Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

SKKN đổi mới phương pháp dạy học để gây hứng thú học tập cho học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.95 KB, 14 trang )

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐÊ
I. Lí do chọn đề tài
Xuất phát từ mục tiêu chung “Nâng cao tính chủ động, phát huy tính tích
cực, tư duy của học sinh”. Môn Mỹ Thuật ở trường THCS góp phần thực hiện
mục tiêu trên đó là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ , thể
chất, thẩm mỹ và kỹ năng cơ bản để hình thành nhân cách con người, hiểu được
cuộc sống và luôn biết vươn đến cái: Chân - Thiện - Mỹ.
Phần lớn, tầng lớp trí thức là tất cả mọi đối tượng, mọi tầng lớp trong xã
hôôi. Mỗi lứa tuổi lại có những cách cảm nhâôn, suy nghĩ và lí giải về cái đẹp khác
nhau. Người lớn có cách cảm nhâôn logic, còn trẻ em thì có cái nhìn vô tư, trong
sáng. Chúng ta biết rằng: Mỹ Thuâôt là môôt trong những môn học đăôc thù, giữ vai
trò quan trọng trong giáo dục thẩm mỹ ở trường phổ thông hiêôn nay. Đó là môn
học về cái đẹp, khơi dâôy tư duy sáng tạo trong tâm hồn trong sáng, thơ ngây và
đáng yêu của lứa tuổi thiếu nhi. Dạy nghêô thuâôt nói chung và dạy Mỹ Thuâôt nói
riêng, không phải là đưa ra môôt công thức cứng nhắc để làm, để vẽ mà điều cốt
lỏi quan trọng là lối tư duy, tạo điều kiêôn cho sự phát triển tưởng tượng, khả
năng sáng tạo của trẻ em.
Nhu cầu thẩm mỹ ngày càng cao cùng với sự phát triển của kinh tế xã hôôi,
cho nên viêôc nhìn nhâôn và thưởng thức cái đẹp của đại bôô phâôn nhân dân là
vấn đề tất yếu khách quan, không chỉ là đối với người sáng, nhìn sự vâôt qua
lăng kính màu hồng, không vướng những nguyên tắc, trăn trở mà tâôp trung tình
cảm, sự yêu thích của mình vào mỗi bài vẽ.
Đồng thời, đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hôôi. Những năm qua, Đảng và
Nhà nước ta luôn quan tâm đến sự phát triển của giáo dục, đăôc biêôt là chất
lượng của nó, cùng với sự phát triển ngày càng cao của con người về đức dục,
trí dục, thể dục thì mỹ dục cũng không ngừng phát triển và dần có vai trò quan
trọng trong đời sống của mỗi con người và nhất là thế hêô trẻ.
Dạy – học Mĩ Thuật ở trường THCS không phải nhằm đào tạo họa sĩ hay
người làm nghêô thuâôt mà nhằm giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho các em. Chủ yếu
tạo điều kiêôn cho các em tiếp xúc, làm quen và thưởng thức cái đẹp, tâôp tạo ra
cái đẹp, vâôn dụng cái đẹp vào trong cuôôc sống hàng ngày. Nhưng học sinh




