Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (303.17 KB, 44 trang )

Giáo trình lý luận mới (2013)
Chương VI
HÌNH THỨC NHÀ NƯỚC
I.

Khái niệm hình thức nhà nước

Hình thức nhà nước là một khái niệm rất cơ bản của khoa học pháp lý nói
chung và của lý luận chung về nhà nước và pháp luật nói riêng. Việc nghiên cứu
về hình thức nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng cả về lý luận và thực tiễn hiện
nay. Nói tới hình thức nói chung là nói tới những biểu hiện ra bên ngoài cũng như
quy mô, cấu trúc hay cách thức tổ chức của sự vật, hiện tượng. Hình thức của nhà
nước được xét chủ yếu dưới góc độ quy mô và cách thức tổ chức. Nếu nhà nước
được hiểu là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị- lãnh thổ của một quốc
gia thì hình thức của nhà nước (tức là cách thức, quy mô tổ chức của nó) chính là
cách thức hay quy mô của tổ chức quyền lực nhà nước. Theo cách tiếp cận này,
hình thức nhà nước được hiểu là tổng thể cách thức tổ chức và phương pháp thực
hiện quyền lực nhà nước.
Xét cả về cách thức cũng như phương pháp, quy mô tổ chức quyền lực nhà
nước như trên, hình thức nhà nước là một khái niệm được cấu thành từ ba yếu tố
(khái niệm) bộ phận là hình thức chính thể nhà nước, cấu trúc nhà nước và chế độ
chính trị.
1.

Hình thức chính thể nhà nước

Chính thể nhà nước là cách thức, trình tự lập ra các cơ qua cao nhất của quyền
lực nhà nước, xác lập mối quan hệ giữa các cơ quan ấy với nhau đồng thời thể
hiện mức độ tham gia của nhân dân vào việc thành lập ra chúng. Trong các cơ
quan cao nhất của một nhà nước, cơ quan được nói tới đầu tiên là nguyên thủ quốc
gia- người đứng đầu nhà nước, sau đó là các loại cơ quan khác nắm giữ quyền lực


cao nhất của nhà nước trong một lĩnh vực. Trong lịch sử phát triển của mình, các
yếu tố cấu thành của hình thức chính thể có thể thay đổi theo thời gian và ở từng
nhà nước cụ thể về cả tên gọi, chức năng, nhiệm vụ thể hiện quan hệ giữa chúng
với nhau. Tuy vậy, có thể phân chính thể nhà nước thành hai dạng cơ bản là chính
thể cộng hòa và chính thể quân chủ.
Chính thể cộng hòa là chính thể có nguyên thủ quốc gia là người được
bầu ra và giữ chức vụ theo nhiệm kỳ. Chính thể quân chủ là chính thể mà nguyên
thủ quốc gia chủ yếu được lập ra theo nguyên tắc thế tập (kế vị) và thường giữ
chức suốt đời. Đối với chính thể quân chủ, nguyên thủ có thể còn được lập ra bằng
những cách khác như suy tôn, tự xưng, cướp ngôi… nhưng sau đó, ngôi vị này hầu
hết lại được lập ra theo nguyên tắc chung là thế tập.


Xét về quan hệ giữa các yếu tố cấu thành của một chính thể, cũng như mức
độ tham gia của nhân dân vào việc lập ra nguyên thủ người ta thấy có những biến
dạng từ hình thức cơ bản nêu trên. Đó là chính thể cộng hòa quý tộc (nguyên thủ
được bầu từ giới quý tộc chứ nhân dân không được tham gia) và cộng hòa dân chủ
(có nguyên thủ được bầu mà có sự tham gia của nhân dân) trong chính thể cộng
hòa. Chính thể quân chủ lại gồm quân chủ tuyệt đối (nguyên thủ nắm giữ toàn bộ
quyền lực tối cao) và chính thể quân chủ hạn chế (nguyên thủ bị hạn chế quyền lực
bởi các yếu tố còn lại trong chính thể).
Trong hình thức nhà nước, hình thức chính thể là yếu tố phức tạp và biến
động nhất. Nó có nhiều nguyên nhân khác nhau từ sự tác động của kinh tế đến
tương quan lực lượng giữa các thế lực chính trị, đảng phái trong xã hội cũng như
lịch sử truyền thống, tư tưởng hay quan điểm chính trị - pháp lý hoặc xu thế của
thời đại… Việc nghiên cứu, đánh giá một chính thể nào đó phải thông qua việc
xem xét toàn diện các yếu tố ảnh hưởng cũng như mức độ ảnh hưởng của yếu tố
đó.
2. Cấu trúc nhà nước
Cấu trúc nhà nước là cách tổ chức quyền lực của nhà nước theo các đơn vị

hành chính - lãnh thổ và xác lập mối quan hệ giữa chính quyền nhà nước ở trung
ương với các cấp chính quyền nhà nước ở địa phương.
Nếu hình thức chính thể của nhà nước nói tới cách tổ chức quyền lực nhà nước
ở trung ương thì hình thức cấu trúc của nhà nước lại nói tới cách thức tổ chức
quyền lực nhà nước theo tổ chức lãnh thổ. Theo đó, cấu trúc nhà nước gồm hai
dạng cơ bản là cấu trúc đơn và cấu trúc liên bang.
Cấu trúc nhà nước đơn nhất có đặc điểm là quyền lực nhà nước được tổ chức từ
một quốc gia có lãnh thổ thống nhất được chia thành các đơn vị hành chính các
cấp, cấp dưới trực thuộc cấp trên, địa phương trực thuộc trung ương. Trong cấu
trúc này, nhà nước có một hệ thống pháp luật thống nhất áp dụng chung trong toàn
lãnh thổ, có một hệ thống cơ quan quyền lực, một hệ thống cơ quan quản lý được
tổ chức thành các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương. Công dân trong
nhà nước này chỉ chịu sự điều chỉnh của một quy chế pháp lý.
Cấu trúc nhà nước liên bang có đặc điểm là quyền lực nhà nước được tổ
chức từ sự kết hợp của từ hai quốc gia, bang hoặc vùng lãnh thổ thành viên trở lên,
trong đó, chính quyền liên bang và chính quyền bang (quốc gia) thành viên có sự
độc lập tương đối. Điều đó được thể hiện ở trong cấu trúc này là nhà nước có hai
hệ thống pháp luật, hai hệ thống cơ quan quyền lực, hai hệ thống cơ quan quản lý,
một hệ thống của chính quyền liên bang, một hệ thống thuộc chính quyền các
bang, quốc gia thành viên. Công dân trong nhà nước có cấu trúc này vừa chịu sự


điều chỉnh của quy chế pháp lý liên bang, vừa chịu sự điều chỉnh của quy chế pháp
lý của bang, quốc gia thành viên.
Cấu trúc nhà nước cũng có sự thay đổi theo thời gian theo khuynh hướng ngày
càng phức tạp hơn tùy thuộc vào quy mô lãnh thổ cũng như khả năng tổ chức
quyền lực của các lực lượng cầm quyền.
Ngoài hai dạng cơ bản nêu trên còn có một hình thức khá phổ biến hiện nay
là nhà nước liên minh. Nhà nước liên minh có một số đặc điểm gần giống với nhà
nước liên bang nhưng mối liên hệ giữa các thành viên không chặt chẽ như nhà

nước liên bang mà chủ yếu liên kết về một hoặc một số lĩnh vực nào đó như kinh
tế, quân sự… có tính chất tạm thời. Tuy nhiên, có một số nhà nước liên minh phát
triển thành nhà nước liên bang nhờ sự kết hợp chặt chẽ vì lợi ích chung lâu dài
hoặc giải tán khi mục đích liên minh không còn.
3. Chế độ chính trị
Chế độ chính trị là tổng thể các phương pháp, thủ đoạn được sử dụng để
thực hiện quyền lực nhà nước.
Mỗi nhà nước lại do một lực lượng nhất định trong xã hội đứng ra tổ chức
và nằm giữ quyền lực. Để đảm bảo cho việc nắm giữ và tổ chức thực hiện quyền
lực có lợi nhất, hiệu quả nhất cho mình, các lực lượng này thường sử dụng những
cách thức, thủ đoạn khác nhau. Nó có quan hệ khá mật thiết với bản chất nhà nước
trong việc thể hiện tính xã hội hay giai cấp khi nhà nước thực thi quyền lực đại
diện cho toàn xã hội hay thực hiện lợi ích giai cấp. Tùy thuộc vào giai cấp thống trị
và ở mỗi nhà nước, mỗi giai đoạn lịch sử mà chế độ chính trị cũng có những biểu
hiện rất khác nhau nhưng nó có hai dạng cơ bản là chế độ chính trị dân chủ và chế
độ chính trị phản dân chủ.
Ở chế độ chính trị dân chủ nhà nước sử dụng những phương pháp mà ở đó,
nhân dân được tạo điều kiện cho tham gia vào quá trình thực hiện quyền lực của
mình. Ở chế độ chính trị này, quyền lực nhà nước được “xã hội hóa” với việc nhân
dân được tham gia giải quyết các vấn đề của đất nước. Tuy nhiên, mức độ tham gia
đó của nhân dân phụ thuộc nhiều vào cách thức mà nhà cầm quyền thực hiện. Có
những nhà nước mà nhà cầm quyền thực sự coi trọng nhân dân và vì vậy, nhân dân
được tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện quyền lực nhà nước. Đó là một nhà nước
có chế độ chính trị dân chủ thực sự và là một nhà nước tiến bộ. Ở những nhà nước
mà các nhà cầm quyền dùng những thủ đoạn lừa bịp, mị dân, nhân dân không thực
sự được thực hiện quyền lực nhà nước thì ở đó chỉ có chế độ chính trị dân chủ giả
hiệu hoặc hình thức. Điều này có thể làm cho chế độ chính trị dân chủ chuyển sang
chế độ chính trị phản dân chủ.



Ở chế độ chính trị phản dân chủ nhà nước sử dụng những phương pháp và
thủ đoạn có tính chất cực đoan để thực hiện quyền lực. Các lực lượng cầm quyền
dùng nhiều biện pháp để hạn chế hoặc loại trừ khả năng tham gia của nhân dân vào
việc thực hiện quyền lực nhà nước. Trong lịch sử, chế độ chính trị phản dân chủ
được thực hiện ở các mức độ khác nhau tùy thuộc vào bản chất của nhà nước và
các nhà cầm quyền. Có mức độ phản dân chủ bình thường như ở một số nhà nước
phong kiến, nhân dân chỉ được coi là các “thần dân” không được tham gia vào việc
thực hiện quyền lực nhà nước. Có mức độ phản dân chủ cao hơn khi mà nhà nước
cầm quyền có các chính sách cực đoan, chuyên chế, không chỉ không thừa nhận
việc tham gia vào quyền lực nhà nước của nhân dân mà còn có nhiều sự cấm đoán,
đàn áp. Ở mức độ cao nhất, chế độ chính trị này được thể hiện qua chính sách của
các nhà cầm quyền đến mức độc tài, phát xít, không chỉ loại trừ việc tham gia của
nhân dân vào việc thực hiện quyền lực nhà nước mà còn sử dụng kết hợp nhiều
biện pháp cực đoan, cấm đoán, đàn áp và triệt tiêu hoàn toàn khả năng chống đối
từ các lực lượng chính trị dân chủ đấu tranh cho sự tiến bộ của nhân loại.
II.

