1
Một số đặc điểm trong sự vận động của
truyện ngắn Việt Nam hiện đại qua truyện
ngắn Đỗ Chu và Nguyễn Huy Thiệp
Đặng Lê Tuyết Trinh
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn; Khoa Văn học
Chuyên ngành: Lý luận văn học ; Mã số: 60 22 32
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Nam
Năm bảo vệ : 2012
Abstract. Trình bày một số vấn đề cơ bản về truyện ngắn, tìm hiểu truyện ngắn Đỗ
Chu và Nguyễn Huy Thiệp trong dòng chảy lịch sử và văn học. Nghiên cứu đặc
điểm vận động về nội dung của truyện ngắn Việt Nam hiện đại qua truyện ngắn Đỗ
Chu và Nguyễn Huy Thiệp. Tìm hiểu những đặc điểm vận động về nghệ thuật của
truyện ngắn Việt Nam hiện đại qua truyện ngắn Đỗ Chu và Nguyễn Huy Thiệp:
nghệ thuật xây dựng cốt truyện và kết cấu; nghệ thuật trần thuật.
Keywords. Lý luận văn học; Truyện ngắn; Văn học Việt Nam; Nghiên cứu văn học
Content.
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
“Văn học là người thư ký trung thành của thời đại”. Xét đến cùng thì bất cứ
nền văn học nào cũng hình thành trên cơ sở hiện thực nhất định, bất kì nhà văn nào
cũng được thoát thai từ một môi trường sống nào đó và bất cứ tác phẩm nào cũng soi
chiếu một vấn đề nào đó trong cuộc sống. Khi hiện thực đời sống có những biến đổi
thì nhà văn sẽ là người “thư ký trung thành” song hành và phản ánh cuộc sống. Sau
năm 1975, đặc biệt là từ 1986, đời sống đặt ra yêu cầu bức thiết là phải đổi mới toàn
diện, sâu sắc. Văn học - một trong những hình thái ý thức xã hội tất yếu cũng làm
mới mình để đáp ứng yêu cầu này. Đổi mới như một nhu cầu tất yếu của văn chương
để phù hợp với đời sống xã hội.
Truyện ngắn, đó là một kỳ quan nghệ thuật nhỏ bé nhưng có sức chấn động phi
thường, là một trong những thể loại quan trọng của văn học tất yếu cũng không nằm
ngoài dòng chảy vận động ấy. Với đặc thù là một thể loại nhỏ gọn và cơ động, truyện
ngắn bắt nhịp rất nhanh với những biến chuyển của đời sống. Tuy không phải là thể
loại chủ chốt của nền văn học, nhưng với thế mạnh riêng của một loại hình tự sự,
truyện ngắn nhanh nhạy len lỏi vào mọi ngóc ngách của xã hội, phản chiếu được toàn
cảnh cuộc sống trong từng mảnh ghép nhỏ. Trong quá trình đổi mới văn học đã gặt hái
được nhiều thành tựu nổi bật thì truyện ngắn là một trong những thể loại đi đầu.
2
Nhà phê bình Lã Nguyên từng nói: “So sánh là con đường tốt nhất để khám
phá chân lý. Muốn phân biệt mới - cũ, chắc chắn phải so sánh các giai đoạn văn học
trước và sau 1975”. Đúng vậy, tư duy đổi mới văn học là cả một hành trình với nhiều
“vấp váp và trả giá” (Nguyên Ngọc), cùng sự đóng góp âm thầm nhưng “quả quyết”
của nhiều thế hệ nhà văn. Chúng tôi muốn soi chiếu rõ hơn sự vận động này của
truyện ngắn từ hai hiện tượng của hai giai đoạn văn chương trước và sau năm 1975.
