Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của việc bổ sung Vitamin Ade

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN



CHU THỊ LY





NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC BỔ SUNG VITAMIN
ADE VỚI CÁC MỨC KHÁC NHAU TRONG KHẨU PHẦN ĐẾN
KHẢ NĂNG SẢN XUẤT CỦA GÀ LƯƠNG PHƯỢNG THƯƠNG
PHẨM NUÔI THỊT






LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP





THÁI NGUYÊN – 2008


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN


CHU THỊ LY


NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC BỔ SUNG
VITAMIN ADE VỚI CÁC MỨC KHÁC NHAU
TRONG KHẨU PHẦN ĐẾN KHẢ NĂNG SẢN XUẤT
CỦA GÀ LƯƠNG PHƯỢNG THƯƠNG PHẨM NUÔI
THỊT

CHUYÊN NGÀNH: CHĂN NUÔI
MÃ SỐ: 60 62 40



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP


Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN TỐ



THÁI NGUYÊN – 2008

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, nhờ sự ứng dụng rộng rãi thành tựu của các

ngành sinh hoá, hoá phân tích, sinh học phân tử ... càng ngày ngƣời ta càng
phát hiện ra nhiều những chức năng quan trọng của các chất vi lƣợng trong cơ
thể động vật nhất là các vitamin và ứng dụng chúng vào thực tiễn chăn nuôi
mang lại hiệu quả cao.
Vitamin là hoạt chất mà cơ thể cần rất ít nhƣng lại không thể thiếu
đƣợc trong sự phát triển của cơ thể. Đặc biệt là đối với gà vì cơ thể phát
triển nhanh nên thiếu vitamin gà sẽ bị mắc bệnh và gọi chung là bệnh thiếu
vitamin.
Mặt khác, kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả cho thấy hầu hết cơ thể
gia cầm không tự tổng hợp đủ lƣợng vitamin cần thiết cho cơ thể đặc biệt là
nhóm vitamin A, D và E. Do vậy biện pháp chữa bệnh thiếu vitamin đơn giản
nhất là bổ sung thêm vitamin vào khẩu phần cho gà. Vấn đề này càng có ý
nghĩa hơn là hiện nay việc tổng hợp vitamin công nghiệp tƣơng đối đơn giản
với giá thành hạ nên ứng dụng chúng trong sản xuất trở nên dễ dàng. Số liệu
nghiên cứu về các mức bổ sung vitamin hiện nay còn ít. Vì vậy để có số liệu
nghiên cứu tổng hợp về tác dụng và mức bổ sung thích hợp, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu đề tài: "Nghiên cứu ảnh hưởng của việc bổ sung vitamin
ADE với các mức khác nhau trong khẩu phần đến khả năng sản xuất của
gà Lương Phượng thương phẩm nuôi thịt"
2. Mục tiêu của đề tài
Tìm hiểu tác dụng của vitamin A, D, E với các mức khác nhau đối với
năng suất và chất lƣợng thịt của gà Lƣơng Phƣợng thƣơng phẩm thịt.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
Đề tài sau khi hoàn thành sẽ có thông tin đầy đủ về vai trò, tác dụng
của vitamin đối với năng suất và chất lƣợng thịt gia cầm. Đồng thời có thêm
công thức thức ăn hỗn hợp với mức bổ sung vitamin A, D, E hợp lý trong
chăn nuôi gà thịt.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu sẽ áp dụng vào thực tế chăn nuôi tại cơ sở, góp
phần tăng nhanh số lƣợng và chất lƣợng thịt gà phục vụ thị trƣờng trong nƣớc
và xuất khẩu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Cơ sở khoa học về khả năng sinh trưởng
1.1.1.1. Khả năng sinh trưởng
Sinh trƣởng là quá trình tích luỹ chất hữu cơ do đồng hoá và dị hoá, là sự
tăng chiều dài, chiều cao, bề ngang, khối lƣợng của các bộ phận và toàn bộ cơ
thể con vật trên cơ sở tính chất di truyền của đời trƣớc. Sự sinh trƣởng chính
là sự tích lũy dần các chất mà chủ yếu là protein. Tốc độ và sự tổng hợp
protein cũng chính là tốc độ hoạt động của các gen điều khiển sự sinh trƣởng
của cơ thể.
Chamber (1990) [46], đã định nghĩa sinh trƣởng là sự tổng hợp các bộ
phận nhƣ thịt, xƣơng, da. Những bộ phận này không những khác nhau về tốc
độ sinh trƣởng mà còn phụ thuộc vào chế độ dinh dƣỡng. Sự tăng trƣởng thực sự
khi các tế bào mô cơ có tăng thêm về khối lƣợng, số lƣợng và các chiều đo. Vì
vậy béo mỡ không phải là tăng trƣởng, nó đƣợc gọi là sự tăng trọng của cơ thể,
vì béo mỡ chủ yếu là tích luỹ nƣớc, không có sự phát triển của thân, mô, cơ.
Sự tăng trƣởng của sinh vật bắt đầu từ khi trứng đƣợc thụ tinh cho đến lúc
cơ thể trƣởng thành và đƣợc chia hai giai đoạn chính: giai đoạn trong thai
(trong cơ thể mẹ) và giai đoạn ngoài thai (ngoài cơ thể mẹ). Nhƣ vậy, cơ sở chủ
yếu của sinh trƣởng gồm hai quá trình: tế bào sản sinh và tế bào phát triển,
trong đó sự phát triển là chính. Theo Phùng Đức Tiến (1996) [26], trong quá
trình sinh trƣởng thì trƣớc hết là kết quả của sự phân chia tế bào, tăng thể tích
tế bào để tạo nên sự sống.
Khi nghiên cứu về sinh trƣởng không thể không nói đến phát dục vì hai
quá trình này diễn ra trên cùng một cơ thể vật nuôi: Phát dục là quá trình thay

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
đổi về chất, tức là tăng thêm và hoàn chỉnh các tính chất, chức năng của các
bộ phận của cơ thể, phát dục của cơ thể con vật bắt nguồn từ khi trứng thụ
tinh và trải qua nhiều giai đoạn phức tạp mới đến trƣởng thành.
1.1.1.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng, cho thịt của gia cầm
Đƣờng cong sinh trƣởng biểu thị tốc độ sinh trƣởng của vật nuôi. Theo
Chambers (1990) [46], đƣờng cong sinh trƣởng của gà thịt gồm pha sinh
trƣởng có tốc độ nhanh diễn ra từ sau khi nở, đến khi con vật đạt tốc độ sinh
trƣởng cao nhất và pha sinh trƣởng có tốc độ chậm kéo dài từ giai đoạn kế
tiếp, đến khi con vật tiếp cận với giá trị trƣởng thành.
Các tác giả Phùng Đức Tiến (1996) [26]; Trần Long (1994) [16];
Nguyễn Đăng Vang (1983) [36], khi nghiên cứu đƣờng cong sinh trƣởng của
gà thịt Hybro HV85 và các tổ hợp lai gà Broiler hƣớng thịt Ross-208 và
HV85, Ngỗng Rheinland cũng cho kết quả tƣơng tự.
Có nhiều yếu tố ảnh hƣởng đến khả năng sinh trƣởng của gà với những
mức độ khác nhau nhƣ di truyền, tính biÖt, tốc độ mọc lông và các điều kiện
môi trƣờng, chăm sóc, nuôi dƣỡng...
* Ảnh hưởng của dòng giống tới khả năng sinh trưởng
Các dòng trong một giống, các giống khác nhau có khả năng sinh trƣởng
khác nhau. Các giống gà chuyên thịt có tốc độ sinh trƣởng nhanh hơn các
giống gà chuyên trứng và kiêm dụng.
Nguyễn Mạnh Hùng và cộng sự (1994) [9], cho biết: sự khác nhau về
khối lƣợng giữa các giống gia cầm rất lớn, giống gà kiêm dụng nặng hơn gà
hƣớng trứng khoảng 500 - 700g.
Trần Long (1994) [16], đã nghiên cứu tốc độ sinh trƣởng trên 3 dòng
thuần (dòng V1,V3, V5) của giống gà Hybro HV85 cho thấy tốc độ sinh
trƣởng 3 dòng hoàn toàn khác nhau ở 42 ngày tuổi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Theo Trần Công Xuân, Hoàng Văn Lộc, Nguyễn Thị Khanh và cộng sự
(1999) [41], nghiên cứu tốc độ sinh trƣởng trên 2 dòng gà kiêm dụng (882 và

