Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Những tín hiệu đổi mới văn xuôi Việt Nam sau năm 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.33 KB, 32 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Trường Đại học Sư phạm Tp. HCM
Khoa Ngữ Văn


Đề tài:

Những tín hiệu đổi mới
của văn xuôi Việt Nam
sau năm 1975

GVHD: TS. Nguyễn Thành Thi
SVTH : Nhóm 3

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 10 năm 2012


DANH SÁCH NHÓM
1. Nguyễn Thị Thương
2. Nghuyễn Phương Hồng Đức
3. Từ Thị Mỹ Hạnh
4. Đoàn Thị Tuyết Trinh
5. Vũ thị Ngọc Mai
6. Nguyễn Hoài Phương
7. Đặng Ngọc Ngận

Trang 2


MỤC LỤC
Chương 1. Khái quát văn học Việt Nam………………………………………...3


1.1 Giai đoạn 1930-1945…………………………………………………….3
1.2 Giai đoạn 1945-1975……………………………………………………..6
1.3 Giai đoạn sau năm 1975………………………………………………….7
Chương 2. Những tín hiệu đổi mới của văn xuôi Việt Nam sau năm 1975…….7
2.1. Về đề tài…………………………………………………………………7
2.2. Về cốt truyện…………………………………………………………….8
2.3. Thể loại………………………………………………………………….9
2.4. Về ngôn ngữ…………………………………………………………....12
2.5. Về nhân vật………………………………………………………….…21
Chương 3. Tổng kết..…………………………………………………………….28
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………….31

Trang 3


Chương 1. Khái quát văn học Việt Nam
1.1 Giai đoạn 1930-1945
Bậc thang giá trị trong văn học đã có sự đổi ngôi: trong thời kỳ Trung Đại
thể loại thơ được ca tụng và có nhiều thành quả nhất nhưng vào thời Hiện Đại thì
thơ lại nhường chỗ cho văn xuôi đặc biệt là tiểu thuyết vì trong tiểu thuyết nhận vật
là trung tân, tính cách nhận vật được hình thành trong mối quan hệ cùa nó. Đó
chính là phản ánh cuộc sống.
Quá trình phát triển văn học trong 15 năm: có 2 bộ phận (bộ phận văn học vô
sản và bộ phận văn học tư sản, tiểu tư sản nằm trong phạm trù ý thức hệ tư sản).
Văn học giai đoạn này được phân làm 3 thời kỳ: thời kỳ 1930-1945 với phong trào
Xô Viết Nghệ Tĩnh và sự thoái trào XVNT; thời kỳ 1936-1039 với mặt trận dân
chủ Đông Dương và thời kỳ 1939-1945 đây là những năm Cách mạng Việt Nam
đang chuyển mình mạnh mẽ.
Thời kỳ 1930-1935
Mở đầu là sáng tác thơ văn gắn liền với cao trào Cách mạng 1930-1931 mà

đỉnh cao nhất là Xô Viết Ngệ Tĩnh. Bộ phận văn học tư sản, tiểu tư sản thời kỳ này
là văn học lãng mạn: Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn và thơ mới. Xu hướng văn học
phê phán có từ trước 1930 đến thời kỳ này phát triển hơn và xác định rõ ràng hơn
về phương pháp thể tài.
Thời kỳ 1936-1939
Văn học vô sản khắc họa thành công hình tượng người chiến sĩ cộng sản say
mê lí tưởng, mang một tinh thần nhân đạo mới mẻ. Với nhiều thể loại ra đời đặc
biệt là thể loại phóng sự, ký sự phát triển. Thơ ca Cách mạng phát triển. Một loạt
nhà thơ Cách mạng đã xuất hiện: Sóng Hồng, Lê Ðức Thọ, Xuân Thủy, Tố Hữu.
Văn học Cách mạng thời kỳ này đánh dấu một bước tiến triển mới mẻ của văn học
vô sản theo hướng hiện đại hóa. Văn học hiện thực phê phán phát triển mạnh mẽ và
đạt được nhiều thành tựu xuất sắc.Vấn đề nông dân, nông thôn được đặt ra trong
tác phẩm hiện thực phê phán như “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan,
Trang 4


“Vỡ đê “của Vũ Trọng Phụng, “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố. Vấn đề phong kiến thực
dân được nêu lên một cách gay gắt trong các tác phẩm hiện thực phê phán: “Số
đỏ”, “Giông tố” của Vũ Trọng Phụng, “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố... Tác phẩm hiện
thực phê phán không dừng lại ở truyện ngắn, phóng sự mà phát triển mạnh mẽ thể
tài tiểu thuyết. Ðây chính là một thành công lớn của văn học hiện thực phê phán
thời kì này. Văn học lãng mạn tư sản, tiểu tư sản vẫn tiếp tục phát triển, song nó
phân hóa theo các hướng khác nhau. Bên cạnh chủ đề cũ chống lễ giáo phong kiến
và đề cao hạnh phúc cá nhân, Tự lực văn đoàn còn nêu chủ đề mới: chủ trương cải
cách bộ mặt nông thôn và cải thiện đời sống cho nông dân “Gia đình” của Khái
Hưng, “Con đường sáng” của Hoàng Ðạo. Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đề cập tới
hình tượng người chiến sĩ “Ðoạn tuyệt”, “Ðôi bạn” của nhà văn Nhất Linh. Thơ
mới vẫn tiếp tục trên đà phát triển. Cái Tôi vẫn được khai thác đến phút chót. Thời
kì này, Xuân Diệu nổi lên như một hiện tượng văn học. Cái Tôi của các nhà thơ
mới càng đi sâu vào thế giới yêu đương thì càng cô đơn lạc lõng và càng sợ sệt

Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề (Nguyệt Cầm-Xuân Diệu).
Thời kỳ 1939-1945
Văn học vô sản rút vào bí mật nhưng vẫn phát triển mạnh mẽ. Thơ ca Cách
mạng trong tù và thơ ca Cách mạng ngoài nhà tù phát triển. Văn học vô sản nói
nhiều tới tương lai, một tương lai rực rỡ đang tiến gần. Thơ Tố Hữu trưởng thành
nhanh chóng như tập “Từ ấy”. Tập “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh cũng ra
đời trong thời kì này. Thời kì này thơ tuyên truyền kết hợp với thơ trữ tình Cách
mạng càng thấm thía, sâu sắc hơn. Hàng loạt bài chính luận của đồng chí Trường
Chinh xuất hiện trên các báo chí của Ðảng vào thời kì này cũng có nhiều giá trị văn
học. Văn học vô sản trong những năm tiền khởi nghĩa đã góp phần quan trọng vào
cuộc vận động Cách mạng của Ðảng, đập tan chế độ thuộc địa, giành thắng lợi
trong những ngày tháng 8 lịch sử. Văn học hiện thực phê phán có sự phân hóa: có
nhà văn không viết tiểu thuyết nữa chuyển sang khảo cứu dịch thuật như Ngô Tất
Tố. Một thế hệ nhà văn hiện thực mới ra đời: Nam Cao, Nguyễn Tuân, Mạnh Phú
Trang 5


Tư, Nguyễn Ðình Lạp, Bùi Hiển, ... Nhà văn hiện thực vẫn tiếp tục miêu tả cuộc
sống tăm tối của người nông dân “Chí Phèo”, “lão Hạc” của Nam Cao; “Sống nhờ”
của Mạnh Phú Tư. Cuộc sống bế tắc mòn mỏi của người trí thức tiểu tư sản cũng
được các nhà hiện thực đề cập một cách sâu sắc “Sống mòn”, “Ðời thừa”, “Trăng
sáng” của Nam Cao. Các nhà văn nêu lên mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp thống trị
với tầng lớp nhân dân lao động. Văn học lãng mạn: cái tôi bế tắc, cực đoan, có sự
phân hóa. Mang một tâm trạng, Nhất Linh, Khái Hưng đưa ra một chủ nghĩa vô
luân, đó là tác phẩm “Bướm trắng” của Nhất Linh và tác phẩm “Thanh đức” của
Khái Hưng. Thạch Lam miêu tả những sinh hoạt nâng lên thành nghệ thuật như
nghệ thuật ăn tết, Hà Nội 36 phố phường. Thời kì này Nguyễn Tuân là cây bút
tiêu biểu cho trào lưu lãng mạn tư sản, tiểu tư sản trong văn xuôi. Cái ngông
của Nguyễn Tuân xuất hiện, đó là một thứ ngông lịch lãm tài hoa. Ở Nguyễn Tuân
còn xuất hiện chủ nghĩa xê dịch, đó cũng là thứ xê dịch chân thành và những rung

cảm rất tinh tế.
Ta có thế rút ra những đặc điểm nổi bật của văn học thời kỳ này như sau:
Văn học có sự đổi mới rõ rệt theo khuynh hướng hiện đại hóa. Nó phá bỏ
hệ thống ước lệ của văn học cổ điển. Khuynh hướng hiện đại hóa đã chi phối
việc chọn lựa đề tài, chủ đề, việc xây dựng hình tượng, cốt truyện, thi pháp, việc
sử dụng các hình thức tu từ, mỹ từ và ngôn ngữ văn học nói chung. Văn học
được lái dần đúng hướng trên tinh thần dân tộc, khoa học, đại chúng... Văn
xuôi và tiểu thuyết được nâng lên địa vị quan trọng nhất trong đời sống văn học
và thật sự phát triển mạnh làm thay đổi diện mạo văn học. Xuất hiện công
chúng rộng rãi đông đảo. Công chúng có nhu cầu thẩm mỹ mới là một điều
kiện thúc đẩy văn học phát triển. Sự phát triển phong phú về thể loại: tiểu
thuyết, truyện ngắn, bút kí, phóng sự, kịch. Nhiều xu hướng, trào lưu văn học
phát triển mạnh. Tình hình đó đưa đến sự phát triển của ngành phê bình, lí luận
và nghiên cứu.

Trang 6


Văn học hình thành và phát triển với hai bộ phận phân biệt rõ rệt về ý
thức hệ: văn học tư sản, tiểu tư sản và văn học vô sản. Văn học Cách mạng vô
sản: tinh thần vững chắc và đoàn kết của tinh thần vô sản, của tính đảng cộng
sản. Ðặc điểm bao quát của văn học lãng mạn là tính chất phức tạp của nó. Văn
học hiện thực phê phán và tiếng nói của tầng lớp tiểu tư sản nghèo, các nhà văn
hiện thực có điều kiện gần gũi với đời sống nhân dân.

