Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Ôn tập môn tài chính công 2, 3 tín chỉ, ngành Tài chính-Ngân hàng, Đại học Kinh tế Quốc dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.83 KB, 36 trang )

Table of Contents

1


Câu 1: Các quan điểm về cân đối ngân sách, nêu và nhược điểm của các quan điểm
trên. Việt Nam hiện nay đang áp dụng những quan điểm nào lấy số liệu minh họa.
I/ Các quan điểm cân đối ngân sách
1. Quan điểm ngân sách cân bằng.
“Mỗi năm số thu phải ngang bằng với số chi”. Quan điểm này bao gồm hai nguyên tắc
cơ bản: Một là, tổng số những khoản chi không được quá tổng số những khoản thu. Hai
là, tổng số những khoản thu của NS không bao giờ được lớn hơn tổng số những khoản
chi của NS. Ngoài ra, thuyết này còn đòi hỏi NSNN phải cân bằng ngay cả khi lập dự
toán và trong quá trình thực hiện.
Nhược điểm
- Chỉ đúng trong bối cảnh nền kinh tế hàng hóa còn sơ khai, hoặc trong điều
- Nêu ra
kiện nền kinh tế rất giàu có, ngân sách có đủ nguồn tài chính đảm bảo cho
được sự cần
thiết phải cân nhu cầu chi tiêu hằng năm của nhà nước hoặc trong môi trường kinh tế cạnh
tranh hoàn hảo.
đối thu chi
- Trong một số trường hợp, Thâm hụt hay Bội chi ngân sách là tốt.
NSNN
- Việc cân bằng NS cả trong khâu lập dự toán lẫn trong khâu thực hiện, và
- Duy trì tính đảm bảo tổng thu bằng tổng chi là rất khó khăn vì thu chi NSNN phụ thuộc
ổn định cho
vào nhiều yếu tố khác nhau như: tình hình kinh tế, chính trị xã hội...
nền kinh tế
- Nhà nước không có vai trò thực sự trong việc đảm bảo cân đối thu chi
NSNN.


- Để NS cân bằng tuyệt đối, Nhà nước phải tăng thu hoặc giảm chi. Tuy
nhiên cả hai phương pháp trên đều kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế.
Ưu điểm

2. Quan điểm về ngân sách chu kỳ

Quan điểm này cho rằng NSNN không cần cân bằng hàng năm mà nên cân bằng theo chu
kỳ, vì nền kinh tế phát triển theo chu kỳ, có thời kỳ tăng trưởng, có thời kỳ suy thoái.
Theo quan điểm này thì nó được áp dụng trong giai đoạn phồn thịnh hay nền kinh tế đang
tăng trưởng và việc cân bằng ngân sách nên theo chu kỳ tức là trong ngắn hạn nên biện
pháp tài trợ thâm hụt NS phù hợp sẽ là: giảm chi tiêu công, tăng thuế và kiện toàn hệ
thống thuế, vay nợ.
Ưu điểm

Nhược điểm

2


- Giúp nhà nước thực hiện được các chính sách kinh tế phù
hợp với từng giai đoạn.
- Vẫn tuân thủ nguyên tắc cân đối giữa số thu và số chi trong
NSNN
- Hạn chế việc sử dụng số bội thu vào những việc không cần
thiết
- Tạo lập quỹ dự trữ trong giai đoạn phồn thịnh để dự phòng
cho những năm thiếu hụt của thời kỳ suy thoái
- Thực hiện thâm hụt ngân sách để kích thích nền kinh tế
phục hồi và phát triển
3. Quan điểm về ngân sách thâm hụt.


- Thực hiện cân đối thu chi
theo chu kỳ vẫn còn gặp
nhiều khó khăn.
- Làm cho nền kinh tế phát
triển chậm lại
- Muốn cho nền kinh tế
phát triển đạt mức tiên tiến
của thế giới cần phải biết
chấp nhận thâm hụt ngân
sách.

Thâm hụt ngân sách, tức số chi vượt số thu ngân sách trong năm tài chính, sẽ được thực
hiện nhằm thúc đẩy hoạt động kinh tế đang trong tình trạng trì trệ. Tuy nhiên, thâm hụt
ngân sách cố ý sẽ có thể mang lại hậu quả nguy hại là gây ra lạm phát. Nhưng những
người ủng hộ thuyết này cho rằng “sự phục hồi kinh tế sẽ đem lại nguồn để NSNN trở về
tình trạng cân bằng và đẩy lùi lạm phát”.
Ưu điểm

Nhược điểm

- Thúc đẩy kinh tế, giảm gánh nặng ngân - Hậu quả: có thể gây ra lạm phát
sách.
- Việc vay nợ trong nước là không thích hợp. (Bởi
- Phù hợp trong giai đoạn kinh tế suy
nếu chính phủ huy động được nhiều tiền trong dân
thoái, biện pháp tài trợ thâm hụt ngân
thì phần tiền còn lại dành cho đầu tư phát triển sản
sách phù hợp: giảm chi tiêu công, vay nợ xuất kinh doanh của khu vực ngoài quốc doanh sẽ
(vay nợ nước ngoài), phát hành tiền.

giảm đi)
- Nhờ kích cầu hiệu quả, kinh tế sẽ dần
- Khu vực doanh nghiệp và dân cư sẽ mất đi một
dần hồi phục và khi đó nhà nước sẽ dần
nguồn vốn tương ứng có khả năng dành cho đầu
cắt giảm chi tiêu. Mặt khác, khi nên kinh tư phát triển kinh tế. Vay trong nước để bù đắp
tế bước sang giai đoạn hưng thịnh, thuế
thâm hụt ngân sách luôn chứa đựng nguy cơ kìm
sẽ đánh một cách lũy tiến. Kết quả là
hãm các hoạt động sản xuất kinh doanh của nền
tránh được lạm phát cao và NSNN sẽ
kinh tế.
cân bằng.
- Có thể gây tác động tiêu cực đến mọi mặt đời
sống chính trị, kinh tế và xã hội.
4. Quan điểm về ngân sách duy nhất và hai ngân sách.
Các nhà kinh tế học cổ điển rất tôn trọng nguyên tắc một ngân sách duy nhất để thuận
tiện cho việc thiết lập, thi hành và kiểm soát ngân sách về sau. Trong khi đó, các nhà kinh
tế học hiện đại lại cho rằng nên thực hiện hai ngân sách, có nghĩa là NSNN nên chia
thành 2 bộ phận: ngân sách điều hành để đảm bảo hoạt động của guồng máy nhà nước và
3


ngân sách đầu tư để tham gia vào lĩnh vực sản xuất đặc biệt của nhà nước. Về nguồn tài
trợ, vì ngân sách điều hành không tạo ra thu nhập nên phải tài trợ bằng các khoản thu
không hoàn lại. Trong khi ngân sách đầu tư có tạo ra thu nhập thì nên có thể được tài trợ
bằng khoản vay trong hay ngoài nước .
II/ Quan điểm về cân đối NS ở Việt Nam hiện nay
Hiện nay nền kinh tế của chúng ta đang trong giai đoạn thoát ra khỏi tình trạng suy
thoái, như vậy có thể ngầm hiểu rằng chúng ta đang theo quan điểm thứ 3 về cân đối

NSNN. Hoặc là, nhà nước chọn giảm thâm hụt ngân sách, kiềm chế lạm phát là mục tiêu
chiến lược bao trùm tất cả các mục tiêu khác, tiến tới cân bằng ngân sách thì sẽ duy trì
được thế ổn định của nền tài chính nhưng con đường phát triên kinh tế bị chậm lại. Hoặc
là, lấy công nghiệp hóa - hiện đại hóa làm mục tiêu trọng yếu để phát triển kinh tế, thì
mục tiêu kiềm chế thâm hụt ngân sách phải đặt xuống hàng thứ yếu cho đến khi năng suất
lao động xã hội tăng lên đạt tới mức tiên tiến của thế giới thì phải chấp nhận quan điểm
thâm hụt ngân sách.
Thực trạng cân đối NSNN:
Xuyên suốt giái đoạn 2009 - 2012, nước ta luôn trong tình trạng bội chi ngân sách.
Cụ thể tỷ lệ bội chi ngân sách so với GDP luôn ở mức cao: (>5% ) 5,36% năm 2012;
4,4% năm 2011; 5,5% năm 2010 và 6,9% trong năm 2009. Trừ năm 2011 với tỷ lệ 4,4%,
các năm còn lại tỷ lệ bội chi ngân sách quyết toán luôn lớn hơn mức tỷ lệ dự toán. Đặc
biệt là năm 2009 và 2010 khi trong 2 năm này tình hình lạm phát và suy thoái kinh tế
đang diễn ra trên toàn thế giới, khiến giá hàng hóa, nguyên vật liệu đầu vào tăng mạnh
đồng thời kỳ vọng về phát triển kinh tế giảm. Quan điểm của Nhà nước về cân đối
NSNN đó là giảm chi tiêu công và tỷ trọng vay nợ nước ngoài, ưu tiên bù đắp bội chi
bằng các khoản vay trong nước và bằng phát hành trái phiếu - đây cũng chính là quan
điểm phù hợp với nền kinh tế dần thoát ra khỏi lạc hậu và vươn lên phát triển công
nghiệp hóa như ở nước ta.

