Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

triết học hêghen – ưu nhược điểm và những đóng góp trong nền triết học máclênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.99 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA KỸ THUẬT HÓA HỌC

TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC

TRIẾT HỌC HÊGHEN – ƯU NHƯỢC ĐIỂM VÀ NHỮNG
ĐÓNG GÓP TRONG NỀN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN

HỌ VÀ TÊN HỌC VIÊN:NGUYỄN THỊ BÍCH LIÊN
MSHV:1570427
LỚP: CH 2015-1
GVHD:PGS.TS VŨ VĂN GẦU

Tp. Hồ Chí Minh, năm 2016


2

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
 Tính cần thiết của đề tài:

Tìm hiểu và làm rõ triết học Hêghen là cơ sở, nền tảng để tìm hiểu quá trình hình
thành của các lý luận triết học Mác –Lênin.
 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
• Phân tích bối cảnh lịch sử cho sự ra đời triết học Hêghen
• Làm sáng tỏ nội dung và bản chất của triết học Hêghen
• Phân tích, đánh giá những ưu và khuyết điểm của triết học Hêghen
• Những đóng góp của triết học Hêghen trong nền triết học Mác-Lênin
 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:



Đối tượng nghiên cứu là triết học Hêghen. Phạm vi nghiên cứu là những ưu,
khuyết điểm và đóng góp của triết học Hêghen trong nền triết học Mác-Lênin.
 Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:

Phương pháp sử dụng là phương pháp phân tích, suy luận lôgích, so sánh… dựa
trên cơ sở lý luận của phép biện chứng duy vật Mác-Lênin.
 Ý nghĩa lý luận và thực tiễn:


3

Làm sáng tỏ bản chất và những đóng góp của triết học Hêghen, phục vụ một phần
cho những nghiên cứu về thành tựu của triết học cổ điển Đức và sự hình thành triết học
Mác-Lênin.
 Kết cấu của tiểu luận:

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, tiểu luận
gồm có 3 chương nội dung như sau:




Chương 1: Điều kiện lịch sử và sự ra đời của triết học Hêghen.
Chương 2: Nội dung và bản chất của triết học Hêghen
Chương 3: Ưu, khuyết điểm của triết học Hêghen và những đóng góp trong
nền triết học Mác – Lênin.
Chương 1
ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ VÀ SỰ RA ĐỜI TRIẾT HỌC HÊGHEN


1.1.Điều kiện lịch sử
Triết học Hêghen là một phần của “triết học cổ điển Đức”. Khái niệm “triết học
cổ điển Đức” dùng để chỉ sự phát triển triết học của nước Đức ở nửa cuối thế kỷ XVIII
và đầu thế kỷ XIX, được mở đầu từ hệ thống triết học của E.Cantơ, trải qua Phíchtơ,
Sêlinh đến triết học duy tâm khách quan của Hêghen và triết học duy vật nhân bản của
Phoiơbắc. Chỉ trong một thời kỳ lịch sử khoảng một thế kỷ, triết học cổ điển Đức đã
tạo những tiền đề lý luận hết sức quan trọng cho sự ra đời của triết học Mác vào giữa
thế kỷ XIX.
Triết học cổ điển Đức ra đời trong một điều kiện lịch sử hết sức đặc biệt. Nước
Đức vào cuối XVIII đầu XIX vẫn còn là một vùng lãnh thổ phong kiến điển hình với
360 quốc gia tự lập trong một Liên bang Đức hình thức, lạc hậu về kinh tế và chính trị.
Trong khi đó, ở nước Anh cuộc cách mạng công nghiệp, ở nước Pháp cuộc cách mạng
tư sản đã nổ ra làm rung chuyển Châu Âu, đưa châu Âu bước vào nền văn minh công
nghiệp, cho thấy sự ưu việt của chủ nghĩa tư bản so với chế độ phong kiến.


4

Chính thực tại đau buồn của nước Đức và tấm gương của các nước Tây Âu đã
thức tỉnh tinh thần phản kháng của giai cấp tư sản Đức. Nhưng giai cấp này sống rải
rác ở những vương quốc nhỏ tách rời nhau, nhỏ bé về số lượng, yếu kém về kinh tế và
chính trị, nên họ vừa muốn làm cách mạng, lại vừa muốn thoả hiệp với tầng lớp phong
kiến quý tộc Phổ đang thống trị thời đó. Do đó giai cấp tư sản Đức vẫn giữ lập trường
cải lương trong việc giải quyết những vấn đề phát triển của đất nước. Chính điều này
đã quy định nét đặc thù của triết học cổ điển Đức: nội dung cách mạng dưới một hình
thức duy tâm, bảo thủ, đề cao vai trò tích cực của tư duy con người, coi con người là
một thực thể hoạt động, là nền tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học.
Trên một ý nghĩa nhất định, triết học cổ điển Đức không chỉ là sự phản ánh điều
kiện kinh tế - chính trị và xã hội nước Đức mà còn của cả các nước Châu Âu lúc đó.
1.2.Quá trình hình thành và phát triển của triết học Hêghen

Georg Wilhelm Friedrich Hêghen, sinh ngày 27 tháng 8 năm 1770, mất năm
1831. Hêghen sinh ra tại Stuttgart là con trai của Georg Ludwig Hêghen, một nhân viên
hải quan thuộc lãnh địa của công tước Wurttemburg. Là anh cả trong số ba đứa con
(em trai ông, Georg Ludwig, sớm qua đời lúc là một sĩ quan trong quân đội Napoleon
trong chiến dịch Nga), ông được nuôi dưỡng trong một môi trường Tin Lành ngoan
đạo. Mẹ ông dạy ông tiếng Latinh trước khi ông tới trường, nhưng bà đã mất khi ông
lên 11. Ông rất gắn bó với chị của mình. Hêghen phải bận tâm rất nhiều đến chứng rối
loạn thần kinh của chị ông và phát triển những ý tưởng về tâm thần học dựa trên những
khái niệm biện chứng.
Hêghen đã sớm thông thuộc các học giả kinh điển Hy lạp và La Mã cổ đại khi
đang còn học tại trường trung học Stuttgart và nắm rất rõ văn học và khoa học Đức.
Cha ông cổ vũ ông trở thành một giáo sĩ, và Hêghen đã vào trường dòng tại đại học
Tübingen năm 1788. Ở đó ông đã phát triển tình bạn với nhà thơ Friedrich Holderlin và
nhà triết học Friedrich Wilhelm Joseph von Schelling. Đặc biệt là do ảnh hưởng từ
Holderlin, Hêghen đã phát triển một niềm say mê sâu sắc đối với văn học và triết học
Hy Lạp. Từ rất sớm và xuyên suốt cả cuộc đời, Hêghen đã ghi lại và nhớ tất cả những


