Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Quan điểm của triết học mác – lênin về con người và vấn đề xây dựng nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa , hiện đại hóa ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.95 KB, 17 trang )

ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ
----------

TIỂU LUẬN
Đề tài: “ Quan điểm của triết học Mác – Lênin về
con người và vấn đề xây dựng nguồn lực con người
trong sự nghiệp công nghiệp hóa , hiện đại hóa ở
nước ta ”
Sinh viên thực hiện : Trần Khánh Linh
Mã sinh viên : 1213340052
Lớp : A16 CLC TCNH K51
Giảng viên hướng dẫn : PGS.TS Đoàn Văn Khái

Hà Nội , 11-2014


MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
Nguồn lực con người luôn có vai trò to lớn trong sự phát triển bền vững
của mỗi quốc gia. Đặc biệt trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa với
mục tiêu đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân, thì con người và nguồn nhân lực được coi là
nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền
vững của nền kinh tế. Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng đã khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn
của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Với những yêu cầu bức thiết đó, trong công cuộc công nghiệp hóa hiện đại


hóa đất nước, hơn lúc nào hết chúng ta cần phải xem xét nguồn nhân lực Việt
Nam đang bộc lộ những ưu điểm gì, hạn chế nào và cần khắc phục như thế nào
để xây dựng một chính sách phát triển lâu bền, nâng cao dần chất lượng của
người lao động, phát huy được nhân tố con người để phục vụ tốt nhất cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Do nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề con người, đặc biệt là trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta như hiện nay nên em đã chọn
đề tài tiểu luận: “Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người và vấn đề
xây dựng nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở nước ta”.

NỘI DUNG
I- Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người


1.

Khái niệm con người
Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng, con người vừa là một thực thể tự nhiên,

vừa là thực thể xã hội, đồng thời là chủ thể cải tạo hoàn cảnh. Con người là một
thực thể “song trùng” tự nhiên và xã hội, là sự kết hợp cái tự nhiên (sinh học) và
cái xã hội. Hai yếu tố này gắn kết với nhau, đan quyện vào nhau, trong cái tự
nhiên chứa đựng tính xã hội và cũng không có cái xã hội tách rời cái tự nhiên.
- Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai góc độ sau đây:
Thứ nhất, con người là kết quả tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự
nhiên. Cơ sở khoa học của kết luận này đã được chứng minh bằng toàn bộ sự
phát triển của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của
Đácuyn về sự tiến hóa của các loài.
Thứ hai, con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự

nhiên cũng là “thân thể vô cơ của con người”. Do đó, những biến đổi của giới tự
nhiên và tác động của quy luật tự nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên
quy định sự tồn tại của con người và xã hội loài người, nó là môi trường trao đổi
vật chất giữa con người và giới tự nhiên; ngược lại, sự biến đổi và hoạt động của
con người, loài người luôn luôn tác động trở lại môi trường tự nhiên, làm biến
đổi môi trường đó. Đây chính là mối quan hệ biện chứng giữa sự tồn tại của con
người, loài người và các tồn tại khác của giới tự nhiên.
- Bản tính xã hội của con người được phân tích từ các góc độ sau đây:
Một là, xét từ giác độ nguồn gốc hình thành con người, loài người thì
không phải chỉ có nguồn gốc từ sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự nhiên mà
còn có nguồn gốc xã hội của nó. Mác đã nhiều lần so sánh con người với những
loài động vật có bản năng gần giống với con người. Và ông đã chỉ ra sự khác
biệt ở nhiều chỗ như chỉ có con người mới làm ra tư liệu sinh hoạt của mình, con
người biến đổi tự nhiên, con người là thước đo của vạn vật, con người biết lao
động và tạo ra công cụ sản xuất... Trong đó, nhân tố đầu tiên và cơ bản nhất là