Sự phát triển của hình thức nhà nước qua các kiểu nhà nước
Có thể nói hình thức nhà nước là một vấn đề có tính biến động rất lớn trong
quá trình phát triển của nhà nước. Lịch sử thay thế của các kiểu nhà nước cho thấy
hình thức thức nhà nước luôn có sự biến đổi theo thời gian và có sự khác nhau về
không gian tồn tại. Sự phát triển của hình thức nhà nước có thể được xem xét dưới
những biểu hiện qu các kiểu nhà nước trong lịch sử như sau:
1. Về hình thức chính thể của nhà nước
Hình thức chính thể của nhà nước có sự thể hiện rất đa dạng, phong phú và có
những biểu hiện khác nhau qua các kiểu nhà nước trong lịch sử và ngày càng có
khuynh hướng phức tạp hơn.
Trong nhà nước chủ nô, nói chung hình thức chính thể của nhà nước còn tương
đối đơn giản, trong đó hình thức chính thể có sự khác nhau khá nhiều giữa các nhà
nước ở phương Đông so với các nhà nước phương Tây. Các nhà nước phương Tây

có biểu hiện đa dạng: vừa có chính thể cộng hòa, vừa có chính thể quân chủ, trong
đó hầu hết các nhà nước có thể cộng hòa thời kỳ mới thành lập. Bản thân chính thể
cộng hòa cũng vừa có cộng hòa dân chủ (Cộng hòa dân chủ chủ nô ở A-ten tồn tại
trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ thứ IV TCN) vừa có chính thể
cộng hoà quý tộc (Cộng hòa quý tộc ở Rô-ma, tồn tại từ khoảng thế kỷ thứ VI đến
thế kỷ thứ I TCN và Xpác, tồn tại từ khoảng thế kỷ thứ VII đến thế kỷ thứ IV
TCN). Mỗi hình thức này lại có những biểu hiện khác nhau về các trình tự lập ra
cũng như vai trò của các yếu tố của chính thể. Chẳng hạn, cũng có đại hội nhân
dân nhưng cơ quan này (do nhân dân là những người đàn ông đã trưởng thành
nhưng không có nguồn gốc xuất thân từ nô lệ và kiều dân bầu ra) chỉ có quyền lực
thực sự ở Nhà nước A-ten. Còn ở Nhà nước Rô-ma thì quyền lực thực sự lại nằm ở
Viện nguyên lão (gồm những người thuộc giới quý tộc giàu có, trên 60 tuổi, được


bầu ra và giữ chức suốt đời). Ở Nhà nước Xpác quyền lực thực sự lại nằm ở Hội
đồng trưởng lão (gồm thủ lĩnh của 28 bộ lạc) không chỉ có quyền bầu ra hai “vua”
mà còn có quyền bầu ra Hội đồng giám sát gồm năm quan từ những người có thế
lực đặc biệt lớn và Hội đồng này cũng có quyền lực thực chất là cao nhất. Giữa hai
“vua” và Hội đồng trưởng lão có quyền ngang nhau. Ở các nhà nước có chính thể
cộng hòa quý tộc, Đại hội nhân dân chỉ mang tính hình thức. Cũng chính vì khi
quyền lực có khuynh hướng tập trung ngày càng cao vào một vài thế lực mà các
chính thể này về sau đều chuyển thành chính thể quân chủ chuyên chế với vai trò
đặc biệt lớn của các ông vua.
Sự đa dạng, phức tạp của các hình thức chính thể nhà nước ở phương
Tây được lý giải từ lý do là sự phức tạp trong kết cấu xã hội, tương quan lực lượng
giữa các thế lực chính trị, kinh tế, sự giao thoa về văn hóa và ảnh hưởng lẫn nhau
giữa các quốc gia phương Tây có nguyên nhân bắt nguồn từ sự xâm lược lẫn nhau
cũng như quá trình phát triển công thương nghiệp rất sớm và nhanh với điều kiện
lực lượng sản xuất đã đạt được trình độ tương đối cao và sự xuất hiện của nhiều
tầng lớp quý tộc mới và quý tộc công thương. Những tầng lớp này có tiềm lực kinh

tế khá mạnh đã lôi kéo thêm tầng lớp bình dân đấu tranh với tầng lớp quý tộc cũ
vốn có địa vị cao trong xã hội lúc bấy giờ để giành lấy quyền lợi cho mình, trong
đó đặc biệt là các quyền về chính trị. Điều này dẫn tới sự đa dạng về phương thức
tổ chức quyền lực ở đây. Nó cũng phù hợp với chế độ nô lệ điển hình ở đây, trong
đó có thể kể đến tính chất đối kháng trong quan hệ giai cấp đòi hỏi phải thiết lập
quyền lực chính trị tương ứng để thực hiện việc chuyên chính giai cấp.
Ở phương Đông, hình thức chính thể đơn giản hơn và hầu như chỉ có một
hình thức duy nhất là chính thể quân chủ tuyệt đối với quyền lực vô hạn của các
ông vua. Quyền lực của vua được thần thánh hóa (như các Pha-ra-ông ở Ai cập,
Hoàng đế - Thiên tử ở Trung quốc…) và vương quyền được kết hợp với thần
quyền nên không có bất cứ sự kiểm soát nào đối với nhà vua. Vai trò của người
đứng đầu nhà nước ở phương Đông xuất phát từ sự tôn sùng của toàn xã hội do uy
tín tự nhiên của các ông vua ban đầu có được từ tài năng của họ trong chỉ huy
chiến đấu chống ngoại xâm và tổ chức trị thủy và các vua sau được thừa hưởng
các quyền lực này khi nó đã được thần thánh hóa. Chính thể này hình thành và tồn
tại được như vậy là do nhu cầu của công cuộc trị thủy và chống ngoại xâm của các
dân tộc phương Đông cần một thủ lĩnh thực sự và được suy tôn, có đủ uy tín để
liên kết các bộ lạc để tạo ra sức mạnh của cả cộng đồng và gắn với nó là chế độ nô
lệ gia trưởng. Sự tuyệt đối hóa vai trò của vua trong các nhà nước này đã làm cho
chính thể quân chủ này trở thành quân chủ chuyên chế.
Trong nhà nước phong kiến, sự khác nhau về hình thức chính thể giữa
phương Đông với phương Tây vẫn tiếp tục được duy trì do sự khác biệt rất lớn về
nhiều phương diện như kinh tế, văn hóa, xã hội, tâm lý... Nếu như ở phương Đông,
hình thức chính thể quân chủ vẫn tiếp tục được duy trì một cách bền vững qua cả
hai giai đoạn phát triển của chế độ phong kiến thời kỳ phân quyền và thời kỳ trung


ương tập quyền với vai trò đặc biệt của người đứng đầu nhà nước là các ông vua
vẫn được coi là “thiên tử”, được “thay trời trị dân” thì ở phương Tây, hình thức
chính thể tiếp tục có sự phát triển ở những dạng khác. Ở giai đoạn đầu, chế độ

phân quyền cát cứ ở phương Tây làm hạn chế rất nhiều vai trò cũng như ảnh
hưởng của vua đối với các lãnh địa do sự bành trướng, lớn mạnh của các lãnh chúa
dẫn đến sự thoát ly của các cát cứ địa với chính quyền trung ương. Sự can thiệp cả
về mặt chính trị cũng như kinh tế, quân sự là hầu như không đáng kể vì tiềm lực
kinh tế của vua không cao, vua cũng không có quân đội thường trực mạnh. Tuy
nhiên, chính quyền trung ương của nhà vua dần đã xây dựng được một lực lượng
quan đội thường trực mạnh và có khả năng can thiệp sâu vào các lãnh địa làm cho
vai trò của các lãnh chúa ngày càng nhỏ đi dẫn tới sự tập trung quyền lực vào
trong tay vua. Đây cũng là giai đoạn phát triển của nhà nước phong kiến ở thời kỳ
nhà nước trung ương tập quyền và làm cho chính thể của nhà nước trở thành chính
thể quân chủ chuyên chế.
Không chỉ như vậy, một số nhà nước phong kiến ở Tây Âu còn có một dạng
chính thể khác là quân chủ đại diện đẳng cấp với sự can thiệp của một số thế lực
quý tộc phong kiến vào các hoạt động của vua mà chủ yếu là trong việc ban hành
ra pháp luật, ít nhiều làm hạn chế sự chuyên quyền của vua. Tuy nhiên hình thức
này không duy trì được lâu và về sau quyền lực của vua vẫn là tuyệt đối do sự bất
chấp của vua mà không có sự kiểm soát nào đối với vua.
Cũng ở phương Tây, do sự hình thành khá sớm của các thành thị và sự phát
triển của tầng lớp thị dân cùng với sự hình thành của một số quan hệ sản xuất tư
bản mà dẫn đến nhu cầu giải phóng lực lượng sản xuất nhất định. Các thành thị có
những thỏa hiệp nhất định với các lãnh chúa để giành lấy quyền tự trị cho mình
nên ở đây đã xuất hiện mô hình của chính thể cộng hòa với đặc trưng là cư dân
thành thị có quyền bầu ra các cơ quan tự trị của mình và đã xuất hiện một số quy
chế pháp lý của công dân. Đây có thể được coi là mô hình chuyển tiếp của chính
thể quân chủ trong chế độ phong kiến sang mô hình của chính thể cộng hòa dân
chủ trong nhà nước tư sản sau này.
Trong nhà nước tư sản, hình thức chính thể của nhà nước còn đa dạng và
phức tạp hơn nhiều so với nhà nước phong kiến. Sau khi cách mạng tư sản nổ ra ở
một số nước, nhiều hình thức chính thể mới đã ra đời. Chính thể nhà nước vẫn tồn
tại dưới cả hai dạng cơ bản là quân chủ và cộng hòa. Tuy không còn chính thể

quân chủ chuyên chế như nhà nước phong kiến nhưng nhà nước tư sản lại có hai
biến thể của chính thể quân chủ là quân chủ nhị hợp (tồn tại chủ yếu ở giai đoạn
đầu của nhà nước tư sản) và chính thể quân chủ đại nghị (còn tồn tại phổ biến ở
các nhà nước có chính thể quân chủ hiện nay). Chính thể quân chủ nhị hợp có đặc
điểm là người đứng đầu nhà nước là vua, vẫn lên ngôi theo con đường thế tập (cha
truyền hoặc mẹ truyền, con nối) và thường giữ chức suốt đời và nắm quyền hành
pháp. Quyền lập pháp trước đây của vua đã bị hạn chế bởi nghị viện. Đây là kết
quả của sự thỏa hiệp giữa các thế lực phong kiến cũ vẫn còn tiềm lực tương đối lớn


