Tải bản đầy đủ (.doc) (149 trang)

Hoàn thiện công tác kế toán tiêu thụ thành phẩm và xác định kết quả kinh doanh tại công ty tư vấn xây dựng dầu khí petrolimex

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (573.08 KB, 149 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

S

ự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản
lý của Nhà nước đã mở ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với
các doanh nghiệp trong nước. Để phù hợp với sự phát triển đòi hỏi
mỗi doanh nghiệp phải tự nâng cao hiệu quả kinh doanh, vươn lên
để khẳng định mình.
Trong cơ chế kinh tế cũ, sản phẩm sản xuất ra chưa mang đầy
đủ tính hàng hoá theo đúng nghĩa của nó. Công tác tiêu thụ chưa được coi trọng trong bản thân mỗi doanh nghiệp. Nhà nước can thiệp
vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị, thay họ trả lời tất
cả các vấn đề kinh tế như: Sản xuất cái gì ? Sản xuất như thế nào ?
và sản xuất cho ai ? Bán ở đâu ? Giá cả như thế nào ?... Do vậy,
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp từ khâu sản xuất
đến tiêu thụ đều thực hiện theo kế hoạch mang tính pháp lệnh và
quan hệ rằng buộc giữa doanh nghiệp với kết quả chỉ mang tính
hình thức. Cơ chế này làm mất đi tính chủ động sáng tạo của các
doanh nghiệp về mặt tổ chức quản lý sản xuất, nắm bắt kỹ thuật
công nghệ mới.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp là
những đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ về tài chính, tự hạch toán và tự
chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
mình. Do đó, mục tiêu cuối cùng của bất cứ doanh nghiệp nào trong
nền kinh tế thị trường cũng là tối đa hoá lợi nhuận. Mà điều này chỉ
có thể đạt được khi doanh nghiệp kết thúc và thực hiện tốt giai đoạn


tiêu thụ thành phẩm. Như vậy, tiêu thụ thành phẩm có ý nghĩa rất
quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường,


nó quyết định đến sự ổn định, phát triển hay phá sản của doanh
nghiệp.
Ngoài việc tổ chức sản xuất hợp lý, đẩy mạnh quá trình tiêu
thụ, thì việc hạch toán tiêu thụ sản phẩm và xác định kết quả kinh
doanh là một phần hành không thể thiếu trong hệ thống kế toán
doanh nghiệp. Những thông tin do kế toán cung cấp ở phần hành
này sẽ là cơ sở giúp cho nhà quản trị thực hiện việc quản lý và giám
sát quá trình sản xuất kinh doanh trong toàn doanh nghiệp.

Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề trên,
qua nghiên cứu lý luận và tìm hiểu thực tế tại Công Ty Tư Vấn Xây
Dựng Dầu Khí Petrolimex, em đã chọn đề tài “Hoàn thiện công tác
kế toán tiêu thụ thành phẩm và xác định kết quả kinh doanh tại
Công Ty Tư Vấn Xây Dựng Dầu Khí Petrolimex” để thực hiện
luận văn tốt nghiệp của mình.
Ngoài lời mở đầu và kết luận, kết cấu của luận văn gồm 3
phần:
- Phần I : Lý luận chung về hạch toán tiêu thụ thành phẩm và
xác định kết quả kinh doanh trong các doanh nghiệp sản xuất.
- Phần II: Tình hình hạch toán tiêu thụ thành phẩm và xác
định kết quả kinh doanh tại Công Ty Tư Vấn Xây Dựng Dầu Khí
Petrolimex.


- Phần III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hạch toán tiêu
thụ thành phẩm và xác định kết quả kinh doanh tại Công Ty Tư Vấn
Xây Dựng Dầu Khí Petrolimex.


PHẦN I

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HẠCH TOÁN TIÊU THỤ THÀNH
PHẨM VÀ
XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ KINH DOANH TRONG DOANH
NGHIỆP
SẢN XUẤT.
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TIÊU THỤ THÀNH PHẨM.
1. Khái niệm:
Bản chất của quá trình tái sản xuất và trao đổi hàng hoá là sự
vận động của hàng hoá trên thị trường và thị trường là nơi thể hiện
đầy đủ nhất, tập trung nhất sự vận động của hàng hoá. Đây cũng là
nơi thể hiện tập trung quan hệ sản xuất và tiêu dùng, giữa người
mua, người bán ...Thông qua thị trường giá trị của hàng hoá được
thể hiện.
Như chúng ta đã biết quá trình kinh doanh của một doanh
nghiệp sản xuất bao gồm ba giai đoạn: mua nguyên vật liệu, sản
xuất và tiêu thụ. Vậy theo nghĩa hẹp, hoạt động tiêu thụ sản phẩm là
giai đoạn cuối cùng của sản xuất kinh doanh, tại đó các chủ thể tiến
hành trao đổi hàng hoá mua bán trên thị trường. Trong giai đoạn này
giá trị sản phẩm hàng hoá được thực hiện khi doanh nghiệp chuyển
giao sản phẩm, hàng hoá cho khách hàng và được khách hàng trả
tiền hoặc chấp nhận thanh toán.
Quá trình tiêu thụ chỉ được hoàn thành khi hai điều kiện dưới
đây được đảm bảo:
- Doanh nghiệp đã chuyển giao sản phẩm, hàng hoá cho khách
hàng.
- Khách hàng thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán tiền hàng.


