lớn kiểm soát các bệnh vi khuẩn. Bên cạnh đó người ta cũng phát
hiện khi dùng kháng sinh với liều nhỏ lại có tác dụng kích thích sinh trưởng,
làm tăng khối lượng cơ thể/ngày từ 4-15%, làm tăng lượng thu nhận thức ăn
và hệ số chuyển hoá thức ăn 2-6% (Morz, 2003) [57]. Khoảng 50 năm trở lại


đây, nhiều loại kháng sinh đã được sử dụng như chất kích thích sinh trưởng
phổ biến trong chăn nuôi khắp thế giới.
Tuy nhiên khi phát hiện ra sự xuất hiện của nhiều chủng vi khuẩn
kháng kháng sinh gây nguy cơ mất an toàn tới sức khoẻ con người thì đã có
nhiều thông tin đề cập tới vấn đề này. Trước tác động xấu của kháng sinh, thế
giới đang tìm cách hạn chế tiến tới bãi bỏ việc dùng kháng sinh trong chăn
nuôi nói chung và lợn nói riêng. Ở Việt Nam, việc hạn chế và cấm sử dụng
kháng sinh trong chăn nuôi đang được các cơ quan quản lý quan tâm. Hàng
năm cục Thú y đều ban hành danh mục kháng sinh hạn chế và cấm sử dụng
trong chăn nuôi. Tuy nhiên để xoá bỏ việc dùng kháng sinh trong chăn nuôi
đòi hỏi phải có giải pháp thay thế để bảo vệ sức khoẻ đàn gia súc, gia cầm.
Các giải pháp được thế giới quan tâm nhiều ngay từ những năm 90 của thế kỷ
trước là các sản phẩm thay thế kháng sinh: probiotic, prebiotic, enzyme, axit
hữu cơ… Trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới thì ở Việt Nam việc xoá
bỏ sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi cũng sẽ là xu thế tất yếu.
Việc tìm các sản phẩm thay thế kháng sinh đang là việc làm cấp bách,
các nhà khoa học trong nước cũng đang tích cực tiếp cận xu thế này và bước
đầu có được kết quả khích lệ (Trần Quốc Việt và cộng sự, 2006) [44]. Bên
cạnh đó, tiếp thu và thử nghiệm các sản phẩm thay thế kháng sinh từ nước
ngoài cũng là một xu hướng cần tiến hành để rút ngắn khoảng cách trong thực
tiễn chăn nuôi nước ta với thế giới. Trong các loại sản phẩm thay thế kháng


3

sinh, axit hữu cơ là loại sản phẩm được quan tâm nghiên cứu vì những đặc
tính ưu việt: An toàn cho vật nuôi và con người, cải thiện chức năng tiêu hoá,
ức chế sự phát triển của vi khuẩn gây hại trong đường ruột, không tồn dư và
đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
Nắm bắt xu hướng ấy, vừa qua trong hội chợ triển lãm công nghệ chăn

nuôi năm 2008 đã có công ty liên doanh giới thiệu sản phẩm Na- Butyrate do
Công ty Singao (Trung Quốc) sản xuất và khuyến cáo sử dụng. Việc đưa
nhanh các sản phẩm công nghệ cao vào sản xuất chăn nuôi ở nước ta nói
chung và miền núi nói riêng nơi mà trình độ chăn nuôi còn có nhiều hạn chế,
vệ sinh thú y trong chăn nuôi còn thấp sẽ góp phần tích cực làm tăng hiệu quả
kinh tế.
Xuất phát từ nhu cầu của sản xuất, chúng tôi cho rằng việc triển khai đề
tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của việc bổ sung Na -Butyrate vào khẩu phần
ăn tới trạng thái đường tiêu hoá, tình trạng tiêu chảy và hiệu quả nuôi lợn
con giống ngoại sau cai sữa từ 21 đến 60 ngày tuổi” là cần thiết.
2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
- Xác định khả năng thay thế kháng sinh của chế phẩm Na-Butyrate
trong việc kích thích sinh trưởng làm tăng hiệu quả chăn nuôi lợn con giai
đoạn sau cai sữa đến 60 ngày tuổi.
- Xác định được vai trò của Na-butyrate trong việc hạn chế bệnh tiêu
chảy ở lợn con sau cai sữa thông qua tác động làm thay đổi theo hướng tích
cực trạng thái đường tiêu hóa lợn con.
3. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
* Ý nghĩa khoa học:
Đề tài xác định được ảnh hưởng tốt của chế phẩm Na-butyrate đến
trạng thái chức năng của đường tiêu hoá, đến sinh trưởng của đàn lợn con
sau cai sữa từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng thức ăn và giảm thiểu ô nhiễm
môi trường.


4

Kết quả nghiên cứu cho phép sử dụng Na-butyrate là một sản phẩm
thay thế kháng sinh, nó có khả năng cải thiện trạng thái chức năng đường tiêu
hóa, nâng cao sức sinh trưởng và hiệu quả chăn nuôi lợn con sau cai sữa, từ

21 đến 63 ngày tuổi, do đó làm nền tảng tốt cho giai đoạn nuôi thịt tiếp theo.
Ngoài ra, đây còn là cơ sở khoa học cho những nghiên cứu khác nhằm nâng
cao khả năng ứng dụng các chế phẩm trong chăn nuôi lợn.
*Ý nghĩa thực tiễn
Góp thêm những kết quả từ thực tiễn nghiên cứu sử dụng các chế phẩm
thay thế kháng sinh, góp phần phát triển chăn nuôi lợn nói chung, lợn thịt
hướng nạc nói riêng, góp phần nâng cao năng suất chất lượng thịt theo hướng
tạo ra sản phẩm chăn nuôi an toàn để bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng.


5

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học
1.1.1. Đặc điểm sinh lý tiêu hoá của lợn con
Mục đích của việc chăn nuôi lợn con giai đoạn theo mẹ là làm thế nào
để lợn con đạt khối lượng cai sữa cao, khi nuôi thịt lợn sinh trưởng phát triển
nhanh, đồng thời là cơ sở để tạo giống tốt và giúp chúng ta nâng cao được sức
sống của đàn con. Để đạt được mục đích trên, bên cạnh việc tạo cho lợn con
điều kiện chăm sóc tốt, chúng ta cần hiểu rõ các đặc điểm của lợn con theo
mẹ, đặc biệt là đặc điểm sinh lý tiêu hoá lợn con, để từ đó có biện pháp nuôi
dưỡng và tác động dinh dưỡng phù hợp.
1.1.1.1. Đặc điểm sinh lý tiêu hóa dạ dày lợn con
Đặc điểm cơ quan tiêu hoá lợn của con giai đoạn theo mẹ phát triển
nhanh về cấu tạo và hoàn thiện dần về chức năng tiêu hoá: Dung tích dạ dày
lợn con lúc 10 ngày tuổi có thể tăng gấp 3 lần lúc sơ sinh, lúc 20 ngày tuổi
tăng gấp 8 lần, lúc 60 ngày tuổi tăng gấp 60 lần (dung tích lúc sơ sinh khoảng
0,03 lít ).
Đối với lợn con, sự tiết dịch có những đặc điểm khác biệt với lợn lớn.