1.2 Giai đoạn 1945-1975
Văn học VN 1945-1975 chủ yếu vận động theo hướng Cách mạng hóa, gắn
bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước. Vì dân dộc ta phải kháng chiến
chống Pháp, Mỹ lại vừa xây dựng XHCN. Do đó, “Văn học nghệ thuật cũng là một
mặt trận”, nhà văn là chiến sỹ, tác phẩm là vũ khí chiến đấu. Nền văn học theo sát

nhiệm vụ của đất nước; bảo vệ đất nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước, xây dựng CNXH.
Nền văn học hướng về đại chúng. Đại chúng vừa là đối tượng phản ánh
vừa là đối tượng phục vụ của văn học. Nhà văn dùng ngôn ngữ của nhân dân, tìm
nguồn cảm hứng sáng tác từ nhân dân, hình thành quan niệm “ đất nước của nhân
dân”. Quan tâm đến đời sống của người lao động nghèo, bị áp bức trong xã hội cũ;
đúc kết, miêu tả được nhiều giá trị cao đẹp của nhân dân lao động với tính nhân dân
và nội dung nhân đạo mới.
Nền VH chủ yếu mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng
mạn.
* Khuynh hướng sử thi: Phản ánh những vấn đề cơ bản, có ý nghĩa sống
còn của đất nước, nêu cao chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng. Đề tài đề cập
đến những vấn đề trọng đại của dân tộc (kháng chiến chống Pháp, Mỹ, xây dựng
XHCN…). Nhân vật tiêu biểu cho lý tưởng chung của dân tộc, gắn bó với số phận
đất nước, có những phẩm chất tốt đẹp của dân tộc (yêu nước, căm thù giặc, sẵn
sàng hy sinh vì đất nước…), được khám phá chủ yếu trên phương diện trách nhiệm,

Trang 7


nghĩa vụ công dân. Giọng điệu ngợi ca, trang trọng, tráng lệ, hào hùng. Văn học
VN có tầm bao quát của lịch sử, dân tộc và thời đại.
* Cảm hứng lãng mạn: Nhiều tác phẩm ca ngợi chiến thắng, ca ngợi con
người Việt Nam, đề cao lý tưởng, luôn lạc quan tin tưởng vào tương lai tươi sáng.
Khẳng định văn phương diện lý tưởng của cuộc sống mới và vẻ đẹp của con người
mới. Do đó văn học VN giai đoạn này góp phần nâng đỡ con người vượt qua thử
thách, hướng tới ngày chiến thắng.

1.3 Giai đoạn sau năm 1975
Văn học VN sau 1975 vận động theo khuynh hướng dân chủ hóa, mang

tính nhân bản, nhân văn sâu sắc. Văn học VN sau 1975 có nhiều tìm tòi đổi mới
về nghệ thuật, đa dạng về đề tài, chủ đề, phong phú mới mẻ về thủ pháp nghệ thuật,
đề cao cá tính sáng tạo của nhà văn, đổi mới cách nhìn nhận con người và hiện
thực, khám phá con người trong mối quan hệ đa dạng và phức tạp. Văn học VN có
tính hướng nội, quan tâm đến số phận cá nhân trong những hoàn cảnh phức tạp, đời
thường.

Chương 2. Những tín hiệu đổi mới của văn xuôi Việt Nam sau
năm 1975
Như đã trình bày ở phần trước, văn học Việt Nam giai đoạn sau năm 1975,
đã có nhiều khởi sắc đáng ghi nhận, cụ thể văn xuôi Việt Nam lúc này đã mặc cho
nền văn học nước nhà một bộ y phục mới về màu sắc cũng như kết cấu. Những tín
hiệu đổi mới ấy, được thể hiện từ đề tài đến cốt truyện; từ nhân vật đến ngôn ngữ
và thể loại. v.v…

2.1. Về đề tài
Văn học thời kì này chuyển dần từ tư duy sử thi sang tư duy tiểu thuyết.
Cảm hứng sáng tạo chuyển từ ngợi ca, khẳng định đến chiêm nghiệm suy tư.
Thay vì cách nhìn rạch ròi thiện – ác, bạn – thù là cách nhìn đa chiều, phức hợp về
hiện thực và số phận con người. đề tài chiến tranh và Cách mạng, lịch sử và dân tộc
Trang 8


dần dần nhường chỗ cho đề tài thế sự và đời tư. Cảm hứng sự thật về hiện thực, con
người trở thành cảm hứng bao trùm trong cảm hứng sáng tạo của nhà văn.
Văn học thời kì này khai thác đề tài thế sự đời tư không chỉ bộc lộ những
nếm trải, suy tư, nghiền ngẫm mà còn phơi bày, phanh phui các sự vật, hiện tượng
để đi đến tận cùng cốt lõi của nó. Vấn đề con người, vấn đề cái riêng trở thành mối
quan tâm hàng đầu của người viết.
Nhà văn nhìn thẳng vào những “mảnh vỡ”, những bi kịch nhân sinh, mổ xẻ,

phơi bày nó bằng cái nhìn hiện thực, táo bạo. các đề tài truyền thống quen thuộc
hay hiện đại đều hướng tới số phận cá nhân, sự nhập cuộc của con người Thời xa
vắng1, Bến không chồng2, …

2.2. Về cốt truyện
Trong loại hình văn xuôi nghệ thuật, cốt truyện đóng vai trò quan trọng. Cốt
truyện là hệ thống sự kiện làm nòng cốt cho sự diễn biến các mối quan hệ và phát
triển của tính cách nhân vật. Trong cơ cấu nghệ thuật của tác phẩm cũng như những
yếu tố khác, cốt truyện đã trải qua những chặng đường khác nhau trong tiến trình
văn học. Nghiên cứu sự vận động của cốt truyện sẽ góp phần lí giải sự chuyển đổi
của văn học trong thời kì đổi mới. Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn lịch sử, trong
mỗi trào lưu, khuynh hướng, hoặc trong thi pháp sáng tao của nhà văn, vai trò của
cốt truyện trong văn học có những cách thể hiện khác nhau 3. Thực chất, trong tác
phẩm tự sự, cốt truyện là sợi dây liên kết các mối quan hệ của nhân vật, tổ chức,
sắp xếp các sự việc diễn ra trong đó, bộc lộ chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
1

Thời xa vắng là một tiểu thuyết tiêu biểu trong đời viết văn của nhà văn Lê Lựu. tác phẩm ôm chứa một dung lượng lớn chặng đường lịch sử 30
năm oai hùng của dân tộc, từ buổi lập nước đến lúc giải phóng toàn bộ đất nước, lịch sử được khái quát bằng tiểu thuyết thông qua số phận của
anh nông dân Giang Minh Sài: học giỏi, là niềm hy vọng, tự hào của cả gia đình và dòng họ.Nhưng cũng chính niềm tự hào đó cũng đã đặt lên vai
cậu bé Sài một thứ áp lực vô hình, lúc nào cũng phải học phải làm theo những điều mà mọi người xung quanh cho là "tốt nhất". Lấy vợ cũng phải
do cha mẹ chọn, ngủ với vợ cũng vì để tránh cái án kỷ luật làm ô nhục danh tiếng gia đình.... Là một người lính với vẻ ngoài thô mộc, khô khan
nhưng thục chất ben trong con người Sài lại là một người đang vùng vẫy với niềm khao khát được yêu, được sống với cảm xúc thực sự của
mình.Hơn nữa tác phẩm còn có nhiều tầng nhiều lớp với nhưng trăn trở rất đáng suy ngẫm của tác giả.
2
… Bị thương nặng sau một cuộc chiến, Nguyễn Vạn trở về làng Đông với tất cả thương yêu, nhung nhớ. Vai khoác ba-lô, ngực áo đính đầy huân
chương, từ trên đê Nguyễn Vạn phanh ngực nhìn về làng Đông. Nguyễn Vạn đã nghĩ, sự bình yên nằm chính ở nơi đây, nơi anh đã sẵn sàng đổ
máu để bảo vệ. Với ý nghĩ ấy, Nguyễn Vạn đã xông xáo, nhiệt tình với tất cả những công việc của làng xã. Nhưng, đối diện với Nguyễn Vạn là
những hủ tục lâu đời của dòng họ. Những hủ tục có thể “bóp nghẹt” cuộc đời một con người. Đối diện với Nguyễn Vạn là lề thói cũ mòn cả trăm
năm ở làng quê. Đối diện với Nguyễn Vạn còn là dư luận, là điều tiếng, là nếp sống cũ kỹ…

3
Chẳng hạn, trong một số tiểu thuyết trước đây, người ta có thể kể lại cốt truyện, chỉ chú ý đến cốt truyện mà ít để ý đến cách viết của nhà văn.
Theo các tiểu thuyết gia của trào lưu tiểu thuyết mới (Pháp) thì càng ngày vai trò của cốt truyện càng giảm: “Cái làm nên sức mạnh cho tiểu thuyết
gia chính là ở chỗ anh ta sáng tạo, anh ta hoàn toàn tự do sáng tạo, không có mô hình mẫu”.

Trang 9


Từ sau 1975, nhất là trong những năm đổi mới, thực tiễn văn học đã theo sự
chi phối chung của quy luật thời bình, nghiêng về thể tài thế sự, đời tư. Trong tác
phẩm văn học không phải cốt truyện nào cũng chứa đựng những tình huống gay
cấn với những xung đột gay gắt mà có những câu chuyện về những cái bình
thường, nhỏ nhặt, gây cảm giác như là không có chuyện. Chính những bước
ngoặt của trạng thái tâm linh, những xung đột cá nhân đã trở thành yếu tố thúc đẩy
sự hình thành cốt truyện. Văn học từ sau đổi mới đa dạng hơn trong nội dung phản
ánh, phong phú hơn trong hình thức diễn đạt, tự do hơn ở cách thức dựng truyện.
Bên cạnh những cốt truyện giàu kịch tính là những cốt truyện giàu tâm trạng. Có
những kết cấu cốt truyện rõ ràng, mạch lạc, có mở đầu, có kết thúc, cũng có những
tiểu thuyết cấu trúc lỏng lẻo, lắp ghép, kết thúc mở. Bên cạnh những Tác phẩm tuân
thủ cốt truyện truyền thống là những cốt truyện dựa trên thi pháp hiện đại. Cốt
truyện đã vận động thay đổi trong sự phát triển của thể loại4.
Cốt truyện các tác phẩm từ những năm đổi mới đến nay, một mặt vẫn kế
thừa và phát triển những đặc trưng của cốt truyện truyền thống, mặt khác đã tiếp
cận với tiểu thuyết hiện đại thế giới ở những nét tinh túy. Nghệ thuật đồng hiện, kĩ
thuật độc thoại nội tâm, dòng ý thức, lắp ghép, sử dụng huyền thoại, nghệ thuật
gián cách, đa giọng điệu là những vấn đề còn mới mẻ trong văn xuôi Việt Nam đã
được tiểu thuyết vận dụng, biến hóa một cách linh hoạt và uyển chuyển trên tinh
thần dân tộc hiện đại.