nhân tố lao động. Chính nhờ lao động mà con người có khả năng vượt qua loài
động vật để tiến hóa và phát triển thành người, Đó là một trong những phát hiện
mới của chủ nghĩa Mác – Lênin, nhờ đó mà có thể hoàn chỉnh học thuyết về
nguồn gốc loài người mà tất cả các học thuyết trong lịch sử đều chưa có lời giải
đáp đúng đắn và đầy đủ.
Hai là, xét từ giác độ tồn tại và phát triển của con người, loài người thì sự
tồn tại của nó luôn luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội.
Xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng do đó mà có sự biến đổi tương ứng.
Ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân lại là tiền đề cho sự phát triển xã hội.
Ngoài mối quan hệ xã hội thì mỗi con người chỉ tồn tại với tư cách là một thực
thể sinh vật thuần túy mà không thể là “con người” với đầy đủ ý nghĩa của nó.
Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính thống
nhất của nó, quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi lẫn nhau, nhờ đó

tạo nên khả năng hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình làm ra lịch sử
của chính nó. Vì thế, nếu lý giải bản tính sáng tạo của con người đơn thuần chỉ
từ giác độ bản tính tự nhiên hoặc chỉ từ bản tính xã hội của nó thì đều là phiến
diện , không triệt để và nhất định cuối cùng sẽ dẫn đến những kết luận sai lầm
trong nhận thức và thực tiễn.
2.

Bản chất con người
Với quan điểm duy vật triệt để và phương pháp biện chứng, C.Mác và

Ph.Ăngghen đã tạo ra một bước ngoặt trong việc nhận thức bản chất con người.
Các ông đã xuất phát từ con người thực tiễn, con người hiện thực, con người cải
tạo thế giới thông qua hoạt động vật chất của mình. Đó là một động vật có tính
xã hội với tất cả những nội dung văn hóa – lịch sử của nó. Như vậy, các ông
không xem xét bản chất con người một cách cô lập và phiến diện mà đặt nó
trong mối quan hệ với tự nhiên và xã hội. Con người sống dựa vào tự nhiên như
hết thảy mọi sinh vật khác, nhưng con người sở dĩ trở thành “người” chính là ở


chỗ không chỉ sống dựa vào tự nhiên, Ph.Ăngghen là người đầu tiên đã chỉ ra
được bước chuyển biến từ vượn thành người là nhờ có lao động. Quá trình con
người cải tạo tự nhiên cũng là quá trình con người trở thành con người.
Ph.Ăngghen nói “lao động sáng tạo ra con người là theo ý nghĩa ấy”.
Trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc, C.Mác đã đưa ra luận điểm nổi
tiếng về bản chất con người: “ Bản chất con người không phải là một cái trừu
tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội”. Khác với quan niệm duy vật siêu
hình, quan niệm duy vật biện chứng về con người trong khi thừa nhận bản tính
tự nhiên của con người còn lý giải con người từ giác độ các quan hệ lịch sử xã
hội, từ đó phát hiện bản tính xã hội của nó. Hơn nữa, chính bản tính xã hội của

con người là phương diện bản chất nhất của con người với tư cách “người”, phân
biệt con người với các tồn tại khác của giới tự nhiên. Như vậy, có thể định nghĩa
con người là một thực thể tự nhiên nhưng đó là thực thể tự nhiên mang đặc tính
xã hội. Vậy, bản chất của con người, xét trên phương diện tính hiện thực của nó,
chính là “tổng hòa của các quan hệ xã hội”, bởi xã hội chính là xã hội của con
người, được tạo nên từ toàn bộ các quan hệ giữa người với người trên các mặt
kinh tế, chính trị, văn hóa,…
Theo quan điểm duy vật biện chứng về bản chất xã hội của con người thì
sự hình thành và phát triển của con người cùng những khả năng sáng tạo lịch sử
của nó cần phải được tiếp cận từ giác độ phân tích và lý giải sự hình thành và
phát triển của những quan hệ xã hội của nó trong lịch sử. Xét từ giác độ nhân
chủng học, tức phương diện bản tính tự nhiên, “người da đen” vẫn chỉ là người
da đen, nhưng chỉ trong quan hệ kinh tế - chính trị của xã hội chiếm hữu nô lệ
anh ta mới có thể bị biến thành “người nô lệ”, còn trong quan hệ kinh tế - chính
trị xã hội chủ nghĩa, anh ta là “người tự do”, làm chủ và sáng tạo lịch sử. Như
thế, không có một bản chất nô lệ cố hữu và bất biến của người da đen hay da