Trước đây khi nói đến doanh nghiệp sản xuất, ta chỉ thường
nghĩ đó chỉ là nơi sản xuất ra của cải vật chất, còn hoạt động mua

bán lại thuộc về các thương gia, hay các doanh nghiệp thương
mại ... Với quan niệm mới, doanh nghiệp sản xuất cũng là một chủ
thể kinh tế nên hoạt động của doanh nghiệp không chỉ bó hẹp trong
sản xuất mà phải gắn liền với ba khâu: mua, sản xuất, bán. Đặc
trưng nhất của sản xuất hàng hoá là sản phẩm được sản xuất ra để
bán nhằm thực hiện những mục tiêu đã đặt ra của người sản xuất
cũng như của mỗi doanh nghiệp.
Trên góc độ kinh tế, tiêu thụ sản phẩm là quá trình chuyển hoá
quyền sở hữu và sử dụng hàng hoá tiền tệ giữa các chủ thể kinh tế.
Hay nói cách khác, tiêu thụ sản phẩm là quá trình thể hiện giá của
hàng hoá, qua tiêu thụ hàng hoá được chuyển từ hình thái hiện vật
sang hình thái tiền tệ và vòng chu chuyển vốn sản xuất kinh doanh
của đơn vị được hoàn thành.
Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường các vấn đề kinh tế cơ
bản hoàn toàn do doanh nghiệp tự quyết định nên hoạt động tiêu thụ
sản phẩm có thể được hiểu theo nghĩa rộng hơn: đó là một quá trình
kinh tế bao gồm nhiều khâu từ việc nghiên cứu thị trường để xác
định nhu cầu của khách hàng cho đến việc tổ chức mạng lưới tiêu
thụ sản phẩm , hàng hoá.
Như vậy, tiêu thụ thành phẩm là một giai đoạn tất yếu và vô
cùng quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp sản xuất. Nó là cơ sở tạo ra lợi
nhuận của doanh nghiệp, để doanh nghiệp tái sản xuất mở rộng,
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đồng thời góp phần thoả mãn nhu
cầu xã hội.
2. Ý nghĩa của quá trình tiêu thụ thành phẩm và yêu cầu quản
lý nghiệp vụ tiêu thụ.
a. Ý nghĩa của quá trình tiêu thụ thành phẩm



Tiêu thụ thành phẩm có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với
bản thân doanh nghiệp mà cả với toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Điều này được thể hiện ở hai góc độ như sau:
 Đối với doanh nghiệp:
- Tiêu thụ thành phẩm giúp cho doanh nghiệp tạo ra doanh thu
và lợi nhuận là động lực để doanh nghiệp phát triển, cạnh tranh và
đứng vững trên thị trường. Quá trình tái sản xuất và tiêu thụ của
doanh nghiệp sản xuất được khái quát qua sơ đồ: T- H- H’- T’. Do
vậy, hoạt động tiêu thụ chỉ được coi là có ý nghĩa và hiệu quả khi T’
> T. Điều này nghĩa là tổng lượng tiền tệ thu được từ hoạt động bán
sản phẩm phải lớn hơn tổng lượng tiền thực tế bỏ ra để thực hiện
hoạt động sản xuất kinh doanh.
Như vậy, khi đó doanh nghiệp đã có doanh thu và lợi nhuận.
Xác định chính xác doanh thu bán hàng, lợi nhuận là cơ sở để xác
định các chỉ tiêu tài chính khác, đánh giá được trình độ, khả năng
tồn tại phát triển của doanh nghiệp, là cơ sở để doanh nghiệp thực
hiện nghĩa vụ đối với NSNN.
- Tiêu thụ sản phẩm giúp doanh nghiệp khẳng định vị thế và
uy tín của mình trên thị trường. Đặc trưng của nền KTTT là mỗi chủ
thể kinh tế theo đuổi một mục đích riêng của mình, tự do sản xuất
kinh doanh trên lĩnh vực mà mình cảm thấy lợi nhất, còn sản phẩm
có bán được hay không lại do thị trường tự quyết định. Một thực tế
cho thấy nếu doanh nghiệp có vị thế và uy tín cao trên thị trường thì
lượng sản phẩm được tiêu thụ càng nhiều, không những thế người
tiêu dùng còn có thể chấp với giá cao hơn so với hàng của doanh
nghiệp khác. Vị thế và uy tín của doanh nghiệp là một tài sản của
doanh nghiệp khó định lượng. Muốn có nó doanh nghiệp đã phải có
một quá trình đưa sản phẩm vào thị trường, phải cạnh tranh, được
thực tế kiểm nghiệm và người mua chấp nhận.
 Đối với nền kinh tế quốc dân:



Tiêu thụ thành phẩm là tiền đề cho cân đối giữa sản xuất và
tiêu dùng. Hoạt động tiêu thụ còn góp phần khuyến khích tiêu dùng,
hướng dẫn sản xuất phát triển để đạt được sự thích ứng tối ưu giữa
cung và cầu thị trường, giữa hàng hoá và tiền tệ trong lưu thông,
giữa nhu cầu và khả năng thanh toán cũng như việc phát triển cân
đối các nghành nghề, các khu vực của nền kinh tế. Đồng thời với
việc tiêu thụ thành phẩm, xác định đúng kết quả tiêu thụ góp phần
giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế của Nhà nước
với lợi ích của người lao động.
b. Yêu cầu quản lý nghiệp vụ tiêu thụ trong doanh nghiệp sản
xuất.
Với vai trò là một khâu quan trọng của quá trình sản xuất kinh
doanh, hơn nữa để việc tiêu thụ thành phẩm thực sự là một cầu nối
liên kết giữa doanh nghiệp với khách hàng thì việc quản lý chặt chẽ
thường xuyên công tác tiêu thụ là một yêu cầu cấp thiết.
Để giúp cho doanh nghiệp nắm bắt được tình hình tiêu thụ
thực tế tại doanh nghiệp tạo điều kiện cho các nhà quản lý có định
hướng xây dựng, kế hoạch sản xuất hợp lý, trước hết yêu cầu của
công tác quản lý tiêu thụ sản phẩm là phải quản lý được các mặt:
khối lượng, giá thành, giá bán, phương thức tiêu thụ và phương thức
thanh toán đối với từng loại mặt hàng, sản phẩm hay hợp đồng kinh
tế đã ký kết. Thường xuyên phải kiểm tra, đánh giá tình hình thực
hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm và tình hình thực hiện chế độ,
chính sách có liên quan đến tiêu thụ sản phẩm. Hơn nữa một yêu
cầu quan trọng trong công tác quản lý nghiệp vụ tiêu thụ là dựa trên
tình hình thực tế nêu trên để kịp thời phát hiện ra những biến động
của thị trường để có kế hoạch chính sách điều chỉnh hợp lý sao cho
việc tiêu thụ đạt hiệu quả cao nhất.

Muốn vậy, bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất nào cũng phải
nghiên cứu và quan tâm tới những vấn đề cụ thể sau:


Thứ nhất, không ngừng cải tiến công tác tổ chức, quản lý,
nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm để tạo điều
kiện giảm giá bán. Kết hợp với việc cải tiến hình thức nâng cao chất
lượng sản phẩm tạo ra nhiều mẫu mã, kiểu dáng phù hợp với thị
hiếu tiêu dùng và xu hướng phát triển của kinh tế xã hội.
Thứ hai, phải nghiên cứu, nắm bắt đúng tình hình thị trường
sản phẩm, hàng hoá để kịp thời chuyển hướng sản xuất, thay đổi sản
phẩm để chiếm lĩnh thị trường.
Thứ ba, áp dụng một cách linh hoạt các phương thức thanh
toán, kết hợp với việc sử dụng hệ thống giá linh hoạt, mềm dẻo tối
đa hoá thuận tiện cho khách hàng trong mua bán, kích thích nhu cầu
tiêu dùng. Phải tạo dựng và giữ gìn sự tín nhiệm của khách hàng đối
với từng loại sản phẩm nói riêng và doanh nghiệp nói chung.
Cuối cùng, cần tập trung đẩy mạnh việc giới thiệu sản phẩm,
quảng cáo nhằm thu hút khách hàng. Mở rộng mạng lưới tiêu thụ
với nhiều hình thức phong phú, đa dạng tạo cầu nối vững chắc giữa
sản xuất với tiêu dùng.
3. Các phương thức tiêu thụ thành phẩm .
Trong nền KTTT hiện nay để tồn tại và phát triển giữa các
doanh nghiệp luôn luôn có sự cạnh tranh nhau khốc liệt. Để tạo ra
doanh thu và có lợi nhuận thì đòi hỏi phải tiêu thụ được nhiều sản
phẩm. Việc lựa chọn và áp dụng linh hoạt các phương thức tiêu thụ
góp phần không nhỏ vào việc thực hiện kế hoạch của doanh nghiệp.
Dưới đây là một số phương thức tiêu thụ chủ yếu được các doanh
nghiệp áp dụng.
a. Phương thức tiêu thụ trực tiếp:

Là phương thức giao hàng cho người mua trực tiếp tại kho
( hoặc tại phân xưởng không qua kho) của doanh nghiệp. Sản phẩm
khi giao cho khách hàng được khách hàng thanh toán hoặc chấp


nhận thanh toán thì chính thức coi là tiêu thụ và đơn vị bán mất
quyền sở hữu về số hàng này.

b. Phương thức chuyển hàng chờ chấp nhận:
Theo phương thức này bên bán có trách nhiệm chuyển hàng
đến cho bên mua theo địa điểm đã được thoả thuận trong hợp đồng.
Số hàng chuyển đi này vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp.
Khi bên mua thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán về số hàng
chuyển giao ( một phần hoặc toàn bộ) thì số hàng chấp nhận này
mới được coi là tiêu thụ và người bán mất quyền sở hữu về số hàng
này.
c. Phương thức bán hàng đại lý, ký gửi:
Đây là phương thức mà bên chủ hàng ( Bên giao đại lý) xuất
hàng giao cho bên nhận đại lý, ký gửi để bán và bên đại lý sẽ được
hưởng thù lao đại lý dưới hình thức hoa hồng hoặc chênh lệch giá.
Theo luật thuế GTGT, nếu bên đại lý bán hàng theo đúng giá do bên
giao đại lý quy định thì toàn bộ thuế GTGT sẽ do chủ hàng chịu,
bên đại lý sẽ không phải nộp thuế GTGT trên phần hoa hồng được
hưởng. Trường hợp bên đại lý hưởng chênh lệch giá thì bên đại lý
sẽ phải nộp thuế GTGT tính trên phần GTGT.
d. Phương thức bán hàng trả góp:
Bán hàng trả góp là phương thức bán hàng thu tiền nhiều lần,
sau khi giao hàng cho người mua thì lượng hàng được coi là tiêu
thụ. Người mua sẽ thanh toán lần đầu ngay tại thời điểm mua. Số
tiền còn lại khách sẽ trả dần ở các kỳ tiếp theo và phải chịu một lãi