Theo Trương Lăng (2004) [16] lợn con 20 ngày tuổi có phản xạ tiết dịch còn
chưa rõ, ban đêm lợn mẹ tiết nhiều sữa kích thích sự tiết dịch vị ở lợn con. Khi
cai sữa lượng dịch vị tiết ra ngày và đêm gần bằng nhau, độ axit của dịch vị lợn
con thấp nên hoạt hoá pepsin kém, khả năng diệt khuẩn kém. Hàm lượng axit
biến đổi theo lứa tuổi lợn con, axit HCL tự do xuất hiện ở 25-30 ngày tuổi và
diệt khuẩn rõ nhất ở 40-50 ngày tuổi. Theo tác giả Hoàng Toàn Thắng và cộng
sự (2006) [33] cho biết chức năng tiêu hoá của lợn con sơ sinh chưa hoàn thiện.


6

Trong giai đoạn theo mẹ, chức năng của bộ máy tiêu hoá lợn con được hoàn
thiện dần thể hiện ở sự thay đổi hoạt tính các enzym trong dịch vị.
- Men pepsin: lợn con dưới một tháng tuổi, men pepsin trong dạ dày lợn
con chưa có khả năng tiêu hoá protein của thức ăn, vì lúc này dịch vị dạ dày lợn
con không có HCL tự do, lượng axit tiết ra rất ít và nhanh chóng liên kết với dịch
nhầy, gây ra hiện tượng thiếu axit hay còn gọi là “Hypoclohydric”. Sau 3 tuần
tuổi, lượng HCL tự do trong dịch vị mới tăng dần. Đây là một đặc điểm quan
trọng trong tiêu hoá dạ dày ở lợn con. Khi có HCL tự do sẽ kích hoạt để men
pepsinogen chuyển thành dạng pepsin hoạt động và men này mới có khả năng
tiêu hoá protein trong thức ăn. Sau 1 tháng tuổi, men pepsin mới có khả năng
tiêu hóa đầy đủ. Vì thiếu HCl tự do nên dịch vị không có tính sát trùng, vi
sinh vật xâm nhập vào dạ dày dễ sinh sôi nảy nở và phát triển gây ra bệnh về
đường tiêu hoá ở lợn con đặc biệt là bệnh lợn con phân trắng.
Có thể kích thích để tế bào vách dạ dày lợn con tiết ra HCL tự do sớm
hơn bằng cách bổ sung thức ăn sớm cho lợn con. Nếu tập cho lợn con ăn sớm
vào lúc 5-7 ngày tuổi thì HCL tự do co thể được tiết ra từ ngày tuổi thứ 14.
Trong dạ dày lợn là loài ăn tạp, pepsin chỉ hoạt động tốt trong môi
trường pH = 2,5 - 3 với nồng độ HCL tự do từ 0,1- 0,5%.
- Men catepsin: Là men tiêu hoá protein trong sữa có tác dụng giống

men pepsin, thủy phân protein và các mạch peptit thành amino acid, hoạt
động thích hợp ở kkoảng pH = 4 - 5. Vì thích hợp với pH cao nên catepsin
hoạt động mạnh ở động vật non bú sữa khi mà HCL tự do hình thành chưa
nhiều. Ở động vật trưởng thành catepsin hầu như không hoạt động, khi vật
nuôi chết catepsin hoạt động phân giải protein dạ dày.
- Men chymosin (hay rennin) có hoạt tính mạnh trong 3 tuần đầu và sau
đó giảm dần. Men này có tác dụng làm ngưng đặc sữa, hoạt động tốt ở
pH = 4 - 5. Dưới tác dụng của chymosin và Ca++, protein trong sữa là


7

caseinogen ở dạng hoà tan chuyển thành caseinatcalci (dạng đông vón), có thể
lưu lâu trong dạ dày tạo điều kiện cho pepsin hoạt động, phần nhũ thanh (dịch
trong còn lại) của sữa được chuyển xuống ruột non để tiêu hóa.
1.1.1.2. Đặc điểm cấu tạo và sinh lý tiêu hóa ruột
Theo Từ Quang Hiển (2003) [10] Dung tích ruột non của lợn con lúc
10 ngày tuổi gấp 3 lần lúc sơ sinh, 20 ngày tuổi gấp 6 lần và lúc 60 ngày tuổi
gấp 50 lần. Dung tích ruột già của lợn con lúc 10 ngày tuổi gấp 1,5 lần lúc sơ
sinh, lúc 20 ngày tuổi gấp 2,5 lần và lúc 60 ngày tuổi gấp 60 lần.
Thức ăn từ dạ dày khi xuống ruột non chịu tác động phối hợp của các
enzym trong dịch tụy, dịch ruột và các chất xúc tác tiêu hóa trong dịch mật để
biến đổi về thành phần hóa học.
* Nhóm enzym phân giải protein
- Men trypsin: Là enzym chính của dịch tụy, được tiết ra dưới dạng
tripsinogen không hoạt động rồi được enterokinase của tá tràng hoạt hóa trở
thành dạng tripsin hoạt động sau đó là quá trình hoạt hóa tripsinogen.
Là men tiêu hoá protein của thức ăn, ở thai lợn lúc 2 tháng tuổi, trong
chất tiết đã có men trypsin, thai càng lớn hoạt tính của men này càng cao. Khi
lợn con mới đẻ ra, men trypsin của dịch tụy là rất cao để bù đắp lại khả năng

tiêu hoá kém của men pepsin dạ dày.
Tripsin có hoạt lực cao nhất ở pH = 8, tác dụng tương tự như pepsin
nhưng hoạt lực mạnh và triệt để hơn.
Tripsin phân giải protein tạo thanh polipeptid và amino acid.
- Chimotripsin cũng được tiết ra dưới dạng không hoạt động là
chimotripsinogen sau khi được tripsin hoạt hóa sẽ chuyển thành chimotripsin
hoạt động, pH tối ưu = 8, tác dụng tương tự tripsin.
- Alastase phân giải alastin (gân, bạc nhạc) thành peptit và amino acids.


8

- Carboxipolipeptidase tác dụng phân giải peptit ở đầu có nhóm COOtự do và tách amino acid ra khỏi phân tử peptit.
- Dipeptidase phân giải dipeptit thành 2 amino acid.
- Protaminase phân giải protamin thành peptit và amino acid.
- Nuclease phân giải acid nucleic thành mono nucleotid.
* Nhóm men thủy phân glucid
- Men amylase và maltase:
Hai men này có trong nước bọt và trong dịch tụy lợn từ lúc còn mới đẻ,
nhưng dưới 3 tuần tuổi hoạt tính còn thấp, do đó khả năng tiêu hoá tinh bột
của lợn còn kém, chỉ tiêu hoá được 50% lượng tinh bột ăn vào. Đối với tinh
bột sống, lợn con tiêu hoá càng kém. Sau 3 tuần tuổi, men amylase và maltase
mới có hoạt tính mạnh, vì vậy khả năng tiêu hoá tinh bột của lợn con tốt hơn.
Amylase hoạt động tối ưu trong pH = 7,1. Nó cắt liên kết 1-4œ-glucozit
của cả tinh bột sống và chín cho ra maltose.
Maltase phân giải đường maltose thành glucose.
- Men saccarase: Đối với lợn con dưới 2 tuần tuổi men saccarase hoạt
tính còn thấp, nếu cho lợn con ăn đường sucarose thì rất dễ bị ỉa chảy.
- Men lipase hoạt động tối ưu ở pH = 6,8. Lipase cắt các liên kết este
giữa glycerol và acid béo, do đó phân giải tri glycerid đã được nhũ hóa bằng

dịch ruột để tạo ra mono glycerid, acid béo và glycerol.
- Men lactase: Có tác dụng tiêu hoá đường lactose trong sữa. Men này
có hoạt tính mạnh ngay từ khi lợn con sinh ra và tăng cao nhất ở tuần tuổi thứ
2, sau đó hoạt tính của men này giảm dần.
Qua nghiên cứu về quá trình phân tiết của men amylase, maltase và
protease, chúng ta thấy sự phân tiết và hoạt động của các men này tăng dần
theo sự tăng lên của ngày tuổi, men lipase tăng dần đến khi cai sữa sau đó
giảm dần. Riêng men lactase tăng cao nhất ở giai đoạn 2 tuần tuổi sau đó