Jiang cun) của giống gà Tam Hoàng cho thấy tốc độ sinh trƣởng của 2 dòng
gà khác nhau: ở 15 tuần tuổi dòng 882 đạt 1872,67g/con, dòng Jiang cun đạt
1742,86g/con.
Theo Phùng Đức Tiến (1996) [26], đối với gà Hybro HV85 ở 56 ngày tuổi
khối lƣợng cơ thể đạt 1915,38g/con.
Marco A.S. (1982) [53], cho biết hệ số di truyền của tốc độ sinh trƣởng là
từ 0,4 - 0,5. Theo Nguyễn Ân và cộng sự (1983) [2], hệ số di truyền ở các thời
điểm khác nhau cũng khác nhau. Hệ số di truyền về khối lƣợng ở 3 tháng tuổi
là 0,26 - 0,5. Kushner (1974) [14], cho biết hệ số di truyền về khối lƣợng sống
của gà ở 1, 2 và 3 tháng tuổi tƣơng ứng là 0,33, 0,46 và 0,43. Cook và cộng sự
(1956) [47] xác định hệ số di truyền về khối lƣợng cơ thể lúc 6 tuần tuổi là 0,5.
Các nghiên cứu trên đây cho biết, đặc tính di truyền của dòng, của giống
là nhân tố đặc biệt quan trọng đối với quá trình sinh trƣởng và cho thịt của gà
broiler. Đồng thời còn chỉ ra giới hạn mà mỗi dòng, mỗi giống có thể đạt
đƣợc. Điều này giúp ngƣời chăn nuôi có thể đầu tƣ thâm canh hợp lý để đạt
năng suất cao nhất.
* Ảnh hưởng của tính biệt đến tốc độ sinh trưởng và khối lượng cơ thể
Các loại gia cầm khác nhau có tốc độ sinh trƣởng khác nhau. Ngoài ra,
tính biÖt cũng có ảnh hƣởng rất lớn đến tốc độ sinh trƣởng và khối lƣợng cơ
thể. Gà trống có tốc độ sinh trƣởng nhanh hơn gà mái khoảng 24 - 32% (Jull
M. A, 1923) [51]. Những sai khác này đƣợc quy định không phải do hormon
sinh dục mà do gen liên kết giới tính. Những gen này ở gà trống (2 nhiễm sắc
thể giới tính) hoạt động mạnh hơn ở gà mái (1 nhiễm sắc thể giới tính). Theo
North và cộng sự (1990) [55], lúc mới sinh gà trống nặng hơn gà mái 1%, tuổi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
càng tăng sự khác nhau càng lớn: ở 2; 3 và 8 tuần tuổi sự khác nhau tƣơng
ứng là 5%, 11% và 27%.
Tốc độ sinh trƣởng còn phụ thuộc vào tốc độ mọc lông. Các kết quả
nghiên cứu xác định, trong cùng một giống, cùng tính biệt thì gà có tốc độ
mọc lông nhanh có tốc độ sinh trƣởng và phát triển tốt hơn. Kushner K. F.

(1974) [14], cho rằng tốc độ mọc lông có quan hệ chặt chẽ với tốc độ sinh
trƣởng. Thƣờng gà lớn nhanh thì mọc lông nhanh và đều hơn ở gà chậm lớn.
Hayer và cộng sự (1970) [50], đã xác định trong cùng một giống thì gà mái
mọc lông đều hơn gà trống và tác giả cho rằng ảnh hƣởng của hormon có
quan hệ ngƣợc chiều với gen liên kết giới tính quy định tốc độ mọc lông.
Siegel và Dumington (1978) [60], cho rằng những alen quy định mọc lông
nhanh phù hợp với tăng trọng cao.
Ảnh hƣởng của tính biệt đối với khả năng sinh trƣởng và cho thịt của gà
broiler có ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Ở các nƣớc công nghiệp, ngƣời ta nuôi gà
broiler tách riêng trống, mái. Việc này, làm tăng độ đồng đều trong đàn và
thuận lợi cho việc giết mổ tự động. Nuôi tách riêng trống, mái sẽ đáp ứng nhu
cầu dinh dƣỡng, tăng khối lƣợng nhanh, tăng hiệu quả sử dụng thức ăn, làm
cho gà trống không lấn át gà mái, giảm gà bị trầy, xƣớc (Đặng Hữu Lanh và
ctv, 1999) [15].
* Ảnh hưởng của chế độ dinh dưỡng tới khả năng sinh trưởng
Dinh dƣỡng là yếu tố ảnh hƣởng lớn nhất tới tốc độ sinh trƣởng. Các
chất dinh dƣỡng gồm nhiều thành phần, mỗi thành phần có tầm quan trọng và
ý nghĩa riêng. Đặc biệt quan trọng là protein, năng lƣợng, tỷ lệ năng
lƣợng/protein, các chất khoáng và vitamin các loại. Bùi Đức Lũng, Lê Hồng
Mận (1993) [18], cho rằng để phát huy đƣợc khả năng sinh trƣởng cần phải
cung cấp thức ăn tối ƣu, với đầy đủ các chất dinh dƣỡng, đƣợc cân bằng
nghiêm ngặt giữa protein, các axit amin với năng lƣợng. Ngoài ra, trong thức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ăn hỗn hợp nuôi gà, còn đƣợc bổ sung nhiều chế phẩm sinh học, hoá học, để
kích thích sinh trƣởng làm tăng chất lƣợng thịt.
Phạm Minh Thu (1996) [25], cho thấy khối lƣợng cơ thể gà Broiler Rhoderi
Jiang Cun ở 2 chế độ dinh dƣỡng lúc 12 tuần tuổi hoàn toàn khác nhau.
Bùi Đức Lũng và cộng sự (1992) [19], nghiên cứu bổ sung khoáng và
vitamin vào khẩu phần nuôi gà Hybro HV85 cho thấy: khối lƣợng ở 7 tuần
tuổi tăng 85,3g so với lô đối chứng.