suất nhất định. Tiền thu bán hàng như vậy gồm hai phần: doanh thu
bán hàng xác định như bán hàng thu tiền một lần và phần lãi trả góp
tính vào thu nhập hoạt động tài chính. Về thực chất, chỉ khi nào


người mua thanh toán hết tiền hàng thì doanh nghiệp mới mất quyền
sở hữu hàng hoá.
e. Phương thức hàng đổi hàng:
Trường hợp này khác với các phương thức tiêu thụ trên là
người mua không phải trả bằng tiền mà trả bằng vật tư, hàng hoá.
Việc trao đổi vật tư, hàng hoá thường có lợi cho cả hai bên vì tránh
được việc thanh toán bằng tiền, tiết kiệm được vốn lưu động, đồng
thời tiêu thụ được hàng hoá. Theo phương thức này, căn cứ vào hợp
đồng kinh tế mà các doanh nghiệp đã ký kết với nhau, hai bên tiến
hành trao đổi hàng hoá của mình cho nhau trên cơ sở ngang giá,
hàng gửi đi coi như bán, hàng nhận về coi như là mua.

f. Các trường hợp được coi là tiêu thụ khác:
Ngoài những phương thức tiêu thụ chủ yếu trên đây, các
doanh nghiệp còn sử dụng vật tư, sản phẩm, hàng hoá để thanh toán
tiền lương, tiền thưởng cho CBCNV trong doanh nghiệp, để biếu
tặng, quảng cáo, chào hàng hay sử dụng sản phẩm phục vụ sản xuất
kinh doanh... các trường hợp này cũng được tính là tiêu thụ.
Mỗi phương thức tiêu thụ đều có những ưu điểm và nhược
điểm riêng của nó. Việc lựa chọn phương thức tiêu thụ thành phẩm
cho mỗi doanh nghiệp còn tuỳ thuộc vào những điều kiện bên trong
từng doanh nghiệp như loại hình, quy mô, vị trí, khả năng của
doanh nghiệp và những yếu tố bên ngoài như thị trường, khách
hàng... Vì vậy, mỗi doanh nghiệp cần lựa chọn các phương thức tiêu
thụ phù hợp.


II. TỔ CHỨC HẠCH TOÁN DOANH THU VÀ CÁC KHOẢN
GIẢM TRỪ DOANH THU.


1. Hạch toán doanh thu theo các phương thức tiêu thụ chủ yếu.
a. Tài khoản sử dụng:
Để hạch toán doanh thu tiêu thụ thành phẩm kế toán sử dụng
các tài khoản sau:
* TK 511- Doanh thu bán hàng:
Tài khoản này sử dụng để phản ánh tổng doanh thu bán hàng
thực tế của doanh nghiệp trong một kỳ hoạt động sản xuất kinh
doanh. Đây chính là số thu về khi doanh nghiệp cung cấp sản phẩm,
hàng hoá, dịch vụ, lao vụ cho khách hàng và được khách hàng trả
tiền hoặc chấp nhận thanh toán.

• Nguyên tắc hạch toán TK 511:
- Chỉ được phản ánh vào TK 511 số doanh thu của khối lượng
thành phẩm, dịch vụ, lao vụ dược xác định là tiêu thụ.
- Đối với những sản phẩm doanh nghiệp nhận gia công thì chỉ
phản ánh vào TK 511 số tiền gia công thực tế được hưởng.
Theo chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS 18 - chuẩn mực Doanh
thu), nguyên tắc xác định giao dịch mang lại doanh thu như sau:
- Khi giá bán của một sản phẩm bao gồm một khoản dịch vụ
kèm theo sau đó thì khoản này sẽ được để vào sau khi kỳ dịch vụ
thực hiện.
- Khi một doanh nghiệp bán hàng hoá và ký tiếp ngay một hợp
đồng mua lại hàng hoá đó vào một ngày khác sau đó, ảnh hưởng
thực của giao dịch bị loại trừ và hai giao dịch được thực hiện như
một.

Theo IAS 18 doanh thu bán hàng được công nhận khi:
- Rủi ro và lợi ích quan trọng của việc sở hữu hàng hoá được
chuyển sang cho người mua.
- Doanh nghiệp không tiếp tục tham gia quản lý quyền sở hữu
cũng không giám sát hiệu quả hàng đã bán ra.


- Số doanh thu có thể được tính toán một cách chắc chắn.
- Doanh nghiệp có khả năng là sẽ thu được lợi ích kinh tế từ
giao dịch.
- Chi phí giao dịch có thể được tính một cách chắc chắn.