4


Mức bội chi ngân sách năm 2013 là 236.769 tỷ đồng, bằng 6,6% tổng sản phẩm
trong nước (GDP). Năm 2014 dự toán bội chi ngân sách bằng 5,3% GDP. Năm 2015, bội
chi ngân sách được điều hành trong phạm vi Quốc hội quyết định là 226 nghìn tỷ đồng,
tương đương 5% GDP. Tổng chi ngân sách Nhà nước 5 năm 2011-2015 xấp xỉ mục tiêu 5
năm đã đặt ra. Quy mô chi năm 2015 ước tăng trên 70% so với năm 2010. Tỷ trọng tổng
chi so GDP giảm dần từ mức trên 30% GDP năm 2010 xuống khoảng 26% GDP năm
2015. Trong khi đó, tổng chi NSNN (không bao gồm chi trả nợ gốc) năm 2016 theo dự

toán tăng tới 11,23% so với thực hiện năm 2015. Nhiệm vụ giữ bội chi NSNN năm 2016
không quá 4,95% GDP theo chuẩn Việt Nam và 3,85% theo chuẩn quốc tế không hề dễ
dàng. Rõ ràng, siết chặt kỷ luật tài khóa, đặc biệt là kỷ luật chi NSNN là vấn đề cấp thiết
và quan trọng nhất đối với Việt Nam hiện nay nhằm giảm áp lực cân đối NSNN và giảm
nhẹ gánh nặng nợ nần cho tương lai.

5


Câu 2. Thâm hụt ngân sách nhà nước và đo lường thâm hụt ngân sách
nhà nước ở Việt Nam
a. Khái niệm:
Thâm hụt ngân sách (hay còn gọi là bội chi ngân sách nhà nước) là tình trạng các khoản
chi của ngân sách nhà nước lớn hơn các khoản thu, phần chênh lệch chính là thâm hụt
ngân sách.
b. Phân loại:
* Thâm hụt cơ cấu: Là các khoản thâm hụt được quyết định bởi những chính sách tùy
biến của chính phủ như quy định thuế suất, trợ cấp bảo hiểm xã hội hay quy mô chi tiêu
cho giáo dục, quốc phòng,…
* Thâm hụt chu kì: là khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng của chu kì kinh tế, nghĩa là
bởi mức độ cao hay thấp của sản lượng và thu nhập quốc dân.
3. Nguyên nhân dẫn đến thâm hụt ngân sách nhà nước
a. Nguyên nhân khách quan:
* Do tác động của chu kì kinh doanh:
* Do tác động của thiên tai chiến tranh, dịch bệnh làm giảm thu, tăng chi dẫn đến thâm
hụt:
b. Nguyên nhân chủ quan:
* Do quản lí kém dẫn đến thất thoát nguồn thu:
* Thất thu thuế:
* Đầu tư công kém hiệu quả:

* Động cơ tham nhũng dẫn đến những vi phạm về quản lí, kéo theo hậu quả lãng phí
ngân sách nhà nước.
* Do tác động của chính sách cơ cấu thu chi của nhà nước:
* Do cơ cấu thu chi bất hợp lí:
6


* Chưa chú trọng mối quan hệ giữa chi đầu tư và chi thường xuyên:
* Chi ngân sách nhà nước tăng cao không tương ứng với khoản thu:
4. Tác động của thâm hụt ngân sách
a. Tích cực:
Thâm hụt ngân sách có thể được sử dụng như là một công cụ của chính sách tài khóa để
tăng trưởng kinh tế:
b. Tiêu cực:
* Dẫn đến lãi suất trên thị trường có xu hướng tăng:
* Tăng tỉ lệ thất nghiệp:
* Làm thâm hụt cán cân thương mại (xuất khẩu giảm, nhập khẩu tăng):
* Các ảnh hưởng khác:
* Làm gia tăng tỷ lệ lạm phát:
* Tăng gánh nặng nợ nần của quốc gia:
III. Giải pháp cho thâm hụt Ngân sách nhà nước
1. Phát hành tiền
2. Tăng thu giảm chi
3. Vay nợ: vay trong nước và vay nước ngoài
4. Sử dụng dự trữ ngoại tệ
5. Tăng thuế
Câu 3: Nguyên nhân thâm hụt ngân sách, Thực trạng
1. Nhóm nguyên nhân khách quan
1.1. Tác động của chu kì kinh doanh


7


Ở giai đoạn khủng hoảng làm thu nhập của Nhà nước co lại, nhưng nhu cầu chi lại tang
lên để giải quyết những khó khăn mới của kinh tế xã hội. Điều đó làm mức bội chi
NSNN tăng lên.Ở giai đoạn kinh tế phồn thịnh thu Nhà nước sẽ tăng lên, trong khi chi
không phải tăng tương ứng. Điều đó làm giảm mức bội chi NSNN. Mức bội chi do tác
động của chu kì kinh doanh gây ra gọi là mức bôi chi chu kì.
1.2. Do hậu quả của các tác nhân gây ra
Xã hội luôn phải đối mặt với những rủi ro thiên tai, dịch bệnh và đôi khi phải đối mặt với
chính những rủi ro do con người gây ra như chiến tranh, khủng bố, tình trạng dân số gia
tăng … mặc dù lập dự toán ngân sách NN đã có những biện pháp đề phòng nhưng đôi khi
những rủi ro xảy ra vượt quá dự đoán để xử lí tình trạng khẩn cấp nhằm ổn định các hoạt
động kinh tế xã hội, Nhà nước phải tăng chi và điều đó xảy ra ngoài mong muốn của nhà
nước
2. Nhóm các nguyên nhân chủ quan
2.1. Do cơ cấu thu chi ngân sách thay đổi
Khi nhà nước thực hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng sẽ làm tăng
mức bội chi NSNN. Ngược lại khi giảm đầu tư và tiêu dùng của Nhà nước thì mức bội
chi sẽ giảm bớt. Mức bội chi do tác động của cơ cấu chính sách thu chi đó gọi là bội chi
cơ cấu
2.2. Do quản lí điều hành NSNN không hợp lí
- Thất thu thuế Nhà nước
Thuế là nguồn thu chính và bền vững nhất cho NSNN bên cạnh những nguồn thu khác
như tài nguyên, thu từ doanh nghiệp nhà nước, vay, nhận viện trợ…tuy nhiên do hệ thống
pháp luật còn nhiều bất cập, sự quản lí chưa chặt chẽ đã tạo kẽ hở cho cá nhân tổ chức lợi
dụng để tránh thuế, trốn thuế gây thất thu một nguồn ngân sách đáng kể.
Bên cạnh đó việc giãn thuế, giảm thuế và miễn thuế một mặt giúp các doanh nghiệp có
thêm nguồn vốn đầu tư, duy trì mở rộng sản xuất. Tuy nhiên việc miễn thuế, giảm thuế
hoặc chậm thu làm ảnh hưởng tới các khoản chi ngân sách khác làm thâm hụt NSNN.

