Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Bài tập lớn Triết: Quan hệ giữa kinh tế và chính trị và sự vận dụng mối quan hệ này trong xã hội Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.54 KB, 11 trang )

A, Mở đầu
Chính trị với kinh tế là mối quan hệ cơ bản nhất, quyết định đến sự phát triển và
tồn tại của mọi xã hội. Theo quan điểm triết học Mác-Lê nin, quan hệ giữa kinh tế
và chính trị được xem là biểu hiện tập trung nhất của quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng. Trong đó, cơ sở hạ tầng – kinh tế giữ vai trò quyết định.
Đồng thời, kiến trúc thượng tầng – chính trị cũng có tính độc lập tương đối, tác
động trở lại cơ sở hạ tầng. Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị có ảnh hưởng to
lớn đến mọi mặt của hoạt động, đời sống xã hội mọi hoạt động khác có diễn ra
thuận lợi hay không đỏi hỏi phải dựa trên mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị có
diễn ra bình thường hay không. Chính vì tầm quan trọng đặc biệt ấy, em xin chọn
đề tài “Quan hệ giữa kinh tế và chính trị và sự vận dụng mối quan hệ này
trong xã hội Việt Nam hiện nay” làm bài tập học kì của mình.
B, Nội dung.
I. Cơ sở lý luận giữa chính trị và kinh tế.
1. Khái niệm
Chính trị" theo nghĩa chung nhất được hiểu như hoạt động liên quan đến mối quan
hệ giữa các nhóm xã hội lớn, trước hết là giữa các giai cấp, quan hệ giữa các dân
tộc, giữa các quốc gia trên thế giới. Xét về thực chất, chính trị là quan hệ về lợi ích
giữa các giai cấp, các nhóm xã hội, các quốc gia dân tộc, trong đó trước hết và cơ
bản là lợi ích kinh tế trong việc giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước.
Ph.Ăngghen khẳng định, chính trị là sự thống trị của giai cấp này đối với các giai
cấp khác trong xã hội, là việc một giai cấp hay liên minh giai cấp nào đó nắm
quyền lực để cai trị các giai cấp khác, để lãnh đạo các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Còn theo Lênin, trong chính trị vấn đề cốt lõi nhất là "thiết chế quyền lực nhà
nước". Phạm vi của chính trị, trước hết bao hàm "sự tham gia vào các công việc


của nhà nước, định hướng hoạt động của nhà nước, xác định hình thức, nhiệm vụ,
nội dung hoạt động của nhà nước". Như vậy, một vấn đề sẽ mang tính chính trị,
nếu việc giải quyết nó động chạm đến lợi ích của giai cấp xã hội, đến quyền lực
nhà nước.


"Kinh tế" là một phạm trù dùng để chỉ tổ hợp tất cả các quan hệ kinh tế (quan hệ
giá trị sức lao động trong quá trình sản xuất) của một xã hội ở thời điểm lịch sử xác
định, để chỉ cơ sở kinh tế của xã hội. Trong tổ hợp tất cả các quan hệ ấy thì quan
hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất đóng vai trò quyết định, chi phối các quan hệ
kinh tế khác, như quan hệ tổ chức sản xuất xã hội, quan hệ phân phối sản phẩm.
Như vậy, lực lượng, giai cấp xã hội nào nắm quyền sở hữu những tư liệu sản xuất
cơ bản, thì cũng có quyền quyết định trong tổ chức quản lý sản xuất và phân phối
sản phẩm. Khái niệm kinh tế còn được dùng để chỉ toàn bộ các lĩnh vực, các ngành
khác nhau của một nền kinh tế quốc dân (như công nghiệp, nông nghiệp, dịch
vụ...). Ngoài ra, khái niệm kinh tế cũng có thể được dùng ở nghĩa: chỉ một tính chất
đặc trưng thể hiện mục tiêu then chốt, đó là tính hiệu quả (năng suất, chất lượng,
giảm hao phí...) của mọi quá trình sản xuất kinh doanh.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa chính trị và kinh tế.
Chủ nghĩa Mác –Lê nin cho rằng mối quan hệ này chính là nội dung tập trung cốt
lõi của cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng. Lenin đã khái quát bản chất mối
quan hệ giữa kinh tế và chính trị như sau: “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của
kinh tế”; “Chính trị tức là kinh tế được cô đọng lại”. Như vậy chính trị phải được
xây dựng trên cơ sở kinh tế, không được thoát ly những đặc trưng và những nhiệm
vụ kinh tế của xã hội. Khi cơ sở kinh tế biến đổi, chính trị phải biến đổi theo để
phản ánh đúng cơ sở kinh tế, phù hợp với kinh tế để tạo được môi trường tốt nhất
cho kinh tế phát triển theo đúng quy luật khách quan. Không chỉ vậy, kinh tế cũng