Chọn hai hiện tượng văn học Đỗ Chu và Nguyễn Huy Thiệp bởi đó thực sự là hai
phong cách dường như đối lập nhau và cũng là hai cá tính văn học điển hình cho hai
thời kỳ văn học. Đặc biệt truyện ngắn Đỗ Chu còn hiện diện ở cả hai chặng đường
trước và sau năm 1975, vì vậy khi soi chiếu vào hai chặng đường sáng tác này, người
đọc cũng thấy rõ hơn sự vận động của truyện ngắn Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu
2.1. Tình hình nghiên cứu truyện ngắn Đỗ Chu
Từ năm 1962, khi những truyện ngắn đầu tay của Đỗ Chu ra đời, văn đàn đã
xôn xao tán tụng. Nối tiếp những thành công từ các truyện đầu tay đó, các tuyển tập
truyện ngắn của Đỗ Chu đã ra đời. Có tuyển tập hay, được chú ý, có tuyển tập cũng
“tàm tạm” nhưng cũng có tác phẩm không mấy gây ấn tượng. Tuy nhiên không thể
phụ nhận được rằng các sáng tác của Đỗ Chu đã góp phần làm cho đời sống văn học
dân tộc thêm phong phú và sôi động.
Đề cập đến đặc điểm truyện ngắn Đỗ Chu, Giáo sư Nguyễn Văn Hạnh đã có
một bài nghiên cứu về Truyện ngắn của Đỗ Chu khá cụ thể và chi tiết in trên Tác
phẩm mới (17/9/1971). Ông phân tích cách lựa chọn đề tài, hệ thống nhân vật, bút
pháp miêu tả nhân vật, kết cấu, cốt truyện, ngôn ngữ và khả năng phản ánh hiện thực
trong truyện ngắn của Đỗ Chu. Nhìn chung, truyện ngắn Đỗ Chu có những điểm
mạnh, điểm yếu riêng. Người đọc khen cũng nhiều và chê cũng không ít. Những bài
viết, bài nghiên cứu mang tính nhận định khái quát, hoặc riêng lẻ một tập truyện hay
một truyện ngắn nào đó, hay công phu hơn là đã đi vào nghiên cứu mảng truyện ngắn
như Lê Hương Thủy, Thanh Tú và Phan Cự Đệ. Tuy nhiên các tài liệu này thiên về
nói chung chung, chưa đặt sáng tác của ông trong dòng chảy đổi mới của truyện ngắn
Việt Nam.
2.2. Tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Nguyễn Huy Thiệp là một nhà văn nở muộn trên văn đàn Việt Nam (năm
1987). Nhưng sau hơn hai mươi năm xuất hiện trên văn đàn, nhà văn Nguyễn Huy
Thiệp đã khiến thế giới dư luận trong và ngoài nước tốn không biết bao nhiêu giấy
mực, người khen, người chê, người say đắm, kẻ hững hờ Nhiều thế hệ đã đọc, suy
ngẫm cùng truyện ngắn của nhà văn này. Chỉ tính riêng trong giới phê bình văn học,
không kể đến những bài báo liên quan đến ông, có lẽ Nguyễn Huy Thiệp là hiện
tượng gây tranh cãi nhiều nhất trong suốt hai mươi năm qua. Nhà phê bình Phạm
Xuân Nguyên còn chủ sự cả tập Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, với rất nhiều ý kiến phê
bình của nhiều tên tuổi uy tín như Hoàng Ngọc Hiến, Đỗ Đức Hiểu, Greg Lockhart,
Lại Nguyên Ân… hay những nhà văn, nhà thơ đứng đối chiều như Trần Đăng Khoa,
Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh
3
2.3. Tình hình nghiên cứu truyện ngắn Việt Nam sau Đổi mới
Không khó để các nhà nghiên cứu văn học nhận ra sự biến đổi sâu sắc và rõ
rệt của truyện ngắn Việt Nam thời kỳ đổi mới. Các nhà phê bình đã dành khá nhiều
bút lực để đánh giá, nghiên cứu về thời kỳ phát triển này của truyện ngắn. Các tác giả
Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Thị Huệ khẳng định, văn học đương đại
phát triển theo xu hướng dân chủ hóa, có ý nghĩa bổ sung, hoàn thiện những quan
niệm hiện thực về con người cho văn học giai đoạn trước. Đặc biệt các công trình, bài
viết nhìn chung đều đánh giá cao đóng góp của truyện ngắn trong việc phản ánh hiện
thực đời sống xã hội. Những đổi mới về nội dung tất yếu dẫn đến sự thay đổi về hình
thức thể loại truyện ngắn. Nhà phê bình Bùi Việt Thắng nhận xét: Về khía cạnh thi
pháp, truyện ngắn 1986 - 2000 đã trở nên phong phú về hình thức, phong cách và bút
pháp. Ngoài ra còn có nhiều bài viết phần lớn đều nêu lên những suy nghĩ, cảm nhận
về nội dung hoặc nghệ thuật, về những phương diện đổi mới của từng truyện ngắn
hay tập truyện ngắn cụ thể. Qua đó góp phần khẳng định xu thế đổi mới tất yếu của
thể loại cũng như của nền văn học Việt Nam trong giai đoạn này.