9

giảm dần theo sự tăng lên của ngày tuổi. Đây chính là điểm cần lưu ý khi bổ
sung thức ăn cho lợn con.
Sau một tháng tuổi, quá trình tiêu hoá hấp thu các chất dinh dưỡng tiến
hành chủ yếu ở dạ dày và ruột non. Trong một ngày đêm phân giải 45%
gluxit, 50% protit. Ruột già chủ yếu tiêu hoá chất xơ nhờ hệ vi sinh vật ở
manh tràng phân giải (Từ Quang Hiển, 2003) [10].
Như vậy, để tăng tỷ lệ tiêu hoá và giảm tiêu chảy ở lợn con cũng như
để phù hợp với khả năng tiêu hoá của lợn thì trong sản xuất thức ăn cho lợn
con giai đoạn tập ăn và sau cai sữa chúng ta nên sử dụng các loại thức ăn dễ
tiêu hoá như: Bột sữa, đường lactose,… thức ăn cần được rang chín và nghiền
nhỏ đồng thời bổ sung thêm một số axit vô cơ như: axit lactic,…
1.1.1.3. Hệ vi sinh vật trong đường tiêu hóa của lợn con
Hệ vi sinh vật trong đường tiêu hóa của lợn con có vai trò nâng cao sức
sử dụng thức ăn đồng thời nâng cao sức đề kháng của cơ thể lợn. Sự phát triển
mạnh của vi khuẩn sinh axit và vi khuẩn tổng hợp các chất có hoạt tính sinh
học, đồng thời ức chế vi khuẩn gây thối là một quá trình có lợi cho cơ thể
(Đào Trọng Đạt và cộng sự, 1995) [7].
Ở dạ dày và ruột của động vật mới sinh ra chưa có vi khuẩn, sau vài giờ

thấy một vài loại vi khuẩn và từ đó chúng bắt đầu sinh sản dần. Hàng ngày,
một số loại vi khuẩn khác theo thức ăn vào ruột, sống và sinh sôi nảy nở ở đó,
chúng có thể bị biến đổi ít nhiều nhưng căn bản vẫn sống cho đến khi con vật
chết. Thành phần và số lượng của hệ vi sinh vật thay đổi tùy theo loại thức ăn,
nếu thức ăn nhiều gluxit thì vi khuẩn tạo axit trong ruột rất phát triển.
Có thể chia vi sinh vật thành 2 loại “ vi sinh vật tùy tiện” thay đổi tùy
theo loại thức ăn và loại “vi sinh vật bắt buộc” là loại vi sinh vật thích nghi
ngay được với môi trường đường ruột và dạ dày trở thành loại định cư vĩnh
viễn. Hệ vi sinh vật bắt buộc gồm: streptococcus, lactic, lactobacterium, acid


10

ophilum, trực khuẩn lactic, E.coli (trực khuẩn ruột già), trực khuẩn đường
ruột. Trong đường ruột và dạ dày là một môi trường có độ ẩm, dinh dưỡng
thuận tiện cho vi sinh vật phát triển, tuy nhiên sự phát triển của chúng có giới
hạn vì trong đường ruột và trong dạ dày có những chất kìm hãm sự phát triển
của vi khuẩn đường ruột và vi khuẩn gây thối như mật, dịch vị và tác động đối
kháng của các vi khuẩn khác nhau.
* Hệ vi sinh vật ở khoang miệng
Ở khoang miệng có sự cảm nhiễm vi sinh vật từ các nguồn trên. Trong
nước bọt và dịch bài tiết của niêm mạc có men kháng khuẩn lisozyme có tác
dụng tiêu diệt một số vi sinh vật.
* Hệ vi sinh vật ở dạ dày
Trong dạ dày có một lượng axit HCL rất lớn (0,2%). Axit trong dịch vị
dạ dày có tác dụng ức chế với nhiều loại vi sinh vật, do vậy phần lớn vi sinh
vật từ thức ăn, nước uống đưa vào đều bị tiêu diệt. Số lượng vi khuẩn ở dạ
dày rất ít do tác dụng diệt khuẩn của axit dạ dày gồm các vi khuẩn lên men
(Saccharomyces minor, vidiumlactic) trực khuẩn lactic (Lactobacillus
beljerincke…). Ngoài ra còn có trực khuẩn phó thương hàn đi qua dạ dày

xuống ruột.
* Hệ vi sinh vật của ruột non
Ruột non chiếm 2/3 đến 3/5 chiều dài ruột nhưng lượng vi khuẩn lại rất
ít. Khi dịch vị dạ dày vào ruột non vẫn còn tác dụng sát khuẩn, ngoài ra dịch
do niêm mạc bài tiết ra cũng có tác dụng sát khuẩn…, ở ruột non chứa một số
ít vi khuẩn có trong dạ dày xuống. Trong ruột non chủ yếu là E.coli, cầu
khuẩn, trực khuẩn hiếu khí, yếm khí có nha bào, Aerobacter aerogenes. Ở gia
súc non có thêm Streptococcus lactic, trực khuẩn lactic Lactobacterium
bulgaricum, từ hồi tràng số lượng vi khuẩn bắt đầu tăng lên.


11

* Hệ vi sinh vật của ruột già
Số lượng vi sinh vật ở ruột già tăng hơn nhiều so với ruột non do tác
dụng khử trùng của ruột đã không còn, mà các điều kiện về dinh dưỡng, độ
ẩm, nhiệt độ lại thuận lợi cho sự phát triển của vi sinh vật.
Hệ vi sinh vật chủ yếu là E.coli, cầu khuẩn, trực khuẩn có nha bào
entrococcus. Gia súc trưởng thành E.coli chiếm 75% trở lên. Trong ruột già
của động vật ngoài hệ vi sinh vật hoại sinh còn có hệ vi sinh vật gây bệnh
nhưng chưa thể hiện bằng triệu chứng lâm sàng: Vi khuẩn phó thương hàn, vi
khuẩn brucella, uốn ván (Nguyễn Vĩnh Phước, 1980) [25].
Theo Đào Trọng Đạt và cộng sự (1995) [7] trong hệ tiêu hóa của động
vật, hệ vi sinh vật luôn luôn ổn định đảm bảo cân bằng cho hệ tiêu hóa, khi đó
phần lớn các vi khuẩn có lợi là vi khuẩn lactic, vi khuẩn này chiếm 90% và hoạt
động hữu ích cho đường ruột. Nếu sự cân bằng này bị phá vỡ thì những vi khuẩn
có hại cạnh tranh phát triển gây rối loạn đường tiêu hóa, gây tiêu chảy (nhất là
lợn con theo mẹ), loại vi khuẩn thường gặp là E.coli và salmonella…
Nhiều thực nghiệm còn xác nhận rằng: nhiều loại vi khuẩn đường ruột
đã sinh ra các chất kháng sinh ức chế sự phát triển của vi khuẩn gây ra bệnh