Nhƣ vậy, để đạt năng suất và hiệu quả trong chăn nuôi gia cầm, đặc biệt
để phát huy đƣợc tiềm năng sinh trƣởng thì một trong những vấn đề căn bản
là lập ra những khẩu phần nuôi dƣỡng hoàn hảo, cân đối trên cơ sở tính toán
nhu cầu axit amin cho từng giai đoạn. Ngoài ra, khả năng sinh trƣởng của gia
cầm còn bị ảnh hƣởng rất lớn bởi điều kiện chăm sóc, mùa vụ, khí hậu
chuồng nuôi, phƣơng thức chăn nuôi và thú y phòng bệnh…
Nhiệt độ cao làm cho khả năng thu nhận thức ăn giảm, dẫn đến tăng trọng
kém. Theo Bùi Đức Lũng, Lê Hồng Mận (1993) [18], giai đoạn gà con cần
nhiệt độ 30 – 35
0
C, nếu nhiệt độ thấp hơn, gà ăn kém, chậm lớn, chết nhiều.
Sau 5 tuần tuổi nhiệt độ tiêu chuẩn chuồng nuôi từ 18-20
0
C sẽ giúp gà ăn khoẻ,
lớn nhanh.
Lewis và cộng sự (1992) [52], cho biết các giống khác nhau thì tác động
của thời gian chiếu sáng cũng cần khác nhau, đặc biệt vào các tuần tuổi 9, 12,
15. Từ 9 tuần tuổi nếu tăng độ chiếu sáng sẽ làm phát dục sớm.
Nguyễn Hữu Cƣờng và cộng tác viên (1996) [5], nghiên cứu trên gà
Broiler BE11V35 và AV35 từ 1 - 49 ngày tuổi cho biết, khi mật độ nuôi cao,
tăng trọng sẽ giảm.
* Ảnh hưởng của độ tuổi
Cũng nhƣ các loài vật nuôi khác, quá trình sinh trƣởng, phát dục của gia
cầm từ khi mới nở đến khi già và chết chịu sự chi phối của quy luật sinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
trƣởng và phát dục theo giai đoạn; quy luật sinh trƣởng và phát dục không
đồng đều…
Bozko P.E (1973) [64], dẫn tài liệu của Krullo B.C cho thấy, trong độ
tuổi từ mới nở đến 60 ngày, quá trình sinh trƣởng của gà chia làm 3 giai đoạn:
- Từ mới nở đến 10 ngày: gà con chƣa điều tiết đƣợc thân nhiệt, chƣa có

sự khác nhau về sinh trƣởng giữa con trống và con mái, cơ xƣơng mềm yếu,
gà ít vận động, buồn ngủ, phản ứng với ngoại cảnh kém, gà có tốc độ sinh
trƣởng nhanh.
- Từ 11 đến 30 ngày, gà sinh trƣởng rất nhanh, có sự khác biệt rõ rệt giữa
con trống và con mái về tốc độ sinh trƣởng, màu sắc lông và các đặc điểm thứ
cấp. Gà chuyển hoá thức ăn tốt, cơ quan điều tiết thân nhiệt đã hoàn thiện.
- Từ 31 đến 60 ngày: khối lƣợng của gà tăng nhanh gấp nhiều lần so với
lúc mới nở, các phản xạ về thức ăn, nƣớc uống, điều kiện chăm sóc, nuôi
dƣỡng đã đƣợc củng cố bền vững. Gà con kết thúc quá trình thay lông tơ bằng
lông vũ.
Đào Văn Khanh (2002) [13], nghiên cứu trên gà Tam Hoàng nuôi vụ hè
ở Thái Nguyên cho biết, gà Tam Hoàng có sinh trƣởng tƣơng đối ở tuần 1 là
cao nhất (83,25%), sau đó giảm dần, tuần 2 là 62,38% và tuần 3 còn 52,41%.
1.1.1.3. Cơ sở khoa học về khả năng cho thịt
Khả năng sản xuất thịt là khả năng tạo nên khối lƣợng cơ ở độ tuổi mà
đem giết thịt đạt hiệu quả kinh tế cao. Khả năng cho thịt của gà Broiler đƣợc
đánh giá qua năng suất thịt và chất lƣợng thịt.
Năng suất thịt: năng suất thịt là chỉ tiêu quan trọng và thông dụng để
đánh giá sức sản xuất thịt của gia cầm. Năng suất thịt đƣợc đánh giá thông
qua khối lƣợng cơ thể, tỷ lệ thịt xẻ, tỷ lệ các bộ phận và tỷ lệ phần nạc, mỡ,
da. Đặc biệt là tỷ lệ thịt đùi, thịt ngực và tỷ lệ mỡ bụng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Ricard, F. H và Pouvier (1967) [57], đã thấy mối tƣơng quan giữa khối
lƣợng sống và khối lƣợng từng phần giết mổ rất cao, thƣờng là 0,9 và tƣơng
quan giữa khối lƣợng sống và mỡ bụng thấp (0,2 - 0,5).
Theo Chambers (1990) [46], giữa các dòng luôn có sự khác nhau về di
truyền năng suất thịt xẻ, hay năng suất các phần nhƣ thịt đùi, thịt ngực, cánh,
chân hay phần thịt ăn đƣợc (không xƣơng) và từng phần thịt, xƣơng, da.
Ngô Giản Luyện (1994) [20], khi khảo sát năng suất thịt của 3 dòng V
1

,
V
3
, V
5
trong giống gà Hybro cho thấy giữa các dòng có sự sai khác nhau rõ
rệt. Trong cùng một dòng: tỷ lệ thân thịt gà trống cao hơn gà mái và thịt ngực
của gà mái cao hơn gà trống.
Nguyễn Văn Thiện, Hoàng Phanh (1999) [24], nghiên cứu khả năng sinh
trƣởng và sinh sản của gà Mía cho biết, nhìn chung tỷ lệ thân thịt, thịt đùi, thịt
lƣờn gà Mía cao hơn ở gà Ri.
BouWkamp (1973) (dẫn theo Phạm Thị Minh Thu, (1996) [25]), nghiên
cứu so sánh tỷ lệ thịt xẻ và các phần thịt trên đàn gà thƣơng phẩm, đã khẳng
định rõ sự sai khác các chỉ tiêu trên giữa các công thức lai, khi nghiên cứu
mối quan hệ giữa thịt xẻ với năng suất thịt gà Newhamshire.
Trần Công Xuân, Phùng Đức Tiến, Lê Thị Nga (2000) [43], nghiên cứu
lai kinh tế giữa gà Kabir và Lƣơng Phƣợng hoa cho thấy tỷ lệ thân thịt 72,4 –
72,32%; tỷ lệ thịt đùi 20,64 – 21,43%; tỷ lệ thịt ngực 20,68 – 20,8%.
Trần Công Xuân, Hoàng Văn Lộc, Nguyễn Đăng Vang và cộng sự
(1997) [41], mổ khảo sát gà Tam Hoàng và gà Ri lúc 15 tuần tuổi cho biết tỷ
lệ thịt đùi + thịt ngực/thân thịt ở gà Tam Hoàng là 45 - 54% và 43% ở gà Ri.
Chất lƣợng thịt đƣợc phản ánh qua thành phần hoá học của thịt và có sự
khác nhau giữa các dòng, giống. Chất lƣợng thịt thƣờng đƣợc đánh giá qua
hàm lƣợng vật chất khô, tỷ lệ protein, lipit, khoáng tổng số…Vật chất khô thể
hiện độ chắc của thịt, protein thể hiện giá trị dinh dƣỡng, mỡ thể hiện độ béo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
của thịt, khoáng tạo nên vị đậm đà. Giá trị của thịt còn phụ thuộc vào những
yếu tố khác nhƣ hàm lƣợng và tỷ lệ các axit amin, hàm lƣợng vitamin, khoáng
đa vi lƣợng, các hoạt chất sinh học… Ngoài ra các chất có ảnh hƣởng xấu tới
sức khoẻ con ngƣời nhƣ cholesterol cũng đƣợc xem xét.