Như vậy có rất nhiều bài viết nghiên cứu về vấn đề đổi mới truyện ngắn Việt
Nam, cũng có nhiều người biết và ấn tượng về truyện ngắn Đỗ Chu và Nguyễn Huy
Thiệp. Song để nghiên cứu một cách có hệ thống các sáng tác của nhà văn cũng như
khái quát toàn diện sự vận động của truyện ngắn Việt Nam thời kỳ đổi mới nhìn từ
hai hiện tượng văn học trên thì còn rất hiếm. Rải rác các bài phát biểu và nghiên cứu
trên báo, tạp chí và một số ít sách nghiên cứu phân tích một khía cạnh nào đó của sự
vận động truyện ngắn Việt Nam thời kỳ đổi mới những thiết nghĩ chừng đó là chưa
đủ khẳng định sức sống, sự phát triển của một thể loại văn học quan trọng như vậy.
Luận văn của chúng tôi mong tiếp nối cái phần còn để ngỏ ấy.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi là một luận văn thạc sỹ, chúng tôi chỉ dừng lại nghiên cứu
trong giới hạn 35 truyện ngắn trong hai tập Chuyện mùa hạ và Lão Mai của nhà văn
Đỗ Chu được Nhà xuất bản Nhà văn phát hành vào tháng 11/2010 và tập Nguyễn Huy
Thiệp truyện ngắn do Nhà xuất bản Hội Nhà văn xuất bản 2004. Bên cạnh đó, chúng
tôi cũng có sự mở rộng so sánh, đối chiếu với các tác giả, tác phẩm trong giai đoạn
trước và sau Đổi mới.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Trong khoá luận này, chúng tôi chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích tác
phẩm, phương pháp so sánh.
- Bên cạnh đó, luận văn còn vận dụng một số phương pháp khác như: phương
pháp xã hội học, phương pháp văn hoá học, phương pháp thi pháp học…
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Truyện ngắn Đỗ Chu và Nguyễn Huy Thiệp trong dòng chảy lịch
sử và văn học
- Chương 2: Một số đặc điểm vận động về nội dung của truyện ngắn Việt Nam
hiện đại qua truyện ngắn Đỗ Chu và Nguyễn Huy Thiệp
4
- Chương 3: Một số đặc điểm vận động về nghệ thuật của truyện ngắn Việt
Nam hiện đại qua truyện ngắn Đỗ Chu và Nguyễn Huy Thiệp
Chương 1
TRUYỆN NGẮN ĐỖ CHU VÀ NGUYỄN HUY THIỆP
TRONG DÒNG CHẢY LỊCH SỬ VÀ VĂN HỌC
Chúng tôi trình bày chương này như là sự giải thích một phần cho câu hỏi tại
sao chúng tôi lại chọn hai hiện tượng văn học Đỗ Chu và Nguyễn Huy Thiệp để vẽ
lại đồ thị vận động của truyện ngắn Việt Nam trước và sau Đổi mới. Có thể nhận thấy
hai nhà văn này là hai cây bút tiêu biểu, điển hình cho hai giai đoạn văn học trước và
sau Đổi mới. Từ cái nhìn so sánh, đối chiếu hai thế giới nghệ thuật của hai nhà văn
này, chúng ta có thể nhận thức được tương đối chính xác diện mạo phát triển của
truyện ngắn trong hai thời kỳ văn học trên.