2.3. Thể loại

Trong chiến tranh, mọi quan hệ xã hội và con người dồn lại và thu hẹp vào
một quan hệ duy nhất: sống – chết. Người ta phải sống phi thường, phi thường có
thể là cao cả, nhưng phi thường cũng đồng thời là triệt tiêu đi bao quan hệ bình
thường mà vô cùng phong phú và phức tạp của con người, đẩy tất cả các quan hệ ấy
về phía sau. Văn học lúc bấy giờ là văn học sử thi đầy chất trữ tình Cách mạng, chủ
4

Chẳng hạn, về đoạn kết của tiểu thuyết, có mô hình kết thúc có hậu, các vấn đề được giải quyết một cách hoàn tất, trọn vẹn. Có đoạn kết với kiểu
kết thúc bỏ ngỏ, không hoàn kết. Tất cả các dạng thực trên đều nhằm phân tích, lí giải những vấn đề phức tạp và bí ẩn của con người, cuộc sống
đương đại.

Trang 10


yếu ca ngợi và động viên, cổ vũ cho chiến đấu. Thể loại chủ yếu là thể bút ký
ngắn gọn dễ viết, dễ đọc.
Đời sống trong hòa bình phức tạp hơn trong chiến tranh. Hòa bình tức là
trở lại đối mặt với cái bình thường hằng ngày, cái bình thường mà muôn thuở, tất
cả những nhiêu khê của cuộc sống bị che lấp trong chiến tranh bây giờ thức dậy,
vây quanh con người từng giờ ở khắp mọi nơi. Cần phải bỏ lối viết cũ, lối viết sử
thi trong chiến tranh bởi vì khi chưa có được lối viết mới, hình thức mới thì văn
học cũng chưa có nội dung mới nào cả.
Đến giữa những năm 80 của thế kỷ XX, báo Văn nghệ , tờ tuần báo chính
thức của Hội Nhà văn Việt Nam cho đăng truyện ngắn “Tướng về hưu” của
Nguyễn Huy Thiệp. Có thể nói, báo Văn nghệ đã mở đầu thời kỳ đổi mới bằng việc
cho đăng truyện ngắn này.
“Tướng về hưu” , bằng một lối viết lạnh lùng, sắc sảo, phơi bày một hiện
tượng chưa từng thấy trong văn học trước đó: sự hoang mang và bất lực của người
anh hùng trong chiến tranh trước thực trạng hỗn loạn của xã hội sau chiến tranh.
Tuy có nhiều ý kiến khác nhau về tác phẩm này nhưng có một điều quan trọng là

dù nói ra hay không nói ra, người cầm bút nào cũng nhận thấy: từ nay không thể
viết như trước được nữa5.
5

Trên báo Văn nghệ bấy giờ xuất hiện một loạt những phóng sự viết về thực trạng khác nhau trong xã hội, đặc biệt là về tình hình ở

nông thôn. Thể loại phóng sự từng có một thời kỳ phát triển sôi nổi trong văn học Việt Nam vào khoảng những năm 1930 – 1945, với các tác giả
tiêu biểu như Vũ Trọng Phụng, Tam Lang…Nhưng từ sau 1945 thì nó gần như không có. Phóng sự là thể loại trung gian giữa báo chí và văn học,
có ưu thế đặc biệt trong việc phơi bày, mổ xẻ, phanh phui những hiện thực xã hội phức tạp. Trong một nền văn học sử thi chủ yếu ca ngợi và động
viên cổ vũ như văn học trong chiến tranh, nó không có chỗ đứng. Nay văn học lại tìm đến với thể loại phóng sự bị bỏ quên từ lâu, đó là một điều
đúng đắn. Phóng sự cho phép nhà văn nhanh chóng tiếp cận hiện thực mới, qua đó mà nhà văn tìm tòi, trui rèn, tạo nên ngôn ngữ nghệ thuật mới
của mình. Một loạt phóng sự đăng trên báo Văn nghệ gây tiếng vang lớn: Lời khai của bị can, Người viết làm giàu…của Trần Huy Quang, Người
đàn bà quỳ của Lưu Loan, Tiếng kêu cứu của một vùng văn hóa của Võ Văn Trực, Đêm trắng của Hoàng Hữu Các…
Một thời gian sau xuất hiện một thời kỳ tiểu thuyết sôi nổi. Hàng chục, hàng trăm tiểu thuyết ra đời trong một vài tháng. (Đây cũng
được coi là một hiện tượng lạ vì sau phóng sự thường là truyện ngắn nhưng ở đây lại là tiểu thuyết. Tiểu thuyết lên ngôi trước truyện ngắn có lẽ vì
đây là những tiểu thuyết – phóng sự, một kiểu phóng sự kéo dài, thường dựa ngay vào những vụ việc xã hội có thật và còn nóng hổi, còn rất đậm
chất báo chí, thành phần hư cấu không nhiều và thường công khai nặng tính chính luận. Rõ ràng tiểu thuyết rộ lên lần này là sự tiếp tục của thể
loại phóng sự nay đã không còn đủ để chuyển tải những nội dung xã hội ngồn ngộn mà nhà văn muốn nhanh chóng đưa đến với người đọc. Một
trong những tác phẩm tiêu biểu mở đầu cho loại tiểu thuyết này là “ Cù lao Tràm” của Nguyễn Mạnh Tuấn, trong đó tác giả trực tiếp lên tiếng về
một vấn đề nóng bỏng đang được tranh cải trong việc quản lí nông nghiệp. Người viết dùng cuốn sách của mình để tham gia tích cực vào cuộc
tranh cãi đó. Thậm chí cuốn sách còn được nhiều địa phương mang ra làm chủ đề tranh cãi trong cuộc đấu tranh cho một phương thức quản lí mới
ở nông thôn.

Trang 11


Tiểu thuyết nở rộ và kéo dài khoảng năm đến sáu năm rồi nguội dần đi.
Tiểu thuyết vẫn ra nhiều nhưng ít được quan tâm, đến lúc này truyện ngắn mới rộ
lên. Nhiều truyện ngắn hay liên tiếp ra đời.
Truyện ngắn “được mùa” sau tiểu thuyết có thể được giải thích: kiểu

tiểu thuyết phơi bày và kể lể, “tố cáo” hiện thực không còn là đòi hỏi của người đọc
nữa. Người đọc đòi hỏi một điều khác hơn: người ta chờ ở nhà văn, qua những vận
động xã hội phức tạp đó, đưa đến cho người ta những tổng kết có tính chất nhân
văn sâu sắc và lâu dài. Mà việc đó thì kiểu tiểu thuyết phơi bày, kể lể này chưa làm
được. Có những truyện ngắn chỉ mười trang thôi mà sức nặng có vẻ còn hơn cả một
cuốn tiểu thuyết trường thiên. “Bước qua lời nguyền” của Tạ Duy Anh gói gọn
trong mười trang cả một cuộc đời, một kiếp người, mấy kiếp người vừa là tác giả,
vừa là nạn nhân của những bi kịch xã hội đằng đẵng một thời. Truyện ngắn “Khách
thương hồ” của Hào Vũ nhỏ đúng bằng bàn tay (dưới một nghìn từ) mà nén chặt cả
số phận hai con người quờ quạng đi tìm một chút hạnh phúc muộn mằn, cả hai đều
là nạn nhân ở hai phía của chiến tranh. Truyện ngắn của Phan Thị Vàn Anh thoạt
trông thường nhẹ nhàng thoang thoảng như một ngọn gió hay một cơn mưa nhẹ và
buồn, dễ nhầm với một thứ truyện ngắn học trò nhưng đọc kỹ lại nghe chất chứa
những xung đột có khi rất dữ dội, đặc biệt là xung đột thế hệ mà người ta cố tình
nén lại, như trong một vở “Kịch câm”( tên một truyện ngắn của PTVA).
Nổi bật hơn cả trong truyện ngắn là Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị
Hoài. Bằng nhạy cảm nghệ sĩ của mình, Nguyễn Huy Thiệp đã “nghe” được đòi hỏi
sâu kín mà ngày càng bức xúc tự soi lại mình của xã hội, và văn học của ông là văn
học thể hiện đòi hỏi đó, cố gắng tìm câu trả lời. Ông đưa văn học hiện đại Việt
Nam đến một bước chuyển rất quan trọng: một nền văn học có ý thức mạnh mẽ làm
chức năng là tấm gương tự soi mình của dân tộc và của con người. Cùng với
Nguyễn Huy Thiệp là cây bút truyện ngắn sắc sảo và quyêt liệt không kém là Phạm

Trang 12


Thi Hoài. Sự tự vấn ở nữ nhà văn này tập trung vào một đối tượng mà chị cho là
quan trọng nhất của xã hội và dân tộc: tầng lớp trí thức.
Rõ ràng trong các thể loại, truyện ngắn đã tiến được xa hơn cả.
Vài năm gần đây, xuất hiện một số hồi kí của các nhà văn mặc dù có phần

lặng lẽ nhưng thăng trầm. Từ sau chiến tranh đã có rất nhiều hồi kí, có thể gọi là
“hồi kí của các vị tướng”, kể lại chuyện chiến tranh của chính họ và đồng đội của
họ. Đôi khi những hồi kí này cung cấp được nhiều tư liệu lịch sử đáng quý mà
chính sử đã bỏ qua. Hồi kí của các nhà văn thì khác. Nhà văn là những người được
xã hội “giao cho” cái công việc thường xuyên tự soi lại mình của xã hội trên con
đường đi tới của nó. Cho nên khi nhà văn viết hồi kí thì đấy là xã hội tự nói lại về
chính mình. Rất đáng chú ý là hai tập hồi kí của Tô Hoài là “Cát bụi chân ai” và
“Chiều chiều”. Ngoài ra còn có hồi kí “Thượng đế thì cười” của Nguyễn Khải,
“Nhớ lại” của Đào Xuân Quý…

2.4. Về ngôn ngữ
2.4.1. Ngôn ngữ đời thường - gia tăng tính khẩu ngữ
Trong văn xuôi, bước đổi thay của ngôn ngữ lúc đầu gắn với nhu cầu “được
nói thật”. Sự cổ vũ của Đảng “nhìn thẳng và nói thật” cho phép nhiều tác phẩm
chống tiêu cực ra đời. Ngôn ngữ văn xuôi bắt đầu bớt đi vẻ trang trọng, ít du
dương, ít rào đón mà gần gũi với đời thường, chân thật trong giọng điệu, thô
nhám trong từ ngữ. Sự xuất hiện của Nguyễn Huy Thiệp như một hiện tượng “lạ”.
Ngoài khả năng biến ảo của một bút pháp đa dạng, đa tầng, tác giả này còn gây cú
sốc thực sự cho ngôn ngữ văn học. Lối nói “cộc lốc”, sắc bén và hàm súc, câu văn
ngắn gọn, dồn dập, hạn chế tối đa các liên từ, nén năng lượng làm rung chuyển lối
văn mực thước, trang trọng hoặc rào đón, đưa đẩy. Ngòi bút tác giả này như không
hề biết đến những gửi thưa kiểu cách, những nghi thức nhiều khi rất nhiều khách
sáo, mặc nhiên khẳng định tư thế bình đẳng, dân chủ giữa con người với con người.
lối văn đó phù hợp với cái hiện thực đời thường mà anh mô tả. Chẳng hạn, tác giả
tả đám cưới của anh chàng lái xe bò kết hôn với cô mẫu giáo con ông vụ phó: “đám
Trang 13


cưới ngoại ô lố lăng và khá dung tục. Ba ô tô. Thuốc lá đầu lọc nhưng gần cuối tiệc
hết sạch, phải thay bằng thuốc lá cuốn. Năm mươi mâm cỗ nhưng ế mười hai.

