Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tra loi cau hoi thao luan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.06 KB, 28 trang )

Câu hỏi: Phân tích vai trò của thực tiễn đối với nhận thức?
1. Định nghĩa
Thực tiễn là một phạm trù TH chỉ toàn bộ những hoạt động vật chất có tính
lịch sử XH của con người nhằm cải biến TN, XH.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động vật chất của con người: bản chất của hoạt
động thực tiễn là sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể. Trong đó cả CT và
KT đều là những đối tượng vật chất. Ở đó chủ thể tác động chủ động; có mục đích
vào KT, biến đổi KT cho phù hợp nhu cầu của mình, quá trình này không chỉ biến
đổi KT mà biến đổi cả bản thân chủ thể.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động lịch sử: vì nó là hoạt động cơ bản của loài
người trong sự phát triển lịch sử, là phương thức tồn tại cơ bản của loài người.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động XH, vì nó là hoạt động phổ biến của XH
loài người.
2. Các hình thức hoạt động thực tiễn
Thực tiễn là lao động sản xuất của cải vật chất: đây là hình thức cơ bản nhất,
giữ vai trò quyết định, chi phối các hoạt động khác còn lại như hoạt động tinh thần,
tư tưởng, lý luận, đấu tranh giai cấp, thực nghiệm XH,VH, biểu diễn nghệ thuật,
TH ,TG, đạo đức.... là hoạt động biến vượn thành người, tạo ra các điều kiện cơ
bản cho sự tồn tại và phát triển của XH.
Thực tiễn là hoạt động cải biến XH: 1 hình thức cao nhất của hoạt động vật
chất gồm đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc, đấu tranh cho hòa
bình ..... làm cho XH ngày càng tiến bộ.
Thực nghiệm khoa học: là hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn. Đó là
hoạt động được diễn ra trong điều kiện nhân tạo nhằm nhận thức và cải biến TN,
XH.
Các KH có vai trò to lớn trong việc nhận thức, tạo ra các phát minh KH và
biến những phát minh thành các giải pháp công nghệ, nghị lực, năng lực, vật liệu
mới phục vụ cho sản xuất, đời sống.
Mỗi hình thức hđ cơ bản của thực tiễn có 1 chức năng quan trọng khác
nhau,ko thể thay thế cho nhau, song chúng có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua
lại lẫn nhau. Trong đó hđ sản xuất vc đóng vai trò quan trọng nhất, quyết định đối


với các hđ thực tiễn khác.
3. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Hoạt động thực tiễn là cơ sở, là nguồn gốc, là động lực, là mục đích của nhận
thức và là tiêu chuẩn của chân lý,kiểm tra tính chân lý của quá trình nhận thức.Sở
dĩ như vậy vì thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức;nó đề ra nhu
cầu,nhiệm vụ,cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức.


a.Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức:
Trong hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi thế giới khách quan, bắt
các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan phải bộc lộ những thuộc tính và quy
luật của chúng. Trong quá trình hoạt động thực tiễn luôn luôn nảy sinh các vấn đề
đòi hỏi con người phải giải đáp và do đó nhận thức được hình thành.
Qua hoạt động thực tiễn, não bộ con người cũng ngày càng phát triển hơn,
các giác quan ngày càng hoàn thiện hơn.
Thực tiễn là nguồn tri thức, đồng thời cũng là đối tượng của nhận thức.
b.Thực tiễn là động lực của nhận thức:
Ngay từ đầu, nhận thức đã bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định. Mỗi
bước phát triển của thực tiễn lại luôn luôn đặt ra những vấn đề mới cho nhận thức,
thúc đẩy nhận thức tiếp tục phát triển. Như vậy thực tiễn trang bị những phương
tiện mới, đặt ra những nhu cầu cấp bách hơn, nó rà soát sự nhận thức.
Thực tiễn tạo ra những công cụ phương tiện hiện đại giúp cho năng suất lao
động tăng lên, KH không ngừng phát triển như kính hiển vi, vi tính, tàu vũ trụ ...
c.Thực tiễn là mục đích của nhận thức :
Những tri thức khoa học chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi nó được vận dụng vào
thực tiễn. Mục đích cuối cùng của nhận thức không phải là bản thân các tri thức mà
là nhằm cải tạo hiện thức khách quan, đáp ứng những nhu cầu vật chất và tinh thần
xã hội. Sự hình thành và phát triển của nhận thức là bắt nguồn từ thực tiễn, do yêu
cầu của thực tiễn.
Thực tiễn nêu ra những vấn đề cho nhận thức hướng tới giải đáp, nhờ đó các

ngành khoa học ngày càng phát triển
Thực tiễn cũng tạo ra những phương tiện cần thiết giúp cho việc nghiên cứu
khoa học, đem lại những tài liệu, dữ kiện giúp tổng kết, khái quát hình thành lý
luận
d.Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức
Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai. Khi nhận thức đúng
thì nó phục vụ thực tiễn phát triển và ngược lại. Chỉ có thể đem những tri thức thu
nhận được kiểm nghiệm qua thực tiễn mới thấy rõ tính sai lầm hay đúng đắn của
chúng.
- Như vậy, thực tiễn chẳng những là điểm xuất phát của nhận thức,là yếu tố
đóng vai trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức mà còn là
nơi nhận thức phải luôn luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của mình.


Câu hỏi: Vì sao trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực
tiễn phải luôn quán triệt quan điểm phải thống nhất giữa lý luận với thực
tiễn?
Vấn đề lý luận và thực tiễn trong lịch sử triết học:
Các nhà duy vật trước Mác đã có công lao lớn trong việc phát triển thế giới
quan duy vật và đáu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và thuyết không thể
biết. Tuy nhiên, lý luận của họ còn nhiều khuyết điểm, mà trong đó khuyết điểm
lớn nhất là không thấy được hoạt động có tính lịch sử - XH đối với nhận thức, do
đó chủ nghĩa duy vật của họ mang tính chất trực quan. Mã đã chỉ rõ : “Khuyết điểm
chủ yếu, từ trước cho đến nay của mọi chủ nghĩa duy vật (kể cả chủ nghĩa duy vật
của Feuerbach) là không thấy được vai trò của thực tiễn”.
Phơbách, nhà triết học duy vật lớn nhất trước Mã, tuy có đề cập đến thực
tiễn, song ông không thấy được thực tiễn như là hoạt động vật chất cảm tính, có
tính năng động của con người. Do đó, ông đã coi thường hoạt động thực tiễn, xem
thực tiễn là cái gì có tính chất con buôn bẩn thỉu, ông hiểu được vai trò, ý nghĩa của
thực tiễn đối với việc nhận thức và cải tạo thế giới. Đối với ông chỉ có hoạt động lý

luận mới là quan trọng, mới là hoạt động đích thực của con người.
Các nhà duy tâm tuy đã thấy được mặt năng động sáng tạo trong hoạt động
của con người nhưng lại phát triển lên một cách trừu tượng, thái quá. Vì vậy, chủ
nghĩa duy tâm cũng chỉ hiểu thực tiễn như là hoạt động tinh thần chứ không hiểu
nó như là hoạt động hiện thực, hoạt động vật chất cảm tính của con người. Khi đề
cập đến “ý niệm thực tiễn”, Hêghen, nhà triết học duy tâm lớn nhất trước Mác đã
có tư tưởng hợp lý sâu sắc là : bằng thực tiễn, chủ thể tự “nhân đôi” mình, đối
tượng hoá bản thân mình trong quan hệ với thế giới bên ngoài. Song do quan điểm
duy tâm nên ông chỉ giới hạn thực tiễn ở ý niệm, ở hoạt động tư tưởng. Đói với
Hêghen, thực tiễn là một “suy lý logic”.
Kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những thiếu sót trong quan đỉểm
của các nhà triết học trước mình về thực tiễn, Mác và Ăngghen đã đem lại một
quan niệm đúng dắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của nó đối với nhận thức
cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của XH loài người. Các ông không những
tham gia vào hoạt động thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản mà còn dựa trên
thực tiễn XH để khái quát, phát triển lý luận cách mạng. Nhờ đó, làm cho lý luận
gắn bó chặt chẽ với thựv tiễn, trở thành vũ khí nhận thức thế giới và cải tạo thế
giới. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận của mình. Mác và Ăngghen đã
thực hiện một bước chuyển biến cách mạng trong lý luận nói chung và trong lý
luận nhận thức nói riêng. Lenin nhận xét rằng : “Quan điểm về đời sống, về thực
tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”.
1. Phạm trù thực tiễn:


Trước Mác chưa có nhà triết học nào quan tâm đúng mức đến thực tiễn. Triết
học Mác không chỉ xuất phát từ thực tiễn mà còn đưa thực tiễn vào trong triết học
làm thành cuộc cách mạng.
Thực tiễn là gì? Theo triết học mác-xít, thực tiễn là tất cả họat động vật chất,
cảm tính của con người nhằm cải tạo tự nhiên và XH. Nói đến thực tiễn là nói đến
hoạt động của con người về vật chất chứ không phải hoạt động tinh thần nhằm cải

tạo tự nhiên và XH.
Người ta hay nhầm lẫn giữa thực tiễn và thực tế. Thực tế là một bộ phận của
thế giới hiện thực có liên quan đến, tác động trực tiếp đến con người mà ta có thể
cảm thấy được, khác với thực tiễn là hoạt động vật chất của con người.
Thực tiễn có những đặc điểm sau :
* Thực tiễn là hoạt động vật chất, hoạt động cảm tính của con người, là hoạt
động có mục đích mà trong đó con người sử dụng các công cụ, phương tiện vật
chất để cải tạo tự nhiên, cải tạo XH .
Như vậy, đối tượng của thực tiễn là tự nhiên và XH nhằm cải tạo tự nhiên,
XH phục vụ nhu cầu con người.
* Thực tiễn là hoạt động có ý thức nhằm tạo ra của cải vật chất đảm bảo sự
tồn tại và phát triển của XH . Chính vì vật thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản
của con người, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người
với tự nhiên.
* Thực tiễn là hoạt động manh tính sáng tạo. Bản chất của con người là
không dựa vào những sản vật có sẳn trong tự nhiên mà là biến đổi giới tự nhiên,
làm tự nhiên phù hợp với nhu cầu của bản thân mình. Trong hoạt động đó thì con
người biến ý thức của mình thành hiện thực cho nên hoạt động thực tiễn là hoạt
động mang tính chất đối tượng hóa nhằm chuyển hóa cái tinh thần thành cái vật
chất.
* Thực tiễn là hoạt động rất phong phú đa dạng nhưng nó cũng có tính chất
cụ thể cảm tính.
Thực tiễn bao gồm 3 dạng cụ thể (cơ bản) sau :
- Hoạt động sản xuất vật chất : là dạng thực tiễn quan trọng nhất và quyết
định nhất.
- Hoạt động nghiên cứu thí nghiệm khoa học.
- Hoạt động chính trị XH .
Hoạt động sản xuất vật chất quan trọng nhất, quyết định nhất bởi vì suy cho
cùng các dạng họat động khác cũng hướng tới phục vụ cho hoạt động sản xuất vật
chất. Còn dạng nghiên cứu thí nghiệm KH là dạng thực tiễn dặc biệt bởi vì nó được



tiến hành trong điều kiện nhân tạo. Còn hoạt động chính trị XH là dạng thực tiễn
cao nhất, phức tạp nhất.
Ngoài ra, thực tiễn còn có những dạng không cơ bản nhưng cũng không kém
phần quan trọng :
- Hoạt động giáo dục.
- Hoạt động đạo đức.
- Hoạt động nghệ thuật.
Nó không cơ bản vì nó không từ hoạt động sản xuất vật chất.
2. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn:
Sự thống nhất này thể hiện ở chỗ để tồn tại con người phải hoạt động thực
tiễn. Để tiến hành thực tiễn có hiệu quả, con người buộc phải nhận thức. Như
chúng ta biết, nhận thức là một quá trình từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết
nhiều, từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất cấp 1 đến bản chất cấp 2 ..., từ trực
quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn đó là con
đường biện chứng của nhận thức chân lý khách quan. Sự phát triển của con đường
nhận thức đó tất yếu dẫn đến sự hình thành, sự xuất hiện của lý luận. Lý luận là sản
phẩm của sự phát triển cao của nhận thức.
Lý luận là gì? lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn
phản ánh những mối liên hệ bản chất, những qui luật vận động và phát triển của sự
vật hiện tượng trong thế giới khách quan.
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn thể hiện :
* Con người quan hệ với thiên nhiên, với thế giới bên ngoài bắt đầu không
phải bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Chính từ trong thực tiễn cải tạo thế giới mà
nhận thức, lý luận được hình thành và phát triển. Như vậy, trước hết chúng ta thấy
thực tiễn là mục đích của nhận thức, lý luận. Nhận thức, lý luận tự nó không có
mục đích nào hết, mục đích của nhận thức, lý luận nhằm phục vụ thực tiễn, chỉ đạo
thực tiễn, hướng dẫn thực tiễn, làm thực tiễn có hiệu quả. Thực tiễn là nguồn gốc
của lý luận.

* Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, phương hướng thúc đẩy nhận thức, lý
luận phát triển. Nhận thức và lý luận tự nó không thể phát triển.
* Thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất để kiểm tra tính chân lý của nhận thức,
của lý luận. Tiêu chuẩn thực tiễn có tính chất tuyệt đối vì nó là duy nhất để kiểm tra
tính chân lý của nhận thức, lý luận. Nó có tính chất tương đối vì thực tiễn xác định
là đúng đắn thì nó vẫn phải chịu cho thực tiễn tiếp theo kiểm tra để càng đúng đắn,
càng chân lý hơn.
* Lý luận cũng như nhận thức soi đường, chỉ đạo cho hoạt động thực tiễn
diễn ra đúng hướng và có hiệu quả.


Trong lịch sử, chúng ta tách rời thực tiễn với nhận thức và lý luận nên tạo ra
sự ngăn cách, lý luận suông. Thời phong kiến, người ta học để làm quan chính là xa
rời thực tiễn, thoát li thực tiễn, tư tưởng này đến nay vẫn còn tồn tại.
Hồ Chủ Tịch cho rằng:
“Lý luận không bắt nguồn từ thực tiễn là lý luận suông,
Thực tiễn không có lý luận là thực tiễn mù quáng.
Thực tiễn không có lý luận chẳng khác nào đi đêm không có đèn”.
Nội dung của nhận thức bấy giờ xa rời thực tiễn. Phương pháp lý luận, nhận
thức dạy học nặng về áp đặt, giáo điều, lý thuyết suông.
Nguyên lý giáo dục của Đảng thấy nguy cơ tách rời thực tiễn nên đưa ra: học
phải đi đôi với hành, giáo dục đi đôi với sản xuất, nhà trường gắn liền với XH .
Từ đó phải có quan điểm thực tiễn là mọi hoạt động con người phải xuất phát
từ thực tiễn, sâu sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, lý luận phải gắn với thực
tiễn.
* Dừng lại ở kinh nghiệm mà không vươn lên được trình độ lý luận. Kinh
nghiệm và lý luận là hai trình độ khác nhau của sự nhận thức sự vật. Cả kinh
nghiệm và lý luận đều là phương pháp lý tính.
- Kinh nghiệm nhận thức sự vật rời rạc, tản mạn, không hệ thống chặt chẽ.
- Lý luận được thể hiện dưới một hệ thống chặt chẽ sự nhận thức sự vật.

- Kinh nghiệm cho ta nắm được mối liên hệ bề ngoài, thấy hiên tượng chưa
cho nắm bản chất sâu xa của sự vật, qui luật vận động của sự vật.
- Lý luận cho ta nắm được bản chất sâu xa, qui luật vận động của sự vật.
* Kinh nghiệm là kết quả của sự quan sát trực tiếp, còn lý luận được hình
thành gián tiếp. Lý luận là kết quả hoạt động khái quát hóa, trừu tượng hóa khoa
học đem lại.
* Kinh nghiệm có phạm vi áp dụng hạn hẹp, lý luận có phạm vi áp dụng rộng
hơn.
Có 2 loại kinh nghiệm :
- Kinh nghiệm thông thường và Kinh nghiệm khoa học.
Kinh nghiệm thông thường được rút ra trực tiếp từ cuộc sống như kinh
nghiệm thời tiết, kinh nghiệm trồng trọt, công nghiệp, hàng hải ...Kinh nghiệm
khoa học thu được trong khi quan sát, thí nghiệm khoa học
Kinh nghiệm thông thường và kinh nghiệm khoa học đều là những kinh
nghiệm đáng quí, có thể khái quát, đút rút thành lý luận nên không coi thường kinh
nghiệm mà đề cao lý luận và ngược lại.


Câu hỏi: Vì sao trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực
tiễn phải luôn quán triệt quan điểm phải thống nhất giữa lý luận với thực
tiễn?
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong triết học Mác - Lênin
Đất nước Việt Nam bước vào thế kỷ XXI với những thành tựu to lớn đạt
được trong 20 năm đổi mới. Có được những kết qủa đó là do Đảng cộng sản Việt
Nam đã vận dụng đúng đắn, sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng nước ta. Một trong những nguyên tắc lý luận
cơ bản mà Đảng ta đã vận dụng là nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
của triết học Mac-Lênin.
Phạm trù Thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của lý luận
nhận thức Macxít nói riêng, chủ nghĩa Mac-Lênin nói chung.

Trong lịch sử Triết học, các nhà triết học duy vật trước Mác không thấy được
vai trò của hoạt động thực tiễn đối với nhận thức, lý luận nên quan điểm của họ
mang tính chất trực quan. Các nhà triết học duy tâm lại tuyệt đối hóa yếu tố tinh
thần, tư tưởng của thực tiễn, họ hiểu họat động thực tiễn như là hoạt động tinh thần,
hoạt động của “ý niệm”, tư tưởng, tồn tại đâu đó ngoài con người, nói cách khác,
họ gạt bỏ vai trò thực tiễn trong đời sống xã hội.
Mac-Ăngghen, những nhà sáng lập chủ nghĩa Mac đã khắc phục những hạn
chế trong quan điểm về thực tiễn của các nhà triết học trước và đưa ra quan điểm
đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức cũng như
đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Với việc đưa phạm trù thực
tiễn vào lý luận, Mac- Ăngghen đã thực hiện bước chuyển biến cách mạng trong lý
luận nói chung và trong lý luận nhận thức nói riêng.
Thực tiễn là hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử- xã hội của
con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người. Nếu con vật chỉ
hoạt động theo bản năng nhằm thích nghi một cách thụ động với thế giới bên ngoài,
thì con người nhờ hoạt động thực tiễn là hoạt động có mục đích, có tính xã hội của
mình mà cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình, và để làm chủ thế giới.
Trong qúa trình hoạt động thực tiễn con người đã tạo ra được một “thiên nhiên thứ
hai” của mình, một thế giới của văn hóa tinh thần và vật chất, những điều kiện mới
cho sự tồn tại và phát triển của con người vốn không có sẵn trong tự nhiên. Vì vậy,
không có hoạt động thực tiễn, con người và xã hội loài người không thể tồn tại và
phát triển được. Thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là
phương thức đầu tiên, chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế giới.
Thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với hoạt động nhận thức. Trong mối
quan hệ với nhận thức, vai trò của thực tiễn được biểu hiện trước hết ở chỗ, thực
tiễn là cơ sở, động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức, Ăngghen khẳng định


“chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên,

với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp của tư duy con người,
và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta cải biến tự nhiên”.
Con người quan hệ với thế giới không phải bắt đầu bằng lý luận mà bằng
thực tiễn. Chính từ trong qúa trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức
của con người được hình thành, phát triển. Thông qua hoạt động thực tiễn con
người tác động vào thế giới buộc thế giới phải bộ lộ ra những thuộc tính, những
tính quy luật để con người nhận thức chúng. Thoát ly thực tiễn, nhận thức đã thoát
ly khỏi mảnh đất hiện thực nuôi dưỡng nó phát triển vì thế không thể đem lại
những tri thức sâu sắc, xác thực, đúng đắn về sự vật, sẽ không có khoa học, không
có lý luận.
Trong qúa trình hoạt động cải biến thế giới, con người cũng biến đổi luôn cả
bản thân mình, thực tiễn rèn luyện các giác quan của con người làm cho chúng tinh
tế hơn, trên cơ sở đó phát triển tốt hơn. Nhờ đó con người ngày càng đi sâu vào
nhận thức thế giới, khám phá những bí mật của nó, làm phong phú và sâu sắc tri
thức của mình về thế giới. Thực tiễn còn đề ra những nhu cầu, nhiệm vụ, phương
hướng phát triển của nhận thức, vì thế nó luôn thúc đẩy sự ra đời của các ngành
khoa học.
Thực tiễn còn là cơ sở để chế tạo công cụ, phương tiện máy móc mới, hỗ trợ
con người trong qúa trình nhận thức, khám phá, chinh phục thế giới. Ăngghen cho
rằng, nhu cầu cấp thiết của thực tiễn, của sản xuất sẽ thúc đẩy nhận thức khoa học
phát triển nhanh hơn hàng chục trường đại học.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức còn thể hiện ở chỗ, thực tiễn là tiêu
chuẩn của chân lý. Theo Mac và Ăngghen thì “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con
người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là một
vấn đề lý luận mà là một vấn đề của thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người
phải chứng minh chân lý”. Tất nhiên, nhận thức xã hội còn có tiêu chuẩn riêng, đó
là tiêu chuẩn lô gic nhưng tiêu chuẩn lô gic không thể thay thế cho tiêu chuẩn thực
tiễn, và xét đến cùng nó cũng phụ thuộc vào tiêu chuẩn thực tiễn.
Đó là tư tưởng cơ bản của Mac-Ăngghen khi đưa phạm trù thực tiễn vào nội
dung của lý luận nhận thức, tư tưởng đó đã được Lênin bảo vệ và phát triển sâu sắc

hơn trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, trong
đó Lênin nhắc lại luận cương thứ hai của Mac về Phoi-ơbăc và Người kết luận
“Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý
luận về nhận thức”. Tư tưởng của Lênin về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
vẫn đang là nguyên tắc phương pháp luận quan trọng hướng dẫn chúng ta trong
hoạt động thực tiễn, trong nghiên cứu khoa học. Nếu không bám sát thực tiễn cuộc
sống chúng ta sẽ không thể có lý luận, không thể có khoa học, không xác định nổi
bất kỳ đề tài khoa học nào với đúng nghĩa của nó.


Lý luận là sản phẩm cao của nhận thức của sự phản ánh hiện thực khách
quan. Trong hệ thống các khái niệm, phạm trù, các nguyên lý và các quy luật tạo
nên lý luận, quy luật là hạt nhân của lý luận, là sản phẩm của qúa trình nhận thức
nên bản chất của lý luận là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản
ánh một cách gần đúng đối tượng nhận thức.
Lý luận là trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Tri thức lý luận là tri
thức khái quát tri thức kinh nghiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Lý luận là
sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự
nhiên và xã hội tích trữ lại trong qúa trình lịch sử”. Lý luận được hình thành trên cơ
sở tổng kết kinh nghiệm, nhưng không phải mọi lý luận đều trực tiếp xuất phát từ
kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ
kiện kinh nghiệm mà vẫn không làm mất đi mối liên hệ giữa lý luận với kinh
nghiệm.
Khác với kinh nghiệm, lý luận mang tính trừu tượng và khái quát cao nên nó
đem lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, về tính quy luật của các sự vật, hiện tượng
khách quan. Vì vậy, nhiệm vụ của nhận thức lý luận là đem quy sự vận động bề
ngoài chỉ biểu hiện trong hiện tượng về sự vận động bên trong thực sự.
Chủ nghĩa Mac-Lênin xem xét lý luận và thực tiễn trong sự thống nhất biện
chứng. Thực tiễn là hoạt động vật chất còn lý luận là hoạt động tinh thần, nên thực
tiễn đóng vai trò quyết định trong quan hệ đối với lý luận. Lênin viết: “Thực tiễn

cao hơn nhận thức (lý luận) nó có ưu điểm không những của tính phổ biến mà của
tính hiện thực trực tiếp”.
Tính phổ biến của thực tiễn đối với nhận thức (lý luận) thể hiện ở chỗ, thực
tiễn là khâu quyết định đối với hoạt động nhận thức. Một lý luận được áp dụng
trong thời gian càng dài, không gian càng rộng thì hiệu qủa đạt được càng cao,
càng khẳng định tính chân lý của thực tiễn. Ngay cả một giả thiết khoa học muốn
trở thành lý luận phải thông qua hoạt động thực nghiệm kiểm tra, xác nhận. Như
vậy, chỉ có qua hoạt động thực tiễn thì lý luận mới có giá trị tham gia vào qúa trình
biến đổi hiện thực.
Hoạt động lý luận là hoạt động đặc biệt nó thống nhất hữu cơ với hoạt động
thực tiễn. Vì vậy, khi nhấn mạnh vai trò của thực tiễn đối với lý luận, chủ nghĩa
Mac-Lênin cũng khẳng đinh tính tích cực của sự tác động trở lại của lý luận đối với
thực tiễn. Lênin khẳng định: “không có lý luận cách mạng thì không có phong trào
cách mạng”. Lý luận là “kim chỉ nam” cho hành động thực tiễn. Cố nhiên để có thể
giải đáp được những vấn đề của cuộc sống, lý luận phải không ngừng liên hệ bằng
những hình thức khác nhau với thực tiễn. Cho nên, thực chất vai trò của lý luận đối
với thực tiễn là ở chỗ lý luận đem lại cho thực tiễn những tri thức đúng đắn về
những quy luật vận động và phát triển của thế giới khách quan.
Lý luận có thể dự kiến được sự vận động của sự vật trong tương lai, chỉ ra
những phương hướng mới cho sự phát triển của thực tiễn. Lý luận khoa học làm


cho con người trở nên chủ động, tự giác, hạn chế tình trạng “mò mẫm”, tự phát. Vì
vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh ví “không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà
đi”.
Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, do tính gián tiếp, tính trừu tượng cao trong sự
phản ánh hiện thực nên lý luận có khả năng xa rời thực tiễn và trở thành ảo tưởng.
Vì thế, không được cường điệu vai trò của lý luận, mặt khác không được xem nhẹ
thực tiễn và tách rời lý luận với thực tiễn. Điều đó cũng có nghĩa là phải quán triệt
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong nhận thức khoa học và hoạt

động cách mạng.
Trong Triết học Macxit và trong chủ nghĩa Mac-Lênin, sự thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn như một thuộc tính vốn có, một đòi hỏi nội tại. Nguyên tắc này có
ý nghĩa to lớn rong việc nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn.
Hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn thống nhất với nhau dưới nhiều
hình thức và trình độ biểu hiện khác nhau. Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn, phản ánh
(khái quát) những vấn đề của đời sống sinh động. Nhưng thước đo tính cao thấp
của lý luận với thực tiễn biểu hiện trước hết ở chỗ lý luận đó phải hướng hẳn về đời
sống hiện thực, để giải quyết những vấn đề do chính sự phát triển của thực tiễn đặt
ra, và như vậy, lý luận góp phần thúc đẩy thực tiễn phát triển, bởi vì ở bên ngoài sự
thống nhất lý luận và thực tiễn, tự thân lý luận không thể biến đổi được hiện thực,
nói cách khác, hoạt động lý luận không có mục đích tự thân mà vì phục vụ thục
tiễn, để cải tạo thực tiễn.
Thực chất của sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là phải quán triệt được
thực tiễn là cơ sở, là động lực, mục đích của lý luận, của nhận thức, là tiêu chuẩn
của chân lý (lý luận). Như trên đã nói, lý luận đích thực bao giờ cũng bắt nguồn từ
thực tiễn, do thực tiễn quy định. Thực tiễn quy định lý luận thể hiện ở nhu cầu, nội
dung, phương hướng phát triển của nhận thức, lý luận. Thực tiễn biến đổi thì lý
luận cũng biến đổi theo, nhưng lý luận cũng tác động trở lại thực tiễn bằng cách soi
đường, chỉ đạo, dẫn đắt thực tiễn.
Trên cơ sở nhận thức và vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn phải chống bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Chúng ta coi trọng kinh
nghiệm thực tiễn và không ngừng tích luỹ vốn kinh nghiệm quý báu đó.Song chỉ
dừng lại ở trình độ kinh nghiệm, thỏa mãn với vốn kinh nghiệm của bản thân, coi
kinh nghiệm là tất cả, tuyệt đối hóa kinh nghiệm đồng thời coi nhẹ lý luận, ngại học
tập, nghiên cứu lý luận, ít am hiểu lý luận, không quan tâm tổng kết kinh nghiệm
để đề xuất lý luận thì sẽ rơi vào lối suy nghĩ giản đơn, tư duy áng chừng, đại khái,
phiến diện thiếu tính lô gic, tính hệ thống, do đó, trong hoạt động thực tiễn thì mò
mẫm, tuỳ tiện, thiếu tính đồng bộ về lý luận trong tất cả các lĩnh vực do vậy đễ rơi
vào bệnh kinh nghiệm chủ nghiã.