1.1. Một số vấn đề về truyện ngắn
Chưa có một định nghĩa thống nhất về truyện ngắn nhưng từ một số khái niệm
của nhà nghiên cứu Phương Lựu, trong Từ điển thuật ngữ văn học của nhóm tác giả
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi;… chúng ta có thể rút ra một số đặc
điểm nhận diện của truyện ngắn là (1) ngắn gọn là quy luật của việc cấu tạo truyện
ngắn; (2) chi tiết truyện ngắn rất cô đúc, hàm súc, (3) truyện ngắn thường chỉ phản
ánh một khoảnh khắc, một số phận con người; (4) có sức chứa lớn.
Hiện nay, truyện ngắn với lợi thế nhỏ, gọn đang bùng nổ với tốc độ chóng mặt.
Người đọc quen và thích đọc truyện ngắn trong vài chục phút hoặc trong một vài giờ.
Hơn nữa, sau nhiều năm chiếm lĩnh văn đàn, thơ, kịch, tiểu thuyết dường như đang vắt
kiệt về khả năng hồi sinh và đổi mới thể loại. Trong khi đó truyện ngắn còn là mảnh đất
tương đối trống, điều này tạo điều kiện hết sức thuận lợi để các cây bút trẻ khẳng định
tài năng. Ở Việt Nam, truyện ngắn cũng vì thế mà nở rộ và đạt được những thành tựu
nổi bật.
Lịch sử phát triển của nền văn học hiện đại và đương đại Việt Nam gắn liền
với truyện ngắn. Là thể loại năng động, bộ xương cấu thành thể loại của truyện ngắn
luôn thay đổi do tác động của điều kiện lịch sử, văn hoá, xã hội. Thế kỷ XX truyện
ngắn Việt Nam phát triển liên tục và vượt trội lên trên tất cả các thể loại, bắt đầu từ
những năm hai mươi với sự đóng góp của Nguyễn Bá Học, Phạm Huy Tốn, Hồ Biểu
Chánh,… Đến những năm 1930 – 1945, truyện ngắn phát triển vượt bậc với tên tuổi
của Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao, Kim Lân, Tô Hoài, Bùi Hiển, Vũ
Bằng… Từ sau Cách mạng tháng Tám, truyện ngắn có chững lại nhưng vẫn chảy liên
tục với tên tuổi: Trần Đăng, Vũ Tú Nam, Nguyên Ngọc, Nguyễn Khải, Nguyễn
Quang Sáng, Vũ Thị Thường, Lê Minh, Nguyễn Minh Châu… Trước 1975, do tác
động của điều kiện hoàn cảnh chiến tranh và yêu cầu của Đảng về một nền văn nghệ
cổ vũ, động viên cho hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, văn học nói chung,
truyện ngắn nói riêng mang đặc trưng “ký hoá” và “sử thi hoá” rõ nét. Trong điều
kiện hoàn cảnh mới của đất nước sau 1975, thể loại nhạy cảm này chắc chắn có
những thay đổi quan trọng. Giới nghiên cứu cũng như giới sáng tác hầu như đều
5
thống nhất sau 1975, truyện ngắn là thể loại gặt hái nhiều thành công, “được mùa thể
loại”.
1.2. Truyện ngắn Đỗ Chu trong dòng chảy lịch sử và văn học trước Đổi mới
1.2.1. Vài nét về tác giả Đỗ Chu
Đỗ Chu tên thật là Chu Bá Bình. Bút danh Đỗ Chu lấy họ mẹ và họ cha ghép
thành. Ông sinh năm 1943 tại Phủ Lạng Thương, Bắc Giang (có một số tài liệu viết là
năm 1944). Đỗ Chu vào nghề viết từ 1962, khi còn ngồi trên ghế nhà trường với
truyện ngắn Ao làng trích trên tạp chí Văn nghệ quân đội. Từ năm 1962, khi những
truyện ngắn đầu tay của Đỗ Chu ra đời, văn đàn đã xôn xao tán tụng. Ông sớm nổi
tiếng với những truyện ngắn đầy phong vị trữ tình. Nối tiếp những thành công từ các
truyện đầu tay đó, các tuyển tập truyện ngắn của Đỗ Chu đã ra đời. Với hơn 40 năm
cầm bút, Đỗ Chu đã miệt mài viết và thử sức với rất nhiều thể loại văn học như tiểu
thuyết, tùy bút, ký sự… nhưng bạn đọc nhớ tới ông nhiều hơn cả vẫn là với truyện
ngắn. Đỗ Chu đã vinh dự được nhận giải Nhà nước về văn học - nghệ thuật năm
2001, giải thưởng Hội Nhà văn năm 2003 với tác phẩm Một loài chim trên sóng,
nhận giải văn học ASEAN năm 2004. Giải thưởng quốc tế này thêm một lần nữa
khẳng định đóng góp của Đỗ Chu đối với văn học dân tộc đồng thời tôn vinh vị thế
của văn học Việt Nam trên bản đồ văn học khu vực. Hai tập truyện ngắn Chuyện màu
hạ và Lão Mai gồm 35 truyện ngắn xuất sắc được chính nhà văn tuyển chọn và được
Nhà xuất bản Văn học in tháng 11/2010.