• Kết cấu và nội dung phản ánh của TK 511:
- Bên Nợ:
+ Số thuế phải nộp ( thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu )
tính trên doanh thu số hàng bán trong kỳ.
+ Số giảm giá hàng bán, doanh thu của hàng bị trả lại.
+ Kết chuyển số doanh thu thuần vào TK “xác định kết quả kinh
doanh”
- Bên Có:
Doanh thu bán sản phẩm, lao vụ, dịch vụ của doanh nghiệp
thực hiện trong kỳ hạch toán.
- TK 511 cuối kỳ không có số dư và được chi tiết thành các tiểu
khoản.
* TK 512- Doanh thu bán hàng nội bộ:
Tài khoản này dùng để hạch toán doanh thu của hàng hoá, lao
vụ, dịch vụ, sản phẩm tiêu thụ nội bộ giữa các đơn vị trực thuộc
cùng một công ty, Tổng công ty, tập đoàn, liên hiệp xí nghiệp ...
Ngoài ra, tài khoản này còn sử dụng để theo dõi một số khoản được
coi là tiêu thụ nội bộ khác như sử dụng hàng hoá, dịch vụ vào hoạt

động sản xuất, kinh doanh hay trả lương, thưởng cho công nhân
viên chức.
Nội dung phản ánh TK 512 tương tự như TK 511.
b. Hạch toán tiêu thụ ở các doanh nghiệp tính thuế GTGT
theo phương pháp khấu trừ.

• Phương thức tiêu thụ trực tiếp:


- Khi xuất thành phẩm, hàng hoá kế toán phản ánh các bút toán
sau:
+ Phản ánh trị giá vốn hàng xuất bán
+ Phản ánh doanh thu bán hàng
- Trường hợp phát sinh hàng bán bị trả lại, hoặc trường hợp
giảm giá hàng bán trên giá thoả thuận do hàng kém phẩm chất, sai
quy cách:
+ Phản ánh trị giá vốn của hàng bán bị trả lại.
+ Phản ánh doanh thu hoặc số giảm giá hàng bán chấp nhận
cho khách hàng.
+ Cuối kỳ kế toán kết chuyển các khoản giảm giá hoặc doanh
thu hàng bán bị trả lại vào tổng doanh thu trong kỳ.
- Cuối kỳ sau khi đã kết chuyển các khoản giảm giá hàng bán
doanh thu hàng bán bị trả lại, kế toán toán tính ra doanh thu thuần
về tiêu thụ và kết chuyển sang TK 911.
Doanh thu thuần = Tổng doanh thu - Các khoản giảm trừ doanh

Sơ đồ 1: Sơ đồ hạch toán tổng quát doanh thu tiêu thụ trực tiếp
TK 3332, 3333

TK 511

(3)

TK 111, 112, 131

(1)

(2)

TK911
(4)

TK 33311

(1)- Doanh thu bán hàng có cả thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất
khẩu nếu sản phẩm tiêu thụ phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế
xuất khẩu.
(2)- Phản ánh doanh thu và thuế GTGT phải nộp của hàng đã
tiêu thụ.


(3)- Phản ánh số thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu phải
nộp.
(4)- Kết chuyển doanh thu thuần về tiêu thụ.

• Phương thức chuyển hàng chờ chấp nhận:
Theo phương thức này kế toán phản ánh doanh thu bán hàng
giống như phương thức tiêu thụ trực tiếp chỉ khác ở các bút toán
phản ánh giá vốn của sản phẩm xuất kho được xác định là tiêu thụ:
- Khi xuất hàng chuyển đến cho người mua, kế toán phản ánh
theo trị giá vốn của hàng xuất.

- Khi được khách hàng chấp nhận (một phần hay toàn bộ)
ngoài bút toán phản ánh doanh thu kế toán phản ánh trị giá vốn của
số hàng được chấp nhận. Các bút toán khác tương tự như trường hợp
tiêu thụ trực tiếp.
[[
Sơ đồ 2: Sơ đồ hạch toán tổng quát tiêu thụ theo phương thức
chuyển hàng chờ chấp nhận
TK 154
511
Trị giá vốn
111, 112

TK 157
Trị giá vốn

HGB không
hàng tiêu thụ
t/ thụ
qua kho
Tổng

TK 632

TK

TK 911

TK

K/c

GVHB

K/c DTT

TK155
Trị giá vốn HGB

giá
TK 531, 532

bán
xuất tại kho DN
TK 111, 112...
Giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại

TK 3331

DT


Thuế GTGT được giảm trừ

Thuế

GTGT
đầu ra

• Phương thức bán hàng đại lý, ký gửi:
Φ Trường hợp đại lý bán đúng giá và hưởng hoa hồng:
* Bên giao đại lý:

Căn cứ vào bảng kê hoá đơn hàng hoá bán ra của sản phẩm
bán qua đại lý đã tiêu thụ trong tháng, doanh nghiệp lập hoá đơn
GTGT phản ánh doanh thu của sản phẩm đã tiêu thụ để giao cho
đơn vị đại lý và xác định khoản hoa hồng phải trả, ghi:
Nợ TK 641

: Hoa hồng cho đại lý

Nợ TK 111,112,131: Số tiền được nhận sau khi trừ hoa
hồng.
Có TK 511

: Doanh thu bán hàng qua đại lý.