trắng, nó là sản phẩm tất yếu của những quan hệ kinh tế, chính trị - xã hội trong
những điều kiện lịch sử xác định, khi những quan hệ này thay đổi thì do đó cũng
có sự thay đổi bản chất của con người. Cũng do vậy, sự giải phóng bản chất con
người cần phải là hướng vào sự giải phóng những quan hệ kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội của nó, thông qua đó có thể phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của
con người.
Như vậy, không có con người phi lịch sử mà trái lại luôn gắn với những
điều kiện hoàn cảnh lịch sử nhất định. Cần phải từ quan niệm như vậy mới có
thể lý giải đúng đắn về khả năng sáng tạo lịch sử của con người. Sự hạn chế về
năng lực sáng tạo lịch sử của những con người tiểu nông không thể lý giải từ bản
tính tự nhiên của họ mà trái lại cần phải được lý giải từ giác độ tính hạn chế về
trình độ phát triển của các quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa của xã hội tiểu

nông. Như thế, con người, xét từ giác độ bản chất xã hội của nó, là sản phẩm của
lịch sử; lịch sử sáng tạo ra con người trong chừng mực nào thì con người lại
cũng sáng tạo ra lịch sử trong chừng mực đó. Đây là biện chứng của mối quan hệ
giữa con người – chủ thể của lịch sử với chính lịch sử do nó tạo ra và đồng thời
lại bị quy định bởi chính lịch sử đó. Từ đó có thể thấy hạn chế cơ bản của quan
niệm duy vật siêu hình về bản chất của con người chính là ở chỗ chỉ nhận thấy
tính quyết định của hoàn cảnh lịch sử đối với con người mà không nhận thấy
mối quan hệ sáng tạo của con người trong quá trình cải tạo hoàn cảnh và do đó
cũng chính là cải tạo bản thân nó. C.Mác đã khẳng định: “Cái học thuyết duy vật
chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo
dục… cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn
cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”. Trong tác phẩm
Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen cũng cho rằng: “Thú vật cũng có một lịch
sử, chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và lịch sử phát triển dần dần của chúng
cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng


làm ra và trong chừng mực mà chúng có tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì
điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của chúng.
Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao
nhiêu thì con người lại càng tự làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy
nhiêu”. Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người trong hoạt động thực
tiễn, thông qua hoạt động thực tiễn, tác động vào giới tự nhiên, làm cải biến giới
tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn và phát triển của nó thì đồng thời con người cũng
sáng tạo ra lịch sử của chính nó, thực hiện sự phát triển của lịch sử đó.
Thừa nhận ý nghĩa quyết định của mặt xã hội đối với việc hình thành bản
chất con người song không có nghĩa là chủ nghĩ Mác – Lênin coi nhẹ mặt tự
nhiên, phủ nhận cái sinh vật trong yếu tố cấu thành bản chất con người. Bởi vì
theo C.Mác “giới tự nhiên là thân thể của con người, thân thể mà với nó con
người phải ở lại trong quá trình thường xuyên giao tiếp để tồn tại. Nói rằng đời

sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên, nói như thế
chẳng qua chỉ có nghĩa là giới tự nhiên gắn liền với bản thân giới tự nhiên, vì
con người là một bộ phận của giới tự nhiên”.
Con người và con vật đều có những nhu cầu như ăn uống, tính dục,…
nhưng C.Mác đã từng vạch ra tính chất khác nhau của những nhu cầu ấy: con
người hoạt động theo bản năng,con người hành động theo ý thức. Và chính mặt
xã hội của con người đã làm cho mặt sinh vật trong con người phát triển ở trình
độ cao hơn những động vật khác. Con người sống, hoạt động không phải chỉ
theo bản năng di truyền sẵn có như các động vật thông thường mà chủ yếu theo
sự phát triển của văn hóa, của tiến bộ lịch sử - xã hội. Khác con vật, con người
ngoài chương trình di truyền, còn có chương trình kế thừa về mặt xã hội. Bằng
con đường giáo dục, chương trình này truyền lại kinh nghiệm của những thế hệ
trước cho các thế hệ sau. Những đặc điểm di truyền của từng người vừa bảo đảm


những thuộc tính sinh học, vừa bảo đảm để con người tiếp thu chương trình xã
hội.
Xuất phát từ những lập luận trên, kết luận tất yếu rút ra là: con người với
tư cách là sản phẩm của giới tự nhiên, là sự phát triển tiếp tục của giới tự nhiên,
mặt khác con người là một thực thể xã hội được tách ra như một lực lượng đối
lập với tự nhiên. Sự tác động qua lại giữa mặt sinh học và mặt xã hội trong con
người tạo thành bản chất con người
II-

Vấn đề xây dựng nguồn lực con người trong công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước
1. Vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xu hướng phát triển của các nước trên thế

giới. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta để đi lên mục tiêu “Xã
hội công bằng văn minh, dân giàu nước mạnh”..Sự thành công của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi ngoài môi trường chính trị ổn định, phải
có nguồn lực cần thiết như nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ
sở vật chất kỹ thuật. Các nguồn lực này quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng tham
gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng mức độ tác động và vai
trò của chúng đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa không giống nhau,
trong đó nguồn nhân lực phải đủ về số lượng, mạnh về chất lượng. Nói cách
khác nguồn nhân lực phải trở thành động lực phát triển. Nguồn nhân lực phát
triển thì tất yếu công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải tiến hành để đáp ứng nhu cầu
đó.
Để xem xét vai trò của nguồn lực con người, cần đặt nó trong quan hệ so
sánh với các nguồn lực khác và ở mức độ chi phối của nó đến sự thành bại của
công cuộc đổi mới đất nước, vai trò quyết định của con người được biểu hiện ở
những điểm sau:


Trước hết, các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa
lý, khí hậu có vai trò rất lớn trong sự phát triển của một quốc gia. Song những
yếu tố đó ở dưới dạng tiềm năng, tự chúng là những khách thể bất động. Chúng
chỉ trở thành nhân tố “khởi động”, và phát huy tác dụng khi kết hợp với nguồn
lực con người. Bởi lẽ con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý
chí, biết lợi dụng các nguồn lực khác, gắn kết chúng lại với nhau tạo thành sức
mạnh tổng hợp cùng tác động vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Các
nguồn lực khác là những đối tượng chịu sự cải tạo, khai thác của con người và
nói đúng thì chúng đều phục vụ nhu cầu lợi ích của con người nếu con người
biết cách tác động và chi phối. Vì thế, trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản
xuất, người lao động là yếu tố quan trọng nhất.
Thứ hai: Các nguồn lực khác là có hạn, có thể bị cạn kiệt khi khai thác.
Trong khi đó nguồn lực con người mà cốt lõi là trí tuệ lại là nguồn lực vô tận.