Chàng rể mặc com lê đen, cravát đỏ. Tôi phải cho mương cái cravát đẹp nhất trong
tủ áo. Nói là mượn nhưng chắc gì đòi được. Đầu tiệc là dàn nhạc sống chơi bài Ave
Maria. Một anh cùng hợp tác xã xe bò thằng Tuân nhảy lên đơn ca một bài khủng
khiếp…” [8, 22]
Cùng với Nguyễn Huy Thiệp và trong không khí dân chủ cởi mở của xã hội,
xuất hiện hàng loạt cây bút trẻ. Họ ít bị ràng buộc bởi những tín điều đạo đức, luân
lý, vừa tự tin vào mình, vừa nhiều hoài nghi đối với cuộc đời. Họ sử dụng văn
chương để bộc lộ “cái tôi” cá tính là chính, nên họ quan tâm hơn đến vấn đề “viết
như thế nào”. Phạm Thị Hoài quan niệm “viết như một phép ứng xử”. Và trong
quan niệm ấy, nhà văn nữ này chọn phép ứng xử: không tiếp tục thứ văn chương
“đặc sản dành riêng cho những người sành ăn” như văn chương Nguyễn Tuân mà
chọn hướng văn chương “gia tăng tính khoa học, tốc độ và khả năng biểu đạt tư
duy hình tượng của nó”. Có thể nói, chưa bao giờ văn chương gần với ngôn ngữ
sinh hoạt – thế sự đến thế. Chưa bao giờ những câu chửi thề, chửi tục, lối nói trần
trụi xuất hiện nhiều đến thế. Để chống lại lối văn chương nhiều tính hành chính khô
khan hoặc du dương thi vị nhưng ít cá tính, ngôn ngữ truyện ngắn dung nạp rất
nhiều khẩu ngữ, cố tính coi thường cú pháp, “nhại” lại mọi ngôn ngữ kiểu cách.
Chẳng hạn: “Man Nương, tôi gọi em như vậy những buổi chiều bốn mét nhân bốn
mét rưỡi nhân hai mét tám màu xanh lơ trong căn phòng trống rỗng tầng ba có hai
nhành xanh một thứ cây nào đó tôi không bao giờ biết tên” (Man Nương- Phạm Thị
Hoài). Hoặc: “Chức cách đây mấy hôm tthấy chạy xe vèo vèo ngoài ngã ba chở
một đứa con gái bé như cái kẹo, không ôm iếc gì cả nhưng nhìn thì biết ngay là bồ
bịch” (Hoa muộn- Phan Thị Vàng Anh); “Cái lão Khúng này thiết đếch gì! Sao với
chả trăng! Cho cái mặt trời ông cũng đếch thiết nữa là!...” (Phiên chợ Giát- Nguyễn
Minh Châu); “…thế đấy. Chó của tôi thì kém đếch gì một con beo? Này, anh còn
nhớ thượng tướng Th không? Cái ông già gàn dở nổi tiếng toàn quân về phong thái
Trang 14


“hiên ngang” ấy mà, đã gạ đổi con Tuýt lấy một cặp bẹc giê Sibêri đấy. Ồ xin lỗi!

Ngài hãy đổi cho tôi một cặp rồng thực sự, tôi cũng xin kiếu ngài thôi”(Con thú bị
ruồng bỏ- Nguyễn Dậu) v.v…

2.4.2. Ngôn ngữ tăng cường tính tốc độ, thông tin và triết luận
Nhu cầu gia tăng tính tốc độ và thông tin đặt ra như một đòi hỏi chính đáng
và tất yếu ở thời đại “bùng nổ thông tin”, thời đại của công nghệ kỹ thuật cao, liên
quan đến nhịp sống hiện đại, nhất là nhịp điệu của cơ chế thị trường.
Tính tốc độ thể hiện ở cách vào truyện nhanh, diễn đạt ngắn gọn, nén
thông tin. Ở phương diện ngôn ngữ, có thể nhận thấy việc sử dụng các “điển cố”
hiện đại như các thuật ngữ khoa học chuyên ngành, thậm chí cả tiếng nước ngoài
vào trong diễn đạt, chẳng hạn “chuỗi xoắn kép, đột biến, bức xạ nhiệt, đồ thị
hyperbol, the end of something v.v…những cụm từ này thay thế cho rất nhiều lời
diễn giải. Nhiều khi, một thứ ngôn từ ước lệ, “hàm súc” và nhiều ngụ ý bắt nguồn
từ sinh hoạt giao tiếp hiện đại, nếu được sử dụng đắc địa, nó vừa như một hình thức
phổ biến của khẩu ngữ Việt Nam, mang đậm dấu ấn lịch sử, tâm lý, vừa chuyển tải
được thông tin lớn. Thí dụ: “Bản nhạc đánh theo kiểu nội địa” (Chuyện thày AK.
Kẻ sĩ Hà Thành). “Nào hết cấm vận đến nơi, nào kinh tế thị trường quốc tế, nào
liên doanh thương mại thế mạnh” (Đất xóm chùa- Đoàn Lê); “Đảm bảo không có
chuyện Nguyễn Văn Mười Hai” (Vũ điệu của cái bô- Nguyễn Quang Thân)
Lượng thông tin đạt đến mức tối đa nằm ở một thứ ngôn ngữ đa nghĩa,
nhiều ngụ ý. Ngôn ngữ này là kết quả tất yếu của tính phức điệu, đa thanh trong tư
duy tiểu thuyết. Mặt khác, ngôn ngữ đa nghĩa cũng là sản phẩm của hứng thú triết
luận càng ngày càng nổi rõ trong văn xuôi. Văn Nguyễn Huy Thiệp đa nghĩa từ chi
tiết đến tổng thể, nhiều sức gợi liên tưởng ra bên ngoài tác phẩm. Cái “phức tạp”,
“nhiều tầng lớp” có được, một phần là nhờ ngôn ngữ đầy tính ẩn dụ, nhiều nghĩa,
cho phép người đọc phát huy cao độ sức liên tưởng và kinh nghiệm cá nhân vào
việc lĩnh hội nghệ thuật. Xin nêu một số ví dụ: lời Đặng Phú Lân nói với Nguyễn
Ánh về thanh bảo kiếm “Trước chúa công chỉ thấy đầu rơi dưới kiếm, bây giờ mới
Trang 15



nhìn rõ kiếm, thế là sắp thanh bình thịnh trị rồi đó” (Kiếm sắc); “Trời rất xanh.
Giữa trời có đám mây trắng trông hệt dáng điệu một nhà hiền triết. Thoắt cái, gió
xua mây đi, nhà hiền triết biến thành con chó xồm lớn”(Nguyễn Thị Lộ- Nguyễn
Huy Thiệp). Các tác giả có thiên hướng kiếm tìm ý nghĩa triết học nhân sinh qua
diễn tả đời sống cụ thể. Điều đó đem lại cho các tác phẩm ý vị triết lý và giá trị phổ
quát. Đáp ứng yêu cầu này, ngôn ngữ văn xuôi tất yếu sẽ bớt đi phần “kể”, phần
“tả” và tăng phần triết luận, khái quát, nhà văn khi ấy sẽ hiện diện qua ngôn ngữ
“trữ tình ngoại đề”. Ở Nguyễn Minh Châu, thường thấy như vậy: “Rồi thì cũng như
mọi người khác, tôi vẫn không thể đi trốn được số phận, tôi không thể đi trốn được
khỏi cuộc đời mình một khi mà tôi còn sống”, “chiến tranh làm người ta hư đi hơn
là làm người ta tốt lên”, “Nỗi đau mất mát trong lòng người đàn bà lắm khi chả
khác nắm cỏ trong dạ dày loài nhai lại..”(Cỏ lau). “Tôi đưa cháu Quỳnh về trước
đây. Ông cứ yên tâm. Thân thể cháu Quỳnh vẫn nguyên vẹn. Nhưng băng đạn mà
ông bắn vào lòng nhân ái, vào tình yêu thiên nhiên của cháu Quỳnh thì không thể
nào cứu chữa nổi” (Con thù bị ruồng bỏ - Nguyễn Dậu).
Cùng với hình thức đã có nhiều thay đổi, ngôn ngữ của truyện ngắn ngày
nay, linh hoạt, sinh động và giàu chất đời thường. Ba chục năm qua, nhìn lại
ngôn ngữ của truyện ngắn nói riêng, văn xuôi nói chung đã hiện diện qua “các cuộc
thí nghiệm”. Đã là thí nghiệm không tránh khỏi phiêu lưu. Tuy nhiên, “cùng với
thời gian và độ chín của các tài năng, ngôn ngữ của truyện ngắn đã và đang đạt đến
độ ngưng kết mới”.

2.4.3. Ngôn ngữ tiểu thuyết
2.4.3.1. Lớp ngôn ngữ quan phương, cổ kính
Tiểu thuyết lịch sử là những tác phẩm lấy các sự kiện, biến cố, nhân vật lịch
sử làm đề tài, cảm hứng sáng tạo. Đó là những sự việc, con người của một thời đã
qua, cách chúng ta hàng thế kỉ. Nhiệm vụ của nhà văn là phải phục dựng lại được
không khí của thời đại đó, phân biệt con người hôm qua với con người hôm nay.
Bởi vậy, lớp ngôn ngữ quan phương, cổ kính không thể thiếu trong bất cứ tiểu

Trang 16


thuyết lịch sử nào. Lớp ngôn ngữ này được sử dụng trong cả lời của nhân vật và
lời của người kể chuyện. Câu chuyện trong các tiểu thuyết lịch sử thường là về
một vương triều nào đó, gắn với những ông vua, bà hoàng cụ thể. Nghĩa là các sự
kiện và con người trong tiểu thuyết lịch sử hầu hết đều liên quan đến đời sống cung
đình. Vì vậy nên ngôn ngữ cung đình, quan phương được sử dụng với tần số lớn.
Mỗi nhân vật trong các tác phẩm đều gắn với một chức phận, một triều đại nhất
định. Người viết tiểu thuyết lịch sử phải giúp người đọc nhận biết được đặc điểm
ngôn ngữ, tâm lý của con người thời đại đó. Từ vua đến quan đều phải giao tiếp với
nhau bằng một thứ ngôn ngữ mang tính quy phạm, tương xứng với địa vị của mỗi
người6.
Viết về một thời quá khứ xa xưa của dân tộc, các tác giả tiểu thuyết lịch sử
sau 1975 đã tạo nên một không khí chân thực cho tác phẩm qua việc ghi lại các
mốc thời gian lịch sử. Các sự kiện lịch sử được được đánh dấu bằng những mốc
thời gian chính xác như: Năm Đinh Mùi, Mậu Thân, Kỉ Dậu, Canh Tuất, Mậu Thìn
(Hồ Quý Ly)7; Cách viết này, nhằm xác nhận tính chân thực của các sự việc, tạo ra
6