Mặt khác, thái độ thực sự coi trọng lý luận đòi hỏi phải ngăn ngừa bệnh giáo
điều. Nết tuyệt đối hóa lý luận, coi lý luận là bất di bất dịch, việc nắm lý luận chỉ


dừng lại ở những nguyên lý chung chung trừư tượng không chú ý đến những hoàn
cảnh lịch sử cụ thể của sự vận dụng lý luận thì dễ mắc bệnh giáo điều.
Thực chất những sai lầm của bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều đều là vi
phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Để ngăn ngữa, khắc phục có
hiệu qủa hai căn bệnh trên phải coi trọng cả lý luận và thực tiễn.
Nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối
với việc nghiên cứu, giải quyết các vấn đề của qúa trình phát triển xã hội, nhất là
trong thời đại ngày nay khi thực tế cuộc sống đang đặt ra và đòi hỏi phải giải quyết
rất nhiều những vấn đề lý luận và thực tiễn nảy sinh của việc xây dựng, phát triển
dời sống kinh tế, văn hóa của xã hội. Hơn lúc nào hết lý luận Mac – Lênin trong sự
thống nhất cao với thực tiễn phải thể hiện vai trò hướng dẫn, chỉ đạo trong công
việc, giải quyết những vấn đề cấp bách và trọng đại do cuộc sống hiện thực đặt ra
cho chúng ta trong công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước hiện nay.
Những thành qủa mà chúng ta có được ngày hôm nay là kết qủa của sự năng động,
sáng tạo của Đảng, Nhà nước ta trong qúa trình vận dụng nguyên tắc thông nhất
giữa lý luận và thực tiễn vào hoàn cảnh lịch sử Việt nam trong thời kỳ qúa độ lên
chủ nghĩa xã hội.
Câu hỏi: Hiểu thế nào về chức năng thế giới quan và chức năng phương
pháp luận của triết học?


Câu hỏi: Vai trò của triết học Mác-Lênin đối với công cuộc đổi mới của
nước ta hiện nay?
Như chúng ta biết, Đại hội Đảng lần thứ VI đã đề ra đường lối đổi mới toàn
diện trong đó có đổi mới tư duy lý luận, đề ra nhiệm vụ khắc phục sự chậm trễ của
khoa học xã hội trong đó có triết học. Qua một quá trình thực hiện đổi mới chúng

ta đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng, trong đó có đổi mới tư
duy lý luận. Tuy nhiên chiều sâu và tầm cỡ của công cuộc đổi mới cũng như tính
khó khăn, phức tạp của những vấn đề do thực tiễn thế giới và trong nước đặt ra đòi
hỏi chúng ta phải có sự nỗ lực vượt bậc trong đổi mới tư duy lý luận mới đáp ứng
được yêu cầu đặt ra.
1. Từ Đại hội VI đến nay, chúng ta đã đạt được một số thành tựu nhất định
trong đổi mới tư duy lý luận. Cụ thể là:
Trong nhận thức về CNXH có nhiều điểm sáng tỏ hơn, thấy được nhiều cái
sai trong nhận thức cũ về CNXH.
Bước đầu hình thành các quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo sự nghiệp đổi mới
ở nước ta.
Tư duy kinh tế có sự đổi mới quan trọng.
Triết học đã đóng góp nhất định vào kết quả chung trên đây của đổi mới tư
duy lý luận. Có thể nói, triết học đã tạo cơ sở lý luận và phương pháp luận cho quá
trình đổi mới tư duy lý luận, tư duy triết học, là hạt nhân lý luận cho sự hình thành
tư duy mới về CNXH, nhất là tư duy kinh tế và tư duy chính trị.
Trong thời gian qua, các nhà triết học đã đi sâu phân tích bản chất và nguyên
nhân của bệnh chủ quan duy ý chí ở nước ta và ở nhiều nước XHCN trước đây, làm
sáng tỏ cơ sở triết học của bài học mà Đại hội VI đã rút ra là "Đảng phải luôn luôn
xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan". Vấn đề biện
chứng của thời kỳ quá độ cũng đã được quan tâm nghiên cứu, nhất là mâu thuẫn cơ
bản và mâu thuẫn chủ yếu của xã hội ta, qua đó góp phần làm sáng tỏ lý luận về
CNXH và con đường đi lên CNXH của nước ta, đóng góp vào xây dựng cương lĩnh
mới của Đảng.
Trước sự phát triển mới của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế
giới và những thay đổi hiện nay của thời đại, giới triết học đã chú ý nghiên cứu bản
chất và hiệu quả xã hội có tính toàn cầu của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ, biện chứng của thời đại, từ đó rút ra những vấn đề có ý nghĩa thực tiễn cho
quá trình đổi mới xã hội ta. Đồng thời khi phê phán những sai lầm của bệnh giáo
điều và bệnh kinh nghiệm trong cán bộ ta thì những nguyên tắc phương pháp luận

của tư duy mới - tư duy biện chứng duy vật, vai trò của lý luận nhất là lý luận của
chủ nghĩa Mác-Lênin và đổi mới công tác lý luận cũng được chú ý trong nghiên
cứu và giảng dạy triết học. Để phục vụ trực tiếp cho sự nghiệp đổi mới xã hội ta
như giải quyết vấn đề sở hữu, quan hệ giữa các thành phần kinh tế, đổi mới tổ chức


và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị… giới triết học vừa qua cũng đã
đi sâu nghiên cứu các vấn đề như phép biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất, giữa kinh tế và chính trị, giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ
quan, vấn đề dân chủ hóa. Vấn đề con người cũng đã thu hút sự nghiên cứu của các
nhà triết học và gắn liền với nó là những động lực hoạt động của con người như
nhu cầu, lợi ích… Những nghiên cứu trên đây góp phần vào đổi mới tư duy lý luận
về CNXH, hình thành mô hình CNXH của nước ta.
Để thực hiện những nghiên cứu trên đây, việc nghiên cứu và giảng dạy triết
học từ Đại hội VI đến nay đã có những đổi mới nhất định. Hoạt động nghiên cứu ít
khuôn sáo hơn, cởi mở hơn, mạnh dạn hơn, tính chất minh họa, xuôi chiều tô hồng
đã giảm bớt, có thay đổi đáng kể trong việc đánh giá các trào lưu triết học ngoài
mácxít, đã chú ý hơn đến quan điểm cá nhân và gắn hơn với thực tiễn của CNXH
trong nghiên cứu. Những thay đổi trên đây đã được phản ánh trên các Tạp chí, sách
báo. Giữa các cơ quan nghiên cứu triết học có sự phối hợp tốt hơn. Số cán bộ triết
học có học hàm, học vị đã tăng lên nhiều.
2. Như vậy là thực tiễn đổi mới ở nước ta những năm qua đã khẳng định vai
trò của triết học Mác-Lênin, khẳng định ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận
của nó. Chủ nghĩa Mác-Lênin trong đó có triết học của nó cho đến nay vẫn là học
thuyết tiến bộ nhất, chưa một học thuyết nào có thể thay thế được, vẫn là nền tảng
tư tưởng và kim chỉ nam cho nhận thức và hành động cách mạng của chúng ta, vẫn
là vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản như Mác đã nói cách đây trên 150 năm
Sự nghiệp đổi mới với tính chất mới mẻ, khó khăn và phức tạp của nó đòi
hỏi phải có lý luận khoa học soi sáng. Sự khám phá về lý luận phải trở thành tiền đề
và điều kiện cơ bản làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt động thực tiễn. Phải khắc

phục tình trạng trước đây thường vắng bóng lý luận khi thông qua những quyết
định quan trọng và do vậy buộc phải ra quyết định trên cơ sở thuần túy kinh
nghiệm. Phải tạo cơ sở thế giới quan khoa học, tạo niềm tin cho cán bộ, Đảng viên
trong quá trình đổi mới theo định hướng XHCN trước những biến động sâu sắc,
đầy kịch tính của thời đại. Muốn vậy cần phải có triết học khoa học. Không thể đổi
mới thành công nếu thiếu mặt tư duy triết học sâu sắc. Triết học Mác–Lênin chính
là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận cho công cuộc đổi mới của chúng ta.
Nếu như chủ nghĩa Mác-Lênin về cơ bản là một khoa học về giải phóng và
phát triển con người và loài người thì triết học Mác-Lênin là triết lý của sự giải
phóng đó. Triết học là sự phản tư của thời đại, là sự nắm bắt thời cuộc bằng chiều
sâu tư tưởng. Vì vậy Engen khẳng định rằng một dân tộc muốn đứng vững trên
đỉnh cao lý luận thì phải có triết học. Bởi vì triết học là cơ sở của mọi loại tư duy
(tư duy kinh tế, tư duy chính trị, tư duy văn hóa, tư duy pháp luật...). Triết học theo
một nghĩa nào đó, là khoa học về tư duy, là tư duy về tư duy. Tư duy triết học là
chiết xuất, là tinh túy của tư duy lý luận. Vì vậy triết học phải tự đổi mới mình và
làm công cụ để đổi mới tư duy nói chung. Với ý nghĩa đó thì trước hết phải đổi mới