với các thế lực tư sản mới đang có tiềm lực về kinh tế nhưng chưa đủ sức để loại
bỏ các thế lực phong kiến này ra khỏi đời sống chính trị. Chính thể quân chủ đại
nghị có đặc điểm là ngôi vua cũng được thế tập, vua vẫn đứng đầu nhà nước
nhưng quyền lực bị hạn chế ở cả hai lĩnh vực. Đó là quyền lập pháp bị hạn chế bởi
nghị viện, quyền hành pháp bị hạn chế bởi chính phủ. Vua không có thực quyền
mà chỉ còn là thủ lĩnh tinh thần, giữ vai trò trong các nghi thức nhà nước. Nói cách
khác thì vua chỉ trị vì mà không cai trị nên vua có quyền “vô trách nhiệm”. Chính
phủ được lập ra từ phe đa số trong nghị viện. Thủ tướng đứng đầu chính phủ và
cũng là thủ lĩnh của phe đa số trong nghị viện. Chính phủ có thể bị bất tín nhiệm
bởi nghị viện và khi đó chính phủ phải từ chức tập thể. Trung tâm quyền lực thực
chất ở các nhà nước có chính thể này nằm ở chức vụ thủ tướng.
Ở nhà nước tư sản không còn chính thể cộng hòa quý tộc. Tuy chỉ còn
chính thể cộng hòa dân chủ nhưng chính thể này cũng rất phức tạp. Nó có những
dạng thức chủ yếu là chính thể cộng hòa tổng thống, cộng hòa đại nghị (cộng hòa
nghị viện) và cộng hòa lưỡng tính (cộng hòa hỗn hợp) với những đặc điểm chung
và riêng nhất định
Đối với chính thể cộng hòa tổng thống, nguyên thủ quốc gia là tổng thống vừa
đứng đầu nhà nước, vừa đứng đầu chính phủ. Tổng thống được cử tri bầu ra, giữ
chức vụ theo nhiệm kỳ và có quyền lực rất lớn. Tổng thống có quyền tự thành lập
chính phủ bằng cách chỉ định các thành viên chính phủ không phụ thuộc vào phe

phái nào trong nghị viện, quyền phủ quyết các dự luật mà nghị viện đã thông qua
bằng cách không phê chuẩn và yêu cầu nghị viện phải thảo luận lại và thông qua
với một tỷ lệ chấp thuận là 2/3 số các nghị sĩ. Chính phủ chỉ chịu trách nhiệm
trước tổng thống chứ không chịu trách nhiệm trước nghị viện. Ví dụ Hoa Kỳ và
một số quốc gia châu Mỹ La tinh.
Đối vớỉ chính thể cộng hòa đại nghị, Tổng thống chỉ đứng đầu nhà nước mà
không được đứng đầu chính phủ, do nghị viện bầu ra, giữ chức vụ theo nhiệm kỳ
và có quyền lực hạn chế như không có quyền tự lập ra chính phủ mà chỉ được chỉ
định các thành viên của chính phủ từ phe đa số trong nghị viện, không có quyền
phủ quyết các dự luật mà nghị viện đã thông qua nhưng có một quyền đặc biệt là
trong trường hợp cần thiết có thể giải tán nghị viện trước nhiệm kỳ. Các yếu tố
còn lại của chính thể này giống như chính thể quân chủ đại nghị. Có thể thấy
chính thể này điển hình ở một số nước như Cộng hòa Italia, Cộng hòa Liên bang
Đức…
Chính thể cộng hòa lưỡng tính có sự kết hợp của hai dạng chính thể trên, trong
đó nguyên thủ quốc gia là tổng thống, chỉ đứng đầu nhà nước, được cử tri bầu,
nắm quyền theo nhiệm kỳ. Tuy nhiên, tổng thống cũng có quyền lực rất lớn như
cùng với nghị viện lập ra chính phủ bằng cách giới thiệu ứng cử viên thủ tướng
cho nghị viện bầu, cùng nghị viện kiểm soát chính phủ, có quyền tham gia các
phiên họp của chính phủ và đưa ra các quyết sách lớn trước cả chính phủ và nghị
viện, có quyền giải tán nghị viện trước nhiệm kỳ trong trường hợp cần thiết


nhưng không có quyền phủ quyết các dự luật mà nghị viện đã thông qua. Ví dụ
như ở Pháp và Nga hiện nay.
Nói chung, chính thể nhà nước tư sản đã có những sự phát triển vượt bậc so
với các nhà nước trước đó về cả các yếu tố cấu thành của chính thể, về cả nội
dung các quyền của các yếu tố này cũng như quan hệ giữa các yếu tố. Nó là kết
quả không chỉ của cuộc cách mạng tư sản mà còn là kết quả tác động của nhiều tư
tưởng chính trị - pháp lý tiến bộ cũng như sự ảnh hưởng của xu thế thời đại và

ảnh hưởng lẫn nhau giữa các quốc gia. Một điểm tiến bộ quan trọng nữa là chính
thể nhà nước luôn được quy định trong hiến pháp - văn bản pháp lý quan trọng
nhất của mỗi nhà nước và được coi là hình thức nhân dân trao quyền cho các cơ
quan nhà nước.
Đối với các nhà nước XHCN, tuy thời gian ra đời khá muộn và tồn tại thực tế
chưa nhiều nhưng nó cũng tạo ra được một số hình thức chính thể có thể xem xét
và nghiên cứu. Nói chung, tuy tên gọi có thể khác nhau như Công xã Pa-ri, cộng
hòa Xô viết, cộng hòa dân chủ nhân dân… do những điều kiện ra đời khác nhau
nhưng chúng đều có chính thể cộng hòa dân chủ. Tùy thuộc vào từng nhà nước cụ
thể mà trong mỗi chính thể của các nhà nước này, pháp luật có quy định cách thức
và mức độ tham gia của nhân dân vào việc thành lập ra các cơ quan cao nhất của
nhà nước. Các quy định này cũng được ghi nhận ở Hiến pháp của mỗi quốc gia.
2. Về hình thức cấu trúc của nhà nước
Cấu trúc nhà nước là yếu tố có ít thay đổi hơn so với hình thức chính thể và
chế độ chính trị. Sự ổn định này không chỉ diễn ra ở từng nhà nước mà còn đối
với cả các kiểu nhà nước nói chung trong lịch sử. Điều này có được là do sự ổn
định từ chính yếu tố cơ bản tạo nên cấu trúc nhà nước là yếu tố lãnh thổ. Có thể
thấy sự phát triển cấu rúc nhà nước qua các kiểu nhà nước trong lịch sử như sau:
Ở kiểu nhà nước chủ nô, hình thức cấu trúc nhà nước chủ yếu là đơn nhất. Bản
thân hình thức cấu trúc đơn nhất cũng rất đơn giản. Về mặt lãnh thổ, ban đầu hầu
hết các nhà nước đều có diện tích tương đối nhỏ và dân cư còn tương đối thưa nên
nhà nước chưa chia lãnh thổ thành các cấp đơn vị hành chính rõ ràng. Chính
quyền trung ương gần như quản lý dân cư trực tiếp hoặc dùng phương thức trung
ương tản quyền, trong đó vua cử người xuống các địa phương thay mặt mình để
giải quyết các vấn đề phát sinh, sau đó báo cáo lại với vua. Về sau, do sự mở rộng
lãnh thổ do chiến tranh, mở rộng đất đai canh tác, phát triển sản xuất… quy mô tổ
chức trở nên phức tạp hơn đòi hỏi nhà nước phải phân chia lãnh thổ thành nhiều
đơn vị hành chính các cấp, cấp dưới trực thuộc cấp trên, địa phương trực thuộc
trung ương gần giống như ngày nay. Tuy nhiên, do điều kiện đi lại khó khăn,
phức tạp, chính quyền trung ương khó kiểm soát được hết các địa bàn nên sự phát

triển này chuyển dần thành chế độ phân quyền cát cứ ở nhà nước phong kiến sau
này.
Ở nhà nước phong kiến, cấu trúc nhà nước cũng khá đơn giản. Do tiếp nhận
cách thức tổ chức quyền lực theo lãnh thổ từ nhà nước chủ nô nên cấu trúc nhà


nước phong kiến thời kỳ đầu về cơ bản là mang dáng dấp của cấu trúc nhà nước
chủ nô thời kỳ cuối. Ở giai đoạn đầu, do việc quản lý rất khó khăn mà nhà vua
không thể thâu tóm quyền lực vảo trong tay mà phải thực hiện việc phân quyền
cho các chư hầu để kiểm soát. Thời kỳ này, nhà nước phong kiến tồn tại chủ yếu
dưới dạng cấu trúc đơn nhất. Tuy nhiên, vua trao quyền khá rộng rãi cho các chư
hầu nên các chư hầu có thể có pháp luật, quân đội riêng mặc dù về danh nghĩa các
chư hầu phải phục tùng vua và chịu sự kiểm soát của vua. Chính quyền trung
ương ít can thiệp do chưa có quân đội thường trực đủ mạnh, tiềm lực tài chính có
nhiều hạn chế không đủ để chi cho bộ máy cồng kềnh và rất quan liêu nên ảnh
hưởng của chính quyền trung ương là khá khiêm tốn. Cũng vì lẽ đó, các chư hầu
ngày càng lớn mạnh và có khuynh hướng thoát ly chính quyền trung ương nên
làm cho chế độ phân quyền cát cứ càng có cơ hội phát triển mở rộng. Về sau,
khuynh hướng này đã bị ngăn chặn bởi sự mạnh lên của chính quyền trung ương
khi vua đã tập trung được quyền lực vào tay mình và phân chia lãnh thổ theo
nhiều cấp hành chính trực thuộc chính quyền trung ương hay cấp trên để kiểm
soát thông qua một hệ thống pháp luật thống nhất, quân đội thường trực mạnh để
có thể can thiệp tới tất cả các chư hầu, đồng thời cũng kiểm soát sự thoát ly của
các chính quyền cát cứ. Chính điều này đã làm cho quyền lực của vua ngày càng
lớn và giúp cho chính thể quân chủ trong chế độ này trở thành quân chủ chuyên
chế.
Ở các nhà nước tư sản, cấu trúc nhà nước cũng có sự phức tạp hơn nhiều
so với với nhà nước phong kiến giống trong hình thức chính thể. Nhà nước này
tồn tại cả hai hình thức cấu trúc đơn nhất và liên bang. Cấu trúc đơn nhất vẫn là
hình thức chiếm một tỷ lệ lớn ở các nước này. Tuy nhiên, cấu trúc nhà nước liên

bang có khuynh hướng mở rộng và phát triển với rất nhiều lý do. Đây là thời kỳ
mà các nhà nước tư sản thực hiện các cuộc chiến tranh xâm lược để mở rộng thị
trường đáp ứng cho yêu cầu của các quan hệ hàng hóa tư bản chủ nghĩa. Sự mở
rộng của các cuộc chiến tranh lan rộng và trở thành những cuộc chiến tranh thế
giới dẫn đến sự liên kết của nhiều nhà nước lại với nhau để tạo sức mạnh vừa để
cạnh tranh về kinh tế, vừa để tạo ưu thế quân sự làm hình thành nên các nhà nước
liên minh và sau đó phát triển thành các nhà nước liên bang. Nhiều nước nhỏ đã
tự thấy việc liên minh như vậy để tạo ra nhà nước liên bang như là một phương
thức để tồn tại và có chỗ dựa để phát triển và được hưởng lợi về ngoại giao,
thương mại… Sự ra đời của nhà nước Hoa kỳ cũng trên cơ sở của sự liên kết giữa
các bang thành viên bắt đầu từ sự liên minh theo điều khoản hợp bang được ký
kết giữa mười ba bang. Sau khi Hiến pháp 1787 được tất cả các nước thành viên
của liên minh này phê chuẩn vào năm 1789, nhà nước liên minh chuyển thành nhà
nước liên bang với sự mở rộng không ngừng bằng cách kết nạp các thành viên
mới hầu hết từ sự tự nguyện. Đến nay, nhà nước này có tới hơn năm mươi bang
và vùng lãnh thổ thành viên. Thực tế mẫu mực này cho thấy sự hình thành và phát