muốn có những cảm nhâôn, những cái nhìn đúng không lêôch lạc thì cần truyền
đạt vốn kiến thức bổ ích.
Đối với môn học Mĩ Thuâôt viêôc truyền thụ kiến thức là môôt công viêôc quan trọng.
Qua đây, học sinh hình thành kỹ năng cảm thụ thẩm mĩ và kỹ năng thực
hành.
Măôt khác, hiêôn nay phương pháp dạy học truyền thống “ đọc chép” thụ
đôông không đáp ứng được lối tư duy sáng tạo, năng đôông và tích cực của học
sinh. Có một câu nói rằng: “Dù đã dắt ngựa đến bờ sông cũng không thể bắt
nó uống nước được”. Vấn đề học tập của trẻ cũng vậy. Dù có bắt được chúng
ngồi ngay ngắn học tập nhưng nếu không thích thú, trẻ không thể học tốt được.
Chính vì vậy ngoài việc truyền đạt kiến thức cho học sinh của người thầy, chúng
tôi nghĩ rằng mình cần phải biết gây hứng thú học tập cho học sinh để tiết học
thực sự nhẹ nhàng, sinh động. Học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên,
không gượng ép.
Vậy làm sao để học sinh thêm hứng thú học tập bộ môn này nên tôi đã
nghiên cứu và làm đề tài: “ Đổi mới phương pháp dạy học để gây hứng thú
học tập cho học sinh”.
II. Thực trạng:
Trong thực tế giảng dạy cho thấy tình trạng học sinh tiếp thu kiến thức còn
thụ động.
- Thiếu sự nhiệt tình, tích cực trong các hoạt động
- Một vài học sinh có biểu hiện ỷ lại vào các bạn trong nhóm. Chưa mạnh
dạn bày tỏ quan điểm, ý kiến cá nhân.
- Hoạt động trò chơi chưa đưa vào nhiều trong các hoạt động giảng dạy.
- GV còn dạy theo lối mòn.
III. Đối tượng nghiên cứu:
- Đối tượng giảng dạy của chúng ta chính là học sinh THCS. Đây là lứa tuổi
học sinh chuyển tiếp từ giai đoạn vui chơi sang giai đoạn học tập, khả năng tri

giác của các em rất tốt, hứng thú ngày càng bộc lộ và phát triển rõ rệt. Đặc biệt
là hứng thú nhận thức, hứng thú tìm hiểu thế giới xung quanh, các em thể hiện
tính tò mò, ham hiểu biết. Tuy nhiên sự phát triển hứng thú học tập của học sinh


phụ thuộc trực tiếp vào việc tổ chức học tập cho học sinh của giáo viên.
IV.Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp phân tích.
+ Phương pháp điều tra.
+ Phương pháp quan sát.
+ Phương pháp đặt vấn đề và giao nhiệm vụ.
PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐÊ
I. CÁC CƠ SỞ LÀM ĐÊ TÀI
1.1.Cơ sở lí luận:
Thực hiện chương trình thay sách giáo khoa, thực hiện các công văn chỉ đạo
của ngành là phát huy tính tích cực học tập của học sinh để lĩnh hội kiến thức
đầy đủ và có hệ thống.
Thực hiện cuộc vận động hai không với 4 nội dung và các quyết định, nghị
quyết của ngành cũng như của Đảng, Nhà Nước.
1.2.Cơ sở thực tiễn:
Những quan niệm của mình về cách gây hứng thú của học sinh toàn diện
hơn đã đưa ra các khái niệm quan hệ giữa sự hứng thú học môn Mĩ Thuật với
sự phát triển nhân cách và sự tích cực học tập của học sinh.
Những năm gần đây hứng thú học tập đã được như là một động cơ có ý
nghĩa hoạt động của học sinh, chính việc nghiên cứu này làm sáng tỏa thêm sự
hứng thú của học sinh tự học nó cũng một là thuộc tính của nhân cách.
Ở trường THCS trong những năm gần đây một số giáo viên đã có nhiều
sáng kiến kinh nghiệm viết về nhiều chủ đề khác nhau, nhưng chưa đi sâu vào
việc tìm hiểu học sinh có hứng thú học ở bộ môn mình giảng dạy và cũng chính
vì điều này mà tôi chọn sáng kiến kinh nghiệm là tìm ra một số biện pháp gây

hứng thú học sinh học môn Mĩ Thuật.
Thực tế tuy môn Mỹ Thuật ra đời sớm nhưng mới đưa vào áp dụng, mà
học sinh đa số là con em của người dân sống ở vùng nông thôn miền núi, kinh tế
còn thiếu thốn khó khăn, đồ dùng học tập chưa đầy đủ và một số gia đình không
quan tâm đến việc học tập của con cái nên kết quả chưa cao. Một trong những
nguyên nhân làm cho học sinh học môn Mĩ Thuật chưa tốt là do phương pháp