Theo Proudman J. A. và cộng sự (1970) [56], những dòng gà Plymouth
trắng khi cho ăn tự do và mổ khảo sát lúc 6 tuần tuổi, phân tích thịt cho thấy
nhóm sinh trƣởng nhanh tỷ lệ nƣớc 68,1%, protein 20,7%, mỡ 6,9% và
khoáng 3%. Còn nhóm sinh trƣởng chậm cho tỷ lệ tƣơng ứng là 69,8%;
20,6%; 4,8% và 3,1%.
Theo tài liệu của Chamber (1990) [46], tốc độ sinh trƣởng có tƣơng quan
âm với tỷ lệ mỡ (-0,39) và tƣơng quan dƣơng với phần trăm protein (0,53) với
độ ẩm 0,32 và khoáng tổng số (0,14).
Theo Trần Công Xuân, Hoàng Văn Lộc và cộng sự (1999) [40], thịt gà
Tam Hoàng 882 nuôi đến 13 tuần tuổi, ở con trống thịt ngực có tỷ lệ protein
24,13%; mỡ 0,38% và khoáng tổng số 1,26%, thịt đùi có tỷ lệ protein
20,07%; mỡ 1,37% và khoáng tổng số 1,08%. Đối với con mái thịt ngực có
các giá trị tƣơng ứng là 24,72%; 0,306% và 1,31%, thịt đùi có các giá trị
tƣơng ứng là 20,91%; 1,673% và khoáng tổng số 1,26%.
Nguyễn Văn Hải và cộng sự (1999) [8], cho biết: thịt gà Ri có tỷ lệ protein
21,45%, mỡ thô 1,5%, khoáng tổng số 1,37%, sắt 3,9mg/100g và hàm lƣợng
các axit amin nhƣ sau: alanin 1,334%, arginin 1,261%, axits aspartic 1,857%,
axit glutamic 2,784%, glyxin 0,819%, histidin 0,853%, izolơxin 0,949%, lơ xin
1,557%, lyzin 1,903%, methionin 0,452%, phenylanin 0,842%, prolin 0,984%,
serin 0,871%, threonin 1,006%, tyrozin 0,664%, valine 1,007%.
Ngoài việc thông qua thành phần hoá học của thịt còn có thể đánh giá chất
lƣợng thịt dựa vào sự ảnh hƣởng của chế biến và nuôi dƣỡng đến cảm quan
(màu sắc, tính chất mềm, mùi vị). Theo Newbold (1996) [54], khi con vật chết
do hao tổn về máu và thiếu ôxy, mô cơ tiếp tục sản sinh ATP từ kho chứa
glycogen bằng con đƣờng phân hủy yếm khí glycogen. Axit lactic đƣợc tạo ra
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
tích tụ lại gây giảm pH của thịt cho đến khi hết glycogen, lúc đó pH thƣờng
giảm thấp nhất (5,4).
Chất lƣợng thịt còn đƣợc đánh giá qua độ tuổi, giới tính, chế độ dinh
dƣỡng và điều kiện chăm sóc nuôi dƣỡng (Sonaiya,1990) [61]. Theo Touraille

và cộng sự (1981) [62], cho biết giảm tuổi giết mổ đã làm thay đổi đặc điểm
cảm quan của thịt.
Theo Ricard F. H và Touraille C (1988) [59], khi cả hai giới tính đƣợc nuôi
cùng điều kiện tối ƣu cho sự sinh trƣởng, con trống đạt thành thục về tính
khoảng (14 tuần tuổi), sớm hơn con mái và mùi vị thịt của chúng cũng khá hơn.
Grey T. C và cộng sự (1986) [49], cho rằng khi mà cả protein và năng
lƣợng tập chung trong chế độ ăn của gia cầm giảm đi, thịt có vẻ mềm hơn ở
những gia cầm lớn nhanh nhƣng dai hơn ở những gia cầm lớn chậm.
Flphadil A. A. và cộng sự (1996) [48], cho rằng những điều kiện nuôi
dƣỡng ảnh hƣởng đến chất lƣợng thịt, sự tăng mật độ tạo nên những vết trên
da. Theo Ricard F. H. và cộng sự (1986) [58], sự tăng mật độ làm thay đổi sự
sinh trƣởng và hình dáng ngực, nhƣng không làm thay đổi thuộc tính của thịt.
Xu thế hiện nay là nâng cao năng suất chất lƣợng thịt và giảm bớt
mỡ…Việc nghiên cứu thời gian và tuổi xuất chuồng giết mổ của gà luôn luôn
là vấn đề cần thiết, vì nó liên quan đến thị hiếu ngƣời tiêu dùng và giá thành
sản phẩm.
1.1.1.4. Cơ sở khoa học về tiêu tốn thức ăn
Tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng là tỷ lệ chuyển hoá thức ăn để đạt đƣợc
tốc độ tăng trọng, vì tăng trọng là một chức năng chính của quá trình chuyển
hoá thức ăn, hay nói cách khác tiêu tốn thức ăn là hiệu suất giữa thức ăn trên
kilôgam tăng trọng.
Trong chăn nuôi thức ăn thƣờng chiếm 70% giá thành sản phẩm, do vậy
thức ăn/1 đơn vị sản phẩm càng thấp thì hiệu quả kinh tế càng cao và ngƣợc lại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Theo Phùng Đức Tiến (1996) [26], hệ số tƣơng quan giữa khối lƣợng cơ
thể và tăng trọng với tiêu tốn thức ăn đã đƣợc Chambers (1984) [45], xác định
là - 0,5 - 0,9. Tƣơng quan giữa sinh trƣởng và chuyển hoá thức ăn là âm và
thấp từ (- 0,2) đến (- 0,8). Box và Bohren (1954) [44], Willson (1969) [63], đã
xác định hệ số tƣơng quan giữa khả năng tăng khối lƣợng cơ thể và hiệu qủa
chuyển hoá thức ăn từ 1 - 4 tuần tuổi là r = + 0,5.