triển của nhà nước liên bang từ cơ sở tự nguyện và xuất phát từ chính lợi ích của
các thành viên không chỉ đem lại lợi ích cho chính họ mà còn tạo ra sự ổn định
cao cả về an ninh quốc phòng, cả về chính trị, kinh tế cho khu vực.
Đối với các nhà nước XHCN, hình thức cấu trúc nhà cũng tồn tại cả hai dạng
đơn nhất và liên bang. Tuy nhiên, các nhà nước liên bang ở các nước XHCN được
hình thành không xuất phát từ sự tự nguyện của các thành viên mà có tính chất
khiên cưỡng. Chủ yếu sự hình thành các nhà nước liên bang là do tạo nên ưu thế
quân sự mà điển hình là Liên xô cũ. Các quốc gia thành viên nhỏ, yếu thế thường
chịu nhiều sự thiệt thòi so với các quốc gia thành viên lớn và có nhiều ưu thế. Đặc
biệt là sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, nhiều nước đã bị cưỡng bức vào nhà
nước liên bang nên các nước này càng về sau càng tháy nhiều bất lợi và thiêt thòi
nên có khuynh hướng ly khai khỏi nhà nước liên bang. Để chống lại khuynh

hướng này, nhà nước liên bang mà thực chất là các nhà nước thành viên lớn
thường tìm cách chống lại, thậm chí còn gây ra cảnh huynh đệ tương tàn như đã
xảy ra ở Liên xô cũ, Liên bang Nam tư… Có lẽ đây sẽ là bài học đắt giá của lịch
sử dành cho tương lai của cấu trúc nhà nước liên bang.
III.
Hình thức nhà nước Việt Nam hiện nay
Nhà nước Việt Nam hiện nay là kết quả của một quá trình khá dài đấu
tranh, gây dựng, rút kinh nghiệm từ quá khứ với rất nhiều thăng trầm. Bộ máy nhà
nước, hình thức nhà nước, chức năng nhà nước … đều có nhiều thay đổi qua
những thời kỳ khác nhau, trong đó hình thức nhà nước là một trong những yếu tố
có nhiều thăng trầm rất đáng kể. Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam chính thức
được xác định từ năm 1976 sau khi thống nhất nước nhà. Đây chính là điều kiện
tốt nhất cho việc tổ chức lại quyền lực nhà nước một cách thống nhất trên cả ba
phương diện là hình thức chính thể nhà nước, hình thức cấu trúc của nhà nước và
chế độ chính trị. Nói chung, nhà nước Việt Nam có kế thừa các thành tựu của văn
minh thế giới trong việc tổ chức và thực hiện quyền lực của nhà nước và có dựa
trên những đặc điểm cơ bản của các nhà nước XHCN nói chung. Tuy nhiên, hình
thức nhà nước ở Việt Nam cũng có nhiều điều để quan tâm trên cả ba yếu tố cấu
thành của hình thức nhà nước là hình thức chính thể, hình thức cấu trúc và chế độ
chính trị. Cụ thể các yếu tố được xác định chính thức như sau:
1. Về hình thức chính thể
Nhà cước cộng hòa XHCN Việt Nam hiện nay vẫn tiếp tục được xác
định là chính thể cộng hòa dân chủ nhân dân, kế thừa chính thể truyền thống đã
dược xây dựng từ năm 1946 theo Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam. Chính thể này
có những biểu hiện chung, cơ bản của các chính thể cộng hòa nhưng cũng có
những đặc thù riêng biệt. Nguyên thủ của Việt Nam hiện nay được gọi là Chủ tịch
nước, được Quốc hội bầu ra và có nhiệm kỳ cùng Quốc hội, là người đại diện về
mặt nhà nước cho Việt Nam. Chủ tịch nước có quyền đề cử ứng cử viên cho chức
thủ tướng để Quốc hội bầu, có quyền bổ nhiệm các thành viên của chính phủ theo
nghị quyết của quốc hội phê chuẩn danh sách do thủ tướng đệ trình. Quốc hội là cơ



quan đại diện dân cử, được bầu bởi cử tri và thực hiện ba chức năng cơ bản là
quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước; lập hiến và lập pháp; giám sát tối
cao đối với toàn bộ bộ máy nhà nước. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội
thông qua việc trả lời chất vấn của các đại biểu trong các kỳ họp và một số hoạt
động khác, đồng thời cũng là cơ quan chấp hành của Quốc hội.
2. Về hình thức cấu trúc
Nhà nước Việt Nam hiện nay có cấu trúc đơn nhất. Theo quy định của Hiến
pháp hiện hành thì các cấp hành chính của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam được phân chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; tỉnh chia thành
huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia thành
quận, huyện và thị xã; huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã
chia thành phường và xã; quận chia thành phường. Các đơn vị hành chính cấp dưới
trực thuộc cấp trên, cấp tỉnh trực thuộc trung ương. Chính quyền địa phương có
Hội đồng nhân dân được cử tri địa phương bầu ra theo nhiệm kỳ và Ủy ban nhân
dân có cùng nhiệm kỳ với Hội đồng nhân dân
Ngoài cách xác định về mặt lãnh thổ như vậy để xác định các cấp chính
quyền nhà nước làm cơ sở để phân định thẩm quyền, cấu trúc này ở Việt Nam còn
được thể hiện ở việc chỉ có một hệ thống pháp luật thống nhất được áp dụng chung
cho cả nước. Mặt khác, công dân Việt Nam chỉ chịu sự điều chỉnh của một quy chế
pháp lý chung.
3. Về chế độ chính trị
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện một chính sách
dân chủ rộng rãi. Nhà nước tạo điều kiện cho nhân dân tham gia một cách tích cực
vào tất cả các quá trình thực hiện quyền lực nhà nước. Công dân có thể thực hiện
quyền của mình bằng hai hình thức là dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Dân
chủ đại diện là việc nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua các cơ quan
đại diện dân cử mà mình đã bầu ra là quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp. Dân
chủ trực tiếp là việc nhân dân tự mình thực hiện quyền lực và có thể xảy ra ở bất

kỳ giai đoạn nào của quyền lực nhà nước như tự mình có thể tham gia vào các cơ
quan nhà nước qua việc thi tuyển công chức, tham gia vào việc xây dựng chính
sách pháp luật qua việc nhà nước tổ chức lấy ý kiến hay tổ chức trưng cầu ý dân,
giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước… Khi thực hiện chế độ này, Nhà
nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa quán triệt phương châm “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra” theo tinh thần “lấy dân làm gốc” nhằm phát huy tính tích cực
chính trị của nhân dân. Nó có cơ sở từ Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ
sung vào nam 2001, được quy định tại điều 2 là “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức…” và điều


3 là “Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của
nhân dân…”

I.

Chương XI
HÌNH THỨC PHÁP LUẬT
Khái niệm hình thức pháp luật.
Hình thức pháp luật là một khái niệm chỉ ra ranh giới giữa pháp luật với các


quy phạm xã hội khác, là phương thức hay dạng tồn tại cũng như quy mô, cách tổ
chức các yếu tố cấu tạo nên hệ thống pháp luật. Theo đó, hình thức của pháp luật
được xem xét dưới hai góc độ: cách thức tổ chức các yếu tố cấu tạo nên pháp luật và
phương thức tồn tại của pháp luật và tương ứng với nó là hình thức bên trong và hình
thức bên ngoài.
1. Hình thức bên trong của pháp luật

Hình thức bên trong của pháp luật là sự liên kết, sắp xếp của các bộ phận, các
yếu tố cấu tạo nên hệ thống pháp luật. Hình thức bên trong của pháp luật xác định vị
trí, vai trò của các yếu tố hay các bộ phận của pháp luật gồm các chính sách pháp luật,
nguyên tắc pháp lý, các quy phạm pháp luật, chế định pháp luật và ngành luật. Giữa
chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó chính sách pháp luật và các nguyên
tắc pháp lý giữ vai trò chỉ đạo và định hướng cho toàn bộ hệ thống pháp luật. Hình
thức bên trong phản ánh khá cơ bản bản chất của pháp luật, vì các chính sách pháp
luật của một nhà nước được thể hiện đầu tiên trong các quan điểm hay nguyên tắc
pháp lý định hướng cho nội dung của pháp luật. Trên cơ sở định hướng của các
nguyên tắc này, toàn bộ hệ thống pháp luật sẽ được hình thành với những biểu hiện cụ
thể ở các cấp độ khác nhau từ ngành luật, chế định pháp luật đến các quy phạm pháp
luật cụ thể.
Ngành luật được hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh một lĩnh vực
quan hệ xã hội nhất định với phương pháp điều chỉnh tương ứng. Để nhận biết một
ngành luật, có thể dựa vào đối tượng điều chỉnh của nó là loại quan hệ xã hội nào, với
những tính chất gì và dựa vào cách thức được sử dụng để tác động lên các quan hệ xã
hội ấy
Chế định pháp luật là một tập hợp các quy phạm pháp luật để điều chỉnh một
nhóm quan hệ xã hội có tính chất giống nhau hoặc có quan hệ mật thiết với nhau.
Quy phạm pháp luật là quy tắc chung mà các thành viên trong xã hội phải coi là
chuẩn mực để tuân theo trong những phạm vi xác định, là tế bào cấu tạo nên hệ thống
pháp luật. (Xem thêm chương Quy phạm pháp luật)
Hình thức bên trong của pháp luật được coi là cơ sở quan trọng để đánh giá về một
hệ thống pháp luật. Nó có thể phản ánh nội dung, những dấu hiệu cơ bản thuộc về bản
chất của một kiểu pháp luật trong những điều kiện tồn tại nhất định.
2. Hình thức bên ngoài của pháp luật
Những yếu tố cấu tạo nên pháp luật được thể hiện dưới những hình thức cụ thể
chỉ ra pháp luật được hình thành bằng cách nào, đồng thời cho biết căn cứ pháp lý trực
tiếp để áp dụng pháp luật được gọi là hình thức bên ngoài của pháp luật. Đó là những
phương thức tồn tại và cách thức biểu hiện ra bên ngoài của pháp luật, chứa đựng

các quy phạm pháp luật
Hình thức bên ngoài của pháp luật cho biết pháp luật hình thành từ đâu (hay chỉ ra
kết quả của các con đường hình thành của pháp luật), có biểu hiện như thế nào, mặt