- Đầu tư công kém hiệu quả
Trong những năm gần đây nước ta đã tiếp nhận một nguồn vốn lớn từ nước ngoài. Nhằm
đẩy mạnh đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và các công trình trọng điểm quốc gia phục vụ
lợi ích phát triển của đất nước. Tuy nhiên tình trạng đầu tư dàn trải gây lãng phí ngân
sách ở địa phương vẫn chưa được khắc phục triệt để, tiến độ thi công những dự án trọng
điểm quốc gia còn chậm, chưa hiệu quả gây lãng phí nguồn ngân sách nhà nước và kìm
8


hãm sự phát triển của các vùng miền, nguyên nhân chính gây thâm hụt ngân sách Nhà
nước.
Cùng với đó nền hành chính công, dịch vụ công của ta kém hiệu quả,càng làm thâm hụt
ngân sách thêm trầm trọng.
- Nhà nước huy động vốn để kích cầu
Chính phủ kích cầu qua 3 nguồn tài trợ chính đó là: phát hành trái phiếu Chính phủ, miễn
giảm thuế, sử dụng quỹ dự trữ Nhà nước. Sử dụng gói giải pháp kích cầu một mặt kích
thích tiêu dùng, tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên sẽ làm mức thâm hụt ngân sách cao 812% GDP.
- Chưa chú trọng giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên
Đây là một trong những nguyên nhân gây căng thẳng về ngân sách áp lực bội chi ngân
sách, (nhất là ngân sách các địa phương). Chúng ta có thể thấy thông qua cơ chế phân cấp
nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách và cơ chế bổ sung từ ngân sách cấp
trên cho ngân sách cấp dưới. Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu ứng với
các nhiệm vụ chi cụ thể và xác định cụ thể trong dự toán ngân sách hằng năm.Vì vậy khi
các địa phương vay vốn để đầu tư sẽ đòi hỏi để đảm bảo nguồn chi thường xuyên để bố
trí cho việc vận hành các công trình khi hoàn thành và đi vào hoạt động cũng như chi phí
duy trì, bảo dưỡng các công trình làm giảm hiệu quả đầu tư. Chính điều đó làm căng
thẳng về ngân sách. Để có được kinh phí hoặc phải đi vay để duy trì hoạt động hoặc yêu
cầu cấp trên để bổ sung ngân sách, cả hai đều gây áp lực bội chi NSNN.
- Quy mô chi tiêu của Chính phủ quá lớn.
Tăng chi tiêu của chính phủ một mặt giúp nền kinh tế tăng trưởng tạm thời trong ngắn

hạn nhưng lại tạo ra những nguy cơ bất ổn lâu dài như lạm phát và rủi ro tài chính do sự
thiếu hiệu quả của các khoản chi tiêu công và thiếu cơ chế giám sát đảm bảo sự hoạt động
lành mạnh của hệ thống tài chính. Đa số các nhà kinh tế thường thống nhất rằng chi tiêu
của chính phủ vượt quá một ngưỡng nào đó sẽ làm cản trở tăng trưởng kinh tế gây ra
phân bổ nguồn lực một cách không hiệu quả gia tăng thâm hụt NSNN và lạm phát.
3. Nguyên nhân thâm hụt NSNN ở một số quốc gia trên thế giới
3.1. Nhật Bản
Tại Nhật Bản, từ thập kỉ 1990 trở đi, tài chính công của Nhật Bản ngày càng đi xuống và
trở thành quốc gia có vấn đề tài chính quan trọng nhất trong số các quốc gia phát triển.
Tuy là nước có nền kinh tế đứng thứ 3 thế giới nhưng Nhật Bản lại là nước có tỉ lệ nợ
công cao nhất trong số những nước phát triển, lên tới 10 nghìn tỉ USD gấp đôi GDP (5
9


nghìn tỉ USD). Theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF tổng nợ của chính phủ Nhật Bản đã lên tới
229% GDP (2013).
Nguyên nhân thâm hụt là do:
- Sự suy thoái kéo dài và sự suy giảm nguồn thu từ thuế.
- Chính phủ thực thi hàng loạt chính sách giảm thuế từ thập niên 90.
- Sai lầm trong lý thuyết kinh tế học của Keynes dựa vào bàn tay nhà nước để cải thiện đà
phục hồi nền kinh tế.
- Sự gia tăng trong chi tiêu phúc lợi xã hội của Chính phủ vì sự già hóa dân số.
3.2. Mỹ
Tại Mỹ, hiện nay số nợ của Chính phủ đã lên đến gần 16 nghìn tí USD, tương đương
khoảng 104% GDP hằng năm và gấp đôi con số vào năm 1988. Như vậy có nghĩa là hiện
nay mỗi người dân Mỹ phải gánh hơn 50 nghìn USD nợ công.
Nguyên nhân là do:
- Hiệu quả của các gói kích thích khổng lồ là chưa cao. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền
tệ đánh dấu bằng sự sụp đổ của thị trường bất động sản. 11/2008, Fed tung ra gói kích
thích đầu tiên QE1 nhằm thúc đẩy nền kinh tế. Đến năm 2011, Tổng thống Obama đã đưa

ra gói kích thích lên tới 447 tỉ USD,
mặc dù các gói kích thích giúp cho nền kinh tế có nhiều khởi sắc tuy nhiên đã làm nợ
công phình to, ngân sách thâm hụt, gây bất lợi cho nền kinh tế Mỹ trong dài hạn.
- Chính sách thuế bất hợp lý, chủ yếu thuế ở MỸ thấp với mục tiêu kích thích kinh tế
tăng trưởng chứ không theo đuổi chính sách đánh thuế cao với mục đích tăng thu, đồng
thời chính sách vay nợ nước ngoài cao để tăng trưởng kinh tế nên ngân sách bị thâm hụt.
II. Thực trạng guyên nhân dẫn đến thâm hụt NSNN ở Việt Nam
2.1. Do cơ cấu thu chi ngân sách.
Nguồn thu NSNN của Việt Nam khá ổn định, dao động trong khoảng 35% - 40% GDP,
tuy nhiên trong cơ cấu nguồn thu NSNN Việt Nam, có nhiều khoản thu chủ yếu nhưng lại
không ổn định có xu hướng giảm do chúng phụ thuộc quá nhiều vào bên ngoài hay là
những khoản thu có tính giới hạn. Nước ta có ba nguồn thu chủ yếu là thu từ nội địa, thu
từ dầu thô, thu từ viện trợ không hoàn lại. Trong đó nguồn thu từ viện trợ không hoàn lại
năm 2006 chiếm 0,81% GDP nhưng đến năm 2013 chỉ chiếm 0,31%, như vậy trong giai
10


đoạn 2006-2010 giảm từ trung bình 0,61%GDP xuống còn trung bình 0,31% GDP giai
đoạn từ 2010-2013. Hay nguồn thu từ dầu thô, dầu thô là 1 lại tài nguyên khoáng sản hữu
hạn. Từ năm 2006 đến nay tỷ trọng của dầu thô trong GDP liên tục giảm từ 8,56% năm
2006 xuống còn 3,36% năm 2013. Hiện nay, tính đến tháng 1/2016, giá dầu thô đang là
30$/thùng, mức giảm kỷ lục nhất trong vòng 15 năm trở lại đây. Với tình trạng hiện nay,
có thể trong vòng vài năm tới, nguồn thu từ dầu thô sẽ không còn là nguồn thu NSNN
chủ yếu.
Trái ngược lại với nguồn thu NSNN, các nguồn chi chủ yếu của NSNN nhìn chung đều
có xu hướng tăng lên.Nguồn chi NSNN bao gồm chi thường xuyên và chi đầu tư phát
triển. Tuy không thể hiện rõ sự tăng mạnh qua các năm nhưng có thể thấy từ năm 20062010, chi thường xuyên chiếm 17,81% trong tổng GDP đến năm 2011-2013, chi thường
xuyên chiếm 19,51% tổng GDP. Có thể nhận định rằng nguyên nhân của tình trạng thâm
hụt cao kéo dài trong nhiều năm qua đó là do tổng chi NSNN quá cao, tổng thu thấp
không đủ để bù đắp. Tổng chi NSNN của Việt Nam từ năm 2006 đến nay dao động ở