dạy của giáo viên. Trên thực tế giáo viên nào biết cách hướng dẫn học sinh quan
sát thu thập chất liệu, biết phát huy tính sáng tạo khuyến khích học sinh vẽ đẹp
thì bài vẽ trở nên có cảm xúc. Ngược lại giáo viên nào hướng dẫn học sinh học
tập, bắt buộc học sinh làm theo khuôn mẫu của mình không đúng với cảm
xúc chính các em, các em sẽ thiếu tư duy sáng tạo vào trong cách vẽ, bài vẽ sẽ
trở nên khô khan, đơn điệu.
II. THỰC TRẠNG CỦA ĐÊ TÀI
2.1: Thuận lợi
+ Quan điểm nhận thức về môn Mĩ Thuật :
- Môn Mĩ Thuật là môn học nghệ thuật, thu hút rất nhiều học sinh,.
- Cho đến nay các trường đã có giáo viên dạy Mĩ Thuật, phong trào học Mĩ
Thuật ngày càng một sôi nổi, hầu hết các em học sinh hào hứng với môn học và
môn học đã được chú ý. Tất cả mọi người đã hiểu được đây là một môn học
nghệ thuật. Vì vậy không ít giáo viên và học sinh, các bậc phụ huynh luôn coi
trọng và đầu tư cho môn học. Qua đó các em thấy rằng Mĩ thuật là môn học bổ
ích, lý thú và tươi vui, có tính giáo dục đạo đức, thẩm mĩ cao và là môn học bổ
trợ tích cực cho các môn học khác. Vì thế các em đón nhận tiết học một cách
nhiệt tình và hào hứng.
+ Trang thiết bị dạy học :
- Để giảng dạy môn mĩ thuật trong chương trình đào tạo được thành công,
điều này phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố như : tài liệu, phương tiện, đồ dùng
trực quan, ...

- Có một số đồ dùng cần thiết cho việc giảng dạy Mĩ Thuật cho học sinh như:
bộ đồ dùng dạy học các phân môn từ lớp 6 đến lớp 9 sách tham khảo, một số
tranh ảnh về tượng, phù điêu, ...
+ Cơ sở vật chất :
Nhà trường quan tâm đầu tư công nghệ thông tin cho dạy học. Vì thế
góp phần thuận tiện cho việc dạy và học của giáo viên, học sinh. Học sinh lúc
nào cũng có đủ đồ dùng, không bị quên ở nhà.
2.2 . Khó khăn
+ Về nhận thức :


- Bên cạnh những thuận lợi như trên thì dạy và học môm Mĩ Thuật vẫn
còn gặp phải một số khó khăn :
- Do quan niệm của một số giáo viên, một số bậc phụ huynh ,sự thiếu
quan tâm mua sắm đồ dùng học tập cho học sinh, ... Điều đó ảnh hưởng trực
tiếp đến chất lượng học tập của giáo viên và học sinh gây cho học sinh cảm giác
chán nản, không tự tin làm bài. Trên thực tế điều tra tôi còn thấy có giáo viên
giảng dạy bộ môn về phương pháp sư phạm còn hạn chế, lời nói còn chưa hấp
dẫn, lôi cuốn học sinh, trình bày bảng còn vụng về, lúng túng,... dẫn đến học sinh
không lắng nghe, không tập trung tìm hiểu bài còn mơ hồ, không nắm được mục
tiêu của bài học. Điều đó khiến cho các em không thích thú với bài học, thể hiện
tác phẩm của mình qua loa, đại khái, vì thế không thấy được cái hay, cái đẹp và
vận dụng vào cuộc sống hàng ngày.
+ Trang thiết bị dạy học :
- Bên cạnh đó còn một số học sinh tỏ thái độ thờ ơ với môn học vì thực tế
đời sống dân trí còn nghèo, hầu hết là con em thuần nông nên điều kiện để phụ
huynh tập trung đầu tư cho học tập của các em còn hạn chế, điều đó ảnh hưởng
không nhỏ đến tinh thần học tập của các em.
- Ngoài ra điều kiện nhà trường còn thiếu thốn như : phòng học chức
năng, vật mẫu cho giáo viên và học sinh, phương tiện, đồ dùng trực quan, ... vì

thế ảnh hưởng lớn đến kết quả học tập và giảng dạy của giáo viên và học sinh.
.