khác nó cũng cho biết khi thực hiện và áp dụng pháp luật thì phải dựa vào căn cứ pháp
lý nào, đồng thời cũng chỉ ra ranh giới giữa pháp luật với các quy phạm xã hội khác.
Nói cách khác, nhờ hình thức bên ngoài của pháp luật, người ta có thể “nhìn” thấy
pháp luật được biểu hiện dưới các dạng chủ yếu là tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn
bản quy phạm pháp luật. Chính vì vậy, cần nghiên cứu kỹ hơn vấn đề này ở phần sau
II.
Hình thức bên ngoài (nguồn) của pháp luật
Hình thức bên ngoài của pháp luật (còn được gọi là nguồn của pháp luật) là những
phương thức tồn tại và cách thức biểu hiện ra bên ngoài của pháp luật, chứa đựng các
quy phạm pháp luật làm căn cứ pháp lý cho các hoạt động thực hiện và áp dụng pháp
luật. Chúng tồn tại chủ yếu dưới các hình thức là tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn
bản quy phạm pháp luật
Tập quán pháp là hình thức của pháp luật tồn tại dưới dạng những phong tục, tập
quán đã được lưu truyền trong đời sống xã hội, được nhà nước thừa nhận thành
những quy tắc chung mang tính bắt buộc đối với xã hội.
Có thể nói đây là hình thức pháp luật cổ điển nhất, ra đời rất sớm cùng với sự
tan rã của chế độ cộng sản nguyên thuỷ. Các quy phạm xã hội thể hiện dưới dạng các
phong tục, tập quán đã điều chỉnh các quan hệ xã hội trước đó còn tiếp tục phát huy
tác dụng trong xã hội có giai cấp lại phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị chính là
cơ sở để hình thành nên các quy phạm pháp luật. Tập quán pháp có ưu điểm là có
nguồn gốc trực tiếp từ chính cuộc sống nên nó gần gũi với các đối tượng điều chỉnh
trong cuộc sống hàng ngày, dễ tạo ra thói quen tuân thủ pháp luật. Tuy nhiên, do phần
lớn tập quán được hình thành một cách tự phát nên thiếu cơ sở khoa học. Mặt khác, nó
mang tính cục bộ nên tính quy phạm phổ biến cũng sẽ bị hạn chế và vì có hình thức
truyền miệng là chủ yếu nên việc áp dụng nó có thể không thống nhất. Thông thường,

tập quán pháp vừa hình thành chậm, vừa có tính bảo thủ và rất khó thay đổi nên nó
không phải là hình thức có thể đáp ứng linh hoạt các yêu cầu của cuộc sống
Bên cạnh đó, còn có cách gọi khác đối với hình thức này là tục lệ pháp (droit
coutumier) như quan điểm của giáo sư Vũ Văn Mẫu đã trình bày trong cuốn Luật học
đại cương (Sài gòn 1972).1
Tiền lệ pháp là hình thức pháp luật tồn tại dưới dạng các phán quyết của các chủ
thể có thẩm quyền khi giải quyết các vụ việc cụ thể được nhà nước thừa nhận làm
khuôn mẫu cho việc giải quyết các vu việc tương tự về sau.
Sự phát triển mau chóng của đời sống kinh tế xã hội luôn đòi hỏi sự điều chỉnh
kịp thời. Tuy nhiên, không phải bao giờ nhà nước cũng kịp ban hành các quy phạm
mới để đáp ứng nhu cầu đó nên tiền lệ pháp đã hình thành. Do được hình thành nhanh,
thủ tục gọn lại có tính xác định cụ thể nên hiện nay tiền lệ pháp được khá nhiều quốc
gia sử dụng, đặc biệt là ở các nước thuộc hệ thống pháp luật Common Law. Tuy
nhiên, do có nguồn gốc từ hoạt động của các cơ quan không có chức năng xây dựng
hay sáng tạo pháp luật nên tính chất pháp lý của chúng không cao. Mặt khác, sự phụ
1

1. Vũ Văn Mẫu, Luật học đại cương, Sài gòn, 1972, trang 11


thuộc vào các chi tiết của vụ việc trước sẽ làm hạn chế phần nào tính linh hoạt của các
chủ thể áp dụng do tính bất di bất dịch của tình huống mẫu trong các vụ việc đã được
giải quyết. Ngược lại, cũng có thể xảy ra trường hợp khi áp dụng tiền lệ pháp, người ta
có thể suy diễn làm cho các tình tiết của phán quyết mẫu không còn đúng như ý nghĩa
ban đầu khi đối chiếu với các tình tiết của vụ việc cần áp dụng. Tiền lệ pháp được sử
dụng phổ biến hơn trong các quan hệ dân sự, đặc biệt là trong các quan hệ thương mại
do xu thế hội nhập của nền kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, việc sử dụng hình thức pháp
luật này nhiều hay ít còn phụ thuộc truyền thống của các nền văn minh pháp lý, trong
đó có các vấn đề về trình tự và thủ tục tố tụng là vấn đề khá phức tạp mà người áp
dụng có thể gặp phải.

Văn bản quy phạm pháp luật là hình thức pháp luật thể hiện dưới dạng văn bản
có chứa đựng các quy tắc xử sự chung, do các chủ thể có thẩm quyền ban hành theo
trình tự, thủ tục và hình thức luật định, được nhà nước bảo đảm thực hiện và được sử
dụng nhiều lần trong cuộc sống.
Văn bản pháp luật có thể được thể hiện như văn bản chúng ta thường thấy ngày
nay nhưng cũng có thể được thể hiện trên bia đá, đồng, đất nung hay có thể là da súc
vật… khi mà giấy viết chưa được phát minh Với những ưu điểm như dễ phổ biến, dễ
kiểm soát, đơn giản khi ban hành hoặc sửa đổi lại mang tính pháp lý cao do được ban
hành bởi các chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật với tên gọi cụ thể,
văn bản quy phạm pháp luật là hình thức pháp luật chủ yếu được ưu tiên sử dụng
trong xã hội hiện đại. Văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng các quy tắc xử sự chung
nên nó xác định các khuôn mẫu ứng xử cho con người, giới hạn tự do cho các chủ thể.
Tuy nhiên, văn bản quy phạm pháp luật có tính khái quát cao, nhiều khi phải ban hành
văn bản hướng dẫn nên giảm mất tính tích cực của chúng, mặt khác chi phí xây dựng
khá tốn kém cũng là một hạn chế của văn bản quy phạm pháp luật.
Ngoài các hình thức chủ yếu đã nêu ở trên, pháp luật còn được thể hiện ỏ một số
hình thức khác. Chẳng hạn như các tín điều trong giáo lý của một số tôn giáo được
nhà nước thừa nhận thành pháp luật và trong giới luật học có ý kiến cho rằng nên xác
định đây là một hình thức pháp luật và được gọi là giáo lý pháp. Nếu không coi đây là
một hình thức của pháp luật e rằng sẽ là một sự khiếm khuyết. Trên thực tế, vào thời
kỳ phong kiến, lời của vua chúa ban ra cũng có thể trở thành luật và được gọi là khẩu
luật cũng có thể được coi là một hình thức của pháp luật.
Cần chú ý một khái niệm rất gần với khái niệm hình thức pháp luật là nguồn của
pháp luật.Trong phạm vi nhất định, hình thức pháp luật còn được hiểu là nguồn của
pháp luật vì nguồn của pháp luật là những yếu tố hay cơ sở để tạo nên một hệ thống
pháp luật. Nó bao gồm nguồn về nội dung và nguồn về hình thức. Khái niệm nguồn có
nội hàm rộng hơn khái niệm hình thức pháp luật vì nguồn của pháp luật còn có những
yếu tố khác như các quan điểm khoa học (học lý) của các nhà khoa học chẳng hạn.
Nguồn về nội dung tương ứng với hình thức bên trong chỉ ra pháp luật được hình
thành từ đâu, nguồn về hình thức là cái chứa đựng các quy phạm pháp luật mà chủ yếu

được thể hiện ở hình thức bên ngoài như tập quán pháp, tiền lệ pháp hay văn bản quy


phạm pháp luật. Và như vậy, nội dung của phần này chỉ xá định nguồn của pháp luật
theo nghĩa thứ hai và đồng nghĩa với hình thức bên ngoài của pháp luật.
III. Việc sử dụng các hình thức (nguồn) của pháp luật trong các kiểu pháp
luật
Trong lịch sử tồn tại và phát triển của mình với bốn kiểu pháp luật, hình thức
(nguồn) của pháp luật được sử dụng ở các mức độ khác nhau do những điều kiện kinh
tế- xã hội và những truyền thống pháp lý cũng như sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các hệ
thống pháp luật. Việc sử dụng đó có thể thấy được qua các kiểu pháp luật như sau:
1. Hình thức pháp luật ở kiểu pháp luật chủ nô
Ở kiểu pháp luật này, hình thức pháp luật pháp luật đã được thể hiện một cách khá
đầy đủ với ba hình thức chủ yếu là tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy pháp
luật. Tuy nhiên, ở những giai đoạn khác nhau, mức độ sử dụng hình thức pháp luật
nào nhiều hay ít phụ thuộc rất nhiều vào đặc điểm của mỗi hình thức cũng như thái độ
của nhà cầm quyền.
Đối với hình thức tập quán pháp, nhà nước chủ nô sử dụng hình thức này một cách
khá phổ biến, thậm chí còn đươc coi là hình thức chủ yếu ở thời kỳ đầu của nhà nước
này. Điều này khá dễ hiểu vì đây là thời kỳ chữ viết còn rất hạn chế, việc sử dụng các
vật liệu cho sự thể hiện pháp luật thành văn (bảng đồng, bia đá, da súc vật, đất
nung…) khá tốn kém. Mặt khác, đây là hình thức phù hợp với trình độ lập pháp ở thời
kỳ này và cũng thuận lợi cho nhà cầm quyền khi áp dụng có thể tùy tiện.
Đối với hình thức tiền lệ pháp, nhà nước chủ nô cũng đã bắt đầu có ý thức sử dụng
hình thức này. Tuy nhiên mức đọ còn khá khiêm tốn. Các chủ thể có thẩm quyền
trong quá trình thực thi quyền lực có tạo ra những phán quyết thể hiện ý chí của mình.
Họ coi đó là những phán quyết mẫu mực và buộc việc giải quyết các vụ việc về sau có
nội dung tương tự phải lấy đó làm chuẩn mực. Các phán quyết này chủ yếu tồn tại
dưới dạng lời nói nên lúc đó có thể coi là hình thức pháp luật khẩu truyền. Tất nhiên,
điều đó sẽ bị lợi dụng để việc áp dụng có thể dễ dàng cho người áp dụng trở nên tùy

tiện và cũng chẳng thể kiểm soát được.
Hình thức văn bản quy phạm pháp luật được nhà nước chủ sử dụng khá sớm
nhưng chủ yếu là ở các nước có nền văn minh cao với kỹ thuật pháp lý đáng ghi nhận.
Ở những quốc gia này, chữ viết đã trở nên khá phổ biến trong đời sống xã hội. Mặt
khác đây cũng là những quốc gia có điều kiện về kinh tế để có thể sử dụng hình thức
này qua các chất liệu thể hiện khá tốn kém. Điều đó được thể hiện qua các bộ luật cổ
nổi tiếng còn được biết cho tới tận ngày nay mà nhân loại còn được biết đến. Có thể
minh chứng điều này qua các bộ luật nổi tiếng sau:
- Bộ luật Hammurabi của nhà nước Babilon được ban hành vào khoảng thế kỷ
XVIII TCN. Bộ luật này gắn với nền văn minh Lưỡng hà cổ đại với nhiều quy định
khá toàn diện về đời sống của xã hội như đất đai, tài sản, hôn nhân và gia đình…, của
nhà nước như quyền lực của vua, về cơ cấu tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước,
về tôn giáo… và được trình bày theo một cơ cấu khá hợp lý, chi tiết.