khoảng từ 25%-28% GDP (theo thống kê của ADB ). Con số này cao gấp 1.4 lần của
Thái Lan và 1.9 lần của Singapore.
2.2. Do điều hành ngân sách nhà nước không hợp lý
- Thất thu thuế nhà nước
Do hệ thống pháp luật nước ta còn nhiều bất cập, sự quản lý chưa chặt chẽ đã tạo ra
những kẽ hở cho các cá nhân, tổ chức lợi dụng để trốn thuế, tránh thuế. Việc trốn thuế,
tránh thuế ở Việt Nam thường diễn ra dưới nhiều hình thức và ở nhiều loại thuế khác
nhau, chẳng hạn như tổ chức cá nhân mua bán hoá đơn đầu vào khống(thuế GTGT);
doanh nghiệp không khai báo đầy đủ doanh thu hay khai khống chi phí (thuế TNDN);
chuyển dịch thu nhập; lợi dụng những ưu đãi của pháp luật thuế, chuyển giá.
Theo số liệu của Bộ Tài chính, hiện nay có khoảng 20-30% trong tổng số doanh nghiệp
FDI đang hoạt động trên các địa bàn kê khai có kết quả kinh doanh lỗ liên tiếp trong 2-3
năm, thậm chí là 10 năm, tuy nhiên dù bị lỗ nhưng các doanh nghiệp này vẫn liên tục mở
rộng SX-KD và doanh thu liên tục tăng. Trường hợp điển hình có những biểu hiện “đáng
ngờ” về chuyển giá, phải nói đến Công ty Coca-Cola Việt Nam. Trong hơn 20 năm đầu
tư, kinh doanh tại Việt Nam, Coca-Cola liên tục báo lỗ, lỗ lũy kế tính đến 30/9/2011 của
công ty này đã lên tới 3.768 tỷ đồng, vượt cả số vốn đầu tư ban đầu là 2.950 tỷ đồng. Do
lỗ liên tục như vậy nên Coca-Cola Việt Nam không phải đóng thuế thu nhập DN, trong
khi doanh thu liên tục tăng từ 20-30%/năm. Tuy lỗ lớn như vậy nhưng DN này đã có kế
hoạch đầu tư thêm 300 triệu USD tại Việt Nam.
Trong 6 tháng đầu năm 2013, ngành thuế đã thực hiện thanh tra, kiểm tra 18.198 DN, số
thuế xử lý tăng thu qua thanh tra, kiểm tra là 3.185,9 tỷ đồng, số tiền nộp vào NSNN là

11


2.342,8 tỷ đồng. Trong đó, ngành đã thanh tra, kiểm tra 382 DN lỗ, có dâu hiệu chuyển
giá, truy thu và truy hoàn phạt 127,24
tỷ đồng, giảm lỗ qua thanh tra là 444,1 tỷ đồng. Tuy nhiên đây chỉ là một góc của bức
tranh toàn cảnh về thực trạng thất thu thuế ở VN. Hiện nay, ngành thuế đã chuyển sang

cơ chế tự khai, tự nộp nhằm khắc phục những hạn chế của các chính sách Nhà nước.
- Đầu tư công kém hiệu quả
Đầu tư công có vai trò quan trọng trong việc phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật,
kinh tế và xã hội, tạo động lực thúc đẩy phát triển đất nước. Phần vốn này được Nhà
nước giao cho các bộ, ngành và các địa phương, các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang, tổ
chức chính trị và chính trị - xã hội quản lý, sử dụng theo quy định của pháp luật.
Tính chung trong giai đoạn 2001 - 2005, tổng vốn đầu tư công đạt khoảng 286 nghìn tỉ
đồng, chiếm trên 23% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; trong giai đoạn 2006 - 2010 ước đạt
trên 739 nghìn tỉ đồng, khoảng trên 24% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Như vậy, tỷ trọng
vốn nhà nước đầu tư cho các dự án công, các chương trình mục tiêu là rất lớn. Bên cạnh
đó, trong những năm gần đây, nước ta đã tiếp nhận một lượng vốn rất lớn từ bên ngoài.
Tuy nhiên trong thực tế, tình trạng đầu tư dàn trải gây lãng phí ở các địa phương vẫn
chưa khắc phục triệt để, tiến độ thi công những dự án trọng điểm quốc gia còn chậm và
thiếu hiệu quả, cơ cấu đầu tư chưa hợp lý đã gây lẵng phí nguồn ngân sách nhà nước và
kiềm hãm sự phát triển của các vùng miền, là nguyên nhân chính gây ra thâm hụt ngân
sách nhà nước.
Nhìn vào Niên giám Thống kê Việt Nam năm 2010, sẽ thấy cơ cấu vốn đầu tư phát triển
từ ngân sách nhà nước có sự bất cập. Trong tổng số vốn là 316.285 tỷ đồng, thì số vốn
dành cho phát triển kinh tế chiếm tới 77,1%. Còn số vốn đầu tư vào các ngành thuộc lĩnh
vực xã hội, liên quan trực tiếp tới phát triển con người lại có chiều hướng giảm, từ 18,6%
năm 2000 xuống còn 15,2% năm 2010. Những con số này thể hiện rõ chính sách tập
trung đầu tư phát triển kinh tế và tiết giảm đầu tư cho xã hội. Đây là một xu thế không
hợp quy luật.Điểm bất hợp lý là nhiều ngành quan trọng của đất nước và là tiền đề cho sự
phát triển bền vững chiếm tỷ trọng thấp trong nguồn vốn đầu tư. Điển hình là: giáo dục
và đào tạo chỉ chiếm 4,28%; khoa học, công nghệ chiếm 1,17% tổng vốn đầu tư năm
2011. Ngược lại, những ngành có khả năng gây nhiều thiệt hại về môi trường lại chiếm tỷ
trọng lớn trong nguồn vốn đầu tư của nhà nước, như ngành khai thác mỏ chiếm từ 6%9% trong tổng vốn đầu tư năm 2011.
- Nhà nước huy động vốn để kích cầu
Chính phủ kích cầu qua 3 nguồn tài trợ chính: Phát hành trái phiếu chính phủ, miễn giảm
thuế và sử dụng quỹ dự trữ nhà nước.


12


Tài trợ thông qua phát hành trái phiếu trong nước có thể chia thành vay nợ từ công chúng
hoặc từ hệ thống các ngân hàng thương mại. Giả sử Chính phủ phát hành trái phiếu ra
công chúng và dùng số tiền huy động được để tài trợ cho gói kích cầu. Việc tài trợ cho
gói kích cầu này thông qua vay nợ sẽ đẩy lãi suất lên cao và gây sức ép xấu đến khu vực
tư nhân và tăng trưởng kinh tế.
Tài trợ qua miễn, giảm, hoãn, chậm việc thu thuế để doanh nghiệp có nguồn đầu tư. Biện
pháp nay có những nhược điểm nhất định. Thứ nhất, trong tình hình bội chi ngân sách
như hiện nay (khoảng 5%/năm), việc miễn giảm thuế và chậm thu sẽ ảnh hưởng đến các
khoản chi ngân sách khác và hạn chế tác động của việc kích cầu. Thứ hai, tổng nguồn thu
từ thuế thu nhập doanh nghiệp hiện nay vào khoảng 100 ngàn tỷ đồng, do vậy lượng thuế
mà các doanh nghiệp được hưởng miễn, giảm, hay chậm thu sẽ không nhiều.
Sử dụng quỹ dự phòng để tài trợ cho gói kích cầu thì quyết toán ngân sách nhà nước các
năm cho thấy nguồn quỹ dự phòng là quá nhỏ so với gói kích cầu.
Chính phủ có thể kết hợp các nguồn tài trợ nói trên để tài trợ cho gói kích cầu, với giả
định Chính phủ tiếp tục duy trì cơ cấu các khoản thu - chi khác và mức thâm hụt ngân
sách hàng năm như hiện nay, và tìm các nguồn khác để tài trợ cho gói kích cầu. Tuy
nhiên để huy động nguồn tài trợ này Chính phủ
phải chấp nhận mức thâm hụt NSNN là 7-10% (Theo phân tích của nhóm nghiên cứu từ
Trung tâm Nghiên cứu kinh tế và chính sách về nguồn tài trợ cho gói kích cầu 1 tỷ USD)
- Chưa chú trọng đến cơ cấu chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên
Đây là một trong các nguyên nhân gây căng thẳng về ngân sách, áp lực bội chi ngân sách.
Có thể thấy rằng cơ cấu chi thường xuyên bao gồm rất nhiều lĩnh vực nhưng trong đó chi
cho Quản lý hành chính là lớn nhất trung bình chiếm khoảng 10% trên tổng chi thường
xuyên, điều đó cũng chứng tỏ bộ máy nhà nước quá cồng kềnh, và một số bộ phận sở hữu
nguồn lực tương đối lớn. Việc đầu tư cho giáo dục và y tế (2 ngành mà bất cứ nước nào
cũng phải phát triển nhất) có lẽ cũng chưa thực sự được đầu tư một cách công bằng và