có những tác động ngược trở lại với chính trị, Lenin cũng cho rằng “chính trị
không thể chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế”. Khẳng định đó của Lenin đã nhấn
mạnh tính độc lập tương đối và vai trò tác động trở lại rất tích cực của chính trị đối
với kinh tế.
2.1. Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế
Thứ nhất, với tư cách là một yếu tố của kiến trúc thượng tầng, chính trị sẽ do cơ sở
kinh tế quyết định. Cơ sở kinh tế có vai trò rất to lớn đối với tư tưởng chính trị và

hệ thống tổ chức chính trị. Chính cơ sở kinh tế quy định sự xuất hiện, quyết định
nội dung, tính chất, mục tiêu, các nguyên tắc của chính trị. Còn mạnh mẽ hơn thế
nữa, cơ sở kinh tế còn có vai trò quyết định đến sự thay đổi và phát triển của
đường lối chính trị, hệ tư tưởng chính trị và cơ cấu của hệ thống chính trị... Thực
tiễn của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước
trên thế giới và ngay cả ở nước ta đã chứng minh một cách hùng hồn về vai trò của
kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với chính trị.
Thứ hai, do chính trị là biểu hiện tập trung của nền kinh tế, nên mọi chính sách
chính trị đúng đắn đều phải xuất phát từ tình hình hiện thực, phản ánh đúng với
trạng thái hiện thực của nền kinh tế và chính sách đó xét cho cùng cũng do tình
hình kinh tế quyết định. Tình hình kinh tế là cơ sở xuất phát cho việc lựa chọn các
phương tiện, chính sách kích thích nền sản xuất phát triển nhằm hoàn thiện nền sản
xuất xã hội.
Thứ ba, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Song, chính trị không phải là sự
phản ánh giản đơn, trực tiếp quá trình kinh tế, mà là sự phản ánh một cách sáng
tạo, phản ánh tập trung các hiện tượng kinh tế. Chính trị phản ánh về tư tưởng
những nhu cầu của kinh tế trên lập trường lợi ích chung của giai cấp, là tập trung ý
chí, sức lực, hành động của giai cấp để thực hiện một cách thực tế lợi ích chung đó.


Sự biểu hiện tập trung, khái quát của kinh tế trong chính trị được thể hiện thông
qua lợi ích kinh tế.. Chính trị giữ vai trò lãnh đạo, điều khiển, quản lý, định hướng
phát triển kinh tế. Tất cả sự phát triển kinh tế có sự tác động của chính trị thông
qua quyền lực chính trị và thiếu nó thì sự phát triển kinh tế có thể dẫn đến hỗn
loạn. Do vậy, chính trị phải là sự phản ánh chủ động, tập trung trở thành một hệ
thống điều khiển kinh tế và điều khiển toàn bộ xã hội.
2.2. Chính trị không thể chiếm vị trí hàng đầu
Thứ nhất, thắng lợi của cách mạng chính trị là tiền đề, điều kiện tiên quyết cho
những về chất và phát triển kinh tế diễn ra tiếp theo. Đó là một trong những điều
kiện tất yếu đảm bảo sự thống trị về mặt chính trị của giai cấp công nhân, đảm bảo