Vì vậy, là một giáo viên luôn tâm huyết với nghề tôi luôn trăn trở làm như thế

nào để nâng cao chất lượng, đó chính là lý do tôi chọn đề tài này để nghiên cứu.
III: BIỆN PHÁP, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ THỰC HIỆN ĐÊ TÀI
3.1. Cơ sở xuất phát các giải pháp:
- Xuất phát từ mục tiêu giáo dục.
- Xuất phát từ lí luận dạy học: nhằm gây sự hứng thú của học sinh đối với môn
học Mĩ thuật của từng học sinh.
- Xuất phát từ tình hình học tập của học sinh trường THCS Nguyễn Bá Phát.
3.2.Các giải pháp chủ yếu:
- Trong những năm gần đây, giáo viên bộ môn Mĩ Thuật ở trường THCS đã


đủ vì thế việc hứng thú tự học, bài học là một việc rất cần thiết trong giờ học Mĩ
Thuật.
Nếu giáo viên gây hứng thú cho học sinh tốt thì sẽ gây cho học sinh đam mê
học tập của mình. Vì việc hứng thú nó đem đến tình huống có vấn đề, sau đó
học sinh sẽ quan tâm đến những vấn đề đó để giải quyết trong suốt quá trình
của tiết học, nên việc gây hứng thú tự cho học sinh học Mĩ Thuật sẽ được nâng
cao.
Nhà tâm lý học nổi tiếng người Mỹ Buruna nói : “Sự kích thích tốt nhất đối
với học tập là hứng thú đối với tài liệu học tập”.
Trong học tập hay bất kì công việc gì thì hứng thú là một thái độ rất quan
trọng, nó thúc đẩy tiến trình công việc hiệu quả hơn, năng suất và nhẹ nhàng
hơn.
Đã là hứng thú , nghĩa là hứng khởi và thích thú đối với môn học. Sự thích
thú đó có thể do hình thức “sướng tai vui mắt” hay những ý nghĩa thi vị của nó

trong đời sống. Những xúc cảm, thái độ chỉ có thể hình thành dưới sự dẫn dắt
của người thầy mà kết quả của nó là hệ quả của rất nhiều yếu tố như: cách tổ
chức tiến hành bài giảng, hình thức hoạt động, công cụ trực quan, phương tiện
dạy học, giọng nói và cả khả năng khuấy động lớp học như một MC của giáo
viên…
Tuy nhiên để có thể thực hiên, áp dụng nó vào bài dạy cụ thể thì trước hết
chúng ta phải hiểu được con đường để hình thành nên sự hứng thú. Thứ nhất
đó là sự hấp dẫn một cách tự phát không vì bất cứ lí do gì, trường hợp này trong
quá trình giảng dạy Mỹ Thuật chúng ta có bắt gặp nhưng không nhiều, có lẽ là vì
ngôn ngữ của Mỹ Thuật khá trừu tượng. Thứ hai đó là sự hấp dẫn về hình thức
khiến người ta say mê khám phá dẫn đến nhận thức về bản chất của sự vật, cái
này chúng ta thấy nhiều ở sinh viên các trường chuyên nghiệp. Thứ ba là từ chỗ
hiểu được ý nghĩa của đối tượng mà dẫn đến bị hấp dẫn lôi cuốn , đây là trường
hợp mà chúng ta bắt gặp nhiều nhất trong quá trình giảng dạy.
Song nói gì thì nói kĩ thuật và phương pháp giảng dạy mới đặc biệt quan
trọng. Trước đây , khi còn là sinh viên trong quá trình thực tập , chứng kiến một
số bài dạy của giáo viên và sinh viên, mặc dù có sự chuẩn bị khá đầy đủ nhưng


hiệu quả thì chưa phải là tốt nhất. Lí do là bởi các bạn không tìm cho mình một
phương pháp riêng để lý giải một vấn đề mà hầu hết tất cả đều na ná giống
nhau, một bài trình chiếu PowerPoint đẹp không có nghĩa là nó hiệu quả và gây
được hứng thú khi mà các bạn cứ liền tù tì một mạch từ slide này sang slide
khác và kết thúc bằng việc đưa giấy ra thực hành. Bởi với tôi mục đích của trình
chiếu là để hỗ trợ người giáo viên làm sáng tỏ vấn đề để đưa đến một kết luận
nào đấy, có những lúc các bạn phải dừng lại kết hợp với bảng để lí giải nó, mô
phỏng nó. Cũng như không phải các bạn cứ đưa một số bức tranh ra với một
loạt câu hỏi đại loại như: các bức tranh vẽ đề tài gì? Màu sắc ra sao? Bố cục
như thế nào?…và rồi đưa ra kết luận về đặc điểm của một trường phái nghệ
thuật nào đó. Có rất nhiều cách thức để chúng ta thực hiện , một câu hỏi mang