xuyên suốt. Trung bình chi cho giáo dục chỉ là xấp xỉ 4,5% cho y tế chưa tới 3% tính trên
tổng chi. Con số này chưa nói lên tất cả nhưng một phần đánh giá tương đối đúng về thực
trạng nền giáo dục và y tế ở nước ta hiện nay. Chúng ta có thể thấy, thông qua các cơ chế
phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các ngân sách và cơ chế bổ sung ngân sách từ
cấp trên cho cấp dưới. Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu ứng với các
nhiệm vụ chi cụ thể và đước xác đinh cụ thể trong dự toán hằng năm. Vì vậy, khi các địa
phương vay vốn để đầu tư sẽ đòi hỏi đảm bảo nguồn chi thường xuyên để bố trí cho việc
vận hành các công trình khi hoàn thảnh và khi đi vào hoạt động cũng như chi phí duy tu,
bảo dưỡng các công trình, làm giảm hiệu quả đâu tư. Chính điều đó luôn tạo sự căng
thẳng về ngân sách. Để có nguồn kinh phí hoặc phải đi vay để duy trì hoạt động hoặc yêu
cầu cấp trên bổ sung ngân sách, cả 2 trường hợp đều tạo áp lực bội chi NSNN.
13


14


Câu 5 Tổ chức cân đối ngân sách ở Việt Nam
(nguyên tắc, biện pháp) theo luật NSNN 2015)
1, Nguyên tắc
1.1. Các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác theo quy định của pháp luật
được tổng hợp đầy đủ vào cân đối ngân sách nhà nước, theo nguyên tắc không gắn với
nhiệm vụ chi cụ thể. Trường hợp có khoản thu cần gắn với nhiệm vụ chi cụ thể theo quy
định của pháp luật thì được bố trí tương ứng từ các khoản thu này trong dự toán chi ngân
sách để thực hiện. Việc ban hành chính sách thu ngân sách phải bảo đảm nguyên tắc cân
đối ngân sách trong trung hạn, dài hạn và thực hiện các cam kết về hội nhập quốc tế.
1.2. Ngân sách nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí
phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích lũy ngày càng cao để chi đầu tư
phát triển; trường hợp còn bội chi thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tiến
tới cân bằng thu, chi ngân sách; trường hợp đặc biệt Chính phủ trình Quốc hội xem xét,

quyết định. Trường hợp bội thu ngân sách thì được sử dụng để trả nợ gốc và lãi các
khoản vay của ngân sách nhà nước.
1.3. Vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước chỉ được sử dụng cho đầu tư phát triển,
không sử dụng cho chi thường xuyên.
1.4. Bội chi ngân sách trung ương được bù đắp từ các nguồn sau:
a) Vay trong nước từ phát hành trái phiếu chính phủ, công trái xây dựng Tổ quốc và các
khoản vay trong nước khác theo quy định của pháp luật;
b) Vay ngoài nước từ các khoản vay của Chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế và phát
hành trái phiếu chính phủ ra thị trường quốc tế, không bao gồm các khoản vay về cho vay
lại.
1.5. Bội chi ngân sách địa phương:
a) Chi ngân sách địa phương cấp tỉnh được bội chi; bội chi ngân sách địa phương chỉ
được sử dụng để đầu tư các dự án thuộc kế hoạch đầu tư công trung hạn đã được Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định;
b) Bội chi ngân sách địa phương được bù đắp bằng các nguồn vay trong nước từ phát
hành trái phiếu chính quyền địa phương, vay lại từ nguồn Chính phủ vay về cho vay lại
và các khoản vay trong nước khác theo quy định của pháp luật;

15


c) Bội chi ngân sách địa phương được tổng hợp vào bội chi ngân sách nhà nước và do
Quốc hội quyết định. Chính phủ quy định cụ thể điều kiện được phép bội chi ngân sách
địa phương để bảo đảm phù hợp với khả năng trả nợ của địa phương và tổng mức bội chi
chung của ngân sách nhà nước.
1.6. Mức dư nợ vay của ngân sách địa phương:
a) Đối với thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh không vượt quá 60% số thu ngân
sách địa phương được hưởng theo phân cấp;
b) Đối với các địa phương có số thu ngân sách địa phương được hưởng theo phân cấp lớn
hơn chi thường xuyên của ngân sách địa phương không vượt quá 30% số thu ngân sách

được hưởng theo phân cấp;
c) Đối với các địa phương có số thu ngân sách địa phương được hưởng theo phân cấp nhỏ
hơn hoặc bằng chi thường xuyên của ngân sách địa phương không vượt quá 20% số thu
ngân sách được hưởng theo phân cấp.
2. Biện pháp
- Khống chế số bội chi NSNN luôn nhỏ hơn chi đầu tư phát triển. Do nhu cầu đầu tư nhà
nước lớn làm cho ngân sách nhà nước bội chi, việc tìm kiếm nguồn bù đắp thâm hụt ngân
sách nhà nước cũng chính là việc tìm kiếm nguồn vốn đầu tư cho phát triển.
- Bội chi ngân sách nhà nước được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và ngoài nước.
Vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ sử dụng cho
mục đích phát triển và bảo đảm bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn.
- Ngân sách địa phương được cân đối sao cho tổng số chi không vượt quá tổng số thu;
trường hợp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhu cầu đầu tư xây dựng công trình
kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh bảo đảm, thuộc danh mục đầu tư trong
kế hoạch 5 năm đã được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định, nhưng vượt quá khả
năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh năm dự toán, thì được
phép huy động vốn trong nước và phải cân đối ngân sách cấp tỉnh hàng năm để chủ động
trả hết nợ khi đến hạn. Mức dư nợ từ nguồn vốn huy động không vượt quá 30% vốn đầu
tư xây dựng cơ bản trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh.
Câu 6 Bội chi ngân sách nhà nước
1. Khái niệm bội chi ngân sách nhà nước

16


Bội chi NSNN là tình trạng chi NSNN vượt quá chi dự toán trong một năm tài khóa, là
hiện tượng NSNN không cân đối thể hiện trong sự thiếu hụt giữa cung và cầu về nguồn
lực tài chính của nhà nước.
2. Nguyên nhân bội chi ngân sách
2.1. Các nguyên nhân khách quan