- Bộ luật Manu của nhà nước Ấn Độ gắn với nền văn minh sông Hằng và sông Ấn,
được ban hành vào thế kỷ thứ II TCN. Bộ luật này vừa là sự tập hợp các quy phạm
mang ý nghĩa pháp lý để điều chỉnh chung các quan hệ xã hội, vừa mang ý nghĩa của
những điều giáo huấn liên quan đến đạo đức và tôn giáo.
- Bộ luật Doracon của nhà nước chủ nô Athen được ban hành vào cuối thế kỷ thứ
VII TCN gắn cới nền văn minh Hy lạp lại nổi tiếng với sự hà khắc của một bộ luật
hình sự trong việc đưa ra một hệ thống hình phạt cực kỳ dã man. Tuy nhiên Bộ luật
này đã có những biểu hiện của việc phân hóa tội phạm của pháp luật hiện đại như có
sự phân biệt các loại lỗi cố ý và khi vi phạm để phân hóa tội phạm, đã phân biệt con
người với tài sản…
- Bộ luật đặc biệt nổi tiếng - Luật 12 bảng của nhà nước La mã- đế chế trung tâm
của châu Âu thời cổ đại- được ban hành vào thế kỷ V. TCN với kỹ thuật pháp lý rất
cao, với sự hoàn thiện đáng nể về cả cơ cấu, nội dung, nguyên tắc pháp lý… mà
Ănghen từng coi là “khuôn vàng thước ngọc” cho các nhà làm luật về sau và đã ảnh
hưởng một cách sâu rộng đến hầu hết diện tích châu Âu lúc đó và một thời gian dài về

sau.
2. Hình thức pháp luật (nguồn) của pháp luật phong kiến
Do hình thành gắn liền với tình trạng phân quyền cát cứ nên pháp luật phong kiến
thiếu tính thống nhất do cùng một lúc tồn tại pháp luật của chư hầu cùng pháp luật của
chính quyền trung ương, đặc biệt là thời kỳ đầu. Mặt khác, nhiều khi pháp luật là sự
tập hợp các tập quán ở các địa phương nên nó mang tính tản mạn, tương ứng với nền
sản xuất nhỏ, manh mún. Hình thức pháp luật được sử dụng phổ biến là tập quán pháp
nên pháp luật có tính cục bộ, được hình thành một cách tự phát, chậm chạp lại có tính
bảo thủ, rất khó thay đổi nên hiệu quả tác động thấp. Thời kỳ phong kiến, nước Pháp
tồn tại hơn 300 hệ thống luật tập quán của các địa phương, ở Đức cũng có một tập hợp
các tập quán được ghi chép lại, còn ở Việt Nam, câu tục ngữ “ phép vua thua lệ làng”
cũng phản ánh vai trò đặc biệt lớn của tập quán pháp. Để hạn chế điều này, các nhà
nước phong kiến đã ban hành khá nhiều các văn bản quy phạm pháp luật để điều
chỉnh các quan hệ xã hội và vì vậy đã có một số bộ luật lớn được ban hành để áp dụng
chung cho cả nước, nhất là vào thời kỳ nhà nước trung ương tập quyền. Tuy nhiên,
việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện bởi một trình độ kỹ
thuật pháp lý còn rất nhiều hạn chế như kỹ thuật pháp điển hoá, việc phân chia các
ngành luật, kỹ thuật xây dựng các quy phạm cụ thể... Nhiều khi phần giả định của quy
phạm giống như là sự mô tả một tình tiết có thật đã từng xảy ra giống như một tình
huống được mô tả trong một án lệ.
Bên cạnh hai hình thức pháp luật trên, hình thức tiền lệ pháp cũng được một số nhà
nước phong kiến sử dụng một cách phổ biến, đặc biệt là ở nước Anh. Việc áp dụng
tiền lệ pháp là cơ hội cho phép bọn địa chủ, quan lại phong kiến trở nên tuỳ tiện khi
giải quyết các vụ việc theo ý muốn chủ quan của chúng. Trong một số quốc gia, do
vai trò đặc biệt quan trọng của tôn giáo mà nhà nước sử dụng các tín điều tôn giáo một


cách trực tiếp tương tự như pháp luật mà điển hình là các quốc gia Hồi giáo
Muxulman.
Một hình thức pháp luật tồn tại khá phổ biến trong pháp luật phong kiến là hình

thức “khẩu luật”. Vua có quyền ban hành ra pháp luật nhưng chủ yếu dưới dạng các
chỉ dụ, lời vua nói là pháp luật. Trong trường hợp vua lại là những nhà độc tài, chuyên
chế thì đây chính là hình thức có nguy cơ cao nhất tạo ra sự tùy tiện của nhà cầm
quyền
Vào giai đoạn cuối của chế độ phong kiến, ở một số thành phố châu Âu, cư dân
thành thị còn chịu sự điều chỉnh của một loại pháp luật riêng. Đó là các quy chế
phường hội, chiếm một vị trí quan trọng trong pháp luật của các thành phố và như là
một tiền đề cho hình thức pháp luật thành văn sau này ở các nhà nước tư sản.
3. Hình thức (nguồn) của pháp luật tư sản.
Hình thức (nguồn) của pháp luật tư sản không chỉ tồn tại ở ba dạng phổ biến là tập
quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp luật mà còn được xác định ở các
học thuyết chính trị- pháp lý, các nguyên tắc pháp luật… Việc sử dụng các hình thức
(nguồn) này lại có sự khác nhau giữa các hệ thống pháp luật lớn với truyền thống
pháp lý khác nhau, cụ thể là :
Tập quán pháp là hình thức áp dụng còn khá phổ biến trong các nhà nước tư
sản thời kỳ đầu do mới thoát ra khỏi chế độ phong kiến. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của
dân luật La mã nhiều hơn mà hệ thống pháp luật Civil Law ở châu Âu lục địa sử dụng
tập quán pháp ở mức độ hạn chế hơn và ngược lại hệ thống Common Law ít ưu tiên
sử dụng hình thức này do ít chịu ảnh hưởng từ dân luật La mã. Ngày nay, việc áp
dụng tập quán vẫn tiếp tục được thực hiện nhưng ở mức độ hạn chế do sự phát triển
rất nhanh của hai hình thức pháp luật còn lại và cũng chủ yếu là áp dụng trong lĩnh
vực dân sự, thương mại. tập quán pháp đôi khi cũng được sử dụng trong lĩnh vực dân
sự có yếu tố nước ngoài và có thể còn được gọi là các tập quán quốc tế.
Tiền lệ pháp là một hình thức pháp luật rất phát triển ở nhà nước tư sản. Đây là
một hình thức rất phù hợp với những quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, nhất là trong
các lĩnh vực dân sự, thương mại vì chúng đáp ứng rất linh hoạt sự phát triển của các
loại quan hệ này. Sự phát triển của thương mại nhanh chóng làm cho hệ thống pháp
luật thành văn lúc đó không được ban hành kịp thời để đáp ứng yêu cầu của việc điều
chỉnh các quan hệ xã hội phức tạp lại đòi hỏi giải quyết ngay. Điều này làm cho vai
trò của các thẩm phán khi xét xử là rất cao khi tạo ra những phán quyết có tính chất

mẫu mực và được thừa nhận làm khuôn mẫu để giải quyết các vấn đề mới phát sinh
mà văn bản quy phạm không thể được ban hành kịp để điều chỉnh. Mặt khác, như ở
Anh, người ta nghi ngờ về những đạo luật do nhà vua ban hành nên văn bản quy phạm
không phải là hình thức được coi trọng. Hình thức tiền lệ pháp trở thành nguồn quan
trọng của các quốc gia trong hệ thống pháp luật Common Law mà điển hình là Anh và


Hoa kỳ. Có thể coi đây là một đóng góp của pháp luật tư sản về phương diện kỹ thuật
pháp lý góp phần tạo nên một sự hoàn thiện pháp luật qua việc khắc phục những hạn
chế của pháp luật thành văn cùng với sự thừa nhận những nguyên tắc công bằng, công
lý có điều kiện được thực thi mà không phụ thuộc vào nhà cầm quyền. Điều đó đã
được chứng tỏ qua thời gian, các án lệ- một dạng của tiền lệ pháp- không những
không mất đi giá trị của chúng mà ngược lại nó càng ngày càng được tôn trọng và
phát huy tác dụng của chúng đối với việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Việc sử dụng
nguồn pháp luật này rất ít có sự kháng cáo, kháng nghị vì nó thường được chấp thuận
bởi những người bị hoặc được phán quyết do sự tin tưởng của họ và phán quyết mẫu
đã được thử thách và kiểm chứng qua thời gian. Ngày nay, do xu hướng hội nhập và
quốc tế hóa, nhiều nhà nước đã chấp nhận sử dụng nguồn pháp luật quan trọng này
ngày càng nhiều hơn, kể cả những nước có truyền thống sử dụng văn bản như ở châu
Âu lục địa.
Đối với hình thức văn bản quy phạm pháp luật, trong pháp luật tư sản thì đây là
hình thức được sử dụng khá phổ biến, đặc biệt là ở các nước thuộc châu Âu lục địa.
Do kỹ thuật pháp điển hóa được sử dụng một cách khá nhuần nhuyễn từ truyền thống
mà nhiều bộ luật quan trọng đã ra đời với một vai trò đặc biệt lớn và trở thành nguồn
pháp luật chủ yếu ở nhiều nước. Không chỉ vậy, ngay cả đối với những nước có
truyền thống sử dụng tiền lệ pháp cũng tiếp nhận một cách chủ động và khá tích cực
khuynh hướng sử dụng loại nguồn này. Có những bộ luật quan trọng có ảnh hưởng rất
lớn không chỉ đối với một quốc gia mà còn đối với nhiều quốc gia khác mà điển hình
là bộ luật dân sự của Pháp được mang tên hoàng đế Napoleon. Chúng được nhiều nhà
nước tiếp nhận như một nguồn pháp luật chính thức của chính mình. Việc sử dụng

loại nguồn này ở châu Âu lục địa có nhiều ảnh hưởng đến hệ thống Common law và
làm cho các quốc gia thuộc hệ thống này ngày nay cũng sử dụng ngày càng nhiều hơn
văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, văn bản quy phạm pháp luật ở những nước
có truyền thống sử dụng tiền lệ pháp có khuynh hướng tạo ra những văn bản quy
phạm pháp luật có thể áp dụng trực tiếp với việc quy định rất chi tiết và tập trung để
giải quyết một loại vấn đề cụ thể gần giống với cách sử dụng tiền lệ pháp. Các văn
bản quy phạm pháp luật loại này ít sử dụng kỹ thuật pháp điển hóa để tạo ra những bộ
luật lớn điều chỉnh bao quát một lĩnh vực.
4. Hình thức (nguồn) của pháp luật XHCN
Ở những nước XHCN, hình thức pháp luật được sử dụng cũng bao gồm tập quán
pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, tập quán pháp chỉ
chiếm một vị trí khá khiêm tốn vì nó bị coi là hình thức pháp luật có nhiều hạn chế
nên không phù hợp với một kiểu pháp luật có bản chất mới, tiến bộ. Tiền lệ pháp cũng
ít được sử dụng, thậm chí có những quốc gia hầu như không sử dụng đến vì hậu quả
của một thời kỳ cực đoan trong cách nhìn nhận các giá trị của chế độ tư bản, trong đó
coi các hoạt động thương mại chủ yếu là của chế độ tư bản chứ không phải là của nhà


nước XHCN. Trong tình trạng đó, văn bản quy phạm pháp luật đương nhiên được ưu
tiên sử dụng với sự ra đời của nhiều văn bản quan trọng như hiến pháp, các bộ luật…
Điều này ít nhiều đã được thay đổi trong thời gian gần đây do sự thay đổi của thời
cuộc với sự mở rộng các quan hệ quốc tế, nhất là các quan hệ kinh tế, thương mại.
IV.