như: Vi khuẩn phó thương hàn, vi khuẩn thối rữa. Ở lợn con mới sinh, hệ vi
sinh vật đường ruột chưa phát triển, chưa đầy đủ số lượng vi khuẩn có lợi, cho
nên chưa tạo được sự cân bằng về hệ vi sinh vật đường tiêu hoá lợn con, tạo
điều kiện cho các vi khuẩn gây bệnh như E.coli phát triển mạnh nên lợn con
bị rối loạn tiêu hoá.
Theo YuYu (2005) [47], ở lợn con bú sữa, nhóm vi khuẩn
Lactobacillus spp, trong dạ dày và đường tiêu hoá phát triển mạnh. Vi khuẩn
này sử dụng một số đường lactose của sữa để sản sinh ra axit lactic làm giảm
độ pH trong dạ dày, sự tăng lượng axit này sẽ làm cho quá trình tiêu hoá tốt
hơn và ngăn cản sự phát triển của các vi khuẩn khác, một vài loại vi khuẩn
trong số đó bất lợi cho tiêu hoá của lợn con.


12

1.1.1.4. Cấu tạo nhung mao ruột non và điều kiện pH của đường tiêu hóa
* Cấu tạo của nhung mao ruột non
Theo Hoàng Toàn Thắng, Cao Văn (2006) [33]: Niêm mạc ruột được
bao phủ bằng lớp lông nhung dày đặc gọi là nhung mao, mỗi mm2 có tới 2040 nhung mao. Mỗi một nhung mao là một chỗ lồi lên hình ngón tay, dài độ
0,5 - 1mm được bao phủ bằng lớp tế bào biểu mô trụ. Trong nhung mao có
mạng lưói mao mạch và mạch huyết. Mỗi nhung mao lại được bao phủ bằng
các vi nhung mao làm diện tích hấp thu của ruột non tăng lên hàng trăm lần.
Trên toàn bộ ruột non có nhiều tuyến ruột hình ống gọi là hõm Lieberkin tiết
ra dịch ruột chứa men. Riêng ở tá tràng có tuyến brunner là dạng trung gian
của tuyến ở vùng hạ vị và tuyến ruột, chất tiết là dịch nhầy.
Theo TS. Phạm Thị Hiền Lương, PGS. TS. Phan Đình Thắm (2008)
[18]: Vỏ lông nhung có 3 loại tế bào:
+ Tế bào biểu mô: hình trụ, nhân bầu dục, trên mỗi tế bào biểu mô có
4000 - 5000 vi nhung, trên vi nhung còn có lưới Glycocalic.
+ Tế bào hình đài: nhân ở đáy, bào tương tiết chất nhờn.

+ Tế bào panet: chức năng chưa rõ thúc đẩy hoạt động tiêu hóa, hấp thu
qua màng.
- Ruột lông nhung (lõi): Là một hệ thống mạng lưới gồm có ống dưỡng
chấp, động và tĩnh mạch.
Hoạt động của lông nhung giống như một cái bơm mà sợi cơ là lực tạo
ra sức ép, khi bề mặt của lông nhung căng phồng (coi như ta đẩy pittong vào),
tất cả các chất dinh dưỡng được thấm qua lỗ nhỏ của vi nhung mao. Khi bề
mặt lông nhung co lại (khi kéo pittong ra) thì tất cả các chất dinh dưỡng được
dồn về ống dưỡng chấp, động mạch, tĩnh mạch. Khi các chất dinh dưỡng vào
trong mạng lưới tất cả các dịch hấp thu có tính chất là lipit qua ống dưỡng
chấp, còn thức ăn protit và đường theo hệ thống mạch quản.


13

Trong giai đoạn sinh trưởng, hệ thống nhung mao ruột non phát triển rất
mạnh. Tuy nhiên, lợn con sau cai sữa thường rất hay bị tổn thương nhung mao
ở thành ruột non do ảnh hưởng của thức ăn, khi đó sẽ giảm khả năng sản xuất
men tiêu hoá ở ruột non của lợn con, giảm khả năng tiêu hoá và hấp thụ thức
ăn. Thức ăn không được hấp thụ sẽ chuyển xuống ruột già, làm tăng sự phát
triển của vi sinh vật có hại và làm tăng khả năng bùng phát vi khuẩn E.coli,
làm cho lợn bị ỉa chảy. Biểu hiện bên ngoài của hiện tượng này là lợn con
gầy, sút cân, lông da nhợt nhạt, sinh trưởng giảm. Do vậy thức ăn bổ sung cho
lợn con phải đáp ứng được khả năng tiêu hoá của chúng trong từng giai đoạn
phát triển và hoàn thiện về cấu tạo và chức năng của bộ máy tiêu hóa.
* Điều kiện pH dạ dày và ruột non
Như đã biết, nhờ sự phân tiết HCL của tế bào vách tuyến vị mà pH của
môi trường dạ dày lợn con giảm dần và đạt tới độ ổn định vào khoảng 2,53,0. Ở 21 - 35 ngày sau đẻ, lúc này men pepsin có hoạt lực đầy đủ để tiêu hoá
protein thức ăn.
Ở lợn con, giai đoạn từ sơ sinh đến 21 ngày, nếu được tập ăn sớm thì sau

2 tuần tuổi trở đi lượng HCL tự do tăng dần, đã tạo môi trường pH dần phù hợp
để tiêu hoá protein trong thức ăn bổ sung. Do vậy, pH dạ dày lợn con phải cần
thời gian nhất định từ khi đẻ ra để đạt mức phù hợp với tiêu hoá protein. Bởi
men pepsin thì ở ruột non, trị số pH môi trường ruột non đã nằm trong khoảng
pH = 7 - 8 do các muối kiềm trong dịch tuỵ, dịch mật và dịch ruột tạo ra. Ở tá
tràng, pH môi trường được qui định bởi pH của dịch tụy (7,8 - 8,4) và dịch ruột
(pH = 8,0 - 7,4) để tạo một môi trường tá tràng có pH nằm trong khoảng 7,5 - 8,0.
Trị số pH của tá tràng dễ thay đổi khi tiếp nhận thức ăn từ dạ dày xuống theo
từng đợt. Với khối thức ăn được trộn acid dịch vị (pH acid) thì các muối kiềm
trong dịch tuỵ và muối mật của dịch ruột sẽ trung hoà acid trong thức ăn vì thế
về nguyên tắc pH chất chứa trong tá tràng phải giảm đi.