5

gì ông đọc và số lượng ông đọc thì nhiều vô kể. Ông khâm phục Goethe và luôn tự đặt
mình thấp hơn những thiên tài đương thời ông, Holderlin và Schelling.
Nước Đức thời Hêghen cực kì lạc hậu về kinh tế, là một liên hợp do rất nhiều
quốc gia nhỏ và lạc hậu hợp lại, tương đối cách ly với những biến động sôi nổi của
châu Âu. Hêghen rất say mê đọc Schiller và Rousseau. Năm Hêghen 18 tuổi cũng là
lúc nhà ngục Bastille bị đánh chiếm và nền cộng hòa ra công khai ở Pháp, Hêghen đã
nhiệt tình ủng hộ cho cuộc cách mạng, và là thành viên trong một nhóm ủng hộ được
thành lập ở Tübingen.
Vào khoảng năm 1794, theo đề xuất của bạn ông là Holderlin, Hêghen bắt đầu
nghiên cứu về Immanuel Kant và Johann Fichte, những tác đầu tiên của ông trong thời

kì này lại là “Cuộc đời của chúa Jesus” và “Sự xác thực của đạo Cơ-Đốc”.
Năm 1796, Hêghen viết “Cương lĩnh đầu tiên cho một hệ thống duy tâm chủ
nghĩa Đức” cùng với Schelling. Trong tác phẩm này có đoạn: “… quốc gia là một cái
gì đó hoàn toàn máy móc và không có ý niệm (phi vật chất) về một cái máy móc. Chỉ
cái gì là khách thể của tự do mới có thể gọi là “Ý niệm”. Do đó chúng ta cần phải vượt
qua quốc gia! Mọi quốc gia đều đối xử với những người tự do như những cái răng
trong một cái máy. Và đây chính là điều không nên xảy ra; do đó quốc gia phải bị lụi
tàn”. Năm 1797, Holderlin tìm được cho Hêghen một địa điểm ở Frankfurt, hai năm
sau đó cha ông mất.
Năm 1801, Hêghen trở thành giảng viên đại học Jena. Fichte đã rời Jena năm
1799, Schiller thì rời khỏi đó năm 1793, nhưng Schelling còn ở lại cho mãi tận đến
năm 1803 và Hêghen cùng Schelling đã cộng tác với nhau trong suốt quãng thời gian
hai ông còn ở tại Jena. Hêghen đã nghiên cứu, viết lách và giảng bài tại đó, mặc dù ông
đã không được nhận lương cho đến tận cuối năm 1806, ngay trước khi hoàn thành bản
phác thảo đầu tiên cuốn “Hiện tượng học tinh thần”– tác phẩm đầu tiên giới thiệu sự
đóng góp độc nhất vô nhị của ông cho triết học – một phần trong đó lấy từ những nét
về nước Pháp do một người đưa thư cho bạn của ông Niethammer ở Bamburg, Bavaria,


6

đem đến trước khi Jena bị quân đội Napoleon chiếm và Hêghen bị buộc phải chạy trốn
với những trang bản thảo “Hiện tượng học tinh thần” còn lại ở trong túi ông.
Sau khi tiêu hết gia tài của người cha quá cố để lại, Hêghen trở thành biên tập
viên của tờ “Thiên chúa giáo” nhật báo Bamberger Zeitung. Tuy nhiên, ông không
thích nghề báo, và chuyển đến Nuremberg, ở đó ông làm hiệu trưởng một trường trung
học trong 8 năm. Ông tiếp tục làm việc về “Hiện tượng học tinh thần”. Hầu hết mọi thứ
Hêghen phát triển một cách có hệ thống kín khắp thời gian rỗi của mình trong suốt
cuộc đời ông đã được báo trước trong “Hiện tượng học tinh thần”, nhưng cuốn sách
này thiếu tính hệ thống và cực kỳ khó đọc. “Hiện tượng học tinh thần” giới thiệu về

lịch sử nhân loại, với tất cả các cuộc cách mạng, chiến tranh và những khám phá khoa
học, như là một sự tự phát triển duy tâm của một khách thể “tinh thần” hay “linh hồn”.
Trong suốt những năm ở Nuremberg, Hêghen gặp rồi kết hôn với Marie von
Tucher (1791-1855). Họ có với nhau ba đứa con – một bé gái mất ngay sau khi sinh, và
hai con trai, Karl và Immanuel. Khi ở Nuremberg, Hêghen trải qua một thời kỳ vài năm
từ 1812 đến 1816 xuất bản cuốn “Khoa học của Lôgích”. Năm 1816, Hêghen nhận
chức giáo sư triết học tại đại học Heidelberg. Ngay sau đó, ông công bố dưới dạng tóm
lược một báo cáo mang tính hệ thống về toàn bộ triết học của ông nhan đề “Bách khoa
về các khoa học triết học”. “Bách khoa về các khoa học triết học” tiếp tục được duyệt
lại cho đến năm 1827, và bản cuối cùng được xuất bản năm 1830. Nó được dịch lần
đầu tiên sang tiếng Anh năm 1959.
Năm 1818, Hêghen được mời đến dạy tại đại học Berlin, và ông đã ở đó luôn.
Ông mất ở Berlin ngày 14/11/1831, vì bệnh dịch tả. Tác phẩm dài và đầy đủ cuối cùng
Hêghen xuất bản là “Những nguyên lý của triết học pháp quyền” vào năm 1821. Các
tác phẩm khác được xuất bản sau khi ông chết gồm: “Triết học về nghệ thuật thanh
khiết”, “Các bài giảng về lịch sử triết học” (1833- 1836), “Các bài giảng về lịch sử tôn
giáo” (1832), và “Các bài giảng về triết học lịch sử” (1837).
Tiểu kết:


7

Tuy là một nhà triết học vĩ đại với phép biện chứng lỗi lạc, Hêghen cũng khó
thoát khỏi những ảnh hưởng của thời đại, đặc biệt là điều kiện kinh tế xã hội nước Đức
và những cuộc cách mạng tư sản của Tây Âu thời bấy giờ. Do đó triết học của Hêghen
mang tính duy tâm, đề cao vai trò của tư duy con người. Đồng thời do việc sinh trưởng
trong một gia đình Tinh Lành ngoan đạo nên tư tưởng triết học của ông cũng mang
màu sắc tôn giáo đề cao vai trò của đấng sáng tạo tối cao sản sinh ra toàn bộ giới tự
nhiên và con người.


Chương 2
NỘI DUNG VÀ BẢN CHẤT CỦA TRIẾT HỌC HÊGHEN
2.1.Chủ nghĩa duy tâm khách quan của Hêghen
Theo Hêghen, cơ sở cho sự tồn tại của thế giới không phải là vật chất mà là “ý
niệm tuyệt đối” hay là “tinh thần tuyệt đối”. Đó là một thực thể tinh thần có trước giới
tự nhiên, nó tự thiết định bản thân nó và tự phân biệt với bản thân. “Ý niệm tuyệt đối”
được hiểu như một đấng sáng tạo tối cao sản sinh ra toàn bộ giới tự nhiên và con
người; tất cả các sự vật, hiện tượng, từ những sự vật tự nhiên cho đến các sản phẩm
hoạt động của con người, đều được coi là hiện thân của “ý niệm tuyệt đối”.
“Ý niệm tuyệt đối” là một thực thể biện chứng, luôn luôn tự thân vận động và
phát triển. Hêghen là người đầu tiên nhìn nhận toàn bộ giới tự nhiên, xã hội và tư duy
là một quá trình phát triển thống nhất, nhưng theo tinh thần duy tâm, coi sự phát triển
của ý niệm là nền tảng cho sự phát triển của tự nhiên và con người.
Sự phát triển của “ý niệm tuyệt đối” được diễn đạt theo mô hình Tam đoạn thức
là: chính đề - phản đề - hợp đề (theo quy luật phủ định của phủ định), trong đó các yếu