Hình thức (nguồn) của pháp luật ở Việt Nam

1. Các hình thức (nguồn) pháp luật
Ở Việt Nam hiện nay, hình thức (nguồn) của pháp luật chủ yếu chỉ có hai loại.
Đó là tập quán pháp và văn bản quy phạm pháp luật, trong đó văn bản quy phạm pháp
luật là nguồn quan trọng và chính yếu. Hình thức tiền lệ pháp không có bất cứ căn cứ

pháp lý nào xác định là nguồn cho các hoạt động thực hiện và áp dụng pháp luật. Nó
chủ yếu mới dừng lại ở mức độ nghiên cứu về khả năng áp dụng trong điều kiện hiện
nay để đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế toàn diện.
Về hình thức tập quán pháp, hiện nay pháp luật Việt Nam dành cho loại nguồn này ở
một vị trí khiêm tốn và chỉ coi như một hình thức pháp luật bổ sung khi văn bản quy
phạm pháp luật còn thiếu. Nó có thể được xác định một cách gián tiếp, ví dụ như tại
điều 3 của Bộ luật dân sự 2005 là: “Trong trường hợp pháp luật không quy định và
các bên không có thoả thuận thì có thể áp dụng tập quán; nếu không có tập quán thì
áp dụng quy định tương tự của pháp luật. Tập quán và quy định tương tự của pháp
luật không được trái với những nguyên tắc quy định trong Bộ luật này.” hoặc xác định
nguồn trực tiếp như quy đinh tại khoản 4, điều 625 của Bộ luật này: “Trong trường
hợp súc vật thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu súc vật đó phải bồi
thường theo tập quán nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.” Có thể khẳng
định rằng, tập quán pháp vẫn hoàn toàn là cần thiết và còn tiếp tục phát huy những giá
trị tích cực của nó trong đời sống, không chỉ là một nguồn quan trọng bổ sung cho sự
khuyết thiếu của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật mà còn là một cơ sở cho sự bảo
tồn những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Hình thức văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam hiện nay vẫn tiếp tục giữ vai
trò chủ đạo trong hệ thống pháp luật. Hình thức này được thể hiện ở một hệ thống các
văn bản quy phạm pháp luật được xác định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (năm 2004) và Luật Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật (năm 2008). Nói chung, hình thức này đã có một sự tiến
bộ rất đáng kể qua rất nhiều lần hoàn thiện, được ban hành với một chất lượng ngày
càng cao, kỹ thuật pháp lý tốt, đặc biệt là các văn bản có giá trị pháp lý cao như Hiến
pháp và các đạo luật lớn nên đã đóng góp một phần rất quan trọng vào việc thực hiện
mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN với yêu cầu các quan hệ xã hội cơ
bản phải được điều chỉnh bằng các đạo luật. Chính vì nó là nguồn pháp luật chủ yếu ở
Việt Nam nên việc áp dụng pháp luật chủ yếu cũng là áp dụng các văn bản quy phạm
pháp luật. Do vậy cần xác định hiệu lực của nguồn luật này.
2. Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật



Để có thể áp dụng pháp luật một cách hợp pháp, cần phải xác định hiệu lực
của hình thức pháp luật (căn cứ pháp lý) được viện dẫn. Hiệu lực của văn bản quy
phạm pháp luật được hiểu là giá trị áp dụng của văn bản được xác định trong phạm vi
nhất định theo quy định của pháp luật.
Các phạm vi xác định hiệu lực của các hinh thức này bao gồm phạm vi về thời gian,
về không gian và theo đối tương tác động của chúng. Như vậy, muốn áp dụng pháp luật
phải xác định hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật theo các giới hạn về thời gian,
không gian và đối tượng tác động.
Hiệu lực về thời gian của văn bản quy phạm pháp luật là giá trị tác động của văn
bản lên các quan hệ xã hội xảy ra được xác định trong phạm vi thời gian kể từ khi
phát sinh cho đến khi chấm dứt hiệu lực.của văn bản đó.
Thời điểm phát sinh hiệu lực của văn bản thường được xác định trực tiếp trong
chính văn bản nhưng có thể dựa vào sự quy định của một văn bản pháp lý khác của
chủ thể có thẩm quyền. Nó có thể là văn bản công bố hay văn bản hướng dẫn thi hành.
Sự hướng dẫn của các loại văn bản kiểu này thường có thể là chi tiết, cụ thể, trực tiếp
chỉ ra thời điểm có hiệu lực của văn bản cần xác định.
Ngoài các cách xác định trên đây, một số văn bản được xác định hiệu lực theo sự
quy định chung của pháp luật. Việc quy định như vậy của pháp luật là nhằm để khắc
phục tình trạng các văn bản không tự xác định hoặc không có văn bản nào hướng dẫn
việc thi hành như đã từng xảy ra trước đây làm cho các chủ thể tiến hành thực thi pháp
luật không có căn cứ để xác định hiệu lực của chúng.
Khi một văn bản chấm dứt hiệu lực thì nó sẽ không được áp dụng đối với các vụ
việc phát sinh từ thời điểm đó nữa. Thời điểm chấm dứt hiệu lực của văn bản có thể là
mặc nhiên khi đến thời điểm mà văn bản đó đã tự quy định là hết hiệu lực hoặc không
còn đối tưọng áp dụng. Cũng có thể văn bản hết hiệu lực khi có một văn bản thay thế.
Văn bản thay thế đó có thể là văn bản cùng loại với văn bản bị thay thế hoặc là văn
bản có giá trị pháp lý cao hơn. Ngoài ra, văn bản còn có thể được xác định là hết hiệu
lực khi có một quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền bãi bỏ văn bản đó.

Văn bản có thể không chấm dứt toàn bộ hiệu lực trong trường hợp nó chỉ bị sửa đổi,
thay thế hay bãi bỏ từng phần. Phần còn lại của nó vẫn tiếp tục có giá trị áp dụng như
những trường hợp thông thường khác.
Văn bản bị ngưng hiệu lực khi có quyết định của chủ thể có thẩm quyền cho tạm
dừng việc áp dụng văn bản đó cho đến khi có quyết định khôi phục lại hiệu lực của
chúng. Nhưng cũng có thể chúng sẽ mất hiệu lực luôn sau khi khi bị xác định là văn
bản trái pháp luật. Khi đó, thường sẽ có một quyết định huỷ bỏ hoặc bãi bỏ của chủ
thể có thẩm quyền.
Văn bản còn có hiệu lực trở về trước (hiệu lực hồi tố). Hiệu lực trở về trước của
văn bản được hiểu là giá trị tác động của văn bản đối với những vụ việc xảy ra trước
khi văn bản đó có hiệu lực. Việc lấy văn bản mới để áp dụng cho các vụ việc như vậy
phải có những điều kiện là nó phải được pháp luật quy định và việc áp dụng đó không
gây ra tình trạng bất lợi cho người bị áp dụng.


Hiệu lực theo không gian của văn bản quy phạm pháp luật là giá trị tác động của
văn bản lên các quan hệ xã hội xảy ra được xác định theo phạm vi lãnh thổ, vùng hay
khu vực.
Hiệu lực theo không gian của văn bản thường được văn bản tự xác định hoặc được
xác định theo thẩm quyền của cơ quan ban hành văn bản. Theo đó, thông thường các
văn bản do cơ quan nhà nước ở Trung ương ban hành có hiệu lực trong phạm vi toàn
lãnh thổ. Còn các văn bản do cơ quan nhà nước ở địa phương nào ban hành sẽ có hiệu
lực trên phạm vi địa phương đó.
Tuy nhiên, việc xác định hiệu lực về mặt không gian của văn bản không chỉ thuần
tuý dựa vào những căn cứ trên mà cần phải chú ý đến mối quan hệ giữa nó với các văn
bản khác hoặc xem xét trong mối quan hệ với đối tượng tác động.
Trường hợp chia tách hoặc sáp nhập các đơn vị hành chính lãnh thổ thì hiệu
lực của văn bản thường được xác định theo phần lãnh thổ trước khi được chia tách
hoặc sáp nhập cho đến khi đơn vị hành chính mới ban hành văn bản thay thế.
Hiệu lực theo đối tượng tác động là giá trị tác động của văn bản lên các quan hệ

xã hội, trong đó xác định những loại chủ thể nào tham gia vào những quan hệ đó.
Khi xác định hiệu lực theo đối tượng tác động cần xem xét nó trong mối quan hệ
với hiệu lực của văn bản về không gian tác động và các văn bản pháp lý khác, nhất là
các văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn. Thông thường, hiệu lực theo đối tượng tác
động của văn bản được xác định trực tiếp trong chính văn bản đó (thường được xác
định trong điều khoản quy định về đối tượng và phạm vi điều chỉnh). Nếu không, hiệu
lực theo đối tượng tác động được xác định trên cơ sở thẩm quyền của cơ quan đã ban
hành văn bản. Các văn bản do các cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành thường có
hiệu lực đối với hầu hết các chủ thể đang hoạt động trong phạm vi toàn lãnh thổ. Còn
các văn bản do các cơ quan nhà nước tại địa phương nào ban hành thì có hiệu lực đối
với các chủ thể trong phạm vi địa phương đó. Trong một số trường hợp đặc biệt thì
hiệu lực theo đối tượng tác động của văn bản có thể bị thay đổi mà chủ yếu là thu hẹp
phạm vi đối tượng do sự hạn chế của văn bản có hiệu lực cao hơn, nhất là các điều
ước quốc tế mà quốc gia ban hành văn bản đó là thành viên.
Trong một số trường hợp, sự thay đổi một chế độ xã hội bởi một lực lượng cầm
quyền khác có thể dẫn tới sự vô hiệu toàn bộ hoặc một bộ phận quan trọng của hệ
thống pháp luật của từng quốc gia với tất cả các hình thức pháp luật. Tuy nhiên điều
đó ít xảy ra trên thực tế trong thời đại ngày nay mà đặc biệt là đối với các điều ước
quốc tế với tư cách là các văn bản pháp luật được các quốc gia ký kết hoặc phê chuẩn.
V.
Hoạt động xây dựng pháp luật ở Việt Nam
1. Khái niệm hoạt động xây dựng pháp luật ở Việt Nam
Xây dựng pháp luật là một hình thức thực hiện chức năng cơ bản của nhà nước để
tạo ra một hệ thống các quy phạm pháp luật làm khuôn mẫu, đáp ứng yêu cầu của việc
điều chỉnh các quan hệ xã hội. Đây là khâu đầu tiên của quá trình điều chỉnh pháp
luật, xác định nên căn cứ pháp lý cho hầu hết các hoạt động của xã hội. Việc điều
chỉnh các quan hệ xã hội có hiệu quả hay không phụ thuộc một phần vào hoạt động