tư duy triết học chứ không phải là tư duy kinh tế. Nhờ có tư duy triết học mácxit
mới hiểu và phân tích được phép biện chứng của những bước ngoặt, mới nắm bắt
và xử lý đúng đắn những mối quan hệ biện chứng vốn có trong cuộc sống như quan
hệ giữa kinh tế và chính trị, kinh tế và xã hội, kinh tế và tư tưởng, tập trung dân
chủ, đổi mới và kế thừa, trung thành và sáng tạo… Và có như vậy mới khắc phục
được bệnh chủ quan duy ý chí, bệnh cực đoan phiến diện và chủ nghĩa chiết trung.
Thông qua triết học mà tư duy con người được rèn luyện và nâng cao. Theo
Engen, năng lực tư duy lý luận chỉ là bẩm sinh dưới dạng khả năng, muốn phát
triển tư duy lý luận phải có điều kiện và sự rèn luyện. Một trong những cách tốt
nhất để rèn luyện năng lực tư duy lý luận, đó chính là nghiên cứu triết học và lịch
sử triết học. Hiện nay với sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên xô và Đông Âu, chủ
nghĩa Mác-Lênin đang đứng trước sự thử thách khắc nghiệt của lịch sử. Không

những kế thừa của chủ nghĩa Mác mà có nhiều người mới ngày hôm qua đây còn
được coi là người mácxít cũng ra sức xuyên tạc, công kích, bác bỏ chủ nghĩa MácLênin không những lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học, về kinh tế chính trị, mà
cả về triết học, nhất là quan điểm duy vật lịch sử cũng trở thành đối tượng phê
phán, phủ nhận. Trong tình hình đó việc nắm vững phép biện chứng mácxít lại
càng quan trọng vì nó là vũ khí để đấu tranh tư tưởng, đồng thời là công cụ để triết
học tự bảo vệ mình và phát triển mình lên một giai đoạn mới trước ngưỡng cửa thế
kỷ XXI.
3. Trong những năm qua, như trên đã nói, triết học đã cổ sự đổi mới nhất
định và đã đóng góp vào quá trình đổi mới đất nước. Tuy nhiên điều đó mới là
bước đầu và còn rất hạn chế, cái đã có và cái cần phải có còn khoảng cách khá xa.
Lý luận triết học vẫn còn xa rời với cuộc sống, chưa nhạy cảm trước những biến
đổi trong nước và trên thế giới. Nhiều vấn đề triết học do cuộc sống đặt ra chưa có
sự giải đáp thỏa đáng, vẫn còn có những biểu hiện giáo điều và bảo thủ trong lý
luận, hiểu biết vê lịch sử triết học và triết học ngoài mácxít hiện đại còn ít ỏi, ít có
những chuyên gia giỏi những người uyên bác trong lĩnh vực triết học... Nguyên
nhân tình trạng trên có nhiều. Có phần do điều kiện lịch sử khách quan, có phần do
lãnh đạo, có phần do bàn thân các nhà triết học. Sắp tới để phát huy mạnh mẽ và có
hiệu qủa vai trò của triết học vào sự nghiệp đổi mới, cần phải giải quyết các vấn đề
sau đây:
Triết học và thực tiễn: Phải tạo ra một bước ngoặt triết học hướng về thực
tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn và muốn vậy, phải tạo cơ chế liên hệ giữa các nhà
triết học với thực tiễn và phải có chế độ, chính sách, kinh phí thỏa đáng để đi thực
tế. Người làm triết học cần được thông tin tình hình trong nước và thế giới kịp thời,
không vì khó khăn về tài chính mà cắt bỏ sách báo nước ngoài. Phải xóa bỏ tình
trạng giới triết học nước ta bị tách biệt với thế giới bằng cách tạo điều kiện nghiên
cứu các tài liệu triết học ở các nước tư bản và cho đi sang các nước đó để tìm hiểu
tình hình đất nước họ và trao đổi, tiếp xúc với giới triết học (cả mácxít và ngoài
mácxít) ở đó.



Triết học và chính trị: Chúng ta đã thấy tác hại của việc đồng nhất triết học
với chính trị, song đây là một mối quan hệ rất phức tạp và tế nhị đòi hỏi phải xử lý
đúng đắn để đảm bảo phát huy tính sáng tạo của người làm triết học theo định
hướng chính trị đúng đắn. Phải có cơ chế dân chủ trong nghiên cứu để cho nhà lý
luận dám nói thật ý nghĩ của mình mà không sợ bị "mất an toàn". Phải thật sự tự do
tư tưởng trong nghiên cứu vì không có tự do tư tưởng thì không có sáng tạo khoa
học. Tất nhiên điều đó cũng đòi hỏi người làm triết học phải có đầy đủ ý thức trách
nhiệm công dân, ý thức trách nhiệm của nhà khoa học chân chính, hơn nữa lại là
trách nhiệm của nhà triết học mácxít.

Câu hỏi: Để nhận thức và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin đòi
hỏi mỗi cán bộ đảng viên chúng ta phải làm gì?


Câu hỏi: Vai trò của triết học Mác-Lênin đối với công cuộc đổi mới của
nước ta hiện nay?
Ngày nay, hiện đại hóa đang là xu thế chung và tất yếu đối với cả các nước
phát triển lẫn các nước đang phát triển. Đối với các nước đang phát triển, hiện đại
hóa được gắn chặt với quá trình công nghiệp hóa đất nước. Đó là quá trình làm cho
xã hội chuyển biến từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại, làm biến đổi căn
bản bộ mặt của xã hội trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế chính trị, xã hội...
Nước ta thuộc vào nhóm các nước đang phát triển. Do đó, để thực hiện mục
tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, chúng ta không có con
đường nào khác là phải CNH - HĐH.đất nước. Chính vì vậy, Đảng ta đã xác định:
"Đây là nhiệm vụ trọng tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới"(1).
Nhưng để thực hiện được nhiệm vụ có tầm quan trọng hàng đầu đó, chúng ta không
thể không sử dụng những thành tựu của khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Nói cách
khác khoa học, kỹ thuật và công nghệ có vai trò hết sức to lớn trong công cuộc
CNH - HĐH đất nước. Tuy nhiên, trong bài báo này, chúng tôi không có tham
vọng làm sáng tỏ vai trò của khoa học, kỹ thuật và công nghệ mà chỉ muốn nêu lên

một số suy nghĩ về vai trò của triết học với tư cách là một khoa học đối với công
cuộc CNH - HĐH ở nước ta.
Trước hết, khi nói đến vai trò của triết học chúng ta thường nói đến vai trò
thế giới quan và phương pháp luận của nó. Vai trò thế giới quan của triết học được
thể hiện ở chỗ nó cung cấp cho chúng ta cách lí giải về thế giới và vị trí của con
người trong thế giới đó. Như vậy, triết học sẽ cung cấp cho chúng ta cách nhìn tổng
quát về thế giới nói chung và về xã hội loài người nói riêng.
Tuy nhiên, cũng như mọi lí luận, triết học không chỉ làm nhiệm vụ lý giải
những vấn đề của thế giới nói chung và của xã hội loài người nói riêng, mà còn trên
cơ sở của sự lí giải ấy, nó trở thành cái định hướng cho con người trong hành động.
Vì vậy, một triết học khoa học sẽ giúp con người có sự định hướng đúng đắn trong
hành động. Lịch sử phát triển của khoa học đã chỉ ra rằng mỗi nhà khoa học, dù có
tuyên bố hay không tuyên bố, đều chịu chi phối bởi một loại thế giới quan hay một
hệ thống các quan điểm triết học nhất định. Nhờ đứng trên quan điểm triết học
đúng đắn, nhiều nhà khoa học đã đưa ra những phỏng đoán thiên tài mà sau nhiều
năm đã được khoa học xác nhận. Chẳng hạn, nhờ có quan điểm duy vật biện chứng,
F.Engen đã đưa ra nhiều phỏng đoán có giá trị trong tác phẩm "Biện chứng của tự
nhiên" và cho đến nay hầu hết các phỏng đoán đó đã được khoa học tự nhiên xác
nhận. Hoặc vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX những thành tựu nổi bật của vật
lý học đã dẫn đến cái gọi là "cuộc khủng hoảng trong khoa học tự nhiên" và là
nguồn gốc nhận thức luận của chủ nghĩa duy tâm "vật lý học". Nhưng nhờ có thế
giới quan duy vật biện chứng mà Lênin đã vạch ra thực chất của cuộc khủng hoảng
trong khoa học tự nhiên, đồng thời vạch ra cho các nhà khoa học tự nhiên con
đường thoát khỏi cuộc khủng hoảng đó.