8

tố có mối liên hệ hữu cơ và chuyển hóa lẫn nhau. Sự phát triển của “ý niệm tuyệt đối”
được coi là hiện thân của quá trình phát triển lịch sử của nhân loại (chủ yếu là phát
triển của đời sống tinh thần mà biểu hiện cao nhất là tư tưởng), tuy được Hêghen phân
ra thành tám phần khác nhau nhưng theo Mác nó chỉ bao gồm qua ba giai đoạn chính
là: “tinh thần thuần túy” (tư duy), “tinh thần khách quan” (tự nhiên và xã hội), “tinh
thần tuyệt đối” (hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới của con người).
“Tinh thần thuần túy” là giai đoạn ý niệm tuyệt đối tồn tại và phát triển trong
mình. Theo Hêghen, trong sự vận động biện chứng “ý niệm tuyệt đối” đã đạt tới sự
phát triển đầy đủ từ trước khi giới tự nhiên xuất hiện. Nó mang trong mình đầy đủ
những tính quy định sau này, giống như cái mầm cây mang sẵn trong mình toàn bộ bản
chất của cái cây như mùi, vị, hình dáng quả…Sự phát triển của tinh thần thần túy là phi

không gian và phi thời gian.
Sự phát triển của tinh thần thuần túy, khi đạt đến đầy đủ thì “tha hóa” ra thành
giới tự nhiên - tức “tinh thần khách quan”. Như vậy giới tự nhiên chỉ là một giai đoạn
trong quá trình phát triển của “ý niệm tuyệt đối”, là sự “tha hóa” của ý niệm, là “hình
thức tồn tại khác” của ý niệm. Hêghen giải thích: sở dĩ “ý niệm tuyệt đối” tha hóa
thành giới tự nhiên vì nó là một thực thể tinh thần, bản tính của nó là ham hiểu biết, để
hiểu biết về mình thì nó phải tha hóa ra thành một cái khác mình nhưng vẫn là chính
mình.
Con người được coi là sản phẩm, là giai đoạn phát triển cao nhất của “ý niệm
tuyệt đối”. Thông qua hoạt động nhận thức và thực tiễn cải tạo thế giới của con người
để “ý niệm tuyệt đối” tự nhận thức chính mình. Như vậy quá trình nhận thức của con
người chẳng qua chỉ là quá trình tự nhận thức mình của “ý niệm tuyệt đối”. Theo
Hêghen, “nhận thức khái niệm” là dạng nhận thức cao nhất của con người. Khái niệm
được coi là bản chất tinh thần, là linh hồn của các sự vật: “Nếu như gọi tri thức là khái
niệm, còn bản chất hay chân lý - là tồn tại, tức sự vật, thì vấn đề là xác định liệu khái
niệm có phù hợp với sự vật hay không. Nếu chúng ta gọi bản chất (hay tồn tại - tự nó)
của sự vật là khái niệm và sự vật là khái niệm như một sự vật thì vấn đề là xác định


9

liệu sự vật có phù hợp với khái niệm của mình không. Hiển nhiên là hai cách hiểu trên
đây là như nhau. Khi nào con người nhận thức đầy đủ giới tự nhiên thì khi đó “ý niệm
tuyệt đối” sẽ quay trở về với chính nó, đó chính là “tinh thần tuyệt đối”. Như vậy, điểm
khởi đầu của sự phát triển là tinh thần, nhưng đó là “Tinh thần thế giới” (phi cá nhân)
và điểm kết thúc của sự phát triển cũng là tinh thần, nhưng đó là “tinh thần tuyệt đối”
tồn tại ở mỗi cá nhân con người. Nó biểu hiện dưới các hình thức nhận thức tôn giáo,
nghệ thuật và triết học của con người, trong đó triết học là hình thức cao nhất. Như vậy
hệ thống triết học của Hêghen là duy tâm khách quan và siêu hình. Duy tâm khách
quan ở chỗ nó thừa nhận tinh thần là có trước và quyết định giới tự nhiên; siêu hình ở

chỗ nó thừa nhận sự kết thúc của quá trình phát triển, cho rằng khi con người nhận thức
hết về giới tự nhiên thì nó không vận động, phát triển về thời gian mà chỉ vận động
trong không gian. Tương ứng với ba giai đoạn phát triển của “ý niệm tuyệt đối”, hệ
thống triết học của Hêghen được phân ra thành ba học thuyết: Khoa học lôgíc - triết
học tự nhiên - triết học tinh thần.
2.2.Phép biện chứng duy tâm của Hêghen
Hêghen phê phán những chủ nghĩa triết học trước bằng cách coi những hình thái
ý thức không phải là lý luận triết học như ông ta quan niệm (ví dụ: cảm giác, tức là cơ
sở chủ nghĩa cảm giác). Phân tích nó đúng thế nào và chứng minh rằng mỗi hình thái
ấy có một quá trình biện chứng, trong đó nó mâu thuẫn với nó, bắt buộc phải chuyển
lên một mức cao hơn và cứ như thế đi đến hình thái triết học của Hêghen.
Khi trình bày về “ ý niệm tuyệt đối” vận động và phát triển, Hêghen cho rằng đó
là sự vận động nội tại của “ ý niệm tuyệt đối”. Tự vận động tức là thay đổi hình thức
phát triển khác nhau của “ý niệm tuyệt đối”. Lênin cũng đã tìm thấy hạt nhân hợp lý
trong phương pháp biện chứng của Hêghen là sự tự vận động. Nội dung hợp lý và sâu
sắc này trong quan điểm của Hêghen theo Lênin là mối liên hệ tất yếu, là nguồn gốc
nội tại của những sự khác nhau. Khi trình bày sự phát triển của “ý niệm tuyệt đối”
Hêghen thừa nhận tồn tại, bản chất, khái niệm là ba sự quy định, ba hình thức biểu hiện
chủ yếu trong quá trình phát triển. Điều này phù hợp với quá trình suy nghĩ, nhận thức
của con người: mới nhìn vào sự vật thấy tồn tại, đi sâu vào sự vật tìm ra bản chất, khi


10

nắm được bản chất ta rút ra khái niệm. Phương pháp tư duy này vẫn còn được sử dụng
cho đến ngày nay ở tất cả các bộ môn khoa học khác nhau
Hêghen không phải là người đầu tiên xây dựng nên phép biện chứng song qua tư
tưởng và quá trình hoạt động của mình, Hêghen đã khiến nó trở nên hoàn thiện hơn và
mang lại cho phép biện chứng một vị trí quan trọng trong triết học. Ông quan niệm,
phép biện chứng: “ nói chung là nguyên tắc của mọi sự vận động, mọi sự sống và mọi

hoạt động trong phạm vi hiện thực. Ông coi biện chứng cũng là linh hồn của mọi nhận
thức khoa học chân chính”. Với tư tưởng như vậy, ông đã xem xét mọi sự vật hiện
tượng, ý thức dưới cái nhìn biện chứng. Và về cốt lõi, phương pháp biện chứng của
ông cũng bao gồm 02 nội dung cơ bản:
+ Nhận thức đối tượng ở trong các mối liên hệ với nhau, ảnh hưởng nhau, ràng
buộc nhau (cái toàn thể và cái bộ phậ hay là cái chung và cái riêng…).
+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi, nằm trong khuynh hướng
chung là phát triển. Đây là quá trình thay đổi về chất của các sự vật, hiện tượng mà
nguồn gốc của sự thay đổi ấy là đấu tranh của các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn
nội tại của chúng.
Như vậy phương pháp biện chứng của Hêghen cũng đã thể hiện tư duy mềm dẻo,
linh hoạt. Nó thừa nhận trong những trường hợp cần thiết thì bên cạnh cái "hoặc là...
hoặc là... " còn có cả cái "vừa là… vừa là... " nữa; thừa nhận một chỉnh thể trong lúc
vừa là nó lại vừa không phải là nó; thừa nhận cái khẳng định và cái phủ định vừa loại
trừ nhau lại vừa gắn bó với nhau.
Phương pháp biện chứng của Hêghen là phương pháp suy ngẫm về thế giới. Kết
quả của phương pháp này là hình ảnh suy tư chỉnh thể về thế giới chứ không phải là
bức tranh thế giới thu được nhờ kết quả của khoa học cụ thể.
Là nhà biện chứng, đồng thời là nhà triết học duy tâm khách quan. Triết học của
ông đầy mâu thuẫn giống như sự mâu thuẫn của cả xã hội Đức nói chung, của nền triết
học Đức lúc bấy giờ nói riêng. Nếu phương pháp biện chứng của ông là hạt nhân hợp