cho nhân dân lao động thực hiện có kết quả quyền lực chính trị và quản lý các quá
trình hoạt động của xã hội, trong đó có kinh tế. Vì vậy, vai trò hàng đầu của chính
trị đối với kinh tế là nhân tố quan trọng nhất để thực hiện lợi ích căn bản của giai
cấp công nhân, là đòi hỏi của xã hội nhằm phát triển nền kinh tế có hiệu quả, vì lợi
ích tất cả mọi thành viên trong xã hội.
Thứ hai, chính trị có tác động trở lại đối với kinh tế theo hướng thúc đẩy hoặc kìm
hãm, nếu quan điểm chính trị mà sai lầm thì nó có thể làm tiêu vong toàn bộ những
thành tựu kinh tế, làm cho nền kinh tế phát triển chệch hướng. Vì vậy, muốn để
kinh tế phát triển phát triển đồng thuận với sự tác động của chính trị, đòi hỏi phải
quan tâm tới cả ba phương diện: đường lối, chính sách kinh tế; thể chế kinh tế và
chủ thể kinh tế.
Thứ ba, chính trị đóng vai trò định hướng và tạo môi trường chính trị - xã hội ổn
định cho phát triển kinh tế. Muốn có một xã hội phát triển toàn diện thì chính trị
phải trở thành phương tiện quan trọng, chính trị phải bảo đảm sự lãnh đạo đúng
hướng trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống – xã hội. Sau khi giai cấp công nhân đã


giành được chính quyền, trọng tâm chính trị chuyể dần vào lĩnh vực kinh tế, chính
trị ngay trong kinh tế.
Như vậy, mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là mối quan hệ giữa kinh tế với
quyền lực chính trị. Nói cách khác, là mối quan hệ giữa quyền lực nhà nước với
kinh tế hướng tới sự phát triển kinh tế, nhằm bảo vệ chế độ chính trị và lợi ích của
giai cấp cầm quyền. Giải quyết quan hệ chính trị với kinh tế trực tiếp quyết định tới
mục tiêu của sự phát triển xã hội, phát triển kinh tế. Hơn nữa, nó còn quan hệ tới
việc định hướng cho sự phát triển kinh tế, bởi giải quyết quan hệ này. Do đó, từ
góc độ quan hệ với kinh tế, vấn đề chính trị thực chất là vấn đề định hướng, tạo
động lực cho phát triển kinh tế.
2.3. Sự tác động trở lại của chính trị đối với kinh tế.
Quan hệ biện chứng giữa chính trị với kinh tế còn là sự tác động trở lại của chính
trị đối với kinh tế. Chủ nghĩa duy vật Mác- Lê nin chỉ ra rằng chính trị nảy sinh

trên nền tảng kinh tế, chịu sự quy định của kinh tế, song, nó lại mang tính độc lập
tương đối. Chính trị không phải là sản phẩm thụ động của kinh tế mà nó tác động
trở lại kinh tế rất mạnh mẽ. Hiện nay không có một đất nước nào đặt hoạt động
chính trị tách biệt với hoạt động kinh tế của đất nước mình. Như vậy, nhà nước
không chỉ giữ vai trò giải quyết các vấn đề kinh tế mà còn đặt nền tảng, tạo cơ sở
cho sự phát triển dài lâu, vượt bậc của nền kinh tế.
Sự tác động của chính trị đối với kinh tế diễn ra theo hai chiều. Nếu chính trị tác
động phù hợp tới sự phát triển của nền kinh tế, phù hợp với các quy luật khách
quan thì nó sẽ là động lực để thúc đẩy sự phát triển kinh tế diễn ra một cách đồng
đều, nhanh chóng. Nếu tác động ngược lại thì nó sẽ là rào cản kìm hãm sự phát
triển của kinh tế.


Như vậy, kinh tế và chính trị phải hòa hợp với nhau. Kinh tế không thể phát triển
đông đều và hiệu quả nếu không có nền chính trị ổn định. Chính bởi lẽ đó, chính trị
có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế, đặt cơ sở, tạo tiền đề cho nền
kinh tế phát triển bền vững.
II. Vận dụng mối quan hệ này trong xã hội Việt Nam hiện nay.
1. Khái quát về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong xã hội Việt Nam
hiện nay.
Kinh tế và chính trị ở nước ta có mối quan hệ hết sức chặt chẽ, chúng có tác động
qua lại với nhau một cách tích cực, các hoạt động về kinh tế và chính trị đều chung
một mục đích đó là xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa. Nhìn lại quá trình Đảng
lãnh đạo đất nước từ trước năm 1986, chúng ta thấy rằng tình hình nước ta nói
riêng và các nước xã hội nói chung đã có thời gian khá dài do tuyệt đối hóa vai trò
của đường lối chính trị, duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã dẫn
đến sự kiềm hãm sự phát triển kinh tế và dẫn đến khủng hoảng trầm trọng. Chúng
ta đã hành động trái quy luật “kinh tế quyết định chính trị”. Từ đó nảy sinh ra mâu
thuẩn chủ yếu giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất , nhiệm vụ công
nghiệp hóa được đẩy lên một cách duy ý chí trong khi chưa có đủ các tiền đề cần