1.2.2. Dòng chảy lịch sử và văn học trước Đổi mới và vị thế truyện ngắn Đỗ
Chu
Con đường văn nghiệp của Đỗ Chu trải qua hai giai đoạn: trước và sau năm
1975. Hai giai đoạn này đã chứng kiến những đổi mới nghệ thuật và tư duy của nhà
văn.
1.2.2.1 Giai đoạn trước năm 1975
Hiện thực được phản ánh trong văn học 1945-1975 nói chung gắn bó chặt chẽ
với cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc, âm vang hào khí thời đại. Đó là một hiện
thực vận động xuôi chiều và nhìn chung rất lạc quan (trừ một số bài thơ chống Pháp
có nói đến cái bi tráng). Lúc này, văn học là vũ khí đấu tranh làm nhiệm vụ chiến
đấu, hướng tới mục tiêu tất cả cho chiến thắng. Đặc biệt vào những năm đầu của thập
kỷ 60 của thế kỷ trước, cả dân tộc, đặc biệt là thế hệ trẻ miền Bắc vừa như náo nức,
mê say trước những phác họa đầu tiên của Kế hoạch 5 năm xây dựng chủ nghĩa xã
hội, đồng thời lại cũng trải qua ngay cái phập phồng, chờ đợi cuộc trường chinh lần
thứ hai trước những diễn tiến mau lẹ của cách mạng miền Nam. Phải thấy cội nguồn
của cả hai tác động tâm lý ấy mới lý giải được chất lãng mạn bao trùm khắp xã hội
lúc bấy giờ. Trong một bối cảnh như thế, những truyện ngắn của Đỗ Chu không chỉ là
sự phản ánh tâm lý của thế hệ anh, mà sự đón nhận, tung hô tài năng trẻ Đỗ Chu là
minh chứng xác đáng cây bút trẻ này đã cất lên một tiếng nói tươi tắn, mới lạ để kể
lại những ước ao, khát vọng, cách sống của thế hệ mình. Chuyện mùa hạ - tập 1, bắt
đầu từ truyện ngắn đầu tay Hương cỏ mật. Truyện ngắn này, theo nhà văn Nguyễn
Trí Huân, khi xuất hiện đã gây xôn xao trong tạp chí Văn nghệ quân đội năm 1963.
18 truyện ngắn trong Chuyện mùa hạ in từ năm 1963 – 1972, giai đoạn Ðỗ Chu vừa
6
rời trường cấp III đã tham gia ngay vào quân đội, đối diện trực tiếp với chiến tranh
phá hoại của Mỹ.