11

lý, chứa đựng tư tưởng thiên tài về sự phát triển, thì hệ thống triết học duy tâm của ông
phủ nhận tính chất khách quan của những nguyên nhân bên trong vốn có của sự phát
triển của tự nhiên và xã hội.
Hêghen là người đầu tiên xây dựng nên một phép biện chứng tự giác, có hệ thống
và tương đối toàn diện mà cốt lõi của nó là học thuyết về sự phát triển. Các tư tưởng

biện chứng được Hêghen trình bày trong cả ba phần: Khoa học lôgíc - triết học tự nhiên
- triết học tinh thần, nhưng tập trung nhất là trong “Khoa học lôgích”.
2.2.1.Khoa học lôgích
Hêghen cho rằng phải xây dựng một lôgích học mới. Tuy vẫn xác định lôgích học
là khoa học về tư duy, nhưng cần phải hiểu một cách biện chứng về tư duy. Tư duy ở
đây không phải là ý thức cá nhân, mà là “tinh thần thuần túy” (dưới khía cạnh tôn giáo
thì đó là Chúa). Như vậy, Hêghen phân biệt hai loại tư duy là: thứ nhất, tư duy tự nó tức “ý niệm tuyệt đối”, là nền tảng và bản chất của mọi tồn tại; và tư duy cho nó - tức
tư duy cá nhân con người. Tư duy con người là giai đoạn cao nhất, trong đó “ý niệm
tuyệt đối” có thể tự ý thức về mình, nên tư duy con người phải hoạt động theo những
quy luật khách quan chung của tư duy.
Giới tự nhiên cũng chỉ là hình thức biểu hiện khác của tư duy, là tư duy khách
quan vô thức. Chúng đồng nhất về nội dung, chỉ khác nhau về hình thức. Như vậy, đối
tượng của lôgích học là tư duy lôgích, nó là sự thống nhất giữa tư tưởng và hiện thực,
giữa tinh thần và vật chất, giữa chủ quan và khách quan. Cho nên, “lôgích học vì vậy
đồng nhất với siêu hình học – khoa học về các sự vật được thể hiện trong tư tưởng”.
Hêghen coi tư duy là một quá trình phát triển biện chứng, bao gồm ba yếu tố cơ
bản là: giác tính, biện chứng và tư biện.
+Giác tính: là yếu tố phù hợp với tư duy thông thường của mọi người. Tư duy này
còn mang nặng tính trực quan, nên xem xét sự vật trong trạng thái cứng đờ, tách rời các
mặt đối lập với nhau, không thấy được sự thống nhất giữa chúng.
Trình độ này của tư duy tương ứng với giai đoạn trước E.Cantơ.


12

+Yếu tố biện chứng: Hêghen hiểu phép biện chứng không phải là nghệ thuật
tranh luận, mà là học thuyết về sự phát triển của các khái niệm với tính cách là bản chất
tinh thần của mọi sự vật. Cho nên mọi sự vật, vật chất và tinh thần đều phát triển theo
các quy luật biện chứng. Đó là quá trình thống nhất giữa chất và lượng; là quá trình nảy
sinh và giải quyết mâu thuẫn và là sự phủ định của phủ định. Như vậy, theo tinh thần

phép biện chứng không có gì là đứng vững nổi, không có gì là cố định, vĩnh viễn…
Yếu tố này tương ứng với giai đoạn E.Cantơ.
+Yếu tố tư biện: là sự thống nhất của hai yếu tố trên, đồng thời là kết quả phát
triển của chúng. Chỉ ở đây phép biện chứng mới đạt đến trạng thái chín muồi, khi mà
bản chất đích thực của mọi cái đều được biểu hiện ra là sự thống nhất và sự đấu tranh
giữa các mặt đối lập. Yếu tố này tương ứng với triết học của Hêghen.
Theo Hêghen, sự phân chia các yếu tố như trên chỉ mang tính chất tương đối về
không gian và thời gian. Trong thực tế chúng liên hệ mật thiết với nhau trong từng giai
đoạn phát triển của sự vật và khái niệm. Mỗi khái niệm, phạm trù lôgích học và toàn bộ
triết học nói chung đều chứa đựng đầy đủ cả ba yếu tố trên. Mỗi phạm trù lôgích học
thể hiện một khía cạnh hay một giai đoạn nào đó trong quá trình phát triển của tư duy.
Quá trình nhận thức phải đi từ hiện tượng đến bản chất, từ cảm tính đến lý tính,
cuối cùng mới đi đến khái niệm. Tương ứng với quá trình này Hêghen chia khoa học
lôgích ra thành ba học thuyết: học thuyết về tồn tại, học thuyết về bản chất, học thuyết
về khái niệm. Để xây dựng khoa học lôgích cần xác định điểm khởi đầu của nó.
Hêghen đã chỉ ra những nguyên lý cơ bản xác định điểm khởi đầu của khoa học lôgích,
đồng thời cũng là điểm khởi đầu của nhận thức lý luận nói chung như sau:
+ Một là, tính khách quan là nguyên lý hàng đầu, đòi hỏi các nhà nghiên cứu phải
xuất phát từ bản thân sự vật khách quan, phù hợp với từng sự vật chứ không được tuỳ
tiện, chủ quan.
+Hai là, nguyên lý đơn giản và trừu tượng. Điểm khởi đầu phải là cái đơn giản
nhất, chưa hoàn thiện nhất, trừu tượng nhất. Như vậy Hêghen là người đầu tiên đề xuất
nguyên tắc đi từ trừu tượng đến cụ thể.


13

+Ba là, nó phải chứa đựng mâu thuẫn cơ bản của toàn bộ hệ thống – đó là mâu
thuẫn giữa tinh thần và vật chất. Mâu thuẫn được coi là nguồn gốc của sự phát triển, có
mặt ở mọi sự vật, vật chất và tinh thần. Hêghen đã chỉ ra cơ chế phát triển của mâu

thuẫn thông qua phạm trù bản chất. Phạm trù bản chất được hiểu như sau:







Giai đoạn 1. Đồng nhất, nhưng đồng thời cũng là sự khác nhau
Giai đoạn 2. Khác nhau bề ngoài
Giai đoạn 3. Khác nhau cơ bản
Giai đoạn 4. Sự đối lập
Giai đoạn 5. Mâu thuẫn
Giai đoạn 6. Cơ sở hay sự đồng nhất, nhưng ở trình độ cao hơn với tính cách
là sự phủ định của phủ định.