này. Việt Nam hiện nay đang xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN nên xây dựng

pháp luật lại càng có vai trò quan trọng trong các hoạt động của nhà nước và của xã
hội. Đó là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước của các chủ thể có thẩm quyền để
đưa ý chí của nhân dân thành ý chí của nhà nước và trở thành hệ thống chuẩn mực
chung cho toàn xã hội.
Xây dựng pháp luật- cũng có thể hiểu là hoạt động ban hành pháp luật – được thực
hiện qua hai loại hoạt động chủ yếu là lựa chọn các quy phạm xã hội có sẵn như các
quy tắc đạo đức, tập quán… phù hợp với yêu cầu của nhà nước để nâng chúng lên
thành các chuẩn mực pháp lý và đặt ra các quy phạm mới để điều chỉnh các quan hệ
mới hoặc có thể sẽ phát sinh. Kết quả của những hoạt động này sẽ tạo ra một hệ thống
nguồn (cơ sở pháp lý) cho các hoạt động của xã hội và của chính nhà nước. Hoạt động
xây dựng pháp luật ở Việt Nam hiện nay chủ yếu là ban hành ra các văn bản quy
phạm pháp luật.
Căn cứ pháp lý cho các hoạt động này hiện nay là Hiến pháp 1992 và hai văn bản
luật là Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân năm 2004 và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, trong đó
xác định các vấn đề liên quan đến xây dựng pháp luật gồm các loại văn bản quy phạm
pháp luật, thẩm quyền ban hành, nguyên tắc và trình tự thủ tục ban hành, kiểm tra,
giám sát hoạt động ban hành văn bản đồng thời với việc xử lý các văn bản quy phạm
trái pháp luật... Căn cứ thực tế là các yêu cầu cũng như điều kiện kinh tế- xã hội và
yếu tố thời đại. Việc xây dựng pháp luật về căn bản phải dựa vào các căn cứ nêu trên
nếu muốn tạo ra được một hệ thống pháp luật vừa toàn diện, đồng bộ, vừa phù hợp
với các điều kiện khách quan của đời sống xã hội. Do vậy, các chủ thể xây dựng pháp
luật phải là những người chủ động xem xét các yêu cầu của đời sống xã hội, nhận thức
các quy luật vận động của kinh tế, đánh giá đúng tình hình thế giới có ảnh hưởng đến
Việt Nam để tạo ra các chuẩn mực cần thiết đảm bảo cho việc điều chỉnh pháp luật đạt
hiệu quả cao. Điều đó chỉ có thể đạt được khi nó tuân theo các nguyên tắc cơ bản chỉ
đạo và các quy trình nhất định.
2. Nguyên tắc xây dựng pháp luật ở Việt Nam
Nguyên tắc xây dựng pháp luật là những quan điểm, tư tưởng khoa học và xuất phát
từ bản chất của chế độ, có ý nghĩa chỉ đạo, bao trùm toàn bộ quá trình tạo ra các văn

bản quy phạm pháp luật nhằm đảm bảo cho sự hoàn thiện của một hệ thống pháp luật.
Có các nguyên tắc xây dựng pháp luật chủ yếu được xác định theo Luật ban hành văn
bản quy phạm pháp luật năm 2008, tại điều 3 là:
“1. Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm
pháp luật trong hệ thống pháp luật.
2. Tuân thủ thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản
quy phạm pháp luật.
3. Bảo đảm tính công khai trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm
pháp luật trừ trường hợp văn bản quy phạm pháp luật có nội dung thuộc bí mật


nhà nước; bảo đảm tính minh bạch trong các quy định của văn bản quy phạm
pháp luật.
4. Bảo đảm tính khả thi của văn bản quy phạm pháp luật.
5. Không làm cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên.”
Tuy nhiên, những nguyên tắc pháp lý này cũng cần đặt trong quan hệ với các
nguyên tắc học thuật đã được thẩm định trong thực tế là:
a. Nguyên tắc khách quan.
Nguyên tắc này đòi hỏi hoạt động xây dựng pháp luật phải tuân theo các quy luật
của đời sống xã hội, phù hợp với trình độ phát triển của kinh tế và xu thế của thời đại.
Nó phải xuất hát từ chính yêu cầu của cuộc sống chứ không thể tùy tiện được ban
hành bởi ý chí chủ quan của nhà cầm quyền. Nguyên tắc này có tính chất tiên quyết
đảm bảo cho sự ra đời của một hệ thống pháp luật hoàn thiện.
b. Nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyên tắc này là sự thừa nhận vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam- người đại
diện cho ý chí, nguyện vọng, lợi ích của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân
lao động và của dân tộc. Để nguyên tắc này được thực hiện, nhà nước thông qua các
chủ thể có thẩm quyền phải thể chế hóa đướng lối, chủ trương của Đảng thành pháp
luật theo những nội dung, phương hướng mà Đảng đã đề ra.

c. Nguyên tắc khoa học
Nguyên tắc này đòi hỏi quá trình xây dựng pháp luật của chủ thể có thẩm quyền
phải đảm bảo được yêu cầu của một hệ thống pháp luật hiện đại. Đó là sự hợp lý về cơ
cấu, chặt chẽ về nội dung, rõ ràng, mạch lạc trong cách trình bày, có tính liên thông
giữa các văn bản tạo nên sự thống nhất, hiệu quả cho cả hệ thống và thuận tiện cho
việc áp dụng, tra cứu, đối chiếu, kiểm tra. Do đó, hoạt động xây dựng pháp luật phải
dựa trên những thành tựu của khoa học hiện đại, nhất là khoa học pháp lý. Nguyên tắc
này còn đảm bảo cho tính khả thi của pháp luật trên thực tế.
d. Nguyên tắc dân chủ
Đây là nguyên tắc xuất phát từ bản chất của chế độ XHCN mà nhà nước đang theo
đuổi thực hiện cũng như việc phát huy trí tuệ của nhân dân và tạo nên sự đồng thuận
xã hội cao trong việc thực hiện pháp luật sau này. Nguyên tắc này đòi hỏi phải có sự
tham gia rộng rãi của nhân dân vào hoạt động xây dựng pháp luật từ khâu xây dựng kế
hoạch cho đến khâu xây dựng dự thảo, góp ý kiến, thẩm định, đánh giá tác động mà
đặc biệt là hoạt động phản biện xã hội đối với các dự thảo văn bản quy phạm pháp
luật, qua đó mà cho nhân dân được biết sự cần thiết cũng như nội dung của vấn đề mà
pháp luật đã đặt ra.
e. Nguyên tắc pháp chế
Đây là nguyên tắc có ý nghĩa bảo đảm tính hợp pháp, chặt chẽ của hệ thống pháp
luật nói chung và của từng văn bản quy phạm pháp luật nói riêng. Nguyên tắc này đòi
hỏi quá trình xây dựng pháp luật phải thừa nhận và tôn trọng tính tối cao của Hiến
pháp, trong đó các chủ thể phải ban hành văn bản quy phạm theo đúng thẩm quyền,


trình tự, thủ tục, có nội dung phù hợp với Hiến pháp và các văn bản có hiệu lực cao
hơn để tránh sự mâu thuẫn, chồng chéo giữa các văn bản, thậm chí vô hiệu hóa lẫn
nhau. Việc kiểm tra, giám sát để phát hiện và xử lý các văn bản quy phạm pháp luật
sai trái là hết sức cần thiết và phải được tiến hành thường xuyên.
f. Nguyên tắc đảm bảo sự hài hòa về lợi ích giữa các lực lượng và thành
phần xã hội.

Nguyên tắc này xuất phát từ yêu cầu về tính công bằng, đảm bảo cho tất cả mọi
chủ thể trong xã hội phải được coi trọng như nhau, qua đó được hưởng lợi cũng như
các có hội ngang nhau và cùng có trách nhiệm chung giống nhau trong cùng hoàn
cảnh. Nó cũng chính là biểu hiện thực tế về tính thống nhất của pháp luật trong phạm
vi toàn quốc để tạo ra sự ổn định, bền vững của toàn xã hội, tránh được những xung
đột không cần thiết.
3. Quy trình của hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ở Việt
Nam
Theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện hành thì việc xây dựng pháp
luật sẽ tùy theo từng loại văn bản mà sẽ có những quy trình khác nhau. Tuy nhiên,
chung quy lại có thể thấy việc xây dựng pháp luật sẽ lần lượt tuân theo quy trình sau:
a. Nêu sáng kiến pháp luật.
Đây là quy trình cho thấy sự cần thiết của việc xây dựng một hoặc một số văn bản
nào đó đối với yêu cầu của việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Việc này đòi hỏi người
sang kiến pháp luật phải bám sát thực tế về những lĩnh vực cần điều chỉnh bởi pháp
luật. Điều này không chỉ đúng với việc tạo ra một ăn bản pháp luật mới mà còn cần
thiết đối với cả việc sửa đổi, bổ sung văn bản cũ.
b. Lập dự thảo.
Quy trình này cũng khá quan trọng đảm bảo cho chất lượng của một văn bản mới
sẽ ra đời. Việc lập dự thảo phải dựa trên cơ sở của những phân tích chuyên sâu về lĩnh
vực cần ban hành pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội gắn với chính sách pháp
luật về lĩnh vực đó. Việc lập dự thảo phải được thực hiện bởi những chuyên gia có
trình độ về cả lĩnh vực chuyên môn, cả về trình độ về chuyên môn cũng như kỹ thuật
pháp lý để đảm bảo cho chất lượng của dự thảo trwocs khi nó được chuyển sang các
giai đoạn tiếp theo.
c. Lấy ý kiến cho việc hoàn thiện dự thảo
Đây là một hoạt động khá quan trọng trong hoạt động xây dựng pháp luật vì đó
thức thực tế là đảm bảo cho nguyên tắc dân chủ được thực hiện trên thực tế, phát huy
trí tuệ, tính tích cực chính trị của nhân dân, của các nhà khoa học, các nhà chuyên
môn, góp phần nâng cao chất lượng của dự thảo và giúp cho các đối tượng điều chỉnh

pháp luật hiểu được tại sao pháp luật lại quy định như vậy để có ý thức tự giác hơn
trong việc thực hiện pháp luật sau này.
d. Thẩm định dự thảo
Thẩm định dự thảo là hoạt động có tính chuyên sâu, bảo đảm cho văn bản được
ban hành vừa có tính hợp lý, vừa có tính hợp pháp, đặc biệt nó có thể giúp cho việc


×