Đối với gia cầm sinh sản, thƣờng tính tiêu tốn thức ăn cho 10 quả trứng
hay 1 kg trứng. Hiện nay, nhiều cơ sở chăn nuôi trên thế giới đã áp dụng
phƣơng pháp tính mức tiêu tốn thức ăn bằng lƣợng chi phí thức ăn cho gia
cầm từ lúc 1 ngày tuổi cho đến kết thúc 1 năm đẻ.
Theo Phùng Đức Tiến, Nguyễn Thị Mƣời và cộng sự (1999) [28], gà Ai
Cập tiêu tốn 2,33 kg thức ăn/10 trứng trong 43 tuần đẻ.
Nguyễn Huy Đạt, Trần Long và cộng sự (1996) [6], cho biết, tiêu tốn thức
ăn/10 trứng trong 12 tháng đẻ của gà Goldline - 54 thƣơng phẩm đạt 1,65 - 1,84kg.
Đoàn Xuân Trúc, Nguyễn Huy Đạt và cộng sự (1999) [34], cho biết, tiêu tốn
thức ăn/10 trứng của gà BE43; ISA - MPK và AA lần lƣợt là: 3,3kg; 3,45kg và
3,66kg.
Đối với gia cầm nuôi thịt, tiêu tốn thức ăn phụ thuộc vào tốc độ sinh
trƣởng, độ tuổi, giai đoạn đầu tiên tiêu tốn thức ăn thấp, giai đoạn sau cao
hơn. Phƣơng pháp áp dụng là tính mức tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng trọng.
Trần Công Xuân, Hoàng Văn Lộc và cộng sự (1999) [41], cho biết, gà Tam
Hoàng khi nuôi thịt đến 15 tuần tuổi tiêu tốn 3,609 kg thức ăn/kg tăng trọng. Gà
Tam Hoàng Jiang Cun tiêu tốn 3,652 - 3,911 kg thức ăn/kg tăng trọng.
Đoàn Xuân Trúc, Nguyễn Huy §ạt và cộng sự (1999) [34], cho biết tiêu
tốn thức ăn/kg tăng khối lƣợng của gà AA, ISA - MPK và BE88 khi nuôi đến
7 tuần tuổi tƣơng ứng 2,09; 2,06 và 2,13kg. Ngoài ra tiêu tốn thức ăn còn phụ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
thuộc vào tính biệt, điều kiện thời tiết khí hậu, chế độ chăm sóc nuôi dƣỡng
cũng nhƣ tình hình sức khoẻ của đàn gia cầm.
Tiêu tốn thức ăn cho 1kg tăng khối lƣợng có liên quan đến tính biệt, biện
pháp nuôi dƣỡng và những tác động kỹ thuật. Do vậy, để hạ thấp tiªu tèn thøc
¨n cần thực hiện cho gia cầm ăn theo nhu cầu đặc điểm sinh lý, cải thiện khả
năng tăng trọng, giảm thời gian nuôi vỗ béo kết hợp với quy trình chọn lọc.
Từ các nghiên cứu về các yếu tố ảnh hƣởng đến khả năng sinh trƣởng và
cho thịt của gia cầm cho thấy; khả năng sinh trƣởng và cho thịt của gia cầm
nói chung, của gà broiler nói riêng phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Trong đó,

các yếu cơ bản là đặc điểm di truyền của giống, của dòng, tuổi, tính biệt, thức
ăn, biện pháp chăm sóc nuôi dƣỡng, … Do đó, muốn nâng cao năng suất, chất
lƣợng thịt gia cầm không đƣợc coi nhẹ yếu tố nào, các nghiên cứu trên đây là
cơ sở khoa học cho ngƣời chăn nuôi có biện pháp tổng hợp nhằm không
ngừng nâng cao khả năng sinh trƣởng và cho thịt của gia cầm với mục đích
vừa có năng suất cao, vừa có chất lƣợng tốt hợp thị hiếu ngƣời tiêu dùng.
1.1.2. Những hiểu biết về vitamin A, D và E
1.1.2.1. Viatmin A (Retinol)
Vitamin A còn gọi là sinh tố đó là hợp chất hữu cơ có khối lƣợng vô
cùng nhỏ bé, có hoạt tính sinh học cao nhằm đảm bảo cho các quá trình trao
đổi chất trong cơ thể tiến hành đƣợc bình thƣờng. Đây chính là yếu tố không
thể thiếu đƣợc với mọi sinh vật. Đa số vitamin này đƣợc tổng hợp từ thực vật
mà động vật thu đƣợc trong khẩu phần ăn hàng ngày. Do đó nếu thiếu vitamin
A sẽ gây những chứng rối loạn nghiêm trọng trong quá trình trao đổi chất.
Vitamin A kết tinh màu vàng nhạt, không tan trong nƣớc nhƣng tan
trong dầu mỡ hay dung môi của chất béo. Do cấu trúc hoá học gồm nhiều đơn
vị isopren với các liên kết đôi nên vitamin A dễ bị phân huỷ dƣới tác dụng
của tia tử ngoại, nhiệt độ cao, dễ bị oxy hoá khi ở ngoài không khí hay trộn
lẫn với dầu mỡ bị ôi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Caroten có nhiều trong thực vật, có màu đỏ nhƣng trong dung dịch
chuyển thành màu vàng da cam. Caroten nhạy cảm với ánh sáng (tia tử
ngoại), oxy không khí, nhiệt độ cao, độ ẩm... nên trong quá trình chế biến dự
trữ thì caroten bị mất đi rất nhiều. Theo Vũ Duy Giảng [7], cho biết thực vật
mất 50% caroten sau 1 ngày dự trữ nếu bảo quản không tốt. Trong điều kiện bao
gói, kho tàng tốt thì trong 7 tháng dự trữ mất 50% caroten. Khi sấy ở nhiệt độ
cao: 500 - 1000
0
C trong máy sấy nhanh (drum drier) từ 6 - 10 giây mất 10%
caroten, ủ xanh mất 25% caroten, sấy ở nhiệt độ 105

0
C mất 70 - 75% caroten,
phơi khô mất 80% caroten, phơi khô ở thời tiết xấu mất 95 - 97%.
Để bảo vệ vitamin A trong thức ăn hỗn hợp ngƣời ta có thể dùng 2
phƣơng pháp: bọc vitamin trong Gelatin hoặc dùng hoá chất chống oxy hoá
nhƣ 1,2- dihydro - 2,2,4 - trimetyl quinol (etoxiquin)
Đơn vị quốc tế của vitamin A : 1mg Vitamin A tƣơng đƣơng với
3.333,3UI Vitamin A.
* Vai trò của vitamin A
+ Vitamin A tham gia vào nhóm ghép của men phân huỷ, hấp thu chất
dinh dƣỡng thông qua các quá trình oxy hoá khử.
+ Tăng sức đề kháng cho cơ thể.
+ Tăng khả năng sinh sản (sức sống và số lƣợng tinh trùng, chống sừng
hoá các tế bào biểu bì ống dẫn trứng...)
+ Bảo vệ và tăng thị lực mắt
+ Làm giảm quá trình dƣ đọng Canxi cho các thành mao mạch hệ tuần
hoàn, hạn chế tích mỡ trong cơ thể.
Thiếu vitamin A trong thức ăn sẽ gây ra biến đổi thƣợng bì , mô bào
trong các đầu mút dây thần kinh và đƣờng thần kinh ngoại vi. Kết quả là từng
mảng da bị dầy sừng. Hơn nữa thiếu vitamin A sẽ gây ra những biến đổi trên
niêm mạc đƣờng ruột, làm giảm sức bài tiết dịch trong đƣờng tiêu hoá, giảm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
tỷ lệ tiêu hoá các chất dinh dƣỡng và con vật ốm, mắt mờ và khô. Thiếu
vitamin A lâu sẽ làm cho con vật gầy yếu, chậm lớn.
Trong thực tế chăn nuôi thƣờng xảy ra thiếu vitamin A và D nếu nhƣ
khẩu phần ăn thiếu đạm và mỡ. Theo Từ Quang Hiển và cộng sự (2001) [10]
khẩu phần thức ăn thiếu các loại dầu, mỡ nhƣ khô dầu và thức ăn động vật
thƣờng dẫn đến cơ thể thiếu vitamin tan trong dầu mỡ nhƣ vitamin A, D, K, E.
* Sự hấp thu trao đổi, chuyển hoá của vitamin A
Vitamin A trong thức ăn ở dạng Retinol hay Retinol este đƣợc thuỷ