14

Còn ở không tràng pH có độ kiềm cao (pH = 8,2-8,7). Trị số pH kiềm
tính của đoạn ruột là môi trường thuận lợi cho các vi khuẩn có hại hoạt động.
Vì thế đứng trên quan điểm dinh dưỡng người ta tìm cách đưa vào đường ruột
những chất hay các vi khuẩn lên men axit như Lactobacillus để làm giảm bớt đi
trị số pH nếu có độ kiềm cao ở đường ruột non nhằm kìm hãm hoạt động của vi
khuẩn có hại. Bổ sung Na-butyrate vào thức ăn chính là một giải pháp hữu hiệu
để đạt mục đích này giống như bổ sung vi khuẩn Lactobacillus.
1.1.2. Sự sinh trưởng của lợn, các nhân tố ảnh hưởng
Theo Trần Đình Miên (1975) [19] sinh trưởng là một quá trình tích luỹ
các chất hữu cơ do đồng hoá và dị hoá, là sự tăng về chiều dài, bề ngang, khối
lượng, thể tích của các cơ quan bộ phận và toàn cơ thể con vật trên cơ sở tính
chất di truyền từ đời trước. Sinh trưởng mang tính chất giai đoạn, biểu hiện
dưới nhiều hình thức khác nhau.
1.1.2.1. Các chỉ tiêu đánh giá sự sinh trưởng
* Tốc độ sinh trưởng

Theo Trần Văn Phùng và cộng sự, (2004) [25]: Tốc độ sinh trưởng là
chỉ tiêu kinh tế quan trọng hàng đầu trong chăn nuôi lợn thịt. Tốc độ sinh
trưởng nhanh sẽ góp phần giảm tiêu tốn thức ăn trên 1 kg tăng khối lượng, tỷ
lệ thịt nạc trong thịt xẻ, giảm chi phí trong chăn nuôi… Khả năng sinh trưởng
được tính theo gam/ngày hay kg/tháng. Tốc độ sinh trưởng của các giống lợn
khác nhau là khác nhau. Các giống lợn nội có khả năng tăng khối lượng thấp
hơn lợn lai và lợn ngoại.
Khả năng tăng khối lượng g/ngày tính theo công thức sau:
Tăng khối lượng (g/ngày) =
Trong phạm vi ứng dụng để đánh giá tốc độ sinh trưởng ta thường dùng
các chỉ tiêu sau đây:


15

- Sinh trưởng tích luỹ: Là khối lượng cơ thể, kích thước các chiều đo
tăng lên sau một thời gian sinh trưởng. Đồ thị sinh trưởng tích lũy có dạng
hình chữ S.
- Sinh trưởng tuyệt đối: Là khối lượng, kích thước của cơ thể gia súc tăng
lên trong một đơn vị thời gian. Đối với lợn, đơn vị thời gian thường là ngày. Sinh
trưởng tuyệt đối cho biết mỗi con lợn, mỗi ngày tăng được bao nhiêu gam. Giá trị
sinh trưởng tuyệt đối càng cao thì hiệu quả kinh tế càng lớn. Đồ thị sinh trưởng
tuyệt đối có dạng hình quả chuông úp.
- Sinh trưởng tương đối: Là tỷ lệ % của khối lượng cơ thể, thể tích hay
kích thước các chiều đo tăng lên của lần khảo sát sau so với lần khảo sát trước.
1.1.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của lợn
* Ảnh hưởng của yếu tố di truyền (loài, giống, cá thể).
- Cơ sở của sự di truyền
Sinh trưởng là tính trạng số lượng, sự di truyền của các tính trạng này
tuân theo qui luật của Mendel. Tính trạng số lượng được thể hiện qua các chỉ

tiêu như: Số con/lứa, khả năng tăng trọng, phẩm chất phần thân thịt có giá trị...
Đó là những tính trạng do nhiều đôi gen quy định và chịu sự tác động của ngoại
cảnh với nhiều mức độ khác nhau (Nguyễn Thiện và cộng sự, 1998) [36].
Giá trị kiểu hình của một tính trạng được ký hiệu là P (phenotype).
Giá trị kiểu gen được ký hiệu là G (Genotype) và sai lệch môi trường
được ký hiệu bằng E (Environment). Mối quan hệ này được biểu thị bằng
công thức: P = G +E.
Giá trị kiểu gen (G) của giá trị số lượng do nhiều gen có hiệu ứng nhỏ
(minorgene) cấu tạo thành. Các gen này có hiệu ứng riêng bệt của từng gen
thì rất nhỏ, nhưng tập hợp nhiều gen nhỏ sẽ ảnh hưởng rất rõ rệt tới tính trạng
nghiên cứu, hiện tượng này gọi là hiệu ứng đa gen (Polygen). Các minorgen


16

này tác động lên tính trạng theo 3 phương thức: cộng gộp và át gen. Vì vậy
giá trị kiểu gen hoạt động thể hiện qua công thức:
G=A+D+I
Trong đó:

G - Giá trị kiểu gen
A - Giá trị cộng gộp
D - Giá trị sai lệch trội
I - Giá trị sai lệch cộng gộp

A là thành phần quan trọng nhất của kiểu gen vì nó ổn định, có thể xác
định được và di truyền cho đời sau. Hai thành phần D và I cũng có vai trò
quan trọng vì đó là giá trị giống đặc biệt và chỉ xác định thông qua con đường
thực nghiệm.
J.F.Lasley (1974) cho biết những tính trạng có hệ số di truyền (h2) từ

0,12 - 0,3 là những tính trạng có hệ số di truyền thấp. Những tính trạng có
hệ số di truyền bằng 0,4 - 0,5 là những tính trạng có hệ số di truyền trung
bình. Những tính trạng có hệ số di truyền > 0,5 là những tính trạng có hệ số
di truyền cao và cho hệ quả chọn lọc cao; còn những tính trạng có hệ số di
truyền thấp sẽ cho ưu thế lai cao (Trích theo Nguyễn Thiện và cộng sự,
1998) [36].
Từ kết quả phân tích trên cho thấy, các tính trạng về năng suất ở lợn
cũng như các vật nuôi khác là kết quả tác động giữa các yếu tố di truyền và
các yếu tố môi trường.
Theo Trần Văn Phùng và cộng sự (2004) [25] cho biết: Yếu tố di truyền
là một trong những yếu tố có ý nghĩa quan trọng nhất ảnh hưởng đến sinh
trưởng phát dục của lợn. Quá trình sinh trưởng phát dục của lợn tuân theo các
quy luật sinh học, nhưng chịu ảnh hưởng của các giống lợn khác nhau. Do
ảnh hưởng của các tuyến nội tiết và hệ thống thần kinh mà hình thành nên sự
khác nhau giữa các giống lợn nguyên thuỷ và các giống lợn đã được cải tiến