Trong thực tiễn xã hội, chúng ta khó có thể kể hết vai trò thế giới quan và
phương pháp luận to lớn của triết học đối với xã hội. Thực tiễn lịch sử đã chứng
minh rằng nhiều hệ thống triết học đã từng đóng vai trò thế giới quan và phương
pháp luận cho những cuộc cách mạng vĩ đại. Từ kinh nghiệm lịch sử và thực tế

cuộc sống hiện tại chúng ta có thể khẳng định rằng nếu có một hệ thống các quan
điểm triết học đúng đắn làm cơ sở thì bản thân sự nghiệp CNH - HĐH sẽ được tiến
hành một cách vững chắc hơn và ổn định hơn.
Cũng như mọi giai đoạn lịch sử, trong công cuộc CNH - HĐH, vai trò của
triết học được thể hiện ở chức năng thế giới quan và phương pháp luận của nó.
Nhưng bản thân chức năng thế giới quan và phương pháp luận của triết học không
được biểu hiện một cách chung chung thông qua quần chúng nhân dân lao động mà
được thể hiện một cách tập trung nhất thông qua những người làm nhiệm vụ hạch
định chính sách và những người chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Bởi vì công cuộc công
nghiệp hóa và hiện đại hoá đất nước được tiến hành như thế nào, cách thức và
những bước đi của nó ra sao trước hết là do những người làm công tác hoạch định
chính sách và những người chỉ đạo hoạt động thực tiễn quyết định. Mặt khác, bản
thân triết học lại là loại lí luận tổng quát nhất, cho nên vai trò của nó cũng chủ yếu
được thể hiện ở tầm đường lối, quan điểm khi hoạch định chính sách. Do vậy, nếu
có tư duy triết học đúng đắn thì những người làm nhiệm vụ hoạch định chính sách
và chỉ đạo hoạt động thực tiễn mới có thể đưa ra được những quan điểm, những
bước đi và những biện pháp phù hợp trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại
hoá, đồng thời chỉ đạo việc thực hiện các chủ trương đó một cách có hiệu quả.
Thực tiễn đã chỉ ra rằng bất kỳ một chủ thể, một chính sách nào đem áp dụng
trong thực tế đều có hai mặt: mặt tích cực và mặt tiêu cực: vấn đề là ở chỗ phải biết
sử dụng tốt mặt tích cực đồng thời phải hạn chế mọt cách tối đa để chấp nhận
những hậu quả tiêu cực ở mức thấp nhất. Để làm được điều đó cần có một loạt các
chính sách đi kèm. Vì vậy, muốn đưa ra được những chính sách hữu hiệu đòi hỏi
những người làm nhiệm vụ hoạch định chính sách phải có cách nhìn toàn diện và
lịch sử cụ thể mà muốn cách nhìn toàn diện và lịch sử cụ thể thì cần có tư duy triết
học đúng đắn.
Tuy nhiên, nói như vậy hoàn toàn không có nghĩa rằng đã có tư duy triết học
đúng đắn những người làm nhiệm vụ hoạch định chính sách và chỉ đạo hoạt động
thực tiễn có thể đưa ra những chính sách hữu hiệu. Trái lại, theo chúng tôi, tư duy
triết học chỉ là điều kiện cần và để có những chính sách hữu hiệu ngoài việc nắm

vững các quan điểm triết học, những người làm công tác hoạch định chính sách và
chỉ đạo hoạt động thực tiễn cần có sự tinh thông về nghề nghiệp, am hiểu thực tiễn,
đồng thời phải biết vận dụng một cách nhuần nhuyễn các quan điểm triết học vào
công việc cụ thể của mình.
Như vậy, vai trò đầu tiên của triết học được thể hiện ở chức năng thế giới
quan và phương pháp luận của nó đối, với công cuộc CNH - HĐH đất nước. Nhưng


bản thân chức năng thế giới quan và phương pháp luận của triết học lại chủ yếu
được thực hiện thông qua những người làm nhiệm vụ hoạch định chính sách và chỉ
đạo hoạt động thực tiễn. Do đó, vai trò của triết học được thể hiện ở chức năng thế
giới quan và phương pháp luận là vai trò gián tiếp. Nhưng, bản thân triết học không
chỉ có vai trò gián tiếp mà còn có vai trò trực tiếp đối với công cuộc công nghiện
hóa, hiện đại hóa. Vậy vai trò trực tiếp của triết học được thể hiện như thế nào?
Như trên đã khẳng định, nước ta thuộc vào nhóm các nước đang phát triển.
Sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hoá được tiến hành sau một loạt nước trong
khu vực và trên thế giới. Đó là một khó khăn và thiệt thòi lớn, nhưng đồng thời nó
cũng tạo ra cho chúng ta những thuận lợi nhất định. Cái thuận lợi được thể hiện
trước hết ở chỗ thông qua những kinh nghiệm thành công và không thành công của
các nước trong khu vực và trên thế giới chúng ta có thể rút ra những bài học bổ ích
cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Nhiệm vụ của triết học
là nghiên cứu kinh nghiệm của các nước để rút ra những bài học bổ ích đó.
Kinh nghiệm của một số nước đã tiến hành CNH - HĐH trong khu vực đã
chỉ ra rằng để cho một xã hội phát triển lành mạnh ngay từ đầu cần có quan điểm
phát triển toàn diện cả về mặt lành mạnh các mặt khác của đời sống xã hội. Nếu
không có quan điểm phát triển toàn diện, ngay từ đầu thì trước sau cũng sẽ phải
giải quyết những hậu quả của các ở Thái Lan, trong quá trình CNH - HĐH, do nhu
cầu về việc làm và đời sống, Chính phủ Thái Lan đã dùng mọi biện pháp để khuyến
khích đầu tư nước ngoài, phát triển dịch vụ du lịch... Nhờ vậy nền kinh tế của Thái
Lan phát triển tương đối nhanh chóng. Nhưng bên cạnh đó một loạt vấn đề xã hội

đang được đặt ra cho Chính phủ Thái Lan như sự phân hóa giàu nghèo ngày càng
trầm trọng, vấn đề ô nhiễm môi trường, bệnh AIDS và các tệ nạn xã hội khác. Lúc
đầu những nhà lãnh đạo Thái Lan cũng tưởng rằng những người giàu sau khi đã
giàu lên ở mức cần thiết thì họ sẽ nghĩ đến người nghèo và như vậy là sự phân hóa
giàu nghèo không trở thành một vấn đề xã hội. Nhưng thực tế không phải như vậy,
những người giàu càng muốn giàu lên mãi và sự phân hóa giàu nghèo phải được
giải quyết bằng những chính sách xã hội hợp lý, chữ không thể bằng sự tự nguyện
của những người giàu. Bên cạnh đó, một loạt vấn đề xã hội khác đang đòi hỏi
Chính phủ Thái Lan phải có những biện pháp cấp bách. Chính vì vậy, trong những
năm tới, Chính phủ Thái Lan chủ trương giảm nhịp độ phát triển kinh tế để tập
trung sức giải quyết các vấn để xã hội. Theo chúng tôi, bài học của Thái Lan và
những bài học tương tự như vậy ở các nước trong khu vực và trên thế giới có lẽ
cũng là những điều bổ ích đối với chúng ta trong quá trình CNH - HĐH đất nước.
Thực ra, nghiên cứu những kinh nghiệm của các nước để rút ra những bài
học bổ ích cho nước ta là nhiệm vụ của nhiều ngành khoa học khác nhau. Nhưng
những bài học mà triết học rút ra sẽ là những bài học mang tính khái quát cao.
Khác vời các khoa học khác, xuất phát từ việc nghiên cứu kinh nghiệm của các
nước, triết học có nhiệm vụ phải rút ra được cái gì là cái chung và tất yếu đối với
tất cả các nước hoặc đối với một nhóm nước khu vực trong quá trình CNH - HĐH.


Việc tìm ra được cái chung và cái tất yếu trong quá trình CNH - HĐH sẽ giúp cho
chúng ta khỏi mò mẫm, tránh được nhưng vấp váp không cần thiết khi giải quyết
những nhiệm vụ của bản thân chúng ta. V.I.Lê nin đã từng chỉ ra rằng: ...Người nào
bắt tay vào những vấn đề riêng trước khi giải quyết các vấn đề chung, thì kẻ đó,
trên mỗi bước đi, sẽ không sao tránh khỏi "vấp phải" những vấn đề chung đó một
cách không tự giác. Mà mù quáng vấp phải những vấn đề đó trong những trường
hợp riêng, thì có nghĩa là đưa chính sách của mình đến chỗ có những sự dao động
tồi tệ nhất và mất hẳn tính nguyên tắc"
Tuy nhiên, bản thân triết học không dừng lại ở việc nghiên cứu những kinh

nghiệm để rút ra những cái chung, và cái tất yếu trong quá trình CNH - HĐH mà đi
xa hơn nữa, tức là nghiên cứu xem bản thân cái chung đó và tất yếu đó được áp
dụng vào điều kiện của Việt Nam như thế nào? Nói một cách khác, cần làm sáng tỏ
mối quan hệ biện chứng cái phổ biến và cái đặc thù trong quá trình CNH - HĐH ở
Việt Nam .
Như vậy, vai trò trực tiếp của triết học được thể hiện ở nhiệm vụ nghiên cứu
những kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới đã tiến hành công
nghiệp hóa và hiện đại hoá nhằm rút ra những cái chung và tất yếu, đồng thời xem
xem những cái chung và tất yếu đó được áp dụng vào những điều chỉnh cụ thể của
Việt Nam như thế nào. Song mục đích của các nghiên cứu triết học không phải chỉ
để nghiên cứu mà nhằm phục vụ thực tiễn. Vì vậy, vai trò trực tiếp của triết học còn
được thể hiện ở nhiệm vụ phản biện cho các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước. Điều đó có nghĩa là từ các nghiên cứu của mình các nhà triết học có
nhiệm vụ góp tiếng nói phản biện cho các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước, để trên cơ sở đó Đảng và Nhà nước có điều kiện đưa ra các chủ trương và
chính sách hợp lý nhất.
Thực ra, phản biện là một nhiệm vụ, một chức năng của bất kỳ các ngành
khoa học nào trên con đường tìm ra chân lỹ. Trong thời gian trước Đại hội VI, do
nhiều nguyên nhân khác nhau, triết học chú yếu tập trung làm nhiệm vụ thuyết
minh các chú trương, chính sách của Đảng và Nhà nước mà bỏ quên nhiệm vụ phản
biện. Kể từ Đại hội VI đến nay, cùng với xu hướng đổi mới triết học đã bắt đầu
không chỉ làm nhiệm vụ thuyết minh mà còn góp những tiếng nói phản biện cho
các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, trong điều kiện ngày
nay, để thực hiện thành công sự nghiệp CNH - HĐH, triết học đã có nhiều tiếng nói
phản biện có hiệu quả hơn nữa. Điều đó, theo chúng tối, phụ thuộc vào cả hai phía,
phía các nhà triết học lẫn phía Đảng và Nhà nước. Một mặt, để có những tiếng nói
phản biện nhờ giá trị, các nhà triết học phải có những công trình nghiêm túc có giá
trị khoa học. Mặt khác, Đảng và Nhà nước phải có những cơ chế cho phép các nhà
triết học được phát biểu thẳng thắn những ý kiến, những suy nghĩ của mình mà
không hề lo ngại về bất cứ vấn đề gì.