thiết. Từ những sai lầm về đường lối chỉ đạo này, dẫn đến nền kinh tế chậm phát
triển, xã hội rơi vào khủng hoảng.
Để khắc phục sự khủng hoảng này, Đảng và nhà nước ta đã tiến hành công cuộc
Đổi mới đất nước, đổi mới chính tri, lấy phát triển kinh tế làm trọng tâm, tùy theo
thành quả và yêu cầu của đổi mới mà từng bước đổi mới chính trị. Lênin cho rằng:
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa lĩnh vực quan trọng nhất là lĩnh vực kinh tế. Vai
trò lãnh đạo của Đảng phụ thuộc vào hiệu quả lãnh đạo kinh tế. Vì vậy phải quan
tâm mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã


hội 2011 – 2020, Đảng ta đã chỉ rõ: “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới
kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã
hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương để thúc đẩy đổi mới toàn diện và phát
huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã
hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Lấy việc thực
hiện mục tiêu này là tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu quả của quá trình đổi
mới và phát triển”. Như vậy, mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị ở nước ta hiện
nay có một vai trò vô cùng quan trọng, nó ảnh hưởng căn bản đến công cuộc xây
dựng và phát triển đất nước.
2. Thực trạng về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị ở nước ta hiện nay.
Trên cơ sở phát huy những tiến bộ mà đường lối của Đảng đã đề ra, nền kinh tế
của nước ta hiện nay đang ngày có những tiến bộ nhất định, song song với đó là
nền chính trị cũng ổn định và ngày càng phát triển. Cụ thể, nền kinh tế nước ta
đang phát triển theo hướng ổn định, phù hợp với đường lối phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nước ta hiện nay có
5 thành phần kinh tế, điều ấy thể hiện sự phát triển của nền kinh tế thị trường trong
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Tuy nhiên, công cuộc đổi mới
của Việt Nam đã diễn ra trên khắp các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, văn

hoá, xã hội, quốc phòng - an ninh… và cả phương thức tổ chức, hoạt động lãnh đạo
của Đảng, quản lý của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Nhờ
vào đường lối đúng đắn của Đảng, nền kinh tế của nước ta không những phát triển
mà còn có sự hội nhập sâu rộng giữa các quốc gia trên khu vực và trên thế giới.
Điều này nhờ vào công lao không nhỏ của Đảng và nhà nước ta trong đường lối
đổi mới nền chính trị, đổi mới tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động của hệ


thống chính trị, mà thực chất là xây dựng và phát triển nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Chính đường lối đổi mới nền chính trị của Đảng đã thúc đẩy nền kinh tế
phát triển, có sự hội nhập, giao lưu để tạo điều kiện tiếp thu, học hỏi và phát triển
để xây dựng nền chính trị vững chắc, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, với
yêu cầu phát triển của đất nước.
Tuy nhiên, mối quan hệ về kinh tế và chính trị của nước ta hiện nay còn có một số
hạn chế. Thứ nhất, việc đổi mới kinh tế làm nảy sinh những mâu thuẫn nội bộ nhân
dân mà ở các thời kỳ trước không có. Cơ chế thị trường, bên cạnh những mặt tích
cực, cũng phát sinh những mặt khác, như: những nhóm lợi ích khác nhau, những
va chạm, xung đột nhau... Mặt khác, nền kinh tế thị trường tất yếu có cạnh tranh,
có phân hoá giàu - nghèo, khoảng cách chênh lệch về thu nhập ngày càng dãn ra
giữa các tầng lớp xã hội, cho nên cũng phát sinh mâu thuẫn nội bộ nhân dân. Và
như thế, lãnh đạo chính trị đối với đổi mới kinh tế trở nên bức thiết, đổi mới hệ
thống chính trị để vận động nhân dân có hiệu quả trở nên quan trọng.
Thứ hai, đổi mới chính trị là vấn đề vô cùng nhạy cảm, liên quan đến sự tồn vong
của chế độ và của công cuộc đổi mới. Vì vậy, Đảng, nhà nước có vai trò hết sức
quan trọng trong việc điều tiết, cân nhắc nên đổi mới ra sao cho phù hợp với tình
hình phát triển của đất nước. Đây là một vấn đề hết sức quan trọng, quyết định đến
cả vấn đề tồn vong của dân tộc cũng như của nền kinh tế nước ta.
3. Những phương hướng nhằm phát huy phù hợp mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị trong xã hội Việt Nam hiện nay.
Thứ nhất, cần phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật về kinh tế nhằm tạo ra khuôn khổ