Có TK 3331 : Thuế GTGT đầu ra.
* Bên nhận đại lý:
Khi nhận hàng bán hộ theo phương thức này kế toán ghi:
Nợ TK 003: Hàng hoá nhận bán hộ, ký gửi.
Khi bán được hàng nhận ký gửi:
- Xoá sổ số hàng đã bán, ghi đơn bên Có TK 003.
- Phản ánh số tiền phải trả cho bên giao đại lý:
Nợ TK 111,112,131( Tổng giá thanh toán)
Có TK 331- Phải trả cho chủ hàng ( Tổng giá thanh
toán ).
- Phản ánh hoa hồng được hưởng:
Nợ TK 331( Số hoa hồng được hưởng)
Có TK 511- Doanh thu bán hàng (Số hoa hồng được
hưởng)



- Thanh toán tiền cho bên giao đại lý:
Nợ TK 331- Số tiền hàng trả cho bên đại lý.
Có TK 111, 112.
Φ Trường hợp đại lý bán không đúng giá và hưởng chênh
lệch giá:
* Bên giao đại lý:
Khi đem hàng đi gửi bán, phản ánh doanh thu tiêu thụ sản
phẩm như tiêu thụ sản phẩm cho khách hàng bình thường, kế toán
ghi:
Nợ TK 131, 111... : Tổng số tiền bán hàng
Có TK 511 : Doanh thu hàng giao đại lý.
Có TK 3331: Thuế GTGT của hàng giao đại lý.
* Bên nhận đại lý:
Khi nhận hàng, ghi:
Nợ TK 156

: Trị giá hàng nhận về.

Nợ TK 133

: Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ

Có TK 331: Tổng số tiền trả cho bên giao đại lý.
Khi bán hàng kế toán ghi nhận doanh thu bình thường:
Nợ TK 111, 112, 131: Số tiền thu về từ bán hàng
Có TK 511
: Doanh thu bán hàng.
Có TK 3331

: Số thuế GTGT đầu ra phải nộp.


• Phương thức bán hàng trả góp:
- Theo phương thức này việc phản ánh giá vốn hàng tiêu thụ
giống như trường hợp tiêu thụ trực tiếp, còn doanh thu tiêu thụ được
phản ánh qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 3: Sơ đồ phản ánh doanh thu bán hàng trả góp.


TK 511

TK 111,112

DT chưa có thuế

Số tiền đã t/t

GTGT
TK 711

lần đầu tại thời điểm mua

Lãi do bán trả góp

Số tiền còn phải
thu ở người mua

TK

131


TK 3331
Thuế GTGT
phải nộp

• Phương thức hàng đổi hàng:
- Khi xuất sản phẩm, hàng hoá đem đi trao đổi với khách hàng
kế toán phải phản ánh các bút toán sau:
+ Phản ánh trị giá vốn của hàng đem đi trao đổi: tương tự như
trường hợp xuất bán trực tiếp.
+ Phản ánh giá trao đổi ( giá bán tương đương ) của hàng đem đi
đổi
+ Phản ánh giá trị vật tư, hàng hoá nhận về ( hàng nhận về coi như
mua).
Có thể khái quát việc hạch toán tiêu thụ theo phương thức
hàng đổi hàng qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 4: Sơ đồ hạch toán tổng quát tiêu thụ theo phương
thức hàng đổi hàng
TK 511

TK 131

TK

152,153
DT của hàng

Tổng giá

Tổng giá t/toán


Trị

giá hàng
đem đi trao đổi
kho

t/toán

của hàng đem đi
nhập
trao đổi


TK 3331

TK 133

Thuế GTGT

Thuế

GTGT
phải nộp

của hàng

n/kho

• Các trường hợp được coi là tiêu thụ khác:
Trường hợp này việc hạch toán giá vốn tương tự như trường

hợp tiêu thụ bên ngoài, nhưng doanh thu tiêu thụ được phản ánh
trên TK 512- Doanh thu tiêu thụ nội bộ và các khoản phải thu nội
bộ được hạch toán trên TK 136- Phải thu nội bộ. Có thể khái quát
qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 5: Sơ đồ phản ánh doanh thu bán hàng các trường hợp tiêu thụ
khác.
TK 512
621,627,641, 642

TK

Dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh
Dùng biếu tặng CNV, khách hàng

TK

431
Dùng sản phẩm để trả lương cho CNV
334
Phản ánh doanh thu bán hàng nội bộ
TK 136,111,112
TK 3331 Thuế GTGT phải nộp

TK


c. Hạch toán tiêu thụ ở các doanh nghiệp tính thuế GTGT
theo phương pháp trực tiếp hoặc đối với các mặt hàng tiêu thụ
chịu thuế tiêu thụ đặc biệt hay thuế xuất khẩu:
Trong những doanh nghiệp này, việc hạch toán giá vốn hàng

tiêu thụ cũng tương tự như doanh nghiệp tính thuế GTGT theo
phương pháp khấu trừ. Còn đối với doanh thu bán hàng được ghi
nhận ở TK 511,TK 512 là doanh thu bao gồm cả thuế GTGT ( hoặc
thuế tiêu thụ đặc biệt hay thuế xuất khẩu) phải nộp. Số thuế GTGT
cuối kỳ phải nộp được ghi nhận vào CFQLDN, còn thuế tiêu thụ đặc
biệt và thuế xuất khẩu được trừ vào doanh thu bán hàng để tính
doanh thu thuần.
Sơ đồ 6: Sơ đồ phản ánh doanh thu bán hàng
TK 3332,3333
111, 112, 131

TK 511, 512

Số thuế TTĐB, XK

TK

Doanh thu bán hàng có cả

thuế
phải nộp
TK 3331

GTGT, TTĐB, XK
TK 6425

Cuối kỳ, xác định số thuế
GTGT phải nộp
2. Hạch toán các khoản giảm trừ doanh thu.
a. Nội dung của các khoản giảm trừ doanh thu:

Thông thường trong hoạt động hoạt sản xuất kinh doanh, tiêu
thụ thành phẩm nhanh chóng là mục tiêu hàng đầu để doanh nghiệp
sớm thu hồi vốn, tiếp tục quy trình sản xuất kinh doanh. Muốn
thành phẩm tiêu thụ nhanh, bên cạnh việc đảm bảo chất lượng sản
phẩm doanh nghiệp cần phải chú ý đến các hình thức khuyến khích
để khách hàng có thể mua với khối lượng lớn, thanh toán nhanh, đặc


biệt là tạo mối quan hệ uy tín về sản phẩm của doanh nghiệp cho
khách hàng. Theo quy định của Thông tư số 63/1999/TT- BTC thì
chỉ có khoản giảm giá hàng bán mới được hạch toán giảm trừ doanh
thu bán hàng trong kỳ.
Tuy nhiên, không phải chỉ có những khoản nhằm khuyến
khích khách hàng mới được ghi giảm doanh thu, một số trường hợp
doanh thu bán hàng trong kỳ bị giảm là do lỗi chủ quan của doanh
nghiệp. Cụ thể nội dung của từng khoản giảm trừ doanh thu như
sau:
• Giảm giá hàng bán: Bao gồm các khoản sau:
- Giảm giá: Là khoản giảm trừ được người bán chấp nhận một
cách đặc biệt trên giá đã thoả thuận do hàng kém phẩm chất hay
không đúng quy cách như hợp đồng đã ký.
- Bớt giá: Là khoản trừ trên giá bán thông thường vì lý do mua
với khối lượng lớn nào đó trên giá bán. Theo quy định hiện hành
doanh nghiệp chỉ được hạch toán giảm doanh thu khi việc giảm giá
hàng bán phát sinh sau khi đã phát hành hoá đơn bán bán hàng.
- Hồi khấu: Là khoản giảm trừ tính trên tổng số các nghiệp vụ
đã thực hiện với một khách hàng trong một thời gian nhất định.
Người bán hàng thực hiện khoản hồi khấu cho người mua ngay sau
khi đã bán được hàng.
• Hàng bán bị trả lại:

Là toàn bộ số hàng đã được xác định là tiêu thụ nhưng bị
khách hàng trả lại do không phù hợp với yêu cầu của khách hàng,
do vi phạm hợp đồng kinh tế, hay hàng kém phẩm chất, không đúng
với quy cách chủng loại. Hàng bán bị trả lại phải có văn bản đề nghị
của người mua ghi rõ số lượng, đơn giá và giá trị hàng bán bị trả lại
kèm theo chứng từ nhập lại kho số hàng nói trên.
b. Tài khoản sử dụng:


* TK 531- Hàng bán bị trả lại:
Dùng để theo dõi doanh thu của số hàng hoá, sản phẩm, lao
vụ, dịch vụ đã được tiêu thụ nhưng bị khách hàng trả lại. Đây là tài
khoản điều chỉnh của TK 511 để tính doanh thu thuần.

• Kết cấu TK 531:
- Bên Nợ: Tập hợp các khoản doanh thu của số hàng đã tiêu
thụ bị trả lại.
- Bên Có: Kết chuyển doanh thu thuần của số hàng bị trả lại.
- TK 531 cuối kỳ không có số dư
* TK 532- Giảm gía hàng bán:
Dùng để theo dõi toàn bộ các khoản giảm giá hàng bán cho
khách hàng trên giá bán đã thoả thuận. Được hạch toán vào tài
khoản này bao gồm các khoản bớt giá, hồi khấu và giảm giá đặc biệt
do những nguyên nhân thuộc về người bán.

• Kết cấu TK 532:
- Bên Nợ: Tập hợp các khoản giảm giá hàng bán chấp nhận
cho người mua trong kỳ.
- Bên Có: Kết chuyển toàn bộ số giảm giá hàng bán.
- TK 532 cuối kỳ không có số dư.

c. Sơ đồ hạch toán:
Sơ đồ 7: Sơ đồ hạch toán giảm giá hàng bán.
TK 111, 112, 131

TK 532

Khoản giảm giá hàng bán
đã chấp nhận cho KH

TK 511

Cuối kỳ, k/c để
giảm trừ DT

Sơ đồ 8: Sơ đồ hạch toán hàng bán bị trả lại.


TK 632

TK 155, 157, 138
( 1)

TK 111, 112, 131

TK 531

( 3)

TK 511
(4)


( 2)
TK 3331
( 1)- Phản ánh giá vốn của hàng bị trả lại ( nhập kho hoặc gửi
bán).
( 2)- Phản ánh doanh thu và thuế GTGT của hàng bán bị trả lại
(hàng thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu
trừ ).
(3)- Phản ánh doanh thu của hàng bán bị trả lại ( hàng thuộc
đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp hoặc không
chịu thuế GTGT ).
(4) - Cuối kỳ, kết chuyển điều chỉnh doanh thu để xác định doanh
thu thuần.
III. TỔ CHỨC HẠCH TOÁN CÁC KHOẢN THANH TOÁN
TRONG TIÊU THỤ.
1. Nội dung các khoản thanh toán trong tiêu thụ:
Trong quá trình tiêu thụ thành phẩm, doanh nghiệp thường
xuyên phát sinh các nghiệp vụ thanh toán phản ánh mối quan hệ
thanh toán giữa doanh nghiệp với ngân sách, với người mua, với
CNV...Thông qua quan hệ thanh toán, có thể đánh giá được tình
hình tài chính và chất lượng hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
Dưới góc độ cung cấp thông tin cho quản lý kế toán thường phân
các quan hệ thanh toán trong tiêu thụ vào các nhóm sau:


Thứ nhất, quan hệ thanh toán giữa doanh nghiệp với Ngân
sách. Trong quá trình tiêu thụ thành phẩm của mình, doanh nghiệp
phải thực hiện nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước về thuế và các
khoản khác. Các khoản thanh toán với ngân sách thuộc quan hệ này
có thể khác nhau giữa các doanh nghiệp, tuy nhiên thường bao gồm

thanh toán các khoản thuế sau: thuế GTGT, thuế tiêu thụ đặc biệt,
thuế xuất khẩu.
Thứ hai, quan hệ thanh toán giữa doanh nghiệp với khách
hàng. Mối quan hệ này phát sinh trong quá trình doanh nghiệp tiêu
thụ thành phẩm ra bên ngoài. Khi khách hàng chấp nhận mua (chấp
nhận thanh toán) khối lượng hàng hoá mà doanh nghiệp chuyển
giao hoặc khách hàng đặt trước tiền hàng cho doanh nghiệp sẽ phát
sinh quan hệ thanh toán này.
Thứ ba, các mối quan hệ thanh toán khác. Ngoài các mối quan
hệ thanh toán trên trong quá trình tiêu thụ doanh nghiệp còn phát
sinh các mối quan hệ thanh toán khác với ngân hàng, các chủ tín
dụng, quan hệ thanh toán các khoản phải thu, phải trả khác...
2. Hạch toán các khoản thanh toán với ngân sách Nhà nước.
a. Tài khoản sử dụng:
• Để theo dõi tình hình thanh toán các khoản với ngân sách
Nhà nước về các khoản thuế, phí, lệ phí... trong quá trình tiêu thụ,
kế toán sử dụng TK 333- Thuế và các khoản phải nộp ngân sách
Nhà nước. Tài khoản này được mở chi tiết theo tình hình thanh toán
từng khoản nghĩa vụ ( phải nộp, đã nộp, còn phải nộp, nộp thừa).
TK 333 được chi tiết thành các tiểu khoản tương ứng với từng
loại thuế theo luật thuế quy định.


• Kế toán còn sử dụng TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ.
Tài khoản này chỉ sử dụng đối với các doanh nghiệp thuộc đối
tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế.
b. Phương pháp hạch toán thuế GTGT được khấu trừ, thuế
GTGT phải nộp, đã nộp.

♦ Hạch toán thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ:

Đối tượng áp dụng phương pháp khấu trừ thuế là các đơn vị,
tổ chức kinh doanh, bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước, doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân, các công ty cổ
phần, hợp tác xã và các đơn vị tổ chức kinh doanh khác, trừ các đối
tượng tính thuế theo phương pháp trực tiếp trên giá trị gia tăng. Số
thuế GTGT phải nộp được xác định theo công thức sau:
Thuế
GTGT
phải nộp
Trong đó: Thuế GTGT
đầu ra

Thuế
=
GTGT đầu
ra
=

Thuế
GTGT đầu
vào
x

Giá tính thuế
Thuế suất thuế
của hàng hoá,
GTGT của
dịch vụTổng
chịusố thuế GTGT
hàngghi

hoá,
dịch
trên
hoá đơn GTGT
=thuế bán
của hraàng hoá, dịch vụvụ
hoặc
đóchứng từ nộp thuế
GTGT của hàng hoá nhập khẩu

Thuế
GTGT đầu
vào
Theo chế độ quy định, thuế GTGT đầu vào được khấu trừ của
hàng hoá, dịch vụ phát sinh tháng nào thì được kê khai khấu trừ khi
xác định số thuế GTGT phải nộp của tháng đó. Nếu số thuế GTGT
đầu vào được khấu trừ trong tháng lớn hơn số thuế GTGT đầu ra
phải nộp của tháng đó thì chỉ khấu trừ đúng bằng số phải nộp, số


còn lại được khấu trừ vào tháng sau hoặc xét hoàn thuế theo quy
định.
Trường hợp số thuế GTGT đầu vào quá lớn doanh nghiệp sẽ
được khấu trừ dần. Nếu đã được khấu trừ trong 3 tháng mà vẫn còn,
doanh nghiệp làm thủ tục yêu cầu cơ quan thuế hoàn lại số thuế
GTGT chưa được khấu trừ. Cụ thể:
- Trường hợp số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ nhỏ hơn
số thuế GTGT phải nộp, kết chuyển toàn bộ số thuế GTGT được
khấu trừ :
Nợ TK 3331:

Có TK 133:
Và phản ánh số thuế GTGT đã nộp trong kỳ:
Nợ TK 3331:
Có TK 111, 112,...
- Trường hợp số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ lớn hơn số
thuế phải nộp thì kết chuyển bằng số phải nộp:
Nợ TK 3331:
Có TK 133:
- Trường hợp được hoàn lại thuế giá trị gia tăng:
Nợ TK 111, 112 ...
Có TK 133 : Số thuế GTGT đầu vào được hoàn lại
Có TK 3331: Số thuế GTGT nộp thừa được hoàn
lại.
Ta có thể khái quát việc hạch toán thuế GTGT theo phương
TK 511, 711...
TK 131, 111...
TK 3331
pháp khấu trừ qua (sơ1 )đồ sau:
TK 133

Sơ đồ 9: SơTKđồ721hạch toán thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ
(2)

TK 111, 112
(3)
(5)
(6)

(4)


(7)


×