Câu hỏi: Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện, quan điểm
phát triển và ý nghĩa thực tiễn của nó?
Trả lời: Quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể là một trong những
nguyên tắc quan trọng của phương pháp biện chứng Mác xít. Để trả lời câu hỏi này
cần hiểu quan điểm toàn diện là gì? Quan điểm lịch sử cụ thể là gì?
Quan điểm toàn diện là quan điểm khi xem xét và nghiên cứu sự vật phải
nghiên cứu tất cả các mặt, các yếu tố kể cả các mặt khâu trung gian, gián tiếp có
liên quan đến sự vật.
Quan điểm lịch sử cụ thể là quan điểm khi xem xét sự vật phải ngihên cứu nó
trong điều kiện thời gian và không gian nhất định. Phải nghiên cứu quá trình vận
động của nó trong quá khứ hiện tại và dự kiến tương lai.
- Cơ sở lý luận của hai quan điểm trên là xuất phát từ nguyên lý về mối liên
hệ phổ biến của các sự vật, hiện tượng trong thế giới.
- Phải có quan điểm toàn diện vì sự vật nào cũng tồn tại trong mối liên hệ
không có sự vật nào tồn tại một cách riêng biệt, cô lập với sự vật khác.
Phải có quan điểm lịch sử cụ thể vì sự vật nào cũng có quá trình hình thành
tồn tại, biến đổi và phát triển. Mỗi giai đoạn phát triển của sự vật lại có những mối
liên hệ riêng đặc trưng cho nó. Cho nên xem xét sự vật vừa phải xem quá trình phát
triển của sự vật đó, vừa phải xem xét trong từng điều kiện quá trình cụ thể.
+ Có xem xét toàn diện và lịch sử cụ thể sự vật thì ta mới hiểu được bản chất
của sự vật từ đó mới cải tạo được sự vật.
Trả lời: Quan điểm phát triển là một trong những nguyên tắc quan trọng củae
phương pháp biện chứng Mác xít. Quan điểm phát triển đòi hỏi chúng ta khi nhận
thức sự vật phải xem xét nó trong sự vận động, biến đổi, phải phân tích các sự vận
động phức tạp của sự vật, tìm ra khuynh hướng phát triển cơ bản của chúng để cải
biên sự vật phục vụ cho nhu cầu của con người.
- Cơ sở lý luận của quan điểm phát triển chính là nguyên lý về sự phát triển
của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Nguyên lý đó nói rằng phát

triển là khuynh hướng tất yếu khách quan của tất cả các sự vật hiện tượng. Phát
triển được diễn ra theo 3 hình thức từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ
kém hoàn thiện đến hoàn thiện.
- Mỗi sự vật đều có quá trình ra đời, biến đổi, phát triển và mất đi. Nhưng
khuynh hướng chung của thế giới vật chất là luôn phát triển theo hướng diện, cái
mới thay thế cái cũ, cái sau tiến bộ hơn cái trước. Do đó để nhận thức và phản ánh
chính xác sự vật hiện tượng ta phải có quan điểm phát triển.
+ ý nghĩa thực tiễn của quan điểm phát triển.


- Quan điểm phát triển là phương pháp khoa học giúp cho chúng ta hiểu
được bản chất thực sự của sự vật, tự do ta tìm được biện pháp cải tạo sự vật theo
đúng quy luật phát triển của chúng.
- Giúp ta tránh được tư tưởng hoang mang, dao động bi quan trước những
bước thụt lùi tạm thời đi xuống của sự vật, xây dựng niềm tin vào cái mới nhất định
thắng lợi.
- Tránh tư tưởng ảo tưởng (vì sự phát triển của sự vật, rất phức tạp), tránh tư
tưởng bi quan chán nản vì cái mới hợp quy luật thắng lợi là tất yếu, cái cũ, cái lạc
hậu tồn tại chỉ là tạm thời nó nhất định sẽ mất đi./.
- Nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn là
một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng của phép biện
chứng duy vật. Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến. Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi, muốn nhận thức được bản chất của sự vật
hiện tượng chúng ta phải xem xét sự tồn tại củ nó trong mối liên hệ qua lại giữa các
bộ phận, yếu tố, thuộc tính khác nhau trong tính chỉnh thể của sự vật, hiện tượng ấy
và trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật hiện tượng đó với sự vật, hiện tượng khác,
tránh xem xét phiến diện một chiều.
- Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi phải xem xét, đánh giá từng mặt, từng mối
liên hệ, và phải nắm được đâu là mối liên hệ chủ yếu, bản chất quy định sự vận
động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Trong nhận thức, nguyên tắc toàn diện là

yêu cầu tất yếu của phương pháp tiếp cận khoa học, cho phép tính đến mọi khả
năng của vận động, phát triển có thể có của sự vật, hiện tượng đang nghiên cứu,
nghĩa là cần xem xét sự vật, hiện tượng trong một chỉnh thể thống nhất với tất cả
các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, cùng các mối quan hệ của chúng.
- Nguyên tắc toàn diện còn đòi hỏi để nhận thức được sự vật, hiện tượng
chúng ta cần xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người.
Mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng với nhu cầu của con người rất đa dạng.
- Nguyên tắc toàn diện đối lập với cách nhìn phiến diện, một chiều; đối lập
với chủ nghĩa chiết trung và thuật ngữ nguỵ biện.
Câu hỏi: Chủ nghĩa duy vật Mác xít đã giải quyết đúng đắn và khoa học
về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên quan điểm thực tiễn như thế nào
Vật chất (triết học Marx-Lenin) theo định nghĩa của Lê nin là cái có trước,
vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức
và là cái quyết định ý thức; là cái tác động lại vật chất; và nó có quan hệ biện chứng
qua lại với nhau
Khuynh hướng chung của các nhà triết học duy vật thời cổ đại là đi tìm một
thực thể ban đầu nào đó và coi nó là yếu tố tạo ra tất cả các sự vật, hiện tượng khác
nhau của thế giới, tất cả đều bắt nguồn từ đó và cuối cùng đều tan biến trong đó.
Tức là họ muốn tìm một thực thể chung, là cơ sở bất biến của toàn bộ tồn tại, là cái


được bảo toàn trong sự vật dù trạng thái và thuộc tính của sự vật có biến đổi và
được gọi là vật chất (tiếng Latin là materia). Trong lịch sử triết học cổ đại, các nhà
triết học duy vật cũng quan niệm vật chất rất khác nhau. Ví dụ Thales (624-547
trước Công nguyên) coi vật chất là nước, Anaximenes (585-524 trước Công
nguyên) coi vật chất là không khí, Heraclitus (540-480 trước Công nguyên) coi vật
chất là lửa, Democritus (460-370 trước Công nguyên) coi vật chất là các nguyên
tử,...
Nói chung các nhà triết học cổ đại quan niệm vật chất dưới dạng cảm tính và
quy vật chất thành một thực thể cụ thể, cố định. Mặc dù có những hạn chế và mặt

lịch sử, song những quan niệm trên lại có ý nghĩa tích cực trong việc đấu tranh
chống lại quan niệm duy tâm thời bấy giờ.
Đến thời kỳ cận đại, khoa học phát hiện ra sự tồn tại của nguyên tử, cho nên
quan niệm của thuyết nguyên tử về cấu tạo của vật chất ngày càng được khẳng
định. Quan niệm này tồn tại và được các nhà triết học duy vật cũng như các nhà
khoa học tự nhiên nổi tiếng sử dụng cho đến tận cuối thế kỷ 19.
Trong giai đoạn thế kỷ 17 - thế kỷ 18, mặc dù đã có những bước phát triển,
đã xuất hiện những tư tưởng biện chứng nhất định trong quan niệm về vật chất,
song quan niệm đó ở các nhà triết học duy vật thời kỳ này về cơ bản vẫn mang tính
chất cơ giới, đó là khuynh hướng đồng nhất vật chất với nguyên tử hoặc với khối
lượng. Quan niệm này chịu ảnh hưởng khá mạnh bởi cơ học cổ điển của Newton,
một lĩnh vực của vật lý được coi là phát triển hoàn thiện nhất thời bấy giờ.
Cơ học cổ điển coi khối lượng của vật thể là đặc trưng cơ bản và bất biến của
vật chất; thế giới bao gồm những vật thể lớn nhỏ khác nhau, cái nhỏ nhất không thể
phân chia nhỏ hơn là các nguyên tử; đặc trưng cơ bản của mọi vật thể là khối
lượng; tính tất yếu khách quan trong hiện thực là tính tất yếu khách quan được thể
hiện qua các định luật cơ học của Newton; vật chất, vận động, không gian và thời
gian là những thực thể khác nhau cùng tồn tại chứ không có quan hệ ràng buộc nội
tại với nhau.
Karl Marx và Friedrich Engels đã kế thừa những giá trị tích cực đồng thời
vạch ra những hạn chế trong quan niệm về vật chất của các nhà duy vật trước đó,
đã tổng kết những thành tựu của khoa học tự nhiên, khái quát và hình thành nên
một quan niệm khoa học về phạm trù vật chất. Các ông nêu lên sự đối lập giữa vật
chất với ý thức, về tính thống nhất vật chất của thế giới, về tính khái quát của phạm
trù vật chất và sự tồn tại của vật chất dưới các dạng cụ thể
Marx và Engels phê phán quan điểm đem quy vật chất về nguyên tử về
những hạt nhỏ đồng nhất hoàn toàn giống nhau về "chất" và chỉ khác nhau về
"lượng", đó là những quan niệm mang tính siêu hình và cơ giới. Qua đó các ông
nêu lên tính vô hạn và vô tận, tính không thể sáng tạo và không thể tiêu diệt được
của vật chất cũng như các hình thức tồn tại của nó tức là vận động, không gian và

thời gian...