-Do kinh tế suy thoái mang tính chu kỳ: Do nền kinh tế suy thoái và khủng hoảng, của cải
vật chất tạo ra ít, năng suất lao động của xã hội thấp, thất nghiệp gia tăng, làm cho nguồn
thu vào ngân sách nhà nước bị giảm sút, nhưng nhu cầu chi tiêu lại gia tăng để giải quyết
những vấn đề khó khăn mới về kinh tế- xã hội như: trợ cấp xã hội, các khoản chi để phục
hồi nền kinh tế,… đồng thời nhà nước còn chi tiền để phục hồi nền kinh tế. Điều đó dễ
dẫn đến tình trạng thu không đủ chi và ngân sách nhà nước bị thâm hụt.
-Thiên tai, tình hình bất ổn của an ninh thế giới: Tình hình bất ổn của an ninh thế giới và
diễn biến phức tạp của thiên tai sẽ làm gia tăng nhu cầu chi cho quốc phòng và an ninh
trật tự xã hội, gia tăng nhu cầu chi NSNN để khắc phục hậu quả của thiên tai.
2.2. Các nguyên nhân chủ quan
-Do quản lý và điều hành NSNN bất hợp lý: Quản lý và điều hành NSNN bất hợp lý được
thể hiện qua việc đánh giá và khai thác nguồn thu chưa tốt; phân bổ và sử dụng NSNN
còn nhiều bất cập, gây thất thoát, lãng phí nguồn lực tài chính nhà nước; phân cấp quản
lý NSNN chưa khuyến khích địa phương nỗ lực trong khai thác nguồn thu và phân bổ chi
tiêu hiệu quả. Kết quả là thu NSNN không đủ để trang trải nhu cầu chi tiêu.
-Do nhà nước chủ động sử dụng bội chi như một công cụ của chính sách tài khóa để kích
cầu -chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng tạo sự tăng trưởng cho nền kinh tế,
khắc phục tình trạng suy thoái của nền kinh tế.
-Do cách đo lường bội chi ngân sách Ở Việt Nam hiện nay, cách tính bội chi khác với
thông lệ quốc tế ở điểm là Việt Nam tính vào chi NSNN tất cả các khoản chi trả nợ cả
gốc và lãi. Cách tính này cho kết quả định lượng bội chi cao hơn so với cách tính không
bao gồm trả nợ gốc.
3. Thực trạng bội chi ngân sách
Trong những năm 2011-2015, tỉ lệ thâm hụt ngân sách ở Việt Nam luôn nằm ở ngưỡng
trên dưới 5.5% GDP và có xu hướng không ổn định. Chi ngân sách luôn ở mức cao.Theo
kinh nghiệm quốc tế thì trong điều kiện bình thường, thâm hụt ngân sách ở mức 3% GDP
được coi là đáng lo ngại, còn ở mức 5.5% GDP thì bị xem là đáng báo động.

17



Năm 2011, giảm bội chi từ 5,3% GDP xuống còn 4,4%, đây là một động thái tích cực.
Tuy nhiên, mặc dù giảm bội chi song các khoản chi ứng trước, nợ tạm ứng, thiếu hụt
nguồn hoàn thuế đã làm cho kết quả giảm bội chi không có nhiều ý nghĩa về tài khoá.
Bội chi ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2012 theo báo cáo quyết toán là 173.815 tỷ
đồng (5,36% GDP).Chi thường xuyên vẫn còn lãng phí, chi sai chế độ quy định, không
đúng mục đích đang có dấu hiệu gia tăng tại các địa phương.Nguyên nhân là do thâm hụt
ngân sách và nợ công tăng ở nhiều nước đe dọa đến sự ổn định của nền kinh tế thế giới.
Ở trong nước, kinh tế vĩ mô ở nước ta chưa thực sự ổn định, lạm phát và lãi suất đang còn
ở mức cao; thiên tai, bão lũ, dịch bệnh vẫn là những yếu tố phức tạp, khó lường.
Mức bội chi ngân sách năm 2013 là 236.769 tỷ đồng, bằng 6,6% tổng sản phẩm trong
nước (GDP). Nguyên nhân là do thế giới có sự suy giảm nguồn vốn FDI; suy thoái kinh
tế toàn cầu vẫn diễn ra. Ở trong nước, thiếu ổn định về cán cân vĩ mô, sức cầu nền kinh tế
còn yếu đã gây ra tình trạng bội chi NSNN;do tồn kho bất động sản và vật liệu xây dựng
lớn.Sức cạnh trang hàng hóa ngày càng khắc nghiệt; thể chế chính sách về thâm hụt
NSNN và thu thuế chưa hiệu quả.
Năm 2014 dự toán bội chi ngân sách do Bộ Tài chính đưa ra là 224.000 tỷ đồng, bằng
5,3% GDP.Nguyên nhân một phần do tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu vẫn còn
thấp;sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng
sâu rộng(việc tham gia đàm phán các hiệp định thương mại tự do: EPA, TPP, EU ), cạnh
tranh ngày càng gay gắt; tiềm ẩn nguy cơ lạm phát cao.
Trong năm 2015, nguồn thu NSNN bị ảnh hưởng bởi việc giá dầu thế giới liên tục giảm
từ tháng 6/2014 đến nay.Ngoài ra, Chính phủ đã bổ sung số thực hiện vốn
ODA tăng 30.000 tỷ đồng vào cuối năm 2015, tăng bội chi NSNN lên mức 6,11% GDP
(dự toán là 5%)
Câu 7 Phân tích cách tính BCNSNN ở Việt Nam hiện nay và đánh giá
1. Phân tích cách tính

Tình trạng mất cân đối của ngân sách nhà nước khi mà thu ngân sách không bù đắp
cho chi ngân sách nhà nước trong một thời kỳ nhất định gọi là bội chi ngân sách nhà

nước . Theo thông lệ quốc tế , có thể tóm tắt báo cáo về ngân sách nhà nước hằng năm
như sau :
Bảng : Tóm tắt nội dung cân đối ngân sách nhà nước hằng năm
Thu ngân sách
A. Thu thường xuyên ( thuế , phí ,lệ phí )

Chi ngân sách
D. Chi thường xuyên
18


B. Thu về vốn ( bán tài sản nhà nước )
C. Bù đắp thâm hụt
- Viện trợ
- Lấy từ nguồn dự trữ
- Vay thuần ( = vay mới - trả nợ gốc)

E.Chi đàu tư
F. Cho vay thuần
(=cho vay mới - thu nợ gốc)

( Ta có : A+B+C = D+E+F )
Công thức tính bội chi ngân sách nhà nước của 1 năm :
Bội chi NSNN=Tổng chi NSNN -Tổng thu NSNN
= ( D+E+F) - (A+B)
=C
Bội chi ngân sách nhà nước trong một thời kỳ ( 1 năm , một chu kỳ kinh tế ) là
số chênh lệch dương giữa tổng chi ngân sách nhà nước và tổng thu ngân sách nhà nước
của thời kỳ đó .
2. Nhận xét


Tránh phản ánh hai lần khoản vay
Hiện nay, Luật NSNN hiện hành quy định, bội chi NSNN là bội chi ngân sách trung ương
(NSTW) và được bù đắp bằng nguồn vay trong, ngoài nước. Chi NSNN bao gồm chi trả
nợ gốc và lãi các khoản tiền do Chính phủ vay; bội chi NSNN bao gồm toàn bộ các
khoản vay để bù đắp chênh lệch thu, chi NSNN.
Như vậy, phần vay được phản ánh 2 lần trong chi ngân sách: lần thứ nhất sử dụng nguồn
vay để chi, lần thứ hai chi trả nợ gốc khi đến hạn. Do đó, mức bội chi NSNN của Việt
Nam thường cao hơn so với phương pháp tính bội chi ngân sách theo thông lệ quốc tế.
Ở phần lớn các nước trên thế giới, bội chi ngân sách nhà nước được tính toán trên cơ sở:
Bội chi NSNN = Tổng thu NSNN (không bao gồm thu vay nợ) - tổng chi NSNN (không
bao gồm chi trả nợ gốc).
Để phản ánh đúng bản chất các khoản vay, phù hợp với thông lệ quốc tế, tăng cường tính
minh bạch, cũng như tranh thủ các nguồn hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế và các nước, dự
thảo Luật NSNN (sửa đổi) quy định: Bội chi NSNN là bội chi NSTW, được xác định
bằng chênh lệnh giữa tổng chi NSTW và tổng thu NSTW, chi NSTW chỉ bao gồm chi trả
nợ lãi (không bao gồm phần trả nợ gốc).
Đưa trái phiếu chính phủ vào bội chi
19


Đồng thời, để đảm bảo nguyên tắc cân đối ngân sách lành mạnh và phản ánh đầy đủ bội
chi ngân sách, dự thảo Luật quy định: Bội chi NSTW được bù đắp bằng nguồn vay trong
nước và ngoài nước (phần chênh lệch giữa số vay trừ đi chi trả nợ gốc) và quy định rõ bội
chi NSTW được xác định trên cơ sở chi NSTW, bao gồm chi đầu tư từ nguồn công trái,
trái phiếu Chính phủ cho lĩnh vực giáo dục, y tế, giao thông, thuỷ lợi,...
Riêng đối với khoản vay về cho vay lại sẽ tiếp tục thực hiện theo quy định hiện hành
(không tính vào bội chi ngân sách) vì đây là khoản vay đã xác định được nguồn để trả nợ;
đối tượng nhận vay chủ yếu là các doanh nghiệp.
Với điều chỉnh phạm vi tính như trên, bội chi NSNN năm 2014 ở mức 6,3% GDP, cao

hơn 1% so với số bội chi đã trình ra Quốc hội trong dự toán NSNN năm 2013. Tuy nhiên,
đây chỉ là vấn đề phương pháp tính toán (đưa thêm trái phiếu Chính phủ hiện nay đang để
ngoài theo dõi riêng không tính vào bội chi NSNN), nên không thay đổi về mức dư nợ
Chính phủ và ảnh hưởng đến an ninh tài chính.