17

cũng như giữa các giống lợn thành thục sớm và giống lợn thành thục muộn.
Sự khác nhau này không những chỉ khác nhau về cấu trúc tổng thể của cơ thể
mà còn khác nhau ở sự hình thành nên các tế bào, các bộ phận của cơ thể và
đã hình thành nên các giống lợn có hướng sản xuất khác nhau như: giống lợn
hướng nạc, hướng mỡ.
Tính trạng số lượng (sinh trưởng, cho lông, cho thịt, trứng, sản lượng
sữa, sinh sản..) những tính trạng ở đó có sự sai khác giữa các cá thể là sự sai
khác nhau về mức độ hơn là sự sai khác nhau về chủng loại. Darwin đã chỉ rõ
sự sai khác này chính là nguyên liệu cho quá trình chọn lọc tự nhiên và chọn
lọc nhân tạo, sự nghiên cứu các tính trạng này phụ thuộc vào sự đo lường
như: Khối lượng cơ thể, tốc độ tăng trọng, sản lượng trứng, kích thước các

chiều đo... (Trần Đình Miên và cộng sự, 1975) [19].
- Ảnh hưởng của quá trình trao đổi chất
Quá trình trao đổi chất xảy ra dưới sự điều khiển của các hormone.
Hormone tham gia vào tất cả các quá trình trao đổi chất của tế bào và giữ cân
bằng các chất trong máu. Trong thời kỳ đầu tiên của quá trình sống, kể cả khi
chưa có sự hoạt động của tuyến giáp đã có sự tham gia của tuyến ức trong
điều khiển quá trình sinh trưởng. Về sau điều khiển quá trình sinh trưởng có
sự tham gia của tuyến yên. Hormon của thuỳ trước tuyến yên STH
(somatotropin hormone) là loại hormon rất cần thiết cho sinh trưởng của cơ
thể. Theo tác giả Hoàng Toàn Thắng và cộng sự (2006) [33]: STH có tác dụng
sinh lý chủ yếu kích thích sự sinh trưởng của cơ thể bằng cách làm tăng sự
tổng hợp protein và kích thích sụn liên hợp phát triển, tăng tạo xương (nhất là
các xương dài). Khi thiếu hoặc thừa loại hormon này sẽ dẫn đến cơ thể quá
nhỏ bé (nanismus) hoặc quá to (gigantismus). Vào thời kỳ thành thục về tính,
các hormon sinh dục như hormon của dịch hoàn và buồng trứng (androgen và
oestrogen) tham gia vào quá trình điều khiển hoạt động sinh dục của cơ thể và


18

hình thành nên các đặc tính sinh dục thứ cấp. Hormon sinh dục của con cái
tạo ra từ buồng trứng cũng có tác động đáng kể đến sinh trưởng của lợn.
Ngoài ra các loại hormon của các tuyến như tuyến tụy và tuyến thượng thận
cũng tham gia điều tiết sự phát triển của bộ xương và cơ.
- Ảnh hưởng của giống
Giống luôn là yếu tố hàng đầu ảnh hưởng đến năng suất chăn nuôi. Các
giống gia súc khác nhau có khả năng tăng trọng, tiêu tốn thức ăn khác nhau,
khả năng này phụ thuộc vào quá trình sinh trưởng của con vật. Quá trình tích
lũy các chất mà chủ yếu là protein, tốc độ và phương thức sinh tổng
hợp protein phụ thuộc vào hoạt động của hệ thống gen điều khiển sự sinh

trưởng của cơ thể.
Theo nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy: mức độ tăng trọng hàng
ngày của lợn nội rất thấp. Đối với lợn Ỉ đực và lợn cái hậu bị từ sơ sinh đến
8 tháng tuổi tăng trọng lần lượt là 104 g và 173 g/ngày, lợn Móng Cái là
179 g và 197g/ngày.
Các giống lợn ngoại thuần và lợn lai có khả năng tăng trọng cao hơn.
Đối với lợn Landrace bình quân 5 tháng tăng trọng 621,59 g/ngày với lợn lai
3/4 và 7/8 lần lượt là 522,5 - 525,39 g/ngày (Phùng Thị Vân và cộng sự)
[42]. Bên cạnh đó phương thức chăn nuôi cũng ảnh hưởng nhiều đến khả
năng tăng trọng mặc dù trong cùng một giống.
Nguyễn Thiện và cộng sự (2005) [37] cho rằng: Giống cũng là một
yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát dục, năng suất và
phẩm chất thịt. Thông thường các giống lợn nội cho năng suất thấp hơn so
với những giống lợn ngoại nhập nội. Lợn Ỉ, Móng Cái nuôi 10 tháng tuổi
trung bình đạt khoảng 60 kg. Trong khi đó các giống lợn ngoại (Landrace,
Yorkshire…) nuôi tại Việt Nam có thể đạt 90 - 100 kg lúc 6 tháng tuổỉ.
* Ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài
- Dinh dưỡng


19

Các yếu tố di truyền không thể phát huy tối đa năng suất sinh trưởng
nếu không có một môi trường dinh dưỡng và thức ăn hoàn chỉnh cùng với các
yếu tố khác. Khi chúng ta đảm bảo đầy đủ về thức ăn bao gồm cả số lượng và
chất lượng thức ăn thì sẽ góp phần thúc đẩy quá trình sinh trưởng và phát
triển của các cơ quan trong cơ thể. Một số thí nghiệm đã chứng minh rằng,
khi chúng ta cung cấp cho lợn các mức dinh dưỡng khác nhau có thể làm thay
đổi tỷ lệ các phần trong cơ thể ví như nếu chúng ta cho lợn ăn khẩu phần ăn
có nhiều protein thì tỷ lệ nạc sẽ cao hơn và ngược lại nếu chúng ta cho lợn ăn

khẩu phần có nhiều bột đường hoặc nhiều chất béo thì tỷ lệ mỡ trong thịt sẽ
tăng lên.
Trong các chất dinh dưỡng cơ bản thì của năng lượng, protein, khoáng
và vitamin có vai trò nổi bật.
+ Nhu cầu về năng lượng
Nhu cầu về năng lượng đối với lợn thường được biểu thị bằng năng
lượng trao đổi (ME, kcal/kg). Lợn con cần năng lượng trước tiên đáp ứng nhu
cầu duy trì của cơ thể, sau đó là cần năng lượng cho sinh trưởng. Lợn con so
với lợn các lứa tuổi khác có cường độ trao đổi chất và nhu cầu về năng lượng
cao. Trong quá trình phát triển của bào thai, dinh dưỡng của mẹ được truyền
cho thai nhờ hệ tuần hoàn của nhau thai. Khi rời khỏi cơ thể mẹ, nguồn dinh
dưỡng đó mất đi một cách đột ngột, đặc biệt là nguồn năng lượng. Chính vì
vậy trong vòng 30 phút đầu tiên sau khi đẻ, thân nhiệt của lợn con giảm
xuống một cách đột ngột. Sau khi đẻ xong, trong vòng một giờ nếu lợn con
được bú sữa đầu thì sau 18 - 24 giờ thân nhiệt lợn con mới đạt mức trung
bình. Ở giai đoạn bú sữa, mức năng lượng cần bổ sung cho lợn con dựa vào
lượng sữa của lợn mẹ cung cấp được cho lợn con. Ở hai tuần tuổi đầu lợn con
hầu như đã được cung cấp đầy đủ năng lượng từ sữa mẹ. Từ tuần tuổi thứ ba
cần bổ sung thêm thức ăn mới đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của lợn