tính cách gợi mở của giáo viên thực tế sẽ khuấy động được tư duy của học sinh
và không khí của lớp học. Nói gợi mở nghĩa là nó sẽ mở ra nhiều câu trả lời
,nhiều ý kiến khác nhau, định hướng và sắp xếp lại đó là công việc của người
giáo viên.
Ví dụ 1: Dạy tiết 23 vẽ tranh đề tài “Ngày tết và mùa xuân”
- Giáo viên phải dẫn dắt vào bài mới ngay từ đầu tiết cũng làm tăng tính
hứng thú trong học tập của học sinh trong giờ học. Nếu dẫn dắt tốt thì sẽ gây
hứng thú học tập của học sinh, có thể cho học sinh hát một bài về ngày tết và
mùa xuân hoặc cho học sinh xem một đoạn clip về không khí ngày tết và mùa
xuân…Vì việc dẫn dắt vào bài nó đem đến tình huống có vấn đề sau đó học
sinh quan tâm đến những vấn đề đó để giải quyết trong suốt quá trình của tiết
học cũng như nhớ bài được lâu và được khắc sâu một cách có khoa học.
- Việc sử dụng đồ dùng dạy học một cách có hiệu quả cũng làm tăng hứng
thú của học sinh trong tiết học, đồ dùng phải đẹp, dễ nhìn, phù hợp với nội dung
bài học và tình hình địa phương. Đồ dùng có thể là tranh ảnh về đề tài hoặc
được trình chiếu trên máy chiếu đa năng để học sinh cảm nhận. Sau khi giới
thiệu bài xong giáo viên cho học sinh quan sát tranh về đề tài khác nhau và cho
học sinh tìm ra đề tài về ngày tết và mùa xuân thông qua hình thức thi đua giữa
các nhóm với nhau.
- Khi học sinh nhận biết tranh đúng đề tài giáo viên cho học sinh hoạt động


theo nhóm để học sinh nhận biết về nội dung cần vẽ, hình ảnh, màu sắc… Hoạt
động nhóm trong giờ học để phù hợp với từng đối tượng học sinh ta có thể phân
nhóm theo nhiều cách khác nhau, mỡi nhóm làm một nhiệm vụ phù hợp với
năng lực của mình. Ví dụ: Những học sinh nào có hứng thú học tập cao thì cho
nhóm ấy có nhiệm vụ tìm tòi, đòi hỏi độc lập, sáng tạo. Nhóm nào yếu thì có
nhiệm vụ làm mẫu … hoặc căn cứ vào trình độ nhận thức ,trình độ học lực có
thực của học sinh mà chung ta phân nhóm nhằm giúp học sinh tích cực học tập .
Dựa vào học lực để giáo viên phân cho học sinh nhưng nhiệm vụ tương ứng .