Với quy định này, việc vay nợ sẽ được quản lý, giám sát chặt chẽ, bội chi NSNN trong
những năm tới sẽ phấn đấu giảm dần, đảm bảo các mức dư nợ Chính phủ, dư nợ quốc
gia, dư nợ công trong giới hạn an toàn cho phép.
Ngân sách địa phương không được bội chi
Đối với bội chi Ngân sách địa phương (NSĐP), theo Luật NSNN hiện hành quy định,
NSĐP được cân đối với tổng số chi không vượt quá tổng số thu, không được phép bội
chi, nhưng ngân sách cấp tỉnh được huy động vốn trong nước để đầu tư xây dựng công
trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh bảo đảm và phải cân đối ngân
sách hàng năm để chủ động trả hết nợ khi đến hạn.
Qua tổng kết có ý kiến đề nghị quy định địa phương được phép bội chi để thực hiện hạch
toán đúng khoản vay này của chính quyền địa phương, thay vì quy định không cho phép
bội chi, nhưng lại được huy động.
Tuy nhiên, do đặc thù ở nước ta là hệ thống NSNN lồng ghép, Quốc hội quyết định
NSNN, việc cho NSĐP được phép bội chi sẽ dẫn đến phức tạp trong quá trình xây dựng
dự toán phần bội chi NSNN, nhất là phần bội chi ngân sách của từng địa phương (do dự
toán NSĐP được HĐND quyết định sau khi Quốc hội quyết định dự toán NSNN, bao
gồm NSTW và NSĐP).
Trong thực tế, NSTW bội chi, NSĐP bội thu, nhưng không bù trừ được cho nhau, thậm
chí NSĐP bội thu, nhưng chi tiết từng tỉnh thì có tỉnh bội chi, có tỉnh bội thu,...), nên khi
tổng hợp chung thì không phản ánh được chuẩn xác chỉ tiêu bội chi NSNN.
20


Câu 8: Biện pháp khắc phục BCNSN, lien hệ VN
1. Tăng thu giảm chi

a. Tăng thu
* Cải cách thuế đặc biệt: thuế cá nhân, thuế BĐS
* Điều chỉnh thuế nhập, xuất bằng trần tối da theo cam kết WTO với các hàng hóa không
khuyến khích nhập ( ô tô nguyên chiếc, linh kiện ô tô…:
* Tăng lệ phí trước bạ đăng kí xe ô tô
b. Giảm chi
* Cắt giảm đầu tư từ ngân sách và tín dụng nhà nước
* Cắt bỏ các hạng mục đầu tư kém hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước
* Cắt giảm chi phí thường xuyên của bộ máy nhà nước các cấp (sắm xe công…)
2. Biện pháp vay nợ
a. Vay nợ trong nước: dưới hình thức phát hành công trái, trái phiếu
* Ưu điểm: giúp kiềm chế lạm phát, giảm bội chi NSNN mà khồn cần tăng cơ sở tiền tệ
hoặc giảm dự trữ quốc tế.
* Nhược điểm:
* Giảm khả năng khu vực tư nhận tiếp cận tín dụng, gây sức ép lãi suất trong nước
* Có thể gây ra lạm phát trong tương lai nếu tỉ lệ nợ trong GDP tăng nhiều.
b. Vay nợ nước ngoài
* Ưu điểm: bù đắp được các khoản chi mà lại không gây sức ép lạm phát cho nền kinh tế.
Bổ sung vào nguồn vốn trong nước để phát triển kinh tế
* Nhược điểm:
* Nghĩa vụ nợ tăng cao, giảm chi tiêu trong chính phủ

21


* Các khoản vay luôn đi kèm các điều khoản về chính trị- quân sự… khiến bị phụ thuộc
nhiều vào các nước đi vay
3. Vay ngân hàng (in tiền)
* Ưu điểm:
* Nhu cầu tiền củaNSNN được áp dụng

* Không phải trả lãi và gánh thêm nợ nần
* Nhược điểm:
* Hậu quả gây ra lớn rất nhiều
* Khiến cho cung tiền vượt cầu tiền
* Đẩy lạm phát trở nên không kiểm soát nổi
4. Tăng cường vai trò quản lí của nhà nước
* Nhà nước cần dùng các chính sách kinh tế vĩ mô, nâng cao hiệu quả hoạt động trong
các khâu của nền kinh tế nhằm giải quyết các mối quan hệ trong nền Kte cũng như đời
sống XH, giữ phát triển KTe và BVMT…
Liên hệ VN
VN áp dụng tất các các biện pháp trên để khắc phục BCNSNN
1. Tăng thu giảm chi
* Tăng thu: chính phủ VN cần có giải pháp kiên quyết hơn trong việc kiểm tra nguồn thu
từ thuế. Đồng thời cải thiện các nguồn thu NS tránh tình trạng NS phụ thuộc quá nhiều
( tới hơn 40% các nguồn thu không bền vững từ dầu mỏ và thuế thu nhập như hiện nay).
Và điều chính mức thuế xuất,thuế thu nhập bằng trần tối đa theo cam kết trong WTO của
nam 2008 đối với các hàng hóa tiêu dùng không khuyến khích nhập khẩu, điều chỉnh
tăng lệ hí trước bạ đối với ô tô .v.v.
* Giảm chi: cơ cấu lại NSNN theo hướng ưu tiên cho ASXH; tăng chi có trọng điểm cho
phát triển NN, nông thôn và những vùng khó khăn, nhất là 61 huyện có tỉ lệ nghèo cao.
Giảm chi tiêu công ( gồm đầu tư công và chi thường xuyên) qua đó làm giảm tổng cầu.
2. Biện pháp vay nợ
22


* Vay trong nước: ở Vn, chính phủ thương ủy nhiệm cho KBNN phát hành trái phiếu
dưới hình thức trái phiếu kho bạc và trái phiếu công trình.
* Vay nước ngoài: nhận viện trợ hoặc vay từ các chính phủ nước ngoài, các định chế tài
chính thế giới như WB,IMF,ADB… hoặc có thể phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ ra
nước ngoài, vay bằng hình thức tín dụng…

3. Vay NH
CP khi bị thâm hụt NH sẽ đi vay NHTW để bù đắp đáp ứng nhu cầu này, NHTW sẽ in
thêm tiền. điều này sẽ tạo ra thêm cơ sở tiền tệ. vì vậy nó đc gọi là tiền tệ hóa thâm hụt
4. Tăng cường vai trò quản lý của nhà nước: nhằm bình ổn giá cả,ổn định cs kte vĩ mô và
nâng cao hoạt động trong các khâu của nền kte.
Câu 9. Quan điểm về nợ công? Thực tiễn quản lý nợ công ở VN
I)Quan điểm về nợ công
Nợ công là một khái niệm tương đối phức tạp. Tuy nhiên, hầu hết những cách tiếp cận
hiện nay đều cho rằng, nợ công là khoản nợ mà Chính phủ của một quốc gia phải chịu
trách nhiệm trong việc chi trả khoản nợ đó. Vì vậy, thuật ngữ nợ công thường được sử
dụng cùng nghĩa với các thuật ngữ như nợ Nhà nước hay nợ Chính phủ. Tuy nhiên, nợ
công hoàn toàn khác với nợ quốc gia. Nợ quốc gia là toàn bộ khoản nợ phải trả của một
quốc gia, bao gồm hai bộ phận là nợ của Nhà nước và nợ của tư nhân. Như vậy, nợ công
chỉ là một bộ phận của nợ quốc gia.Nợ công xuất phát từ nhu cầu chi tiêu công quá lớn
của Chính phủ. Chi tiêu công nhằm: Thứ nhất, phân bổ nguồn lực; Thứ hai, phân phối lại
thu nhập; Thứ ba, ổn định kinh tế vĩ mô. Tùy thuộc vào thể chế kinh tế và chính trị, quan
niệm về nợ công ở mỗi quốc gia cũng có sự khác biệt. Theo quy định của pháp luật Việt
Nam, nợ công được hiểu bao gồm ba nhóm là: nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo
lãnh và nợ chính quyền địa phương. Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản
vay trong nước, ngoài nước, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân dân
Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, ủy quyền phát
hành theo quy định của pháp luật
Như vậy khái niệm về nợ công theo quy định của pháp luật Việt Nam được đánh giá là
hẹp hơn so với thông lệ quốc tế. Tại hầu hết các nước trên thế giới, Luật Quản lý nợ công
đều xác định: Nợ công gồm nợ của Chính phủ và nợ được Chính phủ bảo lãnh. Một số
nước và vùng lãnh thổ, nợ công còn bao gồm cả nợ của chính quyền địa phương (Đài
Loan, Bungari, Rumani…), nợ của doanh nghiệp nhà nước phi lợi nhuận (Thái Lan,
Inđônêxia…).