1.2.2.2. Giai đoạn sau năm 1975
Sau năm 1975, đất nước hoàn toàn thống nhất. Hơi thở chủ yếu của thời kỳ
chiến tranh không còn nữa, xã hội bước vào một thời kỳ hậu chiến đầy cam go và
đang lần mò tìm con đường phát triển mới. Không khí xã hội và lịch sử này đã tác
động rất nhiều đến các nhà văn trong đó có Đỗ Chu. Mười năm đầu sau hòa bình
thống nhất đất nước (1975 - 1985) có thể coi là bước đệm, là sự chuẩn bị cần thiết
trong đó văn học đã dần thoát khỏi quán tính của giai đoạn văn học trước 1975. Từ
sau 1986, văn học Việt Nam trong đó có truyện ngắn đã thể hiện một bước nhảy vọt
thể hiện sự đổi mới không ngừng. Lão Mai, tuyển tập 17 truyện ngắn được Đỗ Chu
sáng tác sau năm 1975. Ngọn lửa, truyện ngắn đầu của tập sinh ra ngay chiến thắng
năm 1975, khi Việt Nam hoàn toàn thống nhất đã thể hiện khá rõ tính chất cầu nối
trong hai giai đoạn văn học trên. Những truyện ngắn tiếp theo như Mê lộ, Mảnh vườn
xưa hoang vắng, Người của muôn năm trước, Họa mi hót, Một loài chim trên sóng…
lại là minh chứng cho sự đổi mới về cả tư tưởng và hình thức nghệ thuật của truyện
ngắn Việt Nam sau năm 1986. Lão Mai là tập hợp những sáng tác của một nhà văn đã
có nhiều trải nghiệm cuộc sống và trải nghiệm văn hóa, để nhìn rõ thêm cuộc đời
bằng con mắt minh triết phương Ðông, chín chắn và tỉnh táo. Những tâm sự đa chiều
của nhiều tầng lớp, nhiều phía được ông rọi chiếu, chứ không bó hẹp ở phạm vi người
lính, kể cả những người do thời cuộc chính trị mà phiêu lạc. Chính vì thế Lão Mai
làm rõ hơn một Ðỗ Chu so với tập 1 – Chuyện mùa hạ: thuần Việt, sâu sắc, đằm thắm
và thâm trầm.
1.3. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp trong dòng chảy lịch sử và văn học
đương đại
1.3.1. Vài nét về tác giả Nguyễn Huy Thiệp
Nguyễn Huy Thiệp viết văn khá muộn, tác phẩm đầu tiên của anh ra mắt bạn
đọc khi đã 37 tuổi (Nguyễn Huy Thiệp sinh năm 1950). Con đường đến với văn học
của Nguyễn Huy Thiệp đầy bươn trải, sóng gió nhưng cũng không thiếu hoa hồng.
Ông viết rất nhiều thể loại khác nhau: truyện ngắn, kịch bản sân khấu, kịch bản điện
ảnh, tiểu luận văn chương và tiểu thuyết mini nhưng để lại ấn tượng đặc biệt với
người đọc là truyện ngắn. Nguyễn Huy Thiệp đột ngột xuất hiện chùm truyện Những
ngọn gió Hua Tát được đăng trên báo văn nghệ (1987). Tiếp đó truyện Tướng về hưu
đã gây chấn động dư luận xã hội… Dần dần từng bước, bằng tài năng của mình,
Nguyễn Huy Thiệp đã chọc thủng được bức màn vốn dửng dưng, nằm trong trạng thái
tĩnh của công chúng. Nhắc tới anh, người ta nhớ Tướng về hưu gây xôn xao văn đàn
trong một thời gian dài, bởi một cách viết rạch ròi, lạnh lùng đến trần trụi; nhớ Muối
của rừng tưởng như không đâu, tẻ nhạt mà hóa ra lại đượm nhiều ý vị thâm trầm, kín
đáo và sâu sắc; nhớ Một thoáng Xuân Hương với phong cách lịch lãm, mang đậm
phong vị kẻ sỹ Bắc hà; nhớ Con gái thuỷ thần lẫn lộn hư thực, huyền ảo và phiêu
diêu… Với mỗi một truyện ngắn, Nguyễn Huy Thiệp như đang làm một cuộc phiêu
lưu cho ngòi bút mà cũng là tự phác ra chân dung văn học của mình.