Tất cả những điều đó cũng gây được hứng thú của học sinh.
- Tở chức trò chơi để gây hứng thú cho học sinh bằng cách cho học sinh
tìm ra những hình ảnh cần vẽ về đề tài ngày tết và mùa xn nhóm nào tìm
được nhiều sẽ có phần thưởng. Trò chơi học tập là hình thức học tập thơng qua
trò chơi. Trò chơi học tập khơng chỉ nhằm vui chơi giải trí mà còn góp phần củng
cố tri thức, kỹ năng học tập cho học sinh. Việc sử dụng trò chơi học tập trong
q trình dạy học nhằm làm cho việc hình thành kiến thức và rèn luyện kỹ năng
của học sinh bớt đi vẻ khơ khan, tăng thêm phần sinh động hấp dẫn.
- Thực hành cũng cần tạo cho học sinh khơng khí thoải mái khơng gò ép học
sinh theo khn mẫu, các em có thể thoải mái thể hiện ý tưởng của mình.
Ví dụ 2: Để dạy bài “Tạo dáng và trang trí thời trang”, lơùp 9 đối
vơùi phân môn vẽ trang trí thì ta coù thể tự làm một bộ tranh vẽ caùc
maãu thời trang khaùc nhau, vơùi chất liệu phong phuù như:
+ Sử dụng nhiều chất liệu màu: màu nươùc, màu bột, saùp màu, chì
màu, màu sơn…
+ Ngoài tô màu ta coù thể sử dụng giấy màu để xeù daùn (những
mảng giấy màu thủ công hoặc những màu trên lòch, baùo…).
+ Dùng những sợi len, vải vơùi nhiều màu saéc khaùc nhau, sử dụng keo
kết dính chuùng lại thành maãu ao thời trang theo yù thích rồi dùng hoa
khô hoặc hoa nhựa trang trí thêm tạo sự hấp daãn hơn cho moãi
maãu áo thời trang.
+ Dùng những phế phẩm khaùc như giấy boùng nhựa vơùi nhiều màu
saéc khaùc nhau được caét nhỏ rồi trải đều trên maãu ao thời trang và


cũng dược kết nối bằng keo dính.
Tương tự như thế thì ta coù thể tìm nhiều loại phế phẩm khaùc để
tự làm đờ dùng dạy học cho những dạng bài như thế này để tạo được
sự kích thích, tò mò saùng tạo ở moãi học sinh. Và đặc biệt hơn là khi
tạo daùng maãu thời trang phải tạo theo 2 kiểu trang trí đoù là kiểu trang

trí đối xưùng và trang trí không đối xưùng. Vậy để tạo được 2 kiểu
daùng trên thì đòi hỏi học sinh phải biết caùch tạo nên giáo viên phải
vẽ minh hoạ trình tự caùc bươùc tạo daùng để học sinh deã vận dụng hơn
khi thực hành.
- Ngồi học nội dung ở sách giáo khoa học sinh còn phải đọc báo, xem phim
tư liệu lịch sử…
SGK mới còn tăng tranh ảnh minh hoạ cho bài học đặc biệt ở chương trình
lớp hình ảnh minh hoạ rất nhiều và giáo viên khai thác tranh ảnh đó cũng là cách
làm cho kiến thức bộ mơn thêm phong phú và qua tranh ở những phần nội dung
bài học, SGK mới còn nêu ra những câu hỏi nhỏ mang tính nâng cao sự hiểu
biết của học sinh. Học sinh muốn trả lời được câu hỏi này buộc phải đọc tồn bộ
nội dung trước đó mới có thể trả lời được. Giáo viên u cầu học sinh soạn bài
trước ở nhà từ những câu hỏi nhỏ như vậy và điều này làm cho học sinh nhớ lâu
và biết xâu ch̃i sự kiên.
- Ngun nhân của tình trạng học kém của học sinh có thể do giáo viên giảng
dạy khơng sát đối tượng, do học sinh khơng tự giác tích cực, sự chuẩn bị bài ở
nhà chưa tốt, đơi khi cũng do sự khiếm khuyết về trí tuệ và thể chất. Trong q
trình dạy học ở phương pháp mới thì học sinh phải chuẩn bị bài trước ở nhà
theo câu hỏi của giáo viên đưa ra hoặc đọc trước nội dung bài học, trong tiết học
giáo viên chủ yếu giải quyết những vấn đã nêu ra đờng thời đặc các tình huống
để học sinh thảo luận trả lời.
- Khi tiến hành dạy học theo hình thức hoạt động cả lớp thường là giáo viên
đưa ra vấn đề và đặt câu hỏi cho học sinh . Mục đích của việc đặt câu hỏi cho
học sinh về hiện tượng, sự kiện…câu hỏi đòi hỏi nhớ lại kiến thức cũ có liên
quan, đờng thời phải có những tình huống có vấn đề đòi hỏi mức độ nhận thức
cao hơn, tuy nhiên phải biết sắp xếp chúng từ dễ đến khó. Những câu hỏi dễ


giáo viên gọi những học sinh trung bình, yếu trả lời khơng nên để có em thụ
động.