Engels nhấn mạnh rằng cần phân biệt các dạng tồn tại khách quan của vật
chất và khái niệm về vật chất. Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học không
có tồn tại cảm tính.
Ở đây cần phân biệt quan niệm vật chất với tư cách là một phạm trù triết học
với quan niệm của vật lý học và các khoa học khác về vật chất. Điều này giúp
chúng ta nhận thức và hiểu đúng vật chất dưới dạng xã hội, ví dụ trong lịch sử xã
hội loài người thì quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là có tính vật chất mặc dù
nó không được cấu tạo nên từ bất kỳ một nguyên tử hay phân tử vật chất nào.
Phạm trù vật chất xuất hiện ngay từ khi triết học mới ra đời trong thời kỳ cổ
đại, dưới chế độ chiếm hữu nô lệ. Tuy nhiên nội dung của phạm trù này không phải
là bất biến mà luôn luôn biến đổi và phát triển.
Vật chất (theo Lê nin) là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của con người
chép lại, chụp lại, phản ánh và nó tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Ý nghĩa
Định nghĩa ngắn gọn nhưng giải đáp đầy đủ hai mặt của vấn đề cơ bản của
triết học trên lập trường duy vật biện chứng, chống lại tất cả các quan điểm sai lầm
về vật chất, về mối quan hê giữa vật chất và ý thức của Chủ nghĩa duy tâm, chống
thuyết bất khả tri và thuyết hòa nghị, khắc phục tính máy móc, siêu hình trong quan
niệm về vật chất của Chủ nghĩa duy vật trước Mác;
Định nghĩa nêu lên tính khái quát phổ biến rất cao của phạm trù vật chất, nó
bao gồm tất cả những gì tồn tại khách quan;
Định nghĩa giúp chúng ta tìm được yếu tố vật chất trong lĩnh vực xã hội đó là
tồn tại xã hội
Định nghĩa vạch ra cho khoa học con đường vô tâm đi sâu nghiên cứu Thế
giới, tìm ra phương pháp cải tạo Thế giới ngày càng có hiệu quả.
Ví dụ:

Hỡi Cô tát nước bên đường,
Sao Cô múc Ánh trăng vàng đổ đi.
Ánh trăng vàng là Vật chất, vì:
Nhìn thấy (được đem lại cho con người trong cảm giác);
Nhớ lại và tả lại cho người khác (được cảm giác của con người chép lại,
chụp lại, phản ánh);
Nó vẫn tồn tại dù không có Cô tát nước hay bất kỳ ai (nó tồn tại không lệ
thuộc vào cảm giác).
Mối quan hệ giữa Vật chất và Ý thức


Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học. Phạm trù
vật chất và mối liên hệ giữa vật chất và ý thức đã được các nhà triết học trước Mác
quan tâm với nhiều quan điểm khác nhau và luôn diển ra cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trong suốt lịch sử của triết học.
Quan điểm Mácxit cho rằng chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế
giới vật chất. Thế giới vật chất tồn tại khách quan có trước và độc lập với ý thức
con người.
Lênin – người đã bảo vệ và phát triển Triết học Mác đã nêu ra định nghĩa về
Vật chất. Định nghĩa này thể hiện mấy nội dung sau:
Vật chất là một phạm trù triết học: Đó là một phạm trù rộng và khái quát
nhất, không thể hiểu theo nghĩa hẹp như các khái niệm vật chất thường dùng trong
các lĩnh vực khoa học cụ thể hoặc đời sống hàng ngày.
Thuộc tính cơ bản nhất của vật chất là "thực tại khách quan", "tồn tại không
lệ thuộc vào cảm giác", đó cũng chính là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất
và cái gì không phải là vật chất.
Thực tại khách quan đem lại cho con người trong cảm giác "tồn tại không lệ
thuộc vào cảm giác". Điều đó khẳng định "thực tại khách quan" (vật chất) là cái có
trước (tính thứ nhất). Còn "cảm giác", (ý thức) là cái có sau (tính thứ hai). Vật chất
tồn tại không lệ thuộc vào ý thức.

"Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm
giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh". Điều đó nói lên "thực tại khách
quan" (vật chất) được biểu hiện thông qua các dạng cụ thể bằng "cảm giác" (ý thức)
con người có thể nhận thức được. Và "thực tại khách quan" (vật chất) chính là
nguồn gốc nội dung của "cảm giác" (ý thức).
Khẳng định thế giới thực chất khách quan là vô cùng, vô tận luôn vận động
và phát triển không ngừng, nên đã có tác động cổ vũ, động viên các nhà khoa học
đi nghiên cứu thế giới vật chất, tìm ra những kết cấu mới, những thuộc tính mới và
những qui luật hoạt động của vật chất để làm phong phú thêm kho tàng vật chất của
nhân loại.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định ý thức của con người là sản phẩm
của quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử xã hội. Chủ nghĩa duy vật biên chứng
cho ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não người thông qua hoạt
động thực tiễn, nên bản chất ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan,
là sự phản ánh sáng tạo thế giới vật chất.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Điều đó có nghĩa là nội
dung của ý thức là do thế giới khách quan qui định, nhưng ý thức là hình ảnh chủ
quan, là hình ảnh tinh thần chứ không phải là hình ảnh vật lý, vật chất như chủ
nghĩa duy vật bình thường quan niệm.


Khi nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, củng có nghĩa
là ý thức là sự phản ánh tự giác, sáng tạo thế giới.
Tính năng động sáng tạo của ý thức thể hiện ở việc con người thu nhận thông
tin, cải biến thông tin trên cơ sở cái đã có, ý thức sẽ tạo ra tri thức mới về vật chất.
Ý thức có thể tiên đoán, tiên liệu tương lai, có thể tạo ra những ảo tưởng, những
huyền thoại, những giả thiết khoa học. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan.
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người, song đây
là sự phản ánh đặc biệt – phản ánh trong quá trình con người cải tạo thế giới. Quá

trình ấy diển ra ở 3 mặt: sự trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh,
mô hình hoá đối tượng trong tư duy hình ảnh tinh thần và chuyển vào mô hình hoá
từ tư duy ra hiện thực khách quan hay gọi là hiện thực hoá mô hình tư duy - đây là
giai đoạn cải tạo hiện thực khách quan. Chủ nghĩa duy vật biện chứng còn cho rằng
ý thức không phải là hiện tượng tự nhiên thuần tuý mà còn gọi là hiện tượng xã hội
ý thức bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử xã hội, phản ánh những quan hệ xã hội khách
quan. Đây chính là bản chất xã hội của ý thức.
Quan điểm Mác xit cho rằng vật chất quyết định ý thức, ý thức là sản phẩm
của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc của con người. Bộ óc con người cùng
với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc – đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của
ý thức là lao động và thực tiễn của xã hội.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thể hiện mấy quan điểm sau:
Vật chất quyết định ý thức, vật chất quyết định nội dung ý thức. Cả ý thức
thông thường và ý thức lý luận đều bắt nguồn từ điều kiện tự nhiên và xã hội nhất
định. Những ước mơ phong tục, tập quán, thói quen nầy nẩy sinh trên những điều
kiện vật chất nhất định đó là thực tiễn xã hội – lịch sử. Chủ nghĩa xã hội khoa học
cũng dựa trên mảnh đất hiện thực là những tiền đề về kinh tế chính trị xã hội, về
khoa học tự nhiên và sự kế thừa tinh hoa tư tưởng, văn hoá nhân loại cùng với thiên
tài của Các Mác và Ăngghen.
Do thực tại khách quan luôn luôn biến động vận động nên nhận thức của nó
cũng luôn luôn biến đổi theo, nhưng xét đến cùng thì vật chất bao giờ củng quyết
định ý thức. Nhưng ý thức đã ra đời thì nó có tác động lại vật chất. Với tính độc lập
tương đối của mình ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiển
của con người.
Sự tác động trở lại theo hai hướng thúc đẩy hoặc kìm hãm thậm chí phá hoại
sự phát triển bình thường của sự vật.
Vai trò của ý thức là ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động của con người, hình thành
mục tiêu, kế hoạch, ý chí biện pháp hoạt động của từng người. Cho nên trong điều
kiện khách quan nhất định ý thức – tư tưởng trở thành nhân tố quan trọng có tác



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×