+ Bốn là, sự thống nhất giữa lịch sử và lôgích. Hêghen hiểu lôgích không phải là
sự khái quát lịch sử, mà ngược lại lịch sử chính là hiện thân của lôgích. Cho nên lôgích
là có trước và quyết định đối với lịch sử (duy tâm).
Tóm lại, biện chứng của khái niệm nói riêng, của toàn bộ hiện thực vật chất và
tinh thần nói chung được hiểu là:
+Thứ nhất: các khái niệm không chỉ khác nhau, mà còn làm trung giới cho nhau,
có liên hệ mật thiết với nhau.
+Thứ hai: mỗi khái niệm đều nằm trong quá trình phát triển, được thực hiện theo
ba quy luật phổ biến là lượng-chất, mâu thuẫn và phủ định của phủ định.
Như vậy, trong khuôn khổ phép biện chứng duy tâm của mình, Hêghen không chỉ
trình bày các phạm trù: như chất, lượng, phủ định, mâu thuẫn,… mà còn nói đến các
quy luật “lượng đổi dẫn đến chất đổi và ngược lại”, “phủ định của phủ định” và “quy
luật mâu thuẫn”. Các cặp phạm trù này được Hêghen đặc biệt nhắc đến ở nội dung
Lôgích học của ông. Trong Lôgích học ở phần tồn tại, Hêghen đã diễn đạt các phạm trù

vật chất, lượng, độ và tư tưởng biện chứng về sự chuyển hoá từ lượng đến chất và
ngược lại. Tư tưởng của Hêghen về sự biến đổi của khái niệm chất thành khái niệm
lượng và ngược lại, về độ như là sự thống nhất giữa chất với lượng, đã bao hàm sự dự
đoán hợp lý về phát triển. Công lao của Hêghen trong vấn đề này là ở chỗ ông đã dựa


14

vào hóa học mà bác bỏ quan niệm siêu hình về sự vận động liên tục và nêu lên khái
niệm đường dây nút của độ- nghĩa là nêu lên khái niệm về sự phát triển, trong đó sự
tiệm tiến bị gián đoạn bởi những bước nhảy vọt. Chính trong luận điểm ấy Lênin đã
nhìn thấy sự dự đoán của Hêghen về sự phát triển theo bước nhảy vọt ở phần bản chất,
hiện tượng, quy luật, khả năng và thực hiện, nguyên nhân và kết quả, và phần trình bày
học thuyết mâu thuẫn nguồn gốc của sự phát triển. Trong phương pháp biện chứng của
Hêghen đã bộc lộ sự dự đoán hợp lý về sự chuyển hóa khả năng thành hiện thực, về
ngẫu nhiên là hình thức thể hiện của tất yếu. Quan niệm biện chứng của Hêghen về
nguyên nhân và kết quả cũng rất đáng chú ý. Hêghen cho rằng kết quả nói chung chỉ
mang trong nó cái mà cũng có cả ở trong nguyên nhân và cùng một sự vật, trong những
trường hợp này thì nguyên nhân, trong trường hợp khác là kết quả. Đây là quan niệm
hợp lý của Hêghen về quan hệ nhân quả. Ở phần khái niệm của học thuyết Lôgích,
Hêghen đã diễn đạt phạm trù về cái chung và cái riêng, quy nạp và diễn dịch, phân tích
và tổng hợp, đã diễn đạt các nguyên lý sự hoạt động có mục đích của con người, sự
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tổng hợp lại các quan niệm phát triển với tư cách
là phủ định của phủ định. Đồng thời trong khoa học lôgích phương pháp biện chứng
của Hêghen còn được thể hiện ở chỗ: ông đặt ra vấn đề sự thống nhất quá trình lôgích
với quá trình lịch sử; lôgích học, nhận thức luận đều là sự tổng hợp của quá trình lịch
sử. Ông nêu lên tính hạn chế của lôgích hình thức và đòi hỏi một lôgích có nội dung
thực tế, sinh động. Ông nêu lên những tư tưởng thống nhất giữa phép biện chứng,
lôgích học và lý luận nhận thức.
2.2.2.Triết học tự nhiên

Triết học tự nhiên là sự nghiên cứu lý luận về giới tự nhiên. Giới tự nhiên được
Hêghen hiểu là một hình thức tồn tại khác của “ý niệm tuyệt đối”, nó nằm trong quá
trình phát triển thống nhất của “ý niệm tuyệt đối” cho nên không ngừng vận động và
phát triển. Tiếp thu những thành tựu khoa học tự nhiên ông khẳng định sự tồn tại nhiều
cấp độ khác nhau của vật chất như cơ học, vật lý, hóa học, sự sống… với những đặc
điểm khác nhau về bản chất và vận động. Ông cũng đã nêu được nhiều tư tưởng biện
chứng sâu sắc về triết học tự nhiên: thấy được sự thống nhất giữa vật chất với vận


15

động; dự đoán không gian, thời gian và vận động có mâu thuẫn bên trong, ở đó thể
hiện tính thống nhất giữa tính gián đoạn và tính liên tục; là tư tưởng cho rằng sự khác
biệt hóa học về chất bị phụ thuộc vào những thay đổi về lượng, về tính biện chứng của
quá trình hóa học; về mối liên hệ hữu cơ giữa hóa học và vật lý, quá trình hóa học là
khâu cuối cùng chuẩn bị cho đời sống hữu cơ.

2.2.3.Triết học tinh thần (quan điểm về xã hội của Hêghen)
Tuy coi lịch sử nhân loại là lịch sử phát triển của đời sống tinh thần, là hiện thân
của “ý niệm tuyệt đối” theo tinh thần duy tâm, nhưng Hêghen đã nêu được những tư
tưởng biện chứng sâu sắc về sự phát triển xã hội. Hêghen giải thích nguồn gốc nhà
nước không phải từ khế ước xã hội, mà từ mâu thuẫn xã hội. Ông không cho rằng con
người sinh ra vốn đã bình đẳng, mà ngược lại là bất bình đẳng. Do đó trong xã hội luôn
có sự khác biệt về đẳng cấp, của cải… vì vậy cần có nhà nước để điều hoà mâu thuẫn.
Ông cho rằng nhà nước tồn tại vĩnh viễn, ở mọi thời kỳ lịch sử. Nó là hiện thân của ý
niệm tuyệt đối, nhờ nó mà gia đình và xã hội công dân mới tồn tại được. Xét về bản
chất, nhà nước không chỉ là cơ quan hành pháp, mà còn bao gồm tổng thể các quy chế,
kỷ cương, chuẩn mực và mọi lĩnh vực đạo đức, pháp quyền, chính trị, văn hóa… Ông
coi nhà nước Quân chủ Phổ là đỉnh cao của sự phát triển xã hội, là “Nhà nước quân chủ
chân chính”, trong đó tất cả mọi người đều được tự do. Ông đề cao vai trò của chiến

tranh, cho rằng nó tồn tại vĩnh viễn mà nhờ nó các dân tộc mới “Tránh khỏi sự thối
nát”. Ông theo chủ nghĩa Sôvanh, đề cao dân tộc Đức.
Hêghen coi lịch sử là sự thống nhất giữa tính khách quan và tính chủ quan. Một
mặt, lịch sử là quá trình tất yếu, vận động theo quy luật khách quan, theo xu thế thời
đại. Nhưng mặt khác, lịch sử phải do các cá nhân, các dân tộc thực hiện. Tuy nhiên,
hoạt động của con người phải tuân thủ tính tất yếu, phải phù hợp với xu thế của thời
đại; vĩ nhân phải suy nghĩ và hành động theo những gì là hợp thời.
Ông coi phát triển tự do của con người là chuẩn mực, ưu việt của thời đại này so
với thời đại khác, tuy nhiên lại hiểu tự do một cách duy tâm. Ông coi “Tự do là hiểu và