phân bởi lipaza tuyến tuỵ thành Retinol. Retinol đƣợc hấp thu trong niêm
mạc ruột, ở đó đƣợc este hoá thành Retinil palmitat. Theo Scott và cộng sự
(1976) vitamin A và beta - caroten chuyển thành mixen, chuỗi phân tử trƣớc
khi hấp thu ở ruột. Những chuỗi phân tử này hỗn hợp với muối mật và
monoglyxerit (axit béo mạch dài), cholesterol và có thể với vitamin D và
vitamin K, giúp vitamin A và beta- caroten dễ dàng hấp thu vào ruột. Ở đây
phần lớn beta - caroten chuyển thành vitamin A và phần lớn vitamin A
chuyển sang dạng este, axit palmilic đƣợc sử dụng nhiều nhất trong quá trình
este hoá. Vitamin A đƣợc lƣu thông trong huyết thanh cả ở dạng alcahol và
dạng đã este. Những este đƣợc vận chuyển cùng với phần lipoprotein còn
vitamin A alcohol có “hoạt tính sinh lý” đƣợc liên kết với protein đặc hiệu 
2 - globulin của máu. Gan là nơi dự trữ lƣợng vitamin A thừa và duy trì mức
bình thƣờng vitamin A trong máu. Vitamin A dự trữ trong gan chủ yếu ở
dạng este. Mức vitamin A ở trong máu có thể nói lên hiện trạng dinh dƣỡng
của vitamin A ở vật nuôi. Tuy nhiên, mức vitamin này có liên quan mật thiết
đến lƣợng vitamin A dự trữ ở gan và vitamin thu nhận hàng ngày từ thức ăn
(Maynard và cộng sự, 1981), khi sử dụng đồng vị phóng xạ có đánh dấu cho
thấy retinol trong gan luôn luân chuyển (Putnam, 1974).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
* Sự hấp thu của caroten
Gà có thể sử dụng vitamin A trong thức ăn động vật và vitamin A trong
thức ăn thực vật tƣơng tự nhau. Khi gà bị thiếu vitamin A, ăn beta - caroten
thì sau 1 giờ vitamin A xuất hiện ở vách ruột, sau 3 giờ thì xuất hiện ở gan.
Khoảng thời gian 6 giờ sau khi cho gà ăn caroten tỷ lệ vitamin A/gam mô tổ
chức thƣờng xuyên cao hơn ở vách ruột, gan thấp hơn. Khi cung cấp trực tiếp
một lƣợng lớn vitamin A cho gà con thì vitamin A ở vách ruột tăng lên không
đáng kể. Caroten và vitamin A đƣợc gà con sử dụng từ một tuần tuổi. Hiệu quả
chuyển hoá caroten thành vitamin ở gà mái đẻ cao. Vitamin A tổng hợp đƣợc
tích luỹ trong trứng nhƣ khi cho gà ăn vitamin A tinh khiết. Sự tích luỹ caroten
trong lòng đỏ trứng hầu nhƣ không đáng kể mà chỉ tích luỹ chủ yếu là xantofin.

Có nhiều premix vitamin chứa vitamin A, dùng cho ăn đều đặn sẽ giúp
gia cầm nhanh lớn, đỡ bệnh tật.
* Bệnh thiếu vitamin A ở gia cầm
Gà rất nhạy cảm với vitamin A, trong huyết thanh gà phải có 100 -
150UI/1ml máu. Nếu dƣới hàm lƣợng này thì gà bị thiếu vitamin A.
Vitamin A có vai trò rất quan trọng trong quá trình sinh trƣởng, phát
triển của gà.
- Nguyên nhân thiếu vitamin A
+ Thiếu vitamin A trong khẩu phần ăn do mất cân đối tỷ lệ giữa các
viatmin nhất là viatmin E trong thức ăn.
+ Trong thức ăn có một số chất bổ sung để trị cầu trùng, chống nấm
mốc làm quá trình oxy hoá vitamin A nhanh và dẫn đến triệt tiêu vitamin A
trong thức ăn.
+ Thức ăn bị nấm mốc hoặc dƣới tác động của ánh sáng làm phân huỷ
vitamin A.
- Triệu chứng thiếu vitamin A
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Gà con 2 - 3 tuần tuổi rất nhạy cảm với việc thiếu vitamin A và lý do
chủ yếu do trong phôi trứng thiếu vitamin A - tức là khẩu phần ăn cho gà đẻ
thiếu vitamin A và thức ăn trong 10 ngày đầu tiên thiếu trầm trọng vitamin A.
Thiếu vitamin A ở gà con đƣợc thể hiện:
+ Viêm kết mạc mắt: gà con hay bị chảy nƣớc mắt sống, sau thành rỉ
đặc (kem mắt) nếu bị bụi cám thì hai mí mắt dính chặt lấy nhau, gà không mở
đƣợc mắt. Viêm kết mạc kéo dài sẽ làm khô kết mạc, sau đó bị sừng hoá, kém
thị lực sau thậm chí bị mù.
+ Chảy nƣớc mũi do viêm đƣờng hô hấp trên
+ Lông gà xơ, không bóng bẩy, mỏ và da chân khô quắt, mào kém phát
triển, nhợt nhạt.
+ Gà nhìn chung hay bị tiêu chảy, rất chậm lớn. Đôi khi còn có biểu
hiện thần kinh nhẹ, đi lại thất thểu - không chắc chắn, thậm chí còn bị liệt