23



Một cách khái quát nhất, có thể hiểu “nợ công (nợ Chính phủ hoặc nợ quốc gia) là tổng
giá trị các khoản tiền mà Chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay
nhằm bù đắp cho các khoản thâm hụt ngân sách”.
II)Thực tiễn nợ công ở Việt Nam
Theo số liệu nghiên cứu của The Econnomist, đến ngày 11/10/2015, nợ công của Việt
Nam được ước tính ở mức 92,6 tỷ USD, chiếm 46% GDP, tăng khoảng 6,4 tỷ USD trong
vòng 3 tháng qua và 9,6% so với cùng kỳ năm ngoái.
Nếu tình trung bình, mỗi người dân Việt Nam hiện đang gánh 1.016 USD nợ của đất
nước. Đây là con số gấp 4 lần số nợ công của Việt Nam vào thời điểm cách đây 10 năm
( nợ công là 22,3 tỷ USD, bình quân 268 USD mỗi người).
Nếu tính theo % GDP, tỷ lệ nợ mà The Economist công bố (46%) đang thấp hơn khá
nhiều so với số liệu do Bộ Tài chính công bố gần nhất vào cuối tháng 9/2015 (59,6%).
Trước đó, báo cáo của một cơ quan nghiên cứu thuộc Bộ Kế hoạch & Đầu tư tính toán rõ
nợ công của Việt Nam hiện ở mức 66,4% GDP
Theo Tổng cục Thống kê, nợ công/GDP của Việt Nam đã tăng từ 51,7% năm 2010 lên
60,3% năm 2014.
- Đối với các khoản vay nước ngoài :
Viện trợ phát triển chính thức, viện trợ không hoàn lại chỉ chiếm không quá 25% nguồn
vốn, còn lại phần lớn là khoản vay ưu đãi. Do đó, ODA sẽ làm gia tăng nợ công, đặc biệt
là nợ nước ngoài.
Theo báo cáo chính thức của Chính phủ, nợ công cuối năm 2013 bằng 54,2%, dư nợ
chính phủ bằng 42,3%, nợ nước ngoài của quốc gia bằng 37,3% GDP. Dự kiến đến hết
năm 2014, dư nợ công bằng 60,3% (tăng 6,1%), dư nợ chính phủ bằng 46,9%, dư nợ
nước ngoài của quốc gia bằng 39,9% GDP. Theo con số tuyệt đối thì nợ công cuối năm
2013 lên gần 1,9 triệu tỉ đồng, hết năm nay dự kiến sẽ lên hơn 2,4 triệu tỉ.
Giai đoạn 2006 – 2010, tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỷ USD, gấp hơn 1,5 lần so
với mục tiêu đề ra; giải ngân đạt 13,8 tỷ USD, vượt 16%. Đến giai đoạn 2011 – 2015, dự
kiến vốn ODA cam kết khoảng 32-34 tỷ USD, giải ngân khoảng 14-16 tỷ USD, trong đó

khoảng 50% vốn giải ngân từ các chương trình và dự án đã ký kết trong giai đoạn 20062010 chuyển sang.

24


Câu 10. Thực trạng và xu hướng cơ cấu thu chi NSNN 2005-2015
Việc thực hiện cải cách mạnh mẽ hệ thống chính sách thu NSNN trong thời gian
qua đã góp phần hỗ trợ Việt Nam mở rộng quy mô nguồn thu NSNN, thay đổi cơ cấu
nguồn thu theo hướng tích cực. Tổng thu NSNN năm 2015 ước tăng hơn 1,55 lần so với
năm 2010 và 3,26 lần so với năm 2006, trong đó thu NSNN từ thuế, phí đã trở thành
nguồn thu chủ yếu của NSNN. Quy mô thu NSNN so với GDP đã tăng từ mức 20,7%
giai đoạn 1996 - 2000, lên mức 24,16% giai đoạn 2001 - 2005 và 26,34% giai đoạn 2006
- 2010. Giai đoạn 2011 - 2015, do thực hiện các chủ trương kích cầu, hỗ trợ tăng trưởng
kinh tế, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh và chủ động điều chỉnh giảm mức độ
động viên của một số sắc thuế như thuế TNDN, thuế TNCN... nên mức độ động viên
NSNN của Việt Nam đã giảm so với những giai đoạn trước đó, ước đạt khoảng 22,67%
GDP.
Bên cạnh việc mở rộng về quy mô thu, cơ cấu thu NSNN cũng đã dịch chuyển
theo hướng bền vững hơn, giảm dần sự phụ thuộc vào các khoản thu từ bán tài sản, tài
nguyên quốc gia và từ thuế nhập khẩu; tăng cường vai trò từ các khoản thu gắn với sản
xuất kinh doanh và tiêu dùng trong nước. Tỷ trọng thu nội địa (không kể dầu thô) trong
tổng thu NSNN tăng từ mức 50,7% năm 2001 lên mức 64,1% năm 2010 và đến năm
2015 ước ở mức 70,1%. Trong khi đó, tỷ trọng thu từ dầu thô trong tổng thu NSNN đã
giảm từ mức 25,3% năm 2001 xuống còn 11,76% năm 2010 và năm 2015 dự toán ở mức
10,2%. Vai trò của thu từ thuế nhập khẩu trong tổng thu NSNN cũng giảm mạnh, từ mức
13,91% năm 2001 xuống 8,47% năm 2010 và năm 2014 ước còn khoảng 7,76%. Đồng
thời, sự phụ thuộc vào thu từ giao quyền sử dụng đất sau một thời gian tăng cao cũng đã
giảm đáng kể những năm gần đây. Khoản thu này có những thời điểm chiếm trên 8%
tổng thu NSNN (năm 2007 là 8,75%), tuy nhiên, đến năm 2014 ước chỉ còn khoảng
5,09% và năm 2015 được dự toán ở mức 4,28%.

Đánh giá chung cho thấy, những kết quả về thực hiện nhiệm vụ thu, chi NSNN
thời gian vừa qua đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu về phát triển
kinh tế - xã hội đề ra, hỗ trợ nền kinh tế ứng phó thành công với các biến động bất lợi từ
bên trong và bên ngoài. Tuy nhiên, diễn biến thu, chi và cân đối NSNN gần đây cũng
đang đặt ra một số quan ngại cho Việt Nam trong việc đảm bảo an ninh tài chính công.
Đặc biệt, sự mở rộng quá nhanh về nhu cầu chi NSNN trong khi quy mô thu NSNN diễn
biến theo xu thế giảm đang đặt Việt Nam trước một số rủi ro nhất định. Những rủi ro này
sẽ là hiện hữu hơn khi nhìn nhận từ giác độ bền vững ngân sách trong trung và dài hạn,
cụ thể như sau:
(i) Đảm bảo tính bền vững của quy mô động viên NSNN của Việt Nam đang phải
đối mặt với nhiều thách thức. Trong một thời gian dài, thu NSNN ở Việt Nam có tốc độ
tăng trưởng khá cao và nhờ đó đã tạo điều kiện cho việc thực hiện tăng chi NSNN, hình
thành nên các chính sách chi ngân sách mới. Thách thức đặt ra đối với Việt Nam hiện nay
25


×