16

làm theo ý Chúa”; “Lịch sử toàn thế giới là lịch sử tiến bộ trong ý thức tự do”; “ Tự do
là cái tất yếu đã được nhận thức”.
Tiểu kết:
Triết học Hêghen đã thể hiện cái hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng, mà sau
này nó là nền tảng cho phép biện chứng duy vật Mác-Lênin, tuy nhiên cái hạt nhân hợp
lý ấy lại đặt trên nền của thế giới quan duy tâm khách quan đầy mâu thuẫn và sai lệch,
làm nó mất đi cái vĩ đại vốn có của nó.
Chương 3
ƯU, NHƯỢC ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC HÊGHEN VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP
CỦA NÓ TRONG NỀN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
3.1.Ưu điểm của triết học Hêghen
Có thể khẳng triết học Hêghen là đỉnh cao của triết học Tây Âu thời kỳ cận đại
đúng như ông đã từng thừa nhận. Và cốt lõi để tạo nên sự tiến bộ ấy chính là phép biện
chứng của ông. Mặc dù phương pháp tư duy siêu hình trong thời kỳ phục hưng là một
tiến bộ lớn để chống lại những tư tưởng của thần quyền. Tuy nhiên, đến thời kỳ cận
đại, cùng với sự phát triển của nền sản xuất tư bản và của khoa học tự nhiên, triết học
Tây Âu đã quá coi trọng tư duy siêu hình, đề cao phương pháp thực nghiệm. Điều này

khiến cho triết học Tây Âu cận đại sa vào bế tắc khi giải quyết một số vấn đề mang
tính chất thời đại lúc bấy giờ. Điển hình như quan điểm siêu hình không thể lý giải nổi
những biến động đang diễn ra trong nền kinh tế, không thấy được nguyên nhân và xu
thế của các các cuộc các mạng tư sản Tây Âu...
Hêghen với phương pháp biện chứng của mình mà chủ yếu là tư tưởng về sự vận
động và phát triển đã lý giải nguyên nhân đồng thời đưa ra những xu hướng phát triển
cho giới tự nhiên và xã hội. Ông là người đầu tiên trình bày toàn bộ thế giới tự nhiên,
lịch sử và tinh thần dưới dạng một quá trình vận động, biến đổi, phát triển và cố gắng
vạch ra mối liên hệ bên trong của sự vận động và phát triển ấy. Ví dụ: bản thân ông
cũng đã từng ví triết học của mình là đỉnh cao bởi ông cho rằng các triết học trước bản
thân chúng cũng có sự mâu thuẫn và luôn có sự đấu tranh thay thế để đạt đến đỉnh cao.


17

Và đỉnh cao đó chính là Triết học Hêghen. Mặc dù sự tự phong này là mâu thuẫn với tư
duy về sự vận động phát triển của mình song qua cách lý giải đó có thể thấy được cách
thức giải quyết các vấn đề hóc búa của triết học thời kỳ đó của Hêghen là hợp lý.

3.2.Nhược điểm của triết học Hêghen
Như chúng ta đã đề cập ở trên, triết học của Hêghen đã đạt đến mức đỉnh cao tại
thời đại của ông. Và ý nghĩa, vai trò của triết học Hêghen mà cái hạt nhân của nó là
phép biện chứng đã thể hiện không chỉ trong triết học mà trong mọi ngành khoa học
khác, trong thực tiễn đời sống xã hội. Thế nhưng, do những mặt hạn chế bởi nguyên
nhân chủ quan và khách quan nhất định, triết học của Hêghen nói chung và phép biện
chứng duy tâm của Hêghen nói riêng đã không thể đạt đến chân lý của sự nhận thức.
Những hạn chế trong triết học cả Hêghen xuất phát từ thế giới quan duy tâm, bởi
tư tưởng của bản thân và ảnh hưởng của xã hội đương thời.
+Ảnh hưởng của thế giới quan duy tâm:
Nguyên lí xuất phát và xuyên suốt toàn bộ triết học Hêghen là sự đồng nhất giữa

tư duy và tồn tại. Toàn bộ thực tại khách quan (tự nhiên và lịch sử thế giới) là biểu hiện
của "lí tính thế giới" hay "tinh thần thế giới" mà Hêghen gọi là "ý niệm tuyệt đối". "Ý
niệm tuyệt đối" có trước tự nhiên và loài người, trải qua một quá trình phát triển lịch sử
- tự nhận thức về bản thân nó. Hệ thống duy tâm, bảo thủ, khép kín và giả tạo của triết
học Hêghen mâu thuẫn sâu sắc với phương pháp biện chứng có tính chất cách mạng
của triết học này. Và đó là lý do để Mác nhận xét phép biện chứng của Hêghen là “bị
lộn ngược đầu xuống đất”. Tất cả cái tài tình, cái hợp lý của phép biện chứng của ông
là bị sử dụng để tô điểm, bao phủ cho một thế giới quan đầy mâu thuẫn và lầm lạc.
Phép biện chứng duy tâm của ông như một tấm áo giáp hoàn hảo nhưng lại khoác lên
mình một chiến binh ốm yếu và đầy hoang mang. Chính vì thế, khi Mác phát hiện ra
phép biện chứng, khi sử dụng nó trở thành phương pháp luận cho thế giới quan duy
vật, ông đã có thể đập tan mọi luận điệu sai lầm và phản động của Hêghen, mang lại
thắng lợi lớn lao cho chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chính thế giới quan duy tâm đã


18

làm cho triết học cả Hêghen yếu ớt và đầy mâu thuẫn. Và đó lại chính là nguồn gốc
khiến cho nó gặp phải những hạn chế vốn có của triết học duy tâm cũng như một số
những hạn chế riêng có.

+Hệ thống triết học đóng:
Hêghen đã tuyên bố triết học của mình là đỉnh cao của nền triết học và không thể
phát triển hơn học thuyết của mình. Và điều đó làm cho phép biện chứng của ông trở
thành một hệ thống triết học đóng. Điều này có lẽ do hai nguyên nhân. Về mặt chủ
quan, có lẽ cái nhận định về Hêghen là ông quá tài giỏi so với người cùng thời là một
trong những lý do để ông cho triết học của mình là đỉnh cao. Song cái chính phải xuất
phát từ chính thế giới quan của ông khi thừa nhận “ý niệm tuyệt đối” là có trước và
quyết định thế giới tự nhiên và xã hội. Do đó, sự vận động của thế giới tự nhiên và xã
hội chẳng qua là quá trình phát triển của nhận thức con người, đi từ thấp đến cao, từ

chưa hoàn chỉnh đến hoàn chỉnh và cuối cùng cái nhận thức ấy phản ánh chính xác “ý
niệm tuyệt đối”. Khi đã đạt được điều đó, nó không thể tiến lên được nữa. Khẳng định
của ông mâu thuẫn với chính cái biện chứng của ông. Nó làm cho phép biện chứng của
ông giảm đi sức sống và sự vĩ đại vốn có.
+ Mâu thuẫn khi tìm cách lý giải các vấn đề xã hội:
Nếu thế giới quan duy tâm là nguyên nhân dẫn đến một hệ thống triết học đóng
thì chính cái tư tưởng đó cũng là nguồn gốc đưa đến rất nhiều quan điểm mâu thuẫn
khác trong phép biện chứng duy tâm, trong việc giải thích các vấn đề trong xã hội.
Quan điểm chính trị phản động của Hêghen, đặc biệt trong thời kì hoạt động cuối đời
của ông, phản ánh tình trạng mâu thuẫn của giai cấp tư sản Đức, khuynh hướng thoả
hiệp của nó với các thế lực phong kiến. Hêghen ủng hộ chế độ quân chủ lập hiến, bênh
vực nhà nước quân chủ phản động Phổ, cho đó là đỉnh cao của sự phát triển xã hội.
Như vậy ông đã nhận thức sai lầm về khái niệm nhà nước, thừa nhận cái tuyệt đối của
nó. Do đó, ông cũng như các nhà triết học trước đó, chỉ tìm cách giải thích mà không
thể tìm ra được con đường đúng đắn để cải tạo xã hội hiện thực. Điều đó một lần nữa


19

phản ánh cái hệ thống triết học đóng, cái duy tâm và cái không biện chứng của nhà triết
học biện chứng duy tâm Hêghen.