Tính vô tận, trí tuệ con người biểu hiện ở chỗ nó có khả năng không chỉ tái sinh
và tự sản sinh về mặt sinh học mà còn đổi mới, phát triển không ngừng về chất
trong con người xã hội, nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý. Đó là
cơ sở làm cho năng lực và nhận thức hoạt động thực tiễn của con người phát
triển như một quá trình vô tận.
Thứ ba: Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được
vật thể hóa, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Dự báo này của Mác đã và
đang trở thành hiện thực. Sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật công nghệ hiện đại đang dẫn các nền kinh tế của các nước công nghiệp
phát triển vận động đến nền kinh tế trí tuệ (mà gọi là tri thức). Ở những nước
này lực lượng sản xuất trí tuệ ngày càng phát triển và chiếm tỉ trọng cao. Nguồn
lợi mà họ thu được từ lao động chất xám chiếm tới ½ tổng giá trị tài sản quốc
gia. Giờ đây sức mạnh của trí tuệ đạt đến mức nhờ có cuộc cách mạng con người
có thể tạo ra những máy móc “bắt chước” hay mô phỏng theo những đặc tính trí


tuệ của chính con người. Rõ ràng bằng những kỹ thuật công nghệ hiện đại do
chính bàn tay khối óc con người sáng tạo ra mà ngày nay nhân loại đang chứng
kiến sự biến đổi thần kỳ của mình.
Thứ tư: Kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chính nước ta cho
thấy sự thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa phụ thuộc chủ yếu vào
việc hoạch định đường lối chính sách cũng như tổ chức thực hiện, nghĩa là phụ
thuộc vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Nguồn lực con người là yếu tố quyết định cho sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công hay thất bại nó
chỉ được trả lời khi yếu tố con người được đáp ứng. Việc định hướng đi vào sự
phát triển con người đòi hỏi phải nghiên cứu nhiều. Nghiên cứu con người để
phát triển con người, phát triển con người để đáp ứng các sự phát triển khác. Sự
phát triển con người quyết định sự phát triển của mọi mặt. Sự thách thức đối với
sự phát triển con người đó là quá trình công nghiệp hóa, do đó con người cần

phải được chăm lo, đào tạo về trí lực và thể lực.
2. Thực trạng và giải pháp trong việc xây dựng nguồn lực con người ở Việt

Nam hiện nay
Về những kết quả đạt được, những năm qua, kinh tế - xã hội Việt Nam
ngày càng phát triển, năng suất lao động ngày càng phát triển, năng suất lao
động ngày càng cao, đã tạo điều kiện cải thiện đáng kể đời sống nhân dân. Việt
Nam đã quan tâm tới giáo dục đào tạo, đã đưa tỉ lệ số người biết chữ từ 5% trước
đây, tới nay đã hơn 90% dân số biết chữ. Trình độ dân trí đã có tiến bộ nhiều so
với trước đây. Nhiều tỉnh đã thực hiện xóa nạn mù chữ, phổ cập tiểu học hay
trung học phổ thông cơ sở. Giáo dục miền núi, vùng sâu, vùng xa được quan tâm
ngày một tốt hơn. Đảng và nhà nước ta đã khẳng định giáo dục và đào tạo là
quốc sách hàng đầu, tạo ra điều kiện thuận lợi để “cả nước trở thành một xã hội
học tập”. Trong quá trình giảng dạy, học tập, đã tìm mọi biện pháp để thực hiện


“phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, để nâng
cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề”.
Mấy chục năm qua chúng ta đã đào tạo được một đội ngũ trí thức đông
đảo, hơn mười nghìn người có trình độ trên đại học, hơn một triệu người có trình
độ đại học đang công tác trong các lĩnh vực của đời sống xã hội; họ đã có những
đóng góp to lớn trong kháng chiến giải phóng dân tộc, trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội, ngày nay đang tích cực đóng góp cho sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Do trình độ học vấn được nâng lên, quan hệ xã hội,
giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng, cho nên, tính tích cực xã hội, tính tự chủ,
sự năng động sáng tạo của con người Việt Nam ngày càng được nâng lên.
Tuy nhiên, hạn chế trong việc phát huy nguồn lực con người ở Việt Nam,
trước hết chúng ta quá đề cao mặt xã hội, nặng động viên tinh thần; nhẹ mặt tự
nhiên, không quan tâm đúng mức tới nhu cầu vật chất, chưa thực sự chú ý tới lợi
ích cá nhân người lao động; có lúc, có nơi đã đồng hot lợi ích cá nhân với chủ