20

con, do lượng sữa của lợn mẹ ở 21 ngày tuổi giảm dần. Giai đoạn lợn sau cai
sữa, hàm lượng năng lượng trong thức ăn cho lợn con cần khá cao. Theo Tiêu
chuẩn VN - TCVN 1547 - 1994, mức năng lượng trao đổi trong 1 kg thức ăn
hỗn hợp cho lợn con giai đoạn sau cai sữa cần 3200 kcal/kg.
+ Nhu cầu về protein và acid amin
Theo Trần Cừ, Nguyễn Khắc Khôi (1985) [5]: Protein là nhóm chất
hữu cơ có phân tử lượng cao và có chứa nitơ. Protein đảm nhiệm nhiều chức

năng quan trọng và là nguồn nguyên liệu cấu tạo nên tế bào. Quá trình sinh
trưởng của lợn là quá trình tăng lên của khối lượng protein, hàm lượng
protein trong cơ thể rất cao. Các cơ quan bộ phận khác nhau có hàm lượng
protein không giống nhau. Protein có nhiều nhất trong cơ từ 30 - 35% so với
tổng lượng protein trong cơ thể.
Lợn con bú sữa có tốc độ phát triển nhanh về hệ cơ và khả năng tích lũy
protein lớn, do đó đòi hỏi về số lượng và chất lượng protein cao. Nếu trong khẩu
phần thiếu protein thì sinh trưởng của lợn con sẽ giảm hoặc ngừng, khả năng
sống kém. Nhu cầu protein trong thức ăn bổ sung cho lợn là 16- 18%.
Axit amin là thành phần cấu tạo cơ bản của protein. Theo Từ Quang
Hiển, Phan Đình Thắm (1995) [11] vai trò của các axit amin trong cơ thể rất
đa dạng, nó là thành phần chủ yếu của protein, nhu cầu protein của cơ thể
chính là nhu cầu về axit amin. Cơ thể con vật chỉ có thể tổng hợp nên protein
của nó theo mức cân đối các axit amin trong thức ăn, nhưng axit amin nào
nằm ngoài cân đối sẽ bị oxy hóa cho năng lượng. Do vậy, nếu cung cấp axit
amin theo tỷ lệ cân đối sẽ nâng cao hiệu quả lợi dụng protein, tiết kiệm được
protein thức ăn.
Một thí nghiệm của Metz nghiên cứu trên lợn sinh trưởng cho biết, với
yêu cầu tăng trọng 585g/con/ngày, nếu khẩu phần cân bằng các axit amin thì
protein thô cần 11- 12%, nhưng nếu khẩu phần mất cân đối axit amin thì cần
20- 22% protein thô.


21

Yêu cầu về protein thô và protein tiêu hoá trong thức ăn hỗn hợp cho
lợn con (Tính theo % khô trong không khí, Tiêu chuẩn Nhật Bản, 1993)
khuyến cáo, đối với lợn con 1-5 kg là 24 và 22%; đối với lợn 5-10 kg là 22 và
20%; đối với lợn 10-30 kg yêu cầu là 18 và 16%. (Trích theo Trần Văn Phùng
và cộng sự 2004) [25].

Cùng trích theo Trần Văn Phùng và cộng sự (2006) [25], nhu cầu dinh
dưỡng hàng ngày cho lợn (Tiêu chuẩn Nhật Bản, 1993) nhu cầu protein thô và
protein tiêu hoá là 53 và 47 g/ngày (đối với lợn 1-5 kg); 84 và 76 g/ngày (đối
với lợn 5-10 kg); 190 và 166 g/ngày (đối với lợn 10-30 kg).
Trong các loại thức ăn hàm lượng các loại protein rất khác nhau.
Một số loại giàu protein động vật như cá, bột cá, bột thịt, bột máu, tôm,
cua, trứng sữa... Một số loại protein thực vật như các loại đậu, đỗ và sản
phẩm phụ của nó.
+ Nhu cầu về khoáng chất
Theo Từ Quang Hiển và cộng sự (2003)[10] gia súc non cần được cung
cấp đầy đủ khoáng chất để phát triển bộ xương và đảm bảo cho các quá trình
xảy ra trong cơ thể. Nếu tính theo mức tăng trọng thì khoáng chất chiếm 3 4% khối lượng cơ thể tăng. Nếu so với bộ xương thì khoáng chất chiếm 26%
khối lượng xương tăng.
Khả năng sử dụng khoáng chất trong thức ăn của gia súc non tốt hơn
gia súc trưởng thành. Quá trình trao đổi khoáng mà chủ yếu là trao đổi canxi
và photpho xảy ra mạnh mẽ ở gia súc non. Khi gia súc còn non khả năng tích
luỹ canxi, photpho cao. Tuổi càng tăng, khả năng tích luỹ giảm. Nhìn chung,
gia súc non yêu cầu canxi lớn hơn photpho, càng lớn và trưởng thành nhu cầu
canxi giảm, nhu cầu photpho tăng lên. Để đảm bảo cho quá trình tiêu hoá hấp
thu và sử dụng canxi, photpho được tốt, tránh được hiện tượng còi xương. Ở
gia súc non cần chú ý cung cấp đầy đủ, cân đối canxi, photpho (đối với gia
súc non tỷ lệ Ca/P thích hợp là 1,5-2/1).


22

+ Nhu cầu về vitamin (VTM)
Vitamin là nhóm vi chất dinh dưỡng đóng vai trò xúc tác trao đổi chất.
Trong các loại vitamin, lợn con rất cần vitamin A và D. Vitamin A và D cần
thiết cho sinh trưởng lợn con, giúp phát triển bình thường và nhiều chức năng

sinh lý quan trọng khác. Thiếu vitamin A, D có thể gây thiếu máu làm cho lợn
còi cọc.
Theo Từ Quang Hiển, Phan Đình Thắm (1995) [11] cho biết: Tiêu
chuẩn của Tây Đức (DLG) cho kết quả tốt hơn cả gồm vitamin A = 2000
UI/kg thức ăn, vitamin D = 2500 UI, vitamin E = 10- 15mg.
- Nhiệt độ và ẩm độ môi trường, ánh sáng
+ Nhiệt độ
Nhiệt độ môi trường không chỉ ảnh hưởng đến tình trạng sức khoẻ mà
còn ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của cơ thể. Nếu nhiệt độ môi
trường không thích hợp thì sẽ không thể đảm bảo quá trình trao đổi chất diễn
ra bình thường cũng như cân bằng nhiệt của cơ thể lợn. Việc đảm bảo nhiệt độ
chuồng nuôi thích hợp cho các loại lợn khác nhau phải căn cứ vào khả năng điều
tiết thân nhiệt của chúng.
Theo Nguyễn Thiện và cộng sự, 1998 [36] thân nhiệt và điều tiết thân
nhiệt của lợn con sơ sinh luôn luôn là mối quan tâm nghiên cứu của các nhà chăn
nuôi trên thế giới. Lợn con mới sinh khả năng điều tiết thân nhiệt kém do nhiều
nguyên nhân:
- Hệ thần kinh điều khiển sự cân bằng nhiệt chưa phát triển đầy đủ.
- Lớp mỡ dưới da chưa phát triển, lượng mỡ và glycogen trong cơ thể lợn
con còn thấp, da mỏng, lông thưa làm cho khả năng chống lạnh càng kém.
- Diện tích bề mặt của cơ thể của lợn con so với khối lượng của cơ thể
chênh lệch lớn làm cho khả năng mất nhiệt của cơ thể càng lớn.


23

- Ở giai đoạn này do hoạt động của hệ tuần hoàn rất mạnh, nhịp tim lợn
con rất nhanh: 200 lần/phút so với lợn trưởng thành chỉ 60 - 80 lần/phút. Lưu
thông máu cũng cao 150 ml máu/phút/kg khối lượng cơ thể trong khi lợn trưởng
thành chỉ đạt 30 - 40 ml. Đây là yếu tố điều tiết thân nhiệt rất quan trọng.