3.3.Những đóng góp của triết học Hêghen trong nền triết học Mác-Lênin
Triết học Mác-Lênin với phương pháp biện chứng duy vật là đỉnh cao triết học
của thời đại ngày nay. Và chính những người sáng tạo nên hệ thống triêt học đó đã thừa
nhận sự kế thừa và phát triển cái hạt nhân hợp lý trong triết học của Hêghen. Cái hạt
nhân ấy chính là phép biện chứng, là hệ thống các quan điểm của ông. Mác không
những chỉ phê phán một cách sâu sắc phép biện chứng của Hêghen mà còn cải tạo phép
biện chứng đó, xây dựng nên phép biện chứng duy vật duy nhất và thực sự khoa học
với mẫu mực tuyệt vời của nó là tác phẩm chủ yếu của ông - bộ "Tư bản". Mác viết:

"Tính chất thần bí mà phép biện chứng đã mắc phải ở trong tay Hêghen tuyệt nhiên
không ngăn cản Hêghen trở thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý
thức những hình thái vận động chung. Phép biện chứng ấy ở Hêghen là phép biện
chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được cái hạt
nhân hợp lý của nó ở đằng sau lớp vỏ thần bí”.
Nhiều nhà triết học đã đánh giá: nếu loại bỏ đi cái xuất phát điểm trong thế giới
quan duy tâm của Hêghen, người ta sẽ không thể phân biệt được đâu là triết học Mác
đâu là triết học Hêghen. Mặc dù việc phát triển của triết học Mác không đơn thuần là
“chỉ cần dựng nó lại” nhưng hệ thống triết học rõ ràng và khoa học của Hêghen cũng
chính là cái hệ thống cơ bản để triết học Mác hoàn thiện nên phương pháp biện chứng
duy vật với dưới một hệ thống của gồm 2 nguyên lý (nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
và nguyên lý về sự phát triển), 3 quy luật cơ bản (quy luật thống nhất và đấu tranh giữa
các mặt đối lập, quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và
ngược lại, quy luật phủ định của phủ định) và 6 cặp phạm trù với tính cách là những
quy luật không cơ bản (cái chung và cái riêng; nội dung và hình thức; nguyên nhân và
kết quả; bản chất và hiện tượng; tất nhiên và ngẫu nhiên; khả năng và hiện thực).


20

Triết học duy vật biện chứng chính là giải pháp cho nhiệm vụ nghiên cứu đã được
Mác đặt ra đó. Mác và Ph.Ăngghen không gán ghép hay hợp nhất một cách đơn giản
phép biện chứng của Hêghen với chủ nghĩa duy vật trước đó, trước hết là chủ nghĩa
duy vật của L. Phoiơbắc. Trên thực tế các ông đã phải tiến hành một công việc hết sức
phức tạp và đồ sộ là chỉnh lý cải tạo một cách duy vật đối với phép biện chứng duy tâm
của Hêghen; chỉnh lý và cải tạo một cách biện chứng đối với chủ nghĩa duy vật máy
móc và siêu hình.
Trong triết học Mác, phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật không phải là các bộ
phận cấu thành riêng biệt tách rời nhau mà chúng chuyến hoá lẫn nhau xâm nhập vào
nhau và tạo thành một chỉnh thể hữu cơ. Chủ nghĩa duy vật trong hệ thống triết học

Mácxít không những là lý luận mà còn là phương pháp nghiên cứu duy vật. Đồng thời
phép biện chứng Mácxít không chỉ là phương pháp mà còn là lý luận, hơn thế nữa là lý
luận hoàn thiện nhất, đầy đủ nhất, toàn diện nhất và không phiến diện nhất về sự phát
triển.
Cần phải đặc biệt nhấn mạnh rằng các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác không bao giờ
coi công việc của mình nhằm chỉnh lý và cải tạo một cách duy vật đối với phép biện
chứng duy tâm của Hêghen đã là hoàn tất. Trái lại cho đến tận cuối đời các ông vẫn
không ngừng nhắc nhở rằng cần phải có những nghiên cứu chuyên sâu và những khái
quát mới về phép biện chứng Hêghen. Điều mà tiếc thay các ông chưa kịp thực hiện.
Noi theo tấm gương của Mác và Ph. Ăngghen. V. I . Lênin cũng kiên trì nhấn
mạnh về sự cần thiết phải tiếp tục công việc chỉnh lý một cách duy vật đối với phép
biện chứng Hêghen. Trong bài viết "Về tác dụng của chủ nghĩa duy vật chiến đấu" - tác
phẩm được coi một cách xác đáng là di chúc triết học của Lênin - ông kêu gọi thành
lập "Hội những người bạn duy vật của phép biện chứng Hêghen" để tiến hành công tác
nghiên cứu giải thích và tuyên truyền phép biện chứng của Hêghen: "Dựa vào cách của
Mác đã vận dụng phép biện chứng của Hêghen hiểu theo quan điểm duy vật, chúng ta
có thể và cần phải nghiên cứu phép biện chứng đó trên tất cả các mặt". Những chỉ dẫn
rất quan trọng và quý báu đó cũng đồng thời là những kết luận được chính Lênin rút ra


21

từ các nghiên cứu riêng của ông về triết học Hêghen và trước hết là về phép biện chứng
Hêghen. Ngay từ giữa những năm 90 thế kỷ XIX, Lênin đã vạch ra một cách sâu sắc ý
nghĩa xã hội của phép biện chứng Hêghen, của mặt cách mạng của nó mà thậm chí
phái Hêghen mới, đã bỏ qua trong bài viết nhan đề "Phriđrích Ăngghen" Lênin viết:
"Lòng tin của Hêghen vào lý tính của con người và vào quyền lợi của con người và
nguyên lý cơ bản của triết học Hêghen cho rằng trong thế giới luôn diễn ra một quá
trình liên tiếp biến hoá và phát triển đã dẫn những học trò của nhà triết học ở Béclanh
không muốn điều hoà với hiện trạng đến ý nghĩ cho rằng ngay cả cuộc đấu tranh chống

hiện trạng, cuộc đấu tranh chống bất công đang tồn tại và chống điều ác đang hoành
hành cũng bắt rễ từ quy luật phổ biến là sự phát triển không ngừng. Nếu mọi cái đều
phát triển nếu những thể chế này bị thể chế khác thay thế vậy thì tại sao chế độ chuyên
chế của vua phổ hay của Nga hoàng việc một thiểu số rất nhỏ làm giàu trên lưng tuyệt
đại đa số sự thống trị của giải cấp tư sản đối với nhân dân lại cứ tồn tại mãi?". Như vậy
tiềm năng cách mạng trong phép biện chứng của Hêghen đã được Lênin vạch ra; tiềm
năng đó biểu hiện nội dung cơ bản của nó: tính có quy luật nội tại của sự phát triển, sự
đấu tranh giữa các mặt đối lập, sự phủ định biện chứng với tư cách một bậc thang tất
yếu của sự phát triển.
Như mọi người đền biết trong những năm chiến tranh thế giới lần thứ nhất cho dù
phải bận tâm với cuộc đấu tranh chính trị trực tiếp với việc phải phân tích quá trình
diễn tiến và sự chín muồi của cách mạng Nga. Lênin vẫn tìm được thời gian để nghiên
cứu một cách có hệ thống triết học Hêghen đặc biệt là "Khoa học lôgíc" và "Những bài
giảng về lịch sử triết học" của Hêghen. Các bản tóm tắt sâu sắc và cô đọng về những
tác phẩm thiên tài này tạo thành bộ phận đáng kể và hơn nữa là bộ phận quan trọng
nhất trong "Bút ký triết học" nổi tiếng của V.I. Lênin. Trong đó không những ông đã
vạch rõ sự phong phú tuyệt vời của các tác phẩm cơ bản của Hêghen mà còn đưa ra các
kết luận triết học mới góp phần làm phong phú thêm chủ nghĩa duy vật biện chứng.
"Bút ký triết học" của V.I. Lênin chứng tỏ đầy sức thuyết phục rằng công việc chỉnh lý
một cách duy vật đối với phép biện chứng Hêghen còn lâu mới hoàn tất, rằng trong
lĩnh vực này sẽ có những nghiên cứu khám phá và thành tựu mới. Lênin viết: "Hêghen