Lập tiến trình khoa học xây dựng kiến thức:
Các nội dung cơ bản của tiến trình khoa học xây dựng kiến thức bao gờm:
kiến thức cần dạy.
3.3.Tổ chức triển khai và thực hiện:
Muốn tạo hứng thú cho học tập của học sinh qua việc đởi mới phương pháp
dạy học có hiệu quả thì giáo viên cần phải:
Naém vững đối tượng học sinh, tạo được nhu cầu học tập cho caùc
em.
Nắm vững chương trình ở các phân mơn, từng bài học cụ thể, từng đờ vật, mẫu
vật có trong bài và sự chuẩn bị. Trong giờ học giáo viên cần chú ý đến những
học sinh khơng có khả năng năng khiếu, khơng q nặng nề, thoải mái vì dạy Mĩ
Thuật là một nghệ thuật mà giáo viên dạy Mĩ Thuật cần phải nghệ thuật hơn.
3.4 Hiệu quả của SKKN
Trong q trình dạy học khi tơi đởi mới phương pháp dạy học thì học sinh có
hứng thú học tập hơn và qua q trình khảo sát đã đạt được kết quả có chuyển
biến rõ rệt:
Kết quả học kỳ I năm học 2011 – 2012:

Số tt

Khối

1
2

Khối 6
Khối 8

Kết quả khảo sát
Giỏi %

Khá %
40%
40%
30%
50%

Kết quả học kỳ II năm học 2011 – 2012:

Số tt

Khối

1
2

Khối 6
Khối 8

Kết quả khảo sát
Đạt
Chưa đạt
100%
/
100%
/

TB%
20%
20%



PHẦN III : KẾT LUẬN
1. Kết luận chung
Qua thực tế giảng dạy trong những năm qua tôi luôn xác định được mục tiêu
trong nhà trường THCS, đồng thời cũng hiểu sâu sắc được vai trò của môn Mĩ
thuật trong việc giáo dục học sinh phát hiện ra những mặt hạn chế và có một giải
pháp nâng cao hiệu quả của việc dạy và học môn Mĩ Thuật. Tôi thấy việc nắm
vững phương pháp và cách tổ chức cơ bản về môn Mĩ Thuật cũng như việc xây
dựng cho mình một cách tổ chức dạy học vững chắc còn có tìm ra những giải
pháp dạy học phù hợp của môn Mĩ Thuật sẽ có tác dụng và ý nghĩa rất quan
trọng trong hoạt động dạy và học, giúp cho giáo viên có một định hướng đúng
đắn, phù hợp một cách thức tổ chức giờ hợp lý giúp cho học sinh hứng thú tìm
hiểu, khám phá thế giới thẩm mĩ một cách say mê, hấp dẫn, góp phần giáo dục
nên những con người toàn diện hơn theo 4 mục đích : Đức - Trí - Thể - Mỹ. Nó
giúp học sinh hoàn thiện nhân cách có ý thức tu dưỡng, biết yêu thương, quý
trọng mọi người, biết hướng tới những tình cảm cao đẹp hơn, từ đó điều chỉnh
nên những con người mới với những nhân cách tốt.
- Muốn giảng dạy tốt môn học trước hết giáo viên phải hiểu được mục đích
yêu cầu của môn học từ đó tìm ra cho mình một định hướng giảng dạy đúng
đắn.
- Phải hiểu được đặc điểm tâm lý của trẻ, hiểu biết được mức độ cảm nhận
của học sinh về thế giới xung quanh thông qua các bài học.
- Luôn luôn tôn trọng gần gũi học sinh.
- Phải có tính kiên trì công tác giảng dạy, khéo léo động viên kịp thời đối với
các em.
- Áp dụng nhiều phương pháp trò chơi, phương pháp thích hợp, không áp đặt
đòi hỏi quá cao đối với học sinh để giúp các em yêu thích môn học và học tốt
hơn.
- Trong tiết học luôn tạo không khó vui vẻ thoải mái nhẹ nhàng, thu hút lòng
say mê của các em đối với tiết học, môn học.