nghĩa cá nhân, nên không phát huy mạnh mẽ được tính tích cực xã hội của người
lao động, vai trò của cá nhân bị lu mờ, tài năng cá nhân không được khuyến
khích.
Hai là, tình trạng quan liêu trong bộ máy nhà nước, một bộ phận cán bộ
tham nhũng cửa quyền đang làm giảm nhiệt tình, hăng say lao động, tác động
không nhỏ tới niềm tin và sự tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu trau dồi đạo đức của
các thế hệ trẻ ngày nay.
Nhiều người muốn ở lại thành phố, bỏ nghề gây lãng phí cho xã hội và gia
đình. Cơ cấu đào tạo giữa các ngành, giữa các bậc học chưa hợp lý, do vậy dẫn
tới tình trạng vừa thừa vừa thiếu cán bộ như hiện nay, đặc biệt là cán bộ có trình
độ chuyên môn cao. Nhìn chung, việc đào tạo và sử dụng cán bộ ở nước ta hiện
nay còn nhiều bất cập. Tình trạng thiếu việc làm trong một bộ phận lao động trẻ
đang tạo ra sức ép lớn cho xã hội.


Ba là, sự kết hợp các nguồn lực ở nước ta còn nhiều hạn chế. Khí hậu Việt
Nam có nhiều thuận lợi cho việc trồng các loại cây nông, công nghiệp vùng
nhiệt đới, nhưng hiệu quả khai thác đất đai ở nước ta còn thấp, trong khi đó sức
lao động ở Việt Nam còn dôi dư khá nhiều. Tình trạng thiếu việc làm ở nông
thôn, một bộ phận người lao động thất nghiệp ở thành phố đang gây ra sự lãng
phí lớn về nguồn lực con người ở nước ta hiện nay.
Bốn là, năng lực lao động của người lao động Việt Nam còn hạn chế. Số
người lao động qua đào tạo còn ở mức thấp so với các nước trong khu vực.
Những người lao động được đào tạo còn có sự tách rời giữa lý luận và thực tiễn.
Người lao động còn mang nặng tư duy ý thức tác phong của người sản xuất nhỏ,
thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, v. v. Nhiều người đã được đào tạo nhưng lại không
làm đúng ngành nghề. Nếu chúng ta không có một nỗ lực phi thường bằng hành
động thực tế trong việc xây dựng và sử dụng nguồn lực con người thì sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa khó có thể thực hiện được thành công; và đó cũng
là lý do vì sao nhiều nhà khoa học kêu gọi phải tiến hành một cuộc cách mạng về

con người mà thực chất là cách mạng về chất lượng lao động.
Để tạo ra sự thay đổi căn bản về chất lượng con người cần có hàng loạt
những giải pháp thích hợp nhằm phát triển tốt yếu tố của con người trong sự
nghiệp đổi mới của đất nước.
Cần tập trung và chăm sóc bồi dưỡng, đào tạo phát huy sức mạnh của con
người Việt Nam thành lực lượng lao động xã hội, lực lượng sản xuất có đủ bản
lĩnh và kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, đủ sức xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc hợp tác cạnh tranh trong kinh tế thị trường mở cửa
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sức mạnh của con người
Việt Nam phải thể hiện thành sức mạnh của đội ngũ nhân lực, trong đó có bộ
phận nhân tài trên nền dân trí với cốt lõi là nhân cách nhân phẩm đậm đà bản sắc
dân tộc.