22

đã đoán được một cách tài tình biện chứng của sự vật (của những hiện tượng của thế
giới của giới tự nhiên) trong biện chứng của khái niệm".
Nói cách khác các quy luật phổ biến của sự phát triển của giới tự nhiên của xã hội
loài người và của sự nhận thức không thể được mô hình hoá chỉ phù hợp với các quy
luật của một mình sự nhận thức của tư duy, như hệ thống Hêghen giả định. Không thể

rút ra các quy luật của tồn tại từ tư duy. Từ một thực tế là các quy luật của tồn tại được
phản ánh trong tư duy. Hêghen đã rút ra một kết luận sai lầm rằng tồn tại thực chất là
tư duy. Quan hệ hiện thực đã bị Hêghen thần bí hoá bị đặt lộn ngược chân lên đầu.
Nhưng dù sao Hêghen cũng đã luận chứng theo kiểu duy tâm, luận điểm cho rằng các
hình thức của tư duy là sự phản ánh các mối quan hệ vốn có trong tự nhiên và trong xã
hội không phụ thuộc vào tư duy. Quay trở lại vấn đề này ở một chỗ khác. Lênin viết:
"Hêghen đã chứng minh rằng những hình thức lôgích và những quy luật lôgích không
phải là một cái vỏ trống rỗng: mà là phản ánh của thế giới khách quan. Nói đúng hơn
không phải ông đã chứng minh như vậy mà đã đoán thấy một cách tài tình như vậy".
Khi phân tích "Khoa học lôgíc" của Hêghen. Lênin thường xuyên đối chiếu nó
với "Tư bản" của Mác vì phương pháp luận của "Tư bản" là kết quả của một việc làm
đồ sộ là chỉnh lý theo cách duy vật đối với phép biện chứng duy tâm của Hêghen.
Trong tác phẩm cơ bản này của mình, Mác đã nghiên cứu: thứ nhất sự phát triển của
chủ nghĩa tư bản; thứ hai sự phát triển của nhận thức về kinh tế tư bản chủ nghĩa (lịch
sử của kinh tế học chính trị) và thứ ba sự phát triển của các phạm trù kinh tế học mà
thông qua đó việc nghiên cứu quan hệ sản xuất và trao đổi tư bản chủ nghĩa được thực
hiện. Vạch ra sự thống nhất của ba mặt cơ bản này (bản 'thể luận nhận thức luận và
lôgíc học) trong việc nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Lênin đã đi
đến một kết luận vô cùng quan trọng: "Mác không để lại cho chúng ta "lôgích học"
(với chữ L. viết hoa), nhưng đã để lại cho chúng ta lôgích của "Tư bản" và cần phải tận
dụng đầy đủ nhất lôgích đó để giải quyết vấn đề mà chúng ta đang nghiên cứu. Trong
"Tư bản". Mác áp dụng lôgích phép biện chứng và lý luận nhận thức . . . của chủ nghĩa
duy vật vào một khoa học duy nhất: mà chủ nghĩa duy vật thì đã lấy ở Hêghen tất cả
cái gì có giá trị và phát triển thêm lên". Nhờ trí tuệ uyên bác của Mác mà phép biện


23

chứng duy vật đã được tạo ra và với tất cả sự đối lập với phương pháp Hêghen nó vẫn
thừa nhận và nhấn mạnh sự giống nhau của mình với phương pháp đó.


Tiểu kết:
Như vậy mặc dù có những nhược điểm do nền tảng của thế giới quan duy tâm, nhưng
phép biện chứng của Hêghen đã được các nhà triết học vĩ đại C.Mác, Lênin đánh giá
rất cao và họ đã kế thừa nó để phát triển nên phép biện chứng duy vật trong triết học
Mác-Lênin.
Là những người ủng hộ sự phát triển sáng tạo phép biện chứng, chúng ta đánh giá
cao công lao vĩ đại của Hêghen cho phép biện chứng và coi việc tiếp tục tổng kết khái
quát những thành tựu mới nhất của khoa học và của thực tiễn hiện đại để làm giàu
thêm phép biện chứng duy vật của Mác là nhiệm vụ quan trọng và không bao giờ kết
thúc.

KẾT LUẬN
Triết học cổ điển Đức mang lại cách nhìn mới về thực tiễn xã hội và tiến trình
lịch sử nhân loại, nó đề cao vai trò hoạt động tích cực của con người. Khắc phục triết
học truyền thống phương Tây. Nó coi con người là chủ thể hoạt động như là vấn đề nền
tảng, xuất phát điểm của một vấn đề triết học.
Một trong những thành tựu to lớn của triết học cổ điển Đức là nó khẳng định rằng
tư duy và ý thức chỉ có thể phát triển trong chừng mực con người nhận thức và cải tạo
thế giới. Con người là chủ thể, đồng thời là kết quả của toàn bộ nền văn minh do chính
mình tạo ra, nghiên cứu tiến trình lịch sử nhân loại cũng như toàn bộ mối quan hệ con
người - tự nhiên như một quá trình phát triển biện chứng.


24

Tuy từ lập trường duy tâm, các nhà triết học cổ điển Đức đã xây dựng nên các hệ
thống triết học độc đáo, đề xuất được tư duy biện chứng, lôgích biện chứng, học thuyết
về các quá trình phát triển, mà tìm tòi lớn nhất trong tất cả cá tìm tòi của họ đó là phép
biện chứng. Trong đó, triết học của Hêghen là hệ thống phong phú nhất. Hêghen đã

tổng kết hầu như toàn bộ tư tưởng cũ ở Tây phương, trình bày mọi chủ nghĩa với ý
nghĩa lịch sử của nó, bộc lộ những mâu thuẫn nội bộ xuất hiện trong tư tưởng ở mỗi
giai đoạn, những mâu thuẫn ấy bắt phải thủ tiêu hình thái cũ và tiến lên một trình độ
cao hơn. Tuy nhiên, Hêghen lại diễn tả quá trình đó một cách trừu tượng trong phạm vi
tinh thần, và xây dựng chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối. Quá trình diễn biến tư tưởng trong
tinh thần được coi như là một vận động hoàn toàn độc lập và tự túc, tách rời cơ sở thực
tế khách quan, thậm chí lại phủ định thực tế khách quan. Hệ thống biện chứng theo lối
duy tâm của Hêghen đã được Mác thừa kế và phát triển thành phép biện chứng duy vật
một công cụ không thể thiếu trong lý luận và thực tiễn ngày nay.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đồng Văn Quân (2010), Lịch sử Triết học – Đại học Thái Nguyên, Trường Đại học
Sư phạm, Thái Nguyên.
2. Trần Đức Thảo (1995), Lịch sử tư tưởng trước Mác, Nhà xuất bản Khoa học xã hội,
Hà Nội.
3. Đoàn Quang Thọ (2007), Giáo trình triết học (dùng cho học viên cao học và nghiên
cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học), Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội.
4. C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. V.I.Lênin (1983). Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva.



×