- Việc quan trọng yêu cầu của mỗi tiết học là giáo viên phải chuẩn bị đầy đủ
đồ dùng trực quan, trực quan phải đẹp, hấp dẫn để học sinh quan sát.


- Sử dụng linh hoạt trong phối hợp các phương pháp dạy học thích hợp.
- Thường xuyên trao đổi để tìm ra phương pháp dạy học thích hợp.
- Ứng dụng thông tin, phần mềm của công nghệ thông tin vào môn Mĩ Thuật
như qua băng đĩa, ... có như vậy chất lượng học tập mới đạt hiệu quả cao.
Tôi mạnh dạn thực hiện giảng dạy trong những năm học tới. Vì thời gian có
hạn nên tôi mới tìm ra được một số giải pháp trên, nhưng tôi sẽ cố gắng hơn
nữa để tìm ra một số giải pháp tối ưu hơn, để đóng góp cho nền giáo dục Mĩ
Thuật của toàn ngành nói chung và trường THCS Nguyễn Bá Phát nói riêng.
Giúp học sinh phát triển toàn diện về “Đức - Trí - Thể - Mỹ”.
2. Kiến nghị :
Để cho việc dạy và học môn Mĩ Thuật được tốt hơn, tôi mong các cấp lãnh
đạo quan tâm hơn nữa đến việc giảng dạy bộ môn này, và tôi có một số kiến
nghị sau :
- Nhà trường cần có phòng học chức năng đầy đủ về cơ sở vật chất.
- Bộ GD& ĐT cần có một số đồ dùng dạy phân môn Mĩ Thuật cụ thể hơn,
nhiều hơn.
- Phụ huynh cần quan tâm đến con em mình nhiều hơn, sát thực hơn đối
với việc học Mĩ Thuật của các em, cụ thể là đồ dùng học tập.
- Giáo viên phải có lòng nhiệt tình, tâm huyết với chuyên môn. Phải thường
xuyên sưu tầm, học hỏi kinh nghiệm cũng như mạnh dạn áp dụng những
phương pháp mới.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi về việc áp đổi mới pháp dạy học
để gây hứng thú học tập cho hoc sinh mà tôi đã áp dụng thành công, tôi rất
mong được sự quan tâm đóng góp ý kiến của giáo viên hướng dẫn và các bạn
đồng nghiệp .
Hòa Liên , ngày 26 tháng 11 năm 2012

Người viết sáng kiến
Lê Thị Ánh Hồng


TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Một số vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học môn mĩ thuật THCS.
Tác giả: Đàm Luyện, Bạch Ngọc Diệp, Nguyễn Quốc Toản. Năm 2008.
- Thiết kế phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá.
Tác giả PGS –TS Đặng Thành Hưng.
- Mĩ thuật và phương pháp dạy học mĩ thuật ( phần 1)
Tác giả: trần Nguyên Bình, Võ Quốc Thạch, Nguyễn Thị Ngọc Bích.

MỤC LỤC
PHẦN I. ĐĂĂT VẤN ĐÊ:..............................................................................
1 Lí do chọn đề tài………………………………………………………………
2. Thực trạng …………………………………………………………………...
3. Đối tượng nghiên cứu…………………………………………………………
4. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………………
PHẦN II GIẢI QUYẾT VẤN ĐÊ……………………………………………….


I. Các Cơ sở lí luâôn:…………………………………………………………… .
1.1 Cơ sở lí luận…………………………………………………………………
1.2 Cơ sở thực tiễn……………………………………………………………….
II. Thực trạng của vấn đề:……………………………………………………….. .
2.1Thuâôn
lợi……………………………………………………………………… .
2.2 Khó khăn………………………………………………………………………
III. Biêôn pháp, giải pháp thực hiêôn……………………………………………….
3.1.Cơ sở xuất phát các giải pháp……………………………………………… ..

3.2. Các giải pháp…………………………………………………………………
3.3. Tổ chức và triển khai thực hiện……………………………………………. ..
3.4 Hiệu quả của SKKN………………………………………………………..
PHẦN III. KẾT LUÂĂN:…………………………………………………………
1. Kết luận chung………………………………………………………………..
2. Kiến nghị……………………………………………………………………..
PHẦN ĐÁNH GIÁ



×