7
1.3.2. Dòng chảy lịch sử - văn học sau Đổi mới và vị thế truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp
Từ sau 1975, đất nước hoàn toàn thống nhất nhưng cũng là thời kì đầy khó
khăn và thử thách đối với dân tộc Việt Nam. Trong 10 năm đầu sau ngày thống nhất
đất nước (1975 - 1985), Việt Nam tập trung vào nhiệm vụ khôi phục kinh tế, hàn gắn
vết thương chiến tranh, thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước, cải tạo và phát triển
kinh tế với những mong muốn tiến nhanh, tiến mạnh tiến vững chắc lên chủ nghĩa
xã hội. Nhưng do hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh, lại chịu sự bao vây, cấm vận
của các thế lực thù địch, cộng với sự chủ quan duy ý chí của chúng ta, nên đất nước
Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội sâu sắc. Kinh tế chậm phát
triển, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, chiến tranh biên giới xảy ra, các thế lực
thù địch bao vây, cô lập Việt Nam, niềm tin của nhân dân giảm sút Từ năm 1986,
với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật”, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đổi mới tư duy,
tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Sự đổi mới này đã mở ra chân trời
mới cho văn học dân tộc.
Sau chiến tranh, đất nước thống nhất, hoà trong không khí đổi mới của đất
nước, văn nghệ cũng được cởi thoát sau khi đã đọc Lời ai điếu cho một giai đoạn văn
nghệ minh họa, các nhà văn được trả lại đúng với vị trí và sứ mệnh của mình với tư
cách là một chủ thể sáng tạo nghệ thuật đích thực. Sự đổi mới tư duy này đã sản sinh
ra một thế hệ văn chương mới, trong đó có Nguyễn Huy Thiệp. Có thể nói “hiện
tượng Nguyễn huy Thiệp là sản phẩm tất yếu của sự gặp gỡ giữa tài năng với khát
vọng dân chủ và đổi mới mà sự vận động ý thức xã hội cũng như văn học sau 1975
đem lại” (Nguyễn Hải Hà - Nguyễn Thị Bình).
Tiểu kết
Đỗ Chu và Nguyễn Huy Thiệp là hai nhà văn tiêu biểu, có vị trí quan trọng cho
những thời kỳ văn học trước và sau năm 1986. Mỗi tác phẩm của họ khi xuất hiện
đều trở thành những “tâm chấn” trong đời sống văn xuôi Việt Nam mỗi giai đoạn.
Đặt truyện ngắn Đỗ Chu và Nguyễn Huy Thiệp vào dòng chảy lịch sử dân tộc để thấy
được sự đổi mới và vận động của truyện ngắn Việt Nam là một xu hướng tất yếu và
hợp quy luật.
Chương 2
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VẬN ĐỘNG VỀ NỘI DUNG
CỦA TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
QUA TRUYỆN NGẮN ĐỖ CHU VÀ NGUYỄN HUY THIỆP
2.1. Sự tiếp cận, chiếm lĩnh hiện thực cuộc sống
Văn học là tấm gương phản ánh hiện thực. Mỗi thời kì lịch sử lại mang đến
cho văn học những đề tài, những nội dung khác nhau cũng như đề ra cho văn học
những yêu cầu khác nhau. Văn học thời kì trước 1975 và sau 1975 là hai giai đoạn
điển hình cho đặc điểm này. Hai giai đoạn này đã chứng kiến sự đổi mới rất lớn
trong quan niệm phản ánh hiện thực. Ta có thể thấy điều này trong sự đổi mới về
đề tài, nội dung, chủ đề của các tác phẩm.
8
2.1.1. Sự chiếm lĩnh hiện thực khách quan của Đỗ Chu
Đỗ Chu đã có lần bộc lộ quan điểm của mình: “Cái chân đế của một tác phẩm
chính là sự gắn bó với đời sống”. Cũng chính bởi xuất phát từ ý thức nghệ thuật này
mà sáng tác của ông luôn bám rễ sâu xa từ cội nguồn cuộc sống. Giai đoạn 1945 -
1975 là giai đoạn bão táp nhất của lịch sử dân tộc, vì thế văn học cũng sôi nổi và hào
hùng hơn bao giờ hết. Thời kỳ này, chính đất nước đã vinh danh cho các nhà văn, đã
làm thăng hoa những giá trị lớn lao của dân tộc. Nảy sinh từ mảnh đất hiện thực này,
văn học giai đoạn này nói chung và truyện ngắn