hoặc bán liệt.
Thiếu Vitamin A ở gà lớn đƣợc thể hiện:
+ Các biểu hiện bên ngoài giống nhƣ ở gà con: da, mỏ, chân khô, lông
xơ xác, mào tụt, nhợt nhạt.
+ Mắt khô và giảm thị lực
+ Gà đẻ thất thƣờng, trong trứng có điểm xuất huyết, trứng đẻ ra lòng
đỏ ít về khối lƣợng, màu sắc nhợt nhạt.
+ Tỷ lệ ấp nở thấp do tỷ lệ phôi thấp và chết phôi cao.
- Mổ khám bệnh tích: Bệnh tích điển hình trong các trƣờng hợp thiếu
vitamin A phụ thuộc vào mức độ thiếu vitamin A trong thức ăn, thời gian kéo
dài và tiểu khí hậu chuồng nuôi.
+ Nếu bệnh nhẹ chỉ thấy gà hay chảy nƣớc mắt, kết mạc mắt bị khô.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
+ Nếu nặng gà bị mù, một số khác khi vạch miệng thấy vùng cuống
họng, hầu có nhiều mụn sần sùi nhƣ súp lơ trên bề mặt niêm mạc dễ bóc (tế
bào biểu bì bị sừng hoá).
+ Thận nhợt nhạt, hai ống dẫn nƣớc tiểu chứa đầy urat trắng.
+ Mề gà dãn to và nhão.
+ Đƣờng ruột bị viêm cata, niêm mạc ruột sần sùi màu nâu nhạt.
+ Một số trƣờng hợp bệnh nặng có thể có chất urat trắng bao phủ
nhƣ rắc vôi bột mỏng trong các cơ quan nội tạng, dễ thấy nhất là gan,
lách, tim, thận....
+ Giải phẫu bệnh lý vi thể thấy tế bào biểu mô hình trụ của niêm mạc
đƣờng hô hấp, tiêu hoá nhất là lông mao ruột bị sừng hoá thành vảy.
Thiếu vitamin A cần phân biệt với các bệnh: Bệnh đậu gà thể hầu (thể
ƣớt) cũng có màng giả trắng sần sùi nhƣng khó bóc và có những biến đổi khác
đặc trƣng cho bệnh đậu. Bệnh viêm thanh khí quản truyền nhiễm có màng
nhày, đờm dãi vùng họng và khí quản, gà bị bệnh lây lan nhanh với các triệu
chứng hen ngạt điển hình.
* Nhu cầu vitamin A

Theo tiêu chuẩn NRC (1994) nhu cầu vitamin A cho gia cầm nhƣ sau:
Gà con (0 - 8tuần tuổi): 7000UI/kg thức ăn
Gà hậu bị (8 – 18 tuần tuổi): 7000UI/kg thức ăn
Gà đẻ trứng thƣơng phẩm: 6000UI/kg thức ăn
Gà đẻ giống thịt, trứng: 8000UI/kg thức ăn
* Nguồn cung cấp vitamin A
Nguồn cung cấp vitamin A quan trọng nhất là dầu cá. Vitamin A có
mặt trong thức ăn nguồn gốc động vật nhƣ lòng đỏ trứng, sữa, bơ, gan…
Caroten có trong mỡ ngựa, mỡ bò, lòng đỏ trứng, sữa, bơ…nhƣng không có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
trong mỡ lợn và mỡ cừu. Caroten có nhiều trong thực vật, trong 100 gam ngô
vàng có 0,057mg caroten; 1,54mg criptoxantin và 1,367mg xantofin.
* Cách bổ sung vitamin A
Bổ sung bằng cách trộn thêm bột cỏ với tỷ lệ 4% hoặc các chế phẩm
vitamin tổng hợp vào khẩu phần ăn hàng ngày cho gia cầm.
1.1.2.2. Vitamin D (Canxiferol)
Vitamin D gồm có 6 loại: D
2
, D
3
, D
4
, D
5
, D
6
và D
7
có công thức hoá
học gần giống nhau, trong đó vitamin D

2
và D
3
có hoạt tính sinh học mạnh
nhất. Vitamin D
2
(Ergocanxiferol) có nguồn gốc thực vật, đƣợc tạo thành khi
tia cực tím chiếu vào chất ergosterol. Vitamin D
3
(Cholecanxiferol) có nguồn
gốc động vật, đƣợc hình thành khi tia cực tím chiếu vào chất 7 –
dehydrocholesterol ở da. Hiện nay, vitamin D
3
đƣợc chiết xuất từ dầu cá dƣới
tác dụng của tia cực tím. Cholecanxiferol kết tinh màu trắng, bị phá huỷ bởi
ánh sáng và dầu mỡ bị ôi, đặc biệt khi hỗn hợp vitamin D với các chất khoáng
vi lƣợng. Vitamin E là chất bảo vệ vitamin D.
Tiêu chuẩn quốc tế 1UI = 0,025g vitamin D
2
hay D
3
, 1mg D
2
hay D
3

có giá trị 40.000UI trên động vật có vú. Đối với gà 1mg D
3
= 40.000UI, còn
1mg D

2
chỉ có giá trị 1.000UI, 1UI vitamin D = 0,025g = 0,025 x 10
-3
mg.
* Vai trò của vitamin D
Về tính chất và vai trò tác dụng của vitamin D
2
và D
3
, hoàn toàn giống
nhau nhƣng D
3
mạnh hơn và phổ biến hơn. Vitamin D hấp thụ chậm trong
đƣờng ruột. Khi sử dụng các chế phẩm với khối lƣợng dƣ thừa canxi sẽ cản
trở quá trình trao đổi và hấp thu vitamin D.
Trong cơ thể vitamin D tích tụ chủ yếu ở trong gan, tuyến thƣợng thận,
lách, thận, phổi. Dƣới tác dụng của các hợp chất canxi và phốtpho, vitamin D
bị ion hoá và nhờ đó vitamin D tích tụ đƣợc trong xƣơng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- Vitamin D làm tăng hàm lƣợng ion canxi trong máu (có mặt đầy đủ
của phốt phat) giúp cho sự hấp thu canxi và phôtphat tốt nhất từ thức ăn, điều
hoà sự cân đối của chúng trong máu. Do tăng canxi huyết, nên canxi lắng
đọng vào xƣơng tốt hơn. Quá trình lắng đọng canxi vào xƣơng có vai trò của
các enzym photphataza. Phối hợp vitamin D và vitamin A, quá trình này càng
tốt hơn. Vì vitamin D giúp cho canxi lắng đọng hoàn chỉnh xƣơng; còn
vitamin A giúp cho bộ xƣơng phát triển.
Tăng quá trình thở và trao đổi chất ở mức độ tế bào, tăng cƣờng chức
năng gan và đƣờng tiêu hoá.
- Vitamin D có tác dụng chống dị ứng
- Đối với gà vitamin D

3
có hoạt lực tác dụng mạnh hơn D
2
khoảng 30
lần, nhƣng lại phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố nhƣ: giống, dòng, màu lông,
màu da, thời tiết, khí hậu (ánh sáng) và khẩu phần ăn của gà.
Do vitamin D trực tiếp điều chỉnh quá trình trao đổi canxi và phốt pho,
cho nên trong thức ăn phải giữ đúng nguyên tắc tỷ lệ hàm lƣợng canxi : phốt
pho (2 : 1) nhằm tránh những rối loạn trao đổi khác mà vitamin tham gia.
Nếu dùng quá liều vitamin D sẽ gây ra một loạt những hậu quả xấu
nhƣ : Tăng canxi huyết, tích tụ các muối của canxi lên thành mạch gây cứng
mạch, lắng đọng vôi trong mạch máu, trong tim, hoại tử và sau đó lắng đọng
vôi ở trong các tổ chức nhu mô, giảm sự ngon miệng, buồn nôn, trong nƣớc
tiểu có hàm lƣợng albumin và các tế bào trụ cao...
Các hậu quả xấu do dùng vitamin D liều cao có thể đƣợc dỡ bỏ khi
chúng ta dùng Vitamin A kết hợp với vitamin D hoặc khi bị ngộ độc thì dùng
vitamin A để chữa.
Các vitamin hoà tan trong chất béo, đặc biệt là vitamin D tích luỹ trong
cơ thể lâu hơn, có thể gây chứng thừa vitamin. Song liều lƣợng hàng ngày
phải gấp ngàn lần liều bình thƣờng mới gây tình trạng thừa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Thức ăn nếu thiếu vitamin D thì có khoảng 20% Ca đƣợc hấp thu. Nếu
có viatmin D thì lƣợng hấp thu lên đến 50 – 80%. Mức độ hấp thu P cũng tuỳ
thuộc vào Ca. Ca đƣợc dự trữ trong các mô mềm dƣới dạng kết hợp với
protein thành một chất gọi là protein liên kết với Ca. Ca rất có ái lực với
protein này, do đó mức độ hấp thu Ca liên hệ rất chặt chẽ với loại protein này
vì có hệ số liên hệ lớn (r = 0,99). Sự hấp thu và sử dụng vitamin D
2
, D
3