Nói đến nguồn lực con người là nói đến sức mạnh trí tuệ tay nghề.
Phương hướng chủ yếu của đổi mới giáo dục – đào tạo là phục vụ đắc lực cho
công cuộc phát triển đất nước. Các trường chuyên nghiệp và đại học tập trung
vào đào tạo nguồn nhân lực đủ khả năng tiếp cận công nghệ tiên tiến, như báo
cáo chính trị đại hội VIII đã chỉ ra là phải mau chóng làm cho khoa học và công
nghệ trở thành nền tảng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Giáo dục đại học
phải kết hợp với nghiên cứu khoa học, phát triển khoa học cả về cơ bản và ứng
dụng. Bảo đảm tập trung đào tạo đội ngũ nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại
hóa với diện đại trà, đồng thời đặc biệt chú ý có chính sách phát hiện, bồi dưỡng
và sử dụng người tài. Mau chóng tăng cường đội ngũ nhân lực có trình độ và
năng lực cao, từ các nghệ nhân làm các nghề truyền thống đến các chuyên gia
công nghệ cao. Giáo dục và đào tạo kết hợp chặt chẽ với khoa học kỹ thuật công
nghệ mới có thể phát huy tối đa tiềm năng nguồn lực con người. Tuy nhiên một
yếu tố cần được quan tâm, đó là cần coi trọng việc hoàn thiện đạo đức nhân cách
của mỗi người lao động.
Muốn có nguồn lực con người đáp ứng được công cuộc đổi mới, giáo dục

nhà trường cùng với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội phải làm tốt việc phát
động một cao trào học tập trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhằm đào tạo
nên những con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong
phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức. Đó là động lực của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đạ hóa, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Vậy mọi
chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước cần phải quán triệt việc chăm sóc,
bồi dưỡng và phát triển nhân tố con người.

KẾT LUẬN


Như vậy, quan điểm triết học của Mác – Lênin về con người và phát huy
nguồn lực con người là phong phú, sâu sắc và đúng đắn. Toàn bộ nội dung của
triết học Mác – Lênin không nhằm mục đích nào khác ngoài việc giải phóng giai
cấp, giải phóng dân tộc mà suy cho cùng là giải phóng con người, tạo phương
hướng để con người tự giải phóng, hướng tới tự do. Thực sự đã trở thành công
cụ hữu hiệu hay nói khác đi đó là nên tảng mà dựa vào đó các dân tộc và nhân
dân bị áp bức trên toàn thế giới tự giải phóng mình.
Nắm bắt và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lênin nói
chung và triết học Mác – Lênin nói riêng vào thực tiễn ngày nay, cuộc cách
mạng kỹ thuật công nghệ hiện đại đã dần dần đi đến khẳng định sự phát triển
con người là yếu tố quyết định của mọi sự phát triển. Trong sự phát triển con
người đặc biệt nhấn mạnh vai trò của trí tuệ và đi liền với nó là vai trò của giáo
dục đào tạo nguồn lực con người.
Đối với sự nghiệp đổi mới của nước ta phải coi nhân tố con người là nhân
tố quyết định, từ đó phải nâng cao dân trí cũng như chuẩn bị tốt nguồn nhân lực
có đủ trí tuệ và nghị lực, tay nghề và công nghệ, ý thức và tâm hồn thấm đượm
sâu bản sắc dân tộc, nhằm thực hiện sự chuyển mình từ một xã hội nông nghiệp
thành xã hội công nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các cuộc đại thắng
của đất nước đã đi vào lịch sử suy cho cùng cũng là thắng lợi của chính con

người Việt Nam. Bài học đó vẫn còn nguyên giá trị cho tới ngày nay. Với chiến
lược giáo dục đào tạo đúng đắn và khoa học của Đảng và Nhà nước, với trí tuệ
và phẩm chất của con người Việt Nam, chúng ta sẽ thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1.

Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác – Lênin, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2009

2.

Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, NXB Hồng
Đức, Hà Nội – 2008

3.

Phạm Minh Hạc, Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội – 1996

4.

Web:

/>
con-nguoi-va-van-de-con-nguoi-trong-su-nghiep-cong-nghiep-ho.33732.html




×