pháp lý cho hoạt động kinh doanh nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế những
khuyết điểm của nền kinh tế thị trường. Hệ thống pháp luật này là công cụ chủ yếu
để nhà nước quản lý kinh tế.


Thứ hai, cần tăng cường vai trò lãnh đạo chính trị đảm bảo định hướng xã hội chủ
nghĩa trong quá trình hội nhập. Đây là phương hướng chiến lược, lâu dài, có ý
nghĩa quyết định và thành công.
Thứ ba, cần hình thành tương đối đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện được nhiệm vụ này, hệ thống chính trị
cùng với sự quản lý của nhà nước đóng vai trò hết sức quan trọng. Nhà nước tạo
hành lang pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp cạnh tranh, nâng cao năng suất
và hiệu quả đầu tư. Bên cạnh đó, cần tiếp tục kiểm tra, giám sát theo quy định của
pháp luật nhằm chống tham nhũng, buôn bán trái phép hàng giả, hàng kém chất
lượng.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới tư duy chính trị phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực. Bởi lẽ, những thành công và tồn tại, những vấn đề đã và đang
nảy sinh có liên quan đến vai trò của chính trị trong quá trình hội nhập kinh tế của
nước ta đều gắn với tư duy, nhận thức của Đảng.
Thứ năm, cần phải đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ làm công tác hội
nhập kinh tế có phẩm chất đạo đức trong sáng, bản lĩnh chính trị vững vàng. Bởi
lẽ, vấn đề hội nhập kinh tế trong thời đại hiện nay là một hoạt động mang tính tự
giác, do vậy, vai trò của chủ thể là vô cùng quan trọng. Với yêu cầu hội nhập hiện
nay, chúng ta cần đặc biệt quan tâm đến năng lực chuyên môn và tư tưởng chính trị
và lòng tự tôn dân tộc.
C, Kết luận
Có thể nói, mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là đại diện tiêu biểu cho mối quan
hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Một đất nước có nền
chính trị vững chắc khi có nền kinh tế phát triển và kinh tế muốn phát triển thì đòi
hỏi phải có nền chính trị vững chắc. Qua đó, ta có thể thấy rõ vai trò quyết định



của kinh tế đối với chính trị. Mỗi hình thái kinh tế sẽ tạo nên một thể chế chính trị
tương ứng. Ngược lại, chính trị cũng có tác động trở lại đối với kinh tế. Ngày nay
tất cả các nước đều gắn liền hoạt động chính trị với hoạt động kinh tế, bởi lẽ, sự ổn
định về chính trị là điều kiện cần thiết nhất để phát triển nền kinh tế của đất nước.
Và ở nước ta hiện nay, tình hình chính trị ổn định đã góp phần không nhỏ vào việc
thu hút vốn đầu tư và phát triển kinh tế. Tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại như sự
can thiệp quá sâu của Nhà nước vào hoạt động kinh tế, pháp luật quy định về kinh
tế còn nhiều bất cập,... Bởi vậy, cần phải kết hợp hài hòa giữa kinh tế với chính trị
nhằm thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế, đổi mới chính trị của đất nước.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Nxb chính trị Quốc gia.
2. />3. />4. Giáo trình triết học Mác- Lênin
5. />6. />7. />


×