Dù là một ông già gần đất xa trời hay là một đứa trẻ lên ba đã lên ngôi vua đều xưng là “trẫm”, “ta” một cách rất trịnh trọng. Còn

những kẻ bề dưới khi xưng hô với bề trên đều phải xưng là thần, khi nói phải “xin”, “tâu” rất cung kính. Lối ăn nói quy phạm ấy ngấm cả vào
trong đời sống riêng tư nhất. Trần Thuận Tôn và Hồ Nguyên Trừng (tiểu thuyết Hồ Quý Ly) ngoài quan hệ vua tôi họ còn có quan hệ họ hàng
(Thuận Tôn là em rể của Nguyên Trừng), và là những người bạn rất thân. Thế nhưng trong cách xưng hô họ vẫn giữ trọn đạo vua tôi nghiêm ngặt.
Thuận Tôn nói với Nguyên Trừng: “Khanh vẫn đắm mình trong rượu ư?”. Nguyên Trừng đáp: “Hạ thần bất kính. Mong bệ hạ tha lỗi nhưng kẻ
tiểu thần này không thể không say được”. Thuận Tôn cười nhếch mép trả lời: “Cũng như ta chứ sao? Thật không thể không đi tu được” [5, tr.450].
Vua Thần Tông (kiếp sau của Từ Lộ) trong tiểu thuyết Giàn thiêu của Võ Thị Hảo khi gặp sư bà động Trầm đã có những linh cảm kì lạ: “Đôi mắt
ấy hắt cái ánh sáng kì lạ khiến ngài ngự rùng mình và trái tim như tụt rơi đâu mất. Một mùi da thịt thơm ngát như mùi sen chớm nở thoảng lên
khiến Thần Tông sững sờ” [4, tr.274], “Dáng vẻ lạ lẫm và cái mùi hương thoảng lên từ da thịt của người đàn bà luống tuổi đã tự giam mình trong

cửa Phật lâu ngày khiến ngài cứ thấy da diết nhớ. Đang đứng trước mặt bà mà lại nhớ. Dường như cái giấc mơ cố hữu đang trở lại” [4, tr. 275]. Dù
đang trong cảm giác đê mê với những rung cảm kì lạ nhưng khi nói với sư bà, Thần Tông vẫn giữ lối nói khuôn phép: “Càng nhiều bóng áo cà sa,
vương quốc của ta càng bớt những kẻ ác phạm. Ta đang mong bóng áo cà sa của nhà Phật nhuộm mọi hang cùng ngõ hẻm” [4, tr.282], “Sư bà…
không đựơc lộng ngôn mạn thượng” [4, tr.283], “Sư bà! Nên nhớ rằng, bà dẫu đã dâng mình cho Phật đạo, nhưng bà sống ngày nào thì vẫn ăn ở,
đi lại trên đất của Thiên tử. Nếu bà quá ngang ngược, ta sẽ không dung tha” [4, tr.289].
7

“Đinh Mùi tháng Chạp. Ngày ất Dậu, giờ Dần”, “Hội Tường, đại khánh năm thứ nhất”, “Mậu Thìn, Quảng Hựu năm thứ tư”, “Bính Thìn, Thiên
Chương Bảo Tự năm thứ tư”, “Nhâm Tý, Thái Nình năm thứ nhất”, “Thuận Thiên năm thứ hai”, “tháng 10 Mậu Ngọ, Thiệu Ninh năm thứ nhất’,
“Năm Hội Phong thứ 7″ (“Giàn thiêu”). Trong “Sông Côn mùa lũ” của Nguyễn Mộng Giác là: “Đầu năm Mậu Tý”, “Năm Tân Mão (1771)”,
“Tháng 3 năm Bính Thân (1776), Nhạc xưng vương”, “Tết Đinh Dậu (1777)”, “Từ tháng 4 đến tháng 6 năm Đinh Dậu (1777)”, “đầu năm Mậu
Tuất (1778)”, “Mùa đông năm Nhâm Dần (1782)”, “Tháng Giêng năm Quý Mão (1783)”, “Tháng 10 năm Giáp Tìn (1784)”, “Sáng 10 tháng 7
năm Bính Ngọ “, ” ngay sau khi nghe tin quân Thanh xâm lấn Bắc Hà, vua Quang Trung cấp tốc ra lệnh xuất quân ra Bắc ngày 25 tháng 11 năm
Mậu Thân (1788), ngày 29 ra đến Nghệ An”. Trong tiểu thuyết “Mẫu thượng ngàn ” của Nguyễn Xuân Khánh, các sự kiện cũng được đánh dấu
bằng các mốc thời gian cụ thể: tháng 5 năm 1883, năm 1858, tháng 7 năm 1861, năm 1873 (Quý Dậu), năm Nhâm Ngọ (1882)… Đây là cách viết
quen thuộc của sử biên niên.

Trang 17


sự tin tưởng cao độ nơi người đọc. Cách viết này còn giúp người đọc hình dung cụ
thể hiện thực của từng thời kỳ lịch sử. Qua các mốc thời gian sự kiện, từng hành
động, tâm lý của con người cũng hiện lên, phơi bày toàn bộ những sóng gió trong
đời sống triều chính ở một xã hội phong kiến phương Đông.
Ngôn ngữ quan phương, cổ kính còn được thể hiện trong hệ thống ngôn
ngữ mang màu sắc tôn giáo. Do đặc điểm lịch sử riêng, nhiều tôn giáo của nước
ngoài đã du nhập vào Việt Nam. Người Việt đã tiếp nhận các tôn giáo đó một cách
có chọn lọc, phù hợp với tâm lý, nếp sống của mình. Mỗi triều đại gắn với sự phát
triển của những tôn giáo, học thuyết nhất định. Bởi vậy, sử dụng hệ thống thuật ngữ
mang màu sắc tôn giáo cũng là một cách tái hiện lại không khí của thời đại đó.

Thời Lý ghi nhận sự phát triển của đạo Phật8.
8

Trong tiểu thuyết “Giàn thiêu”, nhà văn Võ Thị Hảo đã sử dụng đầy ắp ngôn ngữ Phật giáo. Nhiều chương trong tác phẩm được đặt

tên bằng những khái niệm nhà Phật: “Ngược thác oan” (chương VIII), “Niệm xứ” (chương XI), “Đoạ xứ” (chương XII), “Nghiệp chướng”
(chương XV), “Hành cước” (chương XVI), “Báo oán” (chương XVII), “Thiền sư” (chương XVIII), “Đầu thai” (chương XX), “Giải thoát”
(chương XXI) (9/25 chương). Tiểu thuyết mở đầu bằng lời của Phật nói với các tỳ kheo: “ơ các tỳ kheo! Nếu các người lại để mình mắc vào
thuyết ấy, nếu các người ưa thích nó, nếu các người mê luyến nó, gìn giữ nó như một kho bảo vật, nghĩa là các người bị ràng buộc vào nó, thì các
người đâu có hiểu rằng giáo lý của ta có khác nào là chiếc bè để đưa qua sông chứ không phải để buộc trói người vào đó ” [4, tr.17]. Khắp tác
phẩm văng vẳng những lời cầu kinh: “… An ta phạ bà pha, truật đà ta phạ, đạt ma ta phạ bà phà… ” [4, tr.20].
“Kính đức Đại bi Quang Thế Âm cho con mau lên thuyền Bát Nhã
Kính đức Đại bi Quang Thế Âm cho con sớm vượt qua bể
Kính đức Đại bi Quang Thế Âm cho con sớm lên cõi Niết Bàn
Kính đức Đại bi Quang Thế Âm cho con mau đến nhà vô vi …” [4, tr.22].
Các nhân vật trong truyện cũng thường nói với nhau bằng ngôn ngữ nhà Phật. Vị Thượng tọa nói với vua Thần Tông: “Mô Phật! Kẻ tu
hành này thật lấy làm nhục nhã thấy người đau mà không giúp… ” [4, tr.50]. Lời Từ Lộ khấn người cha bị chết oan: “Lạy cha… Kiếp này không
phải của con. Con chỉ sống đề trả oán này…! Xin trời cao đất dầy chứng giám” [4, tr.78]. Nhìn thấy sự sa đọa của Thần Tông (kiếp sau của Từ
Lộ), sư bà động Trầm (Nhuệ Anh) thốt lên đau đớn: “Trong khi ta chưa trả nợ xong kiếp này, thì chàng đã kịp trải hai kiếp để hành hạ, vò xé ta
bằng những nỗi đau khổ của chàng, bằng những bước đi thập thững và dại dột của chàng ” [4, tr.319]. Đạo Phật hướng con người tới lối sống
thoát tục, rũ bỏ những dục vọng tầm thường, sống từ bi hỉ xả. Những con người trong tác phẩm thấm nhuần triết lý nhân đạo của đạo Phật, sùng
bái đạo Phật nhưng ngọn lửa dục vọng vẫn rừng rực cháy trong họ. Những toan tính, tham vọng cá nhân đã khiến họ lún sâu vào tội ác. Họ tụng
kinh, niệm Phật như để che giấu những tội lỗi mà họ đã gây ra.
Tiểu thuyết “Hồ Quý Ly” của Nguyễn Xuân Khánh kể về giai đoạn lịch sử thế kỷ XIV – XV. Đó là thời kỳ cực thịnh của Nho học.
Nho giáo trở thành quốc giáo, chi phối trong từng lời nói, nếp nghĩ của con người. Trong những lời tấu trình, thậm chí cả khi trò chuyện các nhân
vật đều viện dẫn sách vở, kinh điển Nho gia. Trong hội thề Đồng Cổ, vua Nghệ Tôn nói với các cận thần: “Kẻ làm tôi bất trung thì thần linh tru
diệt” [5, tr.22]. Hồ Quý Ly nói với con trai “Người quân tử cũng phải biết chịu khuất thân, miễn chí lớn cuối cùng đạt được” [5, tr.54].
Tiểu thuyết “Sông Côn mùa lũ” của Nguyễn Mộng Giác viết về thời đại Tây Sơn. Đó là thời kỳ phong trào nông dân khởi nghĩa diễn
ra rầm rộ, Nho học bước vào buổi cuối mùa. Lớp ngôn ngữ cung đình, Nho – Phật do vậy chỉ còn rơi rớt nơi cung vua, phủ chúa điêu tàn, rệu rã
và trong lời những nhà nho thất thế.

Tiểu thuyết “Mẫu thượng ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh tái hiện lại bức tranh xã hội ViệtNam những năm cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX. Đó
là thời kì Thiên chúa giáo bắt đầu len lỏi vào đời sống tinh thần của người dân Việt Nam, trong khi Nho học tuy bước vào buổi cuối mùa nhưng
vẫn chưa lụi tắt, đạo Phật vẫn sống trong đức tin của người dân Việt. Trước sự xâm thực của Thiên chúa giáo với âm mưu đồng hoá về văn hoá
của thực dân Pháp, người dân Việt đã lựa chọn cho mình một cách ứng xử mềm dẻo. Họ tiếp nhận những phần tốt đẹp của các tôn giáo, đồng thời
vẫn thờ đạo riêng của mình: Đạo Mẫu, thờ Đất Mẹ thiêng liêng. ở thời buổi giao thoa giữa các tôn giáo ấy, ngôn ngữ cũng có điểm đặc biệt. Ngôn

Trang 18


Như vậy, lớp ngôn ngữ quan phương, cổ kính có vai trò rất quan trọng trong
các tiểu thuyết lịch sử. Lớp ngôn ngữ này mang lại hơi thở thời đại cho các tiểu
thuyết lịch sử, thuyết phục người đọc bằng những chứng cứ cụ thể, chi tiết. Đồng
thời nó còn là phương tiện khám phá đời sống bên trong của các vương triều và
trong tâm hồn con người.

2. 4.3.2. Lớp ngôn ngữ đời sống giản dị, nhiều màu sắc
Nếu như chỉ sử dụng lớp ngôn ngữ quan phương, cổ kính tiểu thuyết lịch sử
sau 1975 sẽ chẳng khác gì một cuốn sử biên niên, thuần tuý ghi chép, mô tả lại các
sự việc. Và như thế, mỗi cuốn tiểu thuyết lịch sử sẽ giống như một cuốn sách giáo
khoa lịch sử, chứa đầy những chi tiết khô khan, kinh viện. Người đọc chỉ thấy được
lớp vàng son bề ngoài của nó mà không hiểu hết được bản chất bên trong. Việc
đưa ngôn ngữ đời sống vào trong tác phẩm có thể xem là một hành động phá
cách, vượt chuẩn của các nhà văn viết về đề tài lịch sử sau 1975. Lớp ngôn ngữ
quan phương, cổ kính tạo cho người đọc niềm tin vào sự có thật của các chi tiết
được kể, còn lớp ngôn ngữ hiện đại, trần trụi lại giúp người đọc được sống trong
không khí thật của câu chuyện, cảm nhận được sự gần gũi, thân quen trong
từng lời kể, làm sống dậy “những xác chết biên niên sử”. Điều quan trọng hơn là,
với lớp ngôn ngữ này, người viết có điều kiện đi sâu khám phá thế giới tâm hồn sâu
kín, đầy ngõ ngách của con người. Toàn bộ bản chất của con người theo lời nói
được bộc lộ ra. Từ đây, những “nghi vấn” lịch sử cũng được giải thích một cách

thoả đáng, thuyết phục hơn9.
ngữ của cụ đồ Tiết, cụ cử Khiêm, phó bảng Vũ Duy Tân mang khẩu khí của những nhà Nho học. Cụ cử Khiêm nói với học trò: “Việc có thị có
phi. Muốn xét đoán việc, phải lấy tấm lòng son với xã tắc làm chuẩn mực. Cái gì trái với điều ấy thì không làm ” [6, tr.285]. Với những người
theo đạo Thiên chúa, lời nói của họ luôn hướng đến Chúa như tìm đến sức mạnh, niềm tin. Phần lớn người dân Việt thờ đạo riêng của mình – Đạo
Mẫu tạo nên thứ ngôn ngữ riêng bao phủ khắp tác phẩm. Người già kể cho con trẻ nghe, con trẻ lại truyền cho nhau những câu chuyện về “Thánh
Mẫu”, “giá Mẫu”, “ốp đồng”, “cô hầu”, “hát chầu văn”… Mặc dù cùng lúc tiếp nhận nhiều tôn giáo nhưng người Việt đã nhận ra và hành xử theo
những điều tốt đẹp mà các tôn giáo mang lại. Ngôn ngữ của người dân chủ yếu là ngôn ngữ khuyến thiện. Cha Colombert nói với bà Vũ Thị Ngát:
“Đạo thánh hiền cũng có những điều giống như đạo của Chúa. Ví dụ đạo Khổng dạy con người nhân nghĩa, còn đạo Thiên chúa thì lấy tình
thương yêu con người làm căn bản… ” [6, tr.302]. Bà Tổ cô tâm sự với cô Mùi: “Đạo nào cũng thế cả thôi. Đạo Giêsu cũng như đạo Mẫu. Tất cả
đều chỉ là khuyến thiện” [6, tr.696]. Lớp ngôn ngữ tôn giáo này đã cho ta thấy bức tranh văn hoá nhiều màu sắc của Việt trong buổi giao thời. Và
điều quan trọng hơn hệ thống ngôn ngữ này còn cho thấy cách ứng xử thông minh của người Việt trước nguy cơ bị đồng hoá về văn hoá để có thể
đứng vững, trường tồn.
9

Trong tiểu thuyết “Sông Côn mùa lũ”, lớp ngôn ngữ đời thường chiếm tuyệt đối. Các nhân vật chính trong tác phẩm đều xuất phát từ
tầng lớp thường dân áo vải. Nguyễn Nhạc trước khi trở thành vua Thái Đức đã phải xoay sở đủ nghề, từ khai khẩn đất hoang, buôn nguồn đến làm
chức đốc thuế để nuôi em và tạo dựng sự nghiệp. Vua Quang Trung trước đó cũng chỉ là một trí thức bình dân. Bởi vậy, cách nói năng của họ rất

Trang 19


Lớp ngôn ngữ đời sống giản dị, sinh động ngày càng chiếm ưu thế trong tiểu
thuyết lịch sử sau 1975. Lớp ngôn ngữ này đã rút ngắn khoảng cách sử thi, giúp
người đọc khám phá lịch sử ở bề sâu, bề xa của nó. Lịch sử không còn là vật để thờ
cúng mà chính là cuộc sống sinh động, tươi nguyên.

2.4.4. Lớp ngôn ngữ mang màu sắc triết luận

tự nhiên, thoải mái, thậm chí suồng sã, không khác gì dân thường. Vua Thái Đức khi nói chuyện với Ngọc Hân – công chúa của nhà Lê, phu nhân
của Nguyễn Huệ, đã dùng những từ ngữ rất thân mật như những người trong gia đình thường dân nói với nhau: “Thím cầm chân được chú Tám

nhà này là giỏi rồi, là trở thành ân nhân của ta rồi. Chỉ trông cái bộ bẽn lẽn của chú ta cũng biết ngựa hoang đã bị đóng cương rồi đấy!” [2]. Thế
nhưng, khi giận dữ, toàn bộ bản chất của một gã buôn nguồn nhiều mánh lới trong Nguyễn Nhạc lại tuôn qua từng lời nói.
Khi giận Nguyễn Huệ đã tự ý kéo quân ra Bắc, ông chửi mắng bằng những lời thậm tệ: “Bầy “ngựa non háu đá” mê đường trường
không chịu về chuồng. Các người đoán đúng lắm. Mỗi đứa bịa ra một cớ để ở lì ngoài đó. Toàn là một lũ vong ân bội nghĩa” [2], “Cút đi. Về bảo
cái bọn sai tụi mày vào đây là ta đã xé tờ biểu như vậy đó. Quân vô ơn bội nghĩa. Nếu không có ta gầy dựng thì cả lũ bây giờ quá lắm là những tên
buôn trầu, những thằng mót củi, làm thuê chứ đâu được ngồi sập vàng ăn mâm bạc ” [2]. Nguyễn Huệ là người điềm tĩnh, quyết đoán, từ khi mới
lớn lên đã được học chữ nghĩa nho gia với thầy giáo Hiến. Bởi vậy lời nói của ông bao giờ cũng đĩnh đạc, nghiêm túc. Ngay cả khi nói những lời
bông đùa, hóm hỉnh, lời nói của ông cũng không có sắc thái cợt nhã thái quá: “Vì dẹp loạn mà ra, rồi lấy vợ mà về, trẻ con nó cười cho thí sao?
Nhưng ta mới chỉ quen gái Nam hà, chưa biết con gái Bắc hà. Nay cũng nên thử xem một chuyến xem có tốt không?” [2]. Khi đứng trước An –
người con gái mình yêu, chưa bao giờ Huệ dám nói chuyện tự nhiên với cô. Khác với Huệ, Lợi là người ít học, nhưng bao nhiêu năm theo biện
Nhạc đi buôn nguồn khiến Lợi trở thành một kẻ lanh lợi, ranh mãnh. Lợi biết cách nói chuyện để vừa lòng mọi người. Chính ưu điểm này của anh
ta đã khiến An nhiều lúc phải phân vân lựa chọn giữa Huệ và Lợi. Tác phẩm thành công ở mạch truyện thế sự. Nhiều nhân vật không có trong sử
sách như An, Lãng, ông giáo Hiến… cũng trở thành những nhân vật chính của truyện. Tiếng nói của những con người đời thường này làm cho câu
chuyện càng gần gũi, thân quen với người đọc thế hệ sau.
Trong tiểu thuyết “Hồ Quý Ly”, khoảng cách sử thi của sự kiện lịch sử và nhân vật đã được thu hẹp nhờ lớp ngôn ngữ đời thường tự
nhiên, sống động. Hồ Quý Ly là một kẻ quyền biến, cả gan, dám nghĩ dám làm. Trong những lời tranh luận về chính sự, thời cuộc, ông luôn bộc lộ
cá tính ngang tàng, bướng bỉnh, quyết đoán. Khi giận dữ ông dùng cả những lời nói báng bổ: ” Chu Hi là cái đếch gì! Trình Di cũng là cái đếch gì!
Thuần một lũ ăn cắp văn mà thôi…” [5, tr.732]. Khi đối thoại với con, ông trở thành một người cha gần gũi, hiền lành. Ông nói với con bằng
những lời thân mật, dịu dàng: “Anh Trừng! Đã đến lúc cha phải vào Tây Đô” [5, tr.669], “Anh Trừng đấy hả? Cha biết là anh sẽ đến.” [5, tr.828].
Những lúc một mình quỳ dưới bàn thờ của công chúa Huy Ninh, Hồ Quý Ly lại trở thành một con người khác: cô đơn, trầm lắng đến tội nghiệp.
Lời người kể chuyện đan cài trong lời nhân vật làm cho hiện tại, quá khứ đan quện vào nhau càng làm rõ cái phần yếu đuối trong con người tưởng
như chỉ biết có âm mưu, toan tính: “Sự dịu hiền của bà ám vào trong không gian, trên cái gối, cái chăn luôn luôn thơm tho mời đón, trên mâm cơm
giản dị ngon lành tự tay bà nấu. Có bận ông ốm, bà nấu cho ông bát canh sâm cầm nóng. Ông chậm rãi nhai những mẩu hành như nhai những đốm
hoa màu ngà xanh bơi trong thứ nước sóng sánh… Ông nhai chậm rãi. Ô kìa! Sao lại thế? Hành mà có vị thơm đến thế ư? Lần đầu tiên trong đời
ông cảm nhận được hương thơm của một nhánh hành hoa. Có lẽ cuộc sống chính trường vội vã, hối hả và bạo liệt đã làm cho tất cả giác quan của
ông bị thui chột… Và chỉ có bàn tay người đàn bà mới có thể làm thức dậy những cảm xúc tinh tế mà con người đã đánh mất…” [5, tr.569]. Bên
cạnh đó, tác phẩm còn có nhiều đoạn văn được diễn tả bằng những từ ngữ hiện đại: “Chúng tôi nói với nhau bằng cách nói nửa lời như vậy, nhưng
tôi cảm thấy hình như chúng tôi đã hiểu nhau. Cho đến lúc chúng tôi giao hoà cùng nhau thì tôi đã hoàn toàn hiểu nàng. Nàng nói với tôi ư?
Không. Nàng chẳng nói. Nhưng im lặng đã nói. Khi một người nam và một người nữ đã hoàn toàn hiểu nhau thì đó là một sự thái hoà” [5].
Với tiểu thuyết “Giàn thiêu”, nhà văn Võ Thị Hảo đã đặt cái tốt – cái xấu ở những thái cực đối lập nhau. Ngôn ngữ diễn đạt theo đó

cũng được đẩy tới những giới hạn của nó. Những trang viết về tình yêu, về cái đẹp được tạo nên bởi ngôn ngữ bóng bẩy, giàu chất thơ. Cảm giác
về tình yêu đam mê, đắm đuối được diễn tả bằng ngôn ngữ hiện đại, bay bổng: “Những giọt mưa dội xuống thân thể lúc này lại dịu dàng êm ái,
mỗi giọt mưa chạm xuống như mang theo một hơi thở nồng nàn sưởi ấm cơ thể nàng. Những ngón tay Nhuệ Anh níu chặt bên vai Từ. Nàng run
rẩy áp cặp môi trinh nữ lên vòng ngực trần nóng hổi trong mưa của chàng. Cái mùi đàn ông lạ lẫm, đắng ngắt, ngầy ngậy, bạo liệt như đá rừng rực
toả hơi nóng dưới ánh mặt trời pha lẫn hơi mưa tươi tắn và tinh khiết khiến nàng ngây ngất chợt như lả đi, chợt như lạc vào cõi phiêu bồng” [4,
tr.211]. Khi trong lòng chất chứa mỗi hận thù, những dục vọng, ngôn ngữ trở nên sắc nhọn, trần trụi. Lãnh cung, nơi ghi dấu tội ác man rợ do con

Trang 20


Tác phẩm văn học suy cho cùng là “nơi kí thác, nơi khẳng định quan điểm
nhân sinh, lý tưởng thẩm mỹ” [3, tr.196] của nhà văn. Lấy đề tài lịch sử làm cảm
hứng sáng tạo các nhà văn sau 1975 không chỉ dừng lại ở việc minh hoạ lại bức
tranh lịch sử dân tộc như các nhà viết sử đã làm. Họ muốn mượn lịch sử làm
phương tiện chuyển tải những quan điểm của mình về quá khứ và hiện tại. Điều
này đã tạo ra hình thức ngôn ngữ mang màu sắc triết luận cho tác phẩm. Lớp
ngôn ngữ này chủ yếu xuất hiện trong lời đối thoại và độc thoại nội tâm của nhân
vật10.
người tham muốn quyền lực và lòng đố kị gây ra được miêu tả đầy rùng rợn: “ở dưới đáy hầm mộ là một đàn chuột hăm he cắn nát chân tay mặt
mũi nàng vừa nãy. Khi tiếng thì thào vừa dứt, những bộ xương cẳng tay cẳng chân, đầu lâu từ từ dựng dậy nối nhau chuyển động xếp lại trật tự
răm rắp thành hình người. Từ miệng của những con chuột đang ngủ, một dòng da thịt chảy ra, chắp vào những bộ xương đó. Có bẩy mươi bẩy bộ
xương”. [4, tr.229].
Tiểu thuyết “Mẫu thượng ngàn” không còn kiểu ngôn ngữ cổ kính, quy phạm. Toàn bộ tác phẩm là thứ ngôn ngữ tự nhiên như lời nói hàng ngày.
Cách nói của phương Tây du nhập và được lớp trẻ sử dụng: “Toa về đã lâu chưa? Sao chẳng đến nhà mình? Moa tưởng toa còn lâu mới về?” [6,
tr.454].
10

Nhân vật Nguyễn Huệ trong “Sông Côn mùa lũ” thường có những cuộc đối thoại thẳng thắn với thầy giáo Hiến để tìm ra chân lý.

Là học trò của ông giáo nhưng Huệ là một chàng trai trẻ mang đầy những khát vọng lớn lao. Anh thường đặt ra cho thầy những câu hỏi hóc búa

như: “thế nào mới là người nghĩa hiệp?”, “thế nào là đói?”… Qua những lần trao đổi ấy đã bộc lộ những suy ngẫm của Nguyễn Huệ về cuộc đời,
con người và ước mơ làm nên những cái mới tốt đẹp hơn cuộc sống trong nhãn quan của thầy Hiến. Tác phẩm có nhiều đoạn ghi lại những cảm
nhận sâu sắc về chiến tranh. Phụ nữ là người có cảm nhận rõ nhất về sự mất mát do chiến tranh gây ra. Trong khi những người lính rộn rã, vui
mừng chuẩn bị cho những cuộc tấn công mới thì những người đàn bà lại âm thầm đau khổ bởi họ sắp phải tiễn chồng, tiễn con đi đến chỗ chết. Có
lẽ chỉ những ng-ười mang nặng đẻ đau mới cảm nhận hết nỗi đau này: “Em không phải là đàn bà, không mang nặng đẻ đau nên không thể hiểu
được tấm lòng của người mẹ. Khổ sở nuôi con khôn lớn, rồi sắm sửa quần áo, gạo thóc, đưa nó đi, đi đâu? Đưa đến chỗ hòn tên mũi đạn để chết.
Bao nhiêu công phu đổ xuống sông xuống biển, không đau đớn sao được!…Tự nhiên xông ra đâm chém nhau, để ruộng nương lại cho đàn bà cày
cấy, tưới mồ hôi kiếm cơm nuôi lũ nhỏ lớn lên để tiễn chúng ra trận chuyến sau, chuyến sau nữa …” [2].
Chiến tranh bao giờ cũng khốc liệt và gây ám ảnh nhất đối với con người. Ngay cả với những cuộc chiến giương cao ngọn cờ chính
nghĩa, để giải phóng loài người, người dân luôn phải chịu đau khổ, phải hy sinh những người chồng, người con vô cùng yêu dấu của mình. Lẽ ra
những ng-ười như An, Thọ Hương sẽ được sống thanh thản, yên ổn nhưng thời cuộc đã khiến họ long đong, khốn khổ. Thọ Hương, người con gái
yêu của Nguyễn Nhạc cũng bị sử dụng như một con bài trong ván bài chính trị của vua cha. Người cha lạnh lùng ép gả cô cho hoàng tôn Dương
để nhằm trấn an lòng dân. Cô gái 18 tuổi bất đắc dĩ phải trở thành vợ của một kẻ cô chưa hề quen biết. Cô phải sống bên một người chồng hờ,
mang tiếng là đàn bà mà chưa một lần được làm đàn bà. Chưa đầy 20 tuổi, hoàng tôn bỏ đi, cô trở thành người đàn bà goá bụa. Thọ Hương chua
chát tự nhận mình “Em chẳng khác nào viên đá lót đường cho người ta dẫm lên trên. Thân em bị chà đạp, đau xót, lấm láp mà không ai thương
xót…” [2]. Đó dường như đã là định mệnh chung của những người phụ nữ trong thời chiến. Tác phẩm còn thể hiện những quan niệm riêng về lịch
sử thông qua những từ ngữ giàu hình ảnh. Người viết sử không chỉ ghi lại những điều quan trọng, những biến cố to lớn trong lịch sử bởi “Lọc bỏ
không thương tiếc các xúc động riêng tư, sổ toẹt những chuyện bên lề, chỉ giữ lại cái sườn biên niên của lịch sử, làm như vậy có khác nào lóc bỏ
hết da thịt để lịch sử chỉ còn là một mớ xương xẩu ghê tởm đủ mùi tanh hôi cuốn lũ ruồi nhặng và làm cái cớ cho bọn bán thịt chuyên nghiệp vênh
váo” [2].
Nhiều nhân vật trong tiểu thuyết “Hồ Quý Ly” thường sống trong dòng độc thoại nội tâm. Đó chính là lúc họ đối diện với chính mình, bày tỏ
những suy nghĩ thật của mình về cuộc đời và con người. Nhân vật Hồ Nguyên Trừng cảm nhận cung đình là nơi đầy phức tạp và bất ổn: “Điều
quan trọng mà tôi nhận ra ở cái sân khấu quyền quý, hoa lệ này, đó là sự giành giật, sự vật lộn không khoan nhượng, nó thường hằng rộng khắp,
một nụ cười, một vái chào, một khoé mắt cũng phải coi chừng” [5, tr.58]. Ngoài ra nhà văn còn sử dụng nhiều câu hỏi tự vấn vừa để nhân vật tự
phơi bày dòng ý thức của mình, vừa tạo điều kiện cho người đọc tự suy ngẫm, kiến giải: “Mâu thuẫn đến thế, sự giằng xé đến thế vậy mà ông lại
muốn ra đi một cách nhẹ nhàng sao? Ông muốn mặc đồ lụa vàng; lụa dù nhẹ nhưng cất sao nổi gánh nặng trong lòng ông. Trong tâm tưởng, chợt
nghe một tiếng ai đó thét lên : “Ngươi làm đổ cơ nghiệp nhà Trần” “Không!” “Chẳng phải tại tôi. Đó là vận nước!” “Tội lỗi do người quá nhân
từ.”"Sách chẳng nói chữ nhân là cái đức đầu tiên của ông vua sáng đó sao?” [5, tr.169].

Trang 21



Lớp ngôn ngữ triết luận trong các tiểu thuyết lịch sử sau 1975 không phải là
những lời giảng giải khô cứng, khuôn mẫu. Lớp ngôn ngữ này được nhà văn sử
dụng thông qua những từ ngữ giàu tính hình tượng và kết hợp nhiều hình thức linh
hoạt như: đối thoại, độc thoại, câu hỏi nghi vấn… làm cho cảm hứng triết luận
được bộc lộ một cách tự nhiên, hấp dẫn. Lớp ngôn ngữ mang màu sắc triết luận đã
giúp người viết có thể bộc lộ một cách kín đáo những suy ngẫm của mình về các
vấn đề của quá khứ và hiện tại. Đồng thời lớp ngôn ngữ này cũng tạo ra những
khoảng trống để người đọc cùng suy ngẫm, lý giải các vấn đề.
Sự kết hợp đa dạng các hình thức ngôn ngữ đã đem lại sự khởi sắc cho tiểu
thuyết lịch sử sau 1975. Sự đổi mới trong ngôn ngữ tiểu thuyết lịch sử sau 1975 gắn
với nhu cầu dân chủ hoá về ngôn ngữ, về nghệ thuật, nhu cầu bình đẳng, khách
quan với lịch sử. Sự đổi mới này cho thấy các nhà văn sau 1975 đã không ngừng
bứt phá làm mới mình, mạnh dạn thể nghiệm những hướng đi mới. Ban đầu đã có
nhiều ý kiến không thống nhất về sự thay đổi táo báo này. Nhưng thời gian đã
chứng minh những thể nghiệm trong ngôn ngữ tiểu thuyết lịch sử sau 1975 là
những nỗ lực đáng trân trọng của người viết và hứa hẹn nhiều thành công.

2.5. Về nhân vật
Nhân vật là yếu tố hàng đầu của tác phẩm văn học. Nhân vật văn học là sự
thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người. Nhân vật là phương tiện
khái quát hiện thực của nhà văn.
Trong thời kì chiến tranh và Cách mạng, thì việc văn học nhìn con người chủ
yếu ở tư cách con người cộng đồng, con người dân tộc, giai cấp là phù hợp và cần
thiết. Nhưng cũng vì thế mà các bình diện khác, những tư cách khác của con người
bị văn học bỏ qua, hoặc nếu có quan tâm thì cũng phải được nhìn theo hệ quy chiếu
của cộng đồng. Văn xuôi hiện nay tiếp nhận con người ở nhiều tư cách, vị thế và
trên nhiều bình diện, nó đặc biệt quan tâm đến con người như một cá thể, một thực
thể sống, trong đó chứa đựng cái phần nhân loại phổ quát.


Trang 22


Vượt ra khỏi cái nhìn con người quy tụ vào phương diện con người xã hội
giai cấp, văn xuôi sau 1975 mở ra một bình diện khác: con người như một thực
thể tự nhiên, con người trong tính cá thể đơn nhất, và trong tính nhân loại phổ
quát, trong xu hướng này phần bản năng tự nhiên của con người mà trước đây
văn học thường bỏ qua, vì xem là tầm thường, thấp kém thì nay được quan tâm
đặc biệt thậm chí là cốt lõi. Điều đó phù hợp với sự thức tỉnh ý thức cá nhân và
tinh thần nhân bản, như là động lực và nền tảng tư tưởng của sự đổi mới văn
học.
Văn xuôi cũng mở ra khám phá con người ở nhiều tầng bậc: con người ý
thức, tư tưởng, con người trong chiều sâu của tiềm thức tâm linh. Như các nhân
vật Kiên trong “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, nhân vật họa sĩ trong “Bức
tranh” của Nguyễn Minh Châu11,…
Trước đây, nền văn học Cách mạng thường xây dựng mẫu người làm chủ
hoàn cảnh, có khả năng khắc phục mọi trở ngại trên con đường đi tới mục đích lí
tưởng, thực chất là những con người duy ý chí. Con người bị chi phối nghiệt ngã
của hoàn cảnh đến tính cách và số phận con người. Con người có sức mạnh tinh
thần và bản năng nhưng cũng yếu đuối bất lực đáng thương. Đó là sự hạ thấp hay
hoài nghi về con người một biểu hiện tư tưởng nhân bản.
Từ sự thay đổi quan niệm về con người dẫn đến sự thay đổi trong thế giới
nhân vật. Nhân vật cũng mở ra sự phong phú đa dạng hơn, đó là con người cô đơn,
nhân vật bi kịch, nhân vật lạc thời, nhân vật kì ảo. Nhân vật này không bị lệ thuộc
11

Nhân vật trong “Bức tranh” của Nguyễn Minh Châu, nhà văn đặt nhân vật hướng nội đó là soi rọi vào thế giới bên trong của họ để

làm bật lên vấn đề. Đây là kiểu nhân vật tự thú anh họa sĩ phải đối diện với chính mình để tự nhận thức và phê phán “tại sao tôi không giữ lời hứa”

chính anh đã hứa thật hung hồn thạt chân thành cơ mà vậy mà do thói ích kỉ của mình anh đã thất hứa và sau khi gặp lại người lính làm thợ cắt tóc
anh đến để tự thú để nộp mạng nhưng anh thợ cắt tóc lại đó xử với anh như một người khách bình thường mặc dù người lính nhận ra. Điều đó làm
cho anh họa sĩ càng cắn rứt lương tâm buộc phải tự thú.
Hay trong “Bến quê” Nguyễn Minh Châu cũng đặt nhân vật của mình vào tâm thế đó. Nhân vật Nhĩ, anh từng đi khắp nơi trên mọi
miền tổ quốc vậy mà khi về cuối đời bị cột chặt trên giường bệnh không thể dịch chuyển được anh nằm và nhìn ra cửa sổ bên kia bãi bồi nơi vùng
đất thân quen mà anh chưa từng đặt chân đến . Anh bén nhờ đứa con trai đi qua bên kia nhưng đứa con trai lại không hiểu ý anh mãi chơi để lỡ
chuyến đò duy nhất trong ngày. Và cuối đời anh mới chiêm nghiêm ra rằng những cái gì xung quanh mình mà mình không biết quý trọng đến khi
rời khỏi cuộc đời rồi mới biết quý trọng.

Trang 23


quá nhiều vào con người thể hiện tình cảm, nhà văn có quyền lựa chọn và sang tạo
tự do đối với nhân vật của mình.
Trong văn xuôi sau năm 1975, nhân vật được xây dựng và miêu tả rất
sinh động.
Thứ nhất, độc thoại nội tâm được tăng cường sử dụng như một thủ pháp
nghệ thuật hữu hiệu để khắc họa tâm lí, tính cách nhân vật.
Độc thoại nội tâm là tiếng nói bên trong của nhân vật, là lời nhân vật tự nói
về mình, tự bộc lộ những suy tư thầm kín “thể hiện trực tiếp quá trình tâm lí, nội
tâm, mô phỏng hoạt động cảm xúc, suy nghĩ của con người trong dòng chảy trực
tiếp của nó”.
Từ sau 1975, hướng tới con người trong bản chất con người, trong mối quan
hệ phức tạp của cái thế giới tương quan, tương thong, nhà văn không thể chỉ đóng
vai trò khách quan, đứng ngoài quan sát, miêu tả nhân vật chỉ bằng hành động
hướng ngoại, mà còn phải để nhân vật trở thành những “chủ thể” tự soi chiếu,
phán xét bởi ý thức hướng nội. Và độc thoại nội tâm thể hiện điều đó một cách hữu
hiệu, với Nguyễn Minh Châu, ông phơi bày nội tâm nhân vật, miêu tả nó từ bên
trong, len lỏi vào bề sâu tâm lí nhân vật với những diễn biến, phong phú, phức tạp,
bí ẩn của nó. Phần lớn những nhân vật này là nhân vật tư tưởng, suy tư – sám hối.

Như nhân vật họa sĩ trong “Bức tranh” nhân vật được đặt vào một tình huống
éo le khiến anh ta không thể không tự suy ngẫm, tự phán xét những hành động,
những quan niệm sống vốn có của mình trong những xung đột tâm kí dữ dội. Tất cả
những day dứt, sám hối và tự thú của nhân vật người họa sĩ chỉ diễn ra trong tâm
tưởng, trong dòng độc thoại nội tâm âm thầm mà căng thẳng. Bởi câu chuyện
không đặt ra sự truy cứu lỗi lầm mà cũng không một ai đứng ra lên án hay trách
móc, kể cả bà mẹ lẫn người lính. Vấn đề đặt ra là sự thức tỉnh lương tâm giữa “cái
nhịp sống bận bịu, chen lấn” đời thường,là sự tự ý thức, tự phán xét bản thân. Khi
còn biết xấu hổ và dằn vặt lương tâm về những lỗi lầm của mình, khi ấy con người
còn khả năng vươn tới sự hoàn thiện về nhân cách. Qua độc thoại nội tâm, nhân vật
Trang 24


hoại sĩ đã hiện lên trước mắt người đọc như một nhân cách trong quá trình đấu
tranh tự hoàn thiện. Còn trong “phiên chợ Giát” dòng ý thức trở thành sự đồng hiện
của những nhánh rẽ bất ngờ, lộn xộn không theo trật tự logic của thời gian , bao
hàm cả ý thức và vô thức, cả ảo giác và huyễn tưởng…Dòng độc thoại và đối thoại
trong nội tâm lão Khúng cứ mien man, hỗn độn như sự bề bộn của cuộc sống, sự bí
ẩn của tâm linh. Những giấc mơ khủng khiếp, cá ảo giác lạ lung của sự hóa thân
đầy quái đản, tiềm thức âm u, hoang dã và cả cái lí trí “thiết thực” , những triết lí
vớ vẩn của một nhà “hoài nghi luận”… rồi những hồi tưởng, liên tưởng, những
viễn ảnh chổng chéo trong cái đầu óc vừa ranh mãnh vừa u tối của lão khúng, tất cả
chìm đắm trong “dòng ý thức” hỗn tạp.
Thứ hai, miêu tả nhân vật thông qua những chi tiết tâm lí chân thực, tinh tế.
Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật mang tính ước lệ mà nhà văn thông qua
chúng để khái quát hiện thực đời sống theo quan niệm nghệ thuật riêng của mình.
Để được sự yêu mến lâu bền của đọc giả, phẩm chất cơ bản của nhân vật văn học
phải là sự chân thực, đặc biệt về phương diện tâm lí. Nhân vật Qùy trong “Người
đàn bà trên chuyến tàu tốc hành” là một người có sức chinh phục và quyến rũ mạnh
mẽ, cộng them bản tính đầy kiêu hãnh, những tưởng Qùy luôn có thể đứng trên mọi

thứ tình yêu. Vậy mà chính chị lại bị “đánh đổ” bởi vẻ mặt lạnh lung, dửng dưng
“không hề mảy may xúc động” của người trung đoàn trưởng dũng cảm. Thì ra tình
yêu đã biết chọn những cách riêng để đi vào trái tim con người, trong trường hợp
của Qùy, nó đến cùng với “lòng tự ái bất ngờ bị xúc phạm” nhưng con người Qùy
chỉ yêu được những hình bóng xa vời, những tượng thánh trên bệ thờ chót vót. Khi
tình yêu hiện hình bằng xương bằng thịt bên chị, chiều chuông, âu yếm, chị lập tức
cảm thấy bị hụt hẫng bởi những trần trụi đời thường. Cái cảm giác của chị khi phải
“chịu đựng” bàn tay dấp dính của người yêu quả là một chi tiết tâm lí đặc sắc: “Mỗi
lần anh ấy đặt bàn tay lên vai, lên mái tóc tôi, tôi phải tự nghĩ thầm trong lòng rằng
đó là bàn tay của anh ấy, người mình đang dốc lòng yêu, bàn tay của một người mà
mình đã thấy không thể thiếu được trong cuộc đời, tuy vậy, vẫn không thể xua đuổi
Trang 25


×