Lợn con sẽ bị hạ thân nhiệt nếu được nuôi trong chuồng có nhiệt độ thấp.
Nếu nhiệt độ chuồng nuôi là 180C thì thân nhiệt lợn con sẽ bị hạ xuống 20C so
với ban đầu. Nếu nhiệt độ chuồng nuôi là 00C thì lợn con sẽ bị hạ 40C so với ban
đầu. Lợn con 6 ngày tuổi bị lạnh, sau đó đưa vào phòng ấm thì thân nhiệt lợn
con vẫn tiếp tục giảm xuống 4 phút nữa.
Khi nhiệt độ chuồng nuôi thấp, lợn sẽ thất thoát nhiệt rất nhiều, (đối với
lợn con, tổng lượng nhiệt mất đi trong môi trường có nhiệt độ 210C lớn hơn
2/3 lần so với môi trường 300C) vì lẽ đó ở lợn con và lợn nuôi thịt sẽ giảm
khả năng tăng khối lượng và tăng lượng tiêu tốn thức ăn cho một kg tăng khối
lượng. Nhìn chung, khi lợn càng lớn, càng trưởng thành thì cơ quan điều tiết
thân nhiệt càng hoàn thiện, lớp mỡ dưới da càng dày và nhu cầu về nhiệt độ
môi trường càng giảm xuống.
+ Ẩm độ
Nhiệt độ chuồng nuôi có liên quan mật thiết với ẩm độ không khí, ẩm
độ không khí thích hợp cho lợn ở vào khoảng 70%. Ẩm độ không khí cao bất
lợi cho cả lợn lớn và lợn con, đặc biệt khi nhiệt độ môi trường quá cao hoặc
quá thấp. Đối với lợn con bú sữa, ẩm độ cao luôn là yếu tố gây suy giảm sức
khỏe dẫn đến dễ mắc các bệnh đường hô hấp và đường tiêu hóa. Trong môi
trường ẩm độ cao (≥80%), vi khuẩn có điều kiện sinh sôi nảy nở rất nhanh.
Nghiên cứu của Eric Thompson (1998) cho thấy, ẩm độ không khí 40% thì vi
trùng có thể bị chết nhanh gấp 10 lần so với ẩm độ 80%. Do đó giữ chuồng
nuôi luôn khô ráo là một yêu cầu rất quan trọng trong các công tác phòng
bệnh cho lợn.


24

+ Ánh sáng: Ánh sáng có ảnh hưởng rõ rệt đến sinh trưởng và phát
triển của lợn. Khi không đủ ánh sáng sẽ làm ảnh hưởng đến quá trình trao đổi
chất của lợn, đặc biệt quá trình trao đổi khoáng. Đối với lợn con từ sơ sinh

đến 70 ngày nếu không đủ ánh sáng thì tốc độ tăng khối lượng sẽ giảm từ 9,5
- 12%, tiêu tốn thức ăn giảm 8 - 9% so với lợn con được vận động dưới ánh
sáng mặt trời. Do vậy cần thiết kế chuồng nuôi đảm bảo đủ ánh sáng theo nhu
cầu của các loại lợn, đặc biệt đối với lợn con và lợn sinh sản.
* Các yếu tố khác:
Đối với lợn con, người ta thấy mối quan hệ giữa khối lượng sơ sinh/ổ;
khối lượng cai sữa/ổ và tốc độ sinh trưởng có mối quan hệ tỷ lệ thuận.
Ngoài ra các yếu tố khác như vấn đề chuồng trại, chăm sóc, nuôi
dưỡng, tiểu khí hậu chuồng nuôi như không khí, tốc độ gió lùa, nồng độ các
khí thải... Nếu chúng ta cung cấp cho lợn các yếu tố đủ theo yêu cầu của từng
loại lợn sẽ giúp cho cơ thể lợn sinh trưởng phát triển đạt mức tối đa.
1.1.2.3. Sinh trưởng của lợn con cai sữa
* Khối lượng sơ sinh/ổ
Là chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật quan trọng, nói lên trình độ kỹ thuật
chăn nuôi, đặc điểm của giống và khả năng nuôi thai của lợn nái. Khối lượng
sơ sinh/ổ là khối lượng được cân sau khi lợn con đẻ ra cắt rốn, lau khô và
chưa cho bú sữa đầu. Khối lượng sơ sinh/ổ là khối lượng của tất cả lợn con
sinh ra còn sống và được phát dục hoàn toàn, khối lượng sơ sinh/ổ cao thì
tốt, lợn sẽ tăng trọng nhanh ở các giai đoạn phát triển sau (Nguyễn Thiện và
cộng sự, 1998) [36].
Các giống lợn khác nhau cho khối lượng sơ sinh khác nhau. Các
giống lợn nội (Móng Cái): 0,5 - 0,7kg/con, lợn Ỉ 0,45kg/con. Lợn ngoại
Yorkshire nuôi tại Việt Nam 1,24 kg/con, lợn Duroc 1,2 - 1,5kg/con (Trần
Văn Phùng và cộng sự, 2004) [25].


25

Ngoài ra khối lượng sơ sinh có liên quan và tỷ lệ thuận với khối
lượng của lợn nái. Vì thế trong giai đoạn lợn nái chửa và nhất là thời gian

20 ngày trước khi đẻ cần chăm sóc nuôi dưỡng cho lợn nái tốt, thức ăn đầy
đủ các chất dinh dưỡng như: Protein, vitamin, khoáng để cho thai phát triển
tốt. Khi khối lượng con sơ sinh cao thì lợn có khả năng sinh trưởng, phát
triển nhanh, khối lượng con cai sữa sẽ cao và khối lượng xuất chuồng lớn.
* Khối lượng cai sữa/ổ
Trong chăn nuôi lợn con từ khi sơ sinh đến khi cai sữa có một ý
nghĩa rất quan trọng vì đó chính là cơ sở vật chất để phát triển đàn lợn nái
sinh sản và nâng cao năng suất chăn nuôi. Khối lượng toàn ổ khi cai sữa
ảnh hưởng rất lớn tới khối lượng xuất chuồng.
Khối lượng cai sữa/ổ của các giống lợn khác nhau cho khối lượng
không giống nhau. Lợn móng cái có khối lượng cai sữa/ổ lúc 2 tháng tuổi là
58,20 - 60,88 kg; lợn F1 (Đại bạch x Móng cái) có khối lượng 60 ngày/ổ là
61,80 kg (Nguyễn Thiện và cộng sự, 1998) [36].
Khối lượng cai sữa của lợn con cao hay thấp, sức khoẻ tốt hay xấu,
sinh trưởng phát dục nhanh hay chậm, đều có ảnh hưởng trực tiếp đến phẩm
chất đàn giống và khả năng nuôi thịt của lợn sau này. Nuôi dưỡng tốt lợn
con còn là cơ sở thuận lợi cho công tác chọn giống, chọn phối, là cơ sở tốt
để con vật có thể di truyền khả năng sinh sản cho đời sau.
Khối lượng cai sữa có liên quan chặt chẽ tới khối lượng sơ sinh, làm
nền tảng và điểm xuất phát cho khối lượng xuất chuồng. Vì vậy, để có khối
lượng cai sữa/ổ cao ta phải chăm sóc, nuôi dưỡng tốt lợn có chửa và lợn con
bú sữa, đặc biệt là bổ sung thức ăn sớm cho lợn con, giúp cho lợn con sinh
trưởng phát triển mạnh, giảm sự hao mòn của lợn mẹ, đồng thời làm giảm
tỷ lệ lợn con mắc bệnh và chết xuống mức thấp nhất.


×