gần
nhƣ nhau ở bò, lợn, gà thì chỉ sử dụng đƣợc vitamin D
3
(vitamin D
2
chỉ sử
dụng đƣợc 1/35 vitamin D
3
).
* Sự chuyển hoá vitamin D
Gan là nơi thực hiện chuyển đổi vitamin D
2
và D
3
thành 25 -
hydroxycholecalxiferol, đây là dạng hoạt động sinh học mạnh nhất của vitamin.
Tuyến phó giáp trạng điều tiết sự sản xuất 1,25- dihydroxycholecanxiferol hơn
là làm tăng tỷ lệ hấp thu ở ruột. Sự trao đổi vitamin D có thể tóm tắt nhƣ sau :
Thức ăn Da
Cholecalciferol 7 – dehydrocalciferol
Chiếu xạ tia cực tím
Cholecalciferol
Gan
25 - dehyoxycholecalciferol
Thận
1,25 - dihydroxycalciferol

Các mô liên kết

* Bệnh thiếu vitamin D ở gia cầm

Bệnh do thiếu vitamin D có những biểu hiện độc lập hoặc kết hợp với
thiếu hoặc mất cân bằng giữa canxi và phôtpho qua các triệu chứng điển
hình: còi xƣơng, loãng xƣơng (dễ gãy), bại chân, bại cánh, gà mệt mỏ, vỏ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
trứng mềm hoặc sần sùi ... Nhìn chung trong đàn có nhiều gà còi, dị hình,
chậm lớn, thi thoảng có con bại chân, khoèo và xấu xí...
- Nguyên nhân thiếu vitamin D
+ Mất cân bằng giữa tỷ lệ canxi và phốt pho trong thức ăn làm tiêu hao
vitamin D
3
.
+ Thành phần thức ăn thiếu vitamin D, đối với gà vitamin D lại càng
cần thiết, ánh sáng mặt trời giúp cho gà tự tổng hợp đƣợc vitaminD
3
từ
vitamin D
2
.
+ Trong thức ăn chứa nhiều hợp chất chứa lƣu huỳnh (S) và lƣu huỳnh
sẽ phân giải làm biến chất vitamin D dẫn đến cơ thể thiếu vitamin D
3
.
- Triệu chứng thiếu vitamin D
Bệnh xuất hiện sau 10 - 15 ngày. Nếu trong thức ăn thiếu vitamin D,
thiếu ánh sáng trực tiếp của mặt trời... ở gà dò có những triệu chứng nhƣ sau:
+ Có một số gà đi lại không vững và bắt đầu bại liệt chân, các biểu hiện
dị hình ngón chân, đầu gối, ống chân và mỏ bị vặn vẹo, tốc độ lớn chững lại.
+ Gà kém ăn, lông xù, lƣời vận động: chúng hay nằm hoặc ngồi bằng 2
đầu gối sƣng, đôi khi có vết xƣớc.
+ Nếu tình trạng thiếu vitamin D kéo dài, bệnh sẽ trở nên trầm trọng:

Số gà mắc bệnh cao, nhiều dị tật trở thành cố định nhƣ vẹo mỏ, sƣng ống,
cong chân, khoèo, các ngón chân phát triển bất bình thƣờng.
Bệnh thiếu vitamin D ở gà đẻ có các triệu chứng nhƣ sau:
+ Năng suất trứng lúc đầu vẫn bình thƣờng, sau khi thấy vỏ trứng
mỏng, dễ vỡ đến lúc có nhiều trứng non thì năng suất giảm rõ rệt.
+ Gà thiếu linh hoạt, ăn kém với cảm giác không ngon miệng, không
háu ăn...
+ Xƣơng dòn, dễ gãy, gãy chân. Móng cựa, chân dài quá mức bình
thƣờng. Da chân khô, xƣơng lƣờn, xƣơng ức cong vẹo về phía trƣớc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- Mổ khám bệnh tích: Bệnh tích tập trung ở hệ xƣơng là chủ yếu
+ Xƣơng ống, xƣơng sƣờn, xƣơng cánh đòn, mềm dễ gãy, dễ cắt.
+ Xƣơng sƣờn bị cong vênh tại điểm nối với cột sống
+ Mấu xƣơng chày, xƣơng đùi to biến dạng
Ngoài các bệnh tích ở hệ xƣơng còn có một vài bệnh tích thuộc hệ tiêu
hoá nhƣ tuyến phó giáp trạng sƣng to, niêm mạc ruột sần sùi, gan nhỏ hơn,
thẫm và cứng hơn so với bình thƣờng.
- Chẩn đoán bệnh thiếu vitamin D
+ Căn cứ vào triệu chứng lâm sàng: có nhiều gà còi, khoèo, yếu chân,
bại liệt chân. Mỏ và ngón chân phát triển không bình thƣờng với các dị tật
cong vẹo, ống xƣơng chân có thể dài ra hoặc ngắn lại, nhƣng rất mềm, dòn dễ
gãy và bị cong.
+ Căn cứ vào bệnh tích mổ khám các biến đổi vẫn tập trung ở hệ xƣơng.
+ Bổ sung vitamin D, cân đối tỷ lệ canxi 2 - phôtpho 1 (2: 1) để vừa
điều trị vừa chẩn đoán. Nếu cần thiết thì phân tích thành phần thức ăn để xác
định hàm lƣợng vitamin D, Ca, P.
* Nhu cầu vitamin D
Theo tác giả Vũ Duy Giảng (1998) [7], nhu cầu vitamin E cho gia cầm
nhƣ sau: Gà con (0 - 8 tuần tuổi): 200UI/kg thức ăn
Gà hậu bị (8 – 18 tuần tuổi): 200UI/kg thức ăn

Gà đẻ trứng thƣơng phẩm: 500UI/kg thức ăn
Gà đẻ giống thịt, trứng: 500UI/kg thức ăn
Theo tiêu chuẩn NRC (1994) nhu cầu vitamin E của gia cầm nuôi thịt
200UI/kg thức ăn.
* Nguồn cung cấp vitamin D
Vitamin D thƣờng có ở cá biển, dầu gan cá, sữa, lòng đỏ trứng, lá, rễ,
củ, quả, nấm và men bia có tiền vitam D
2
. Ở trong nấm hàm lƣợng vitamin D
là 12 – 31g/kg thức ăn, cá biển có từ 12,5 - 25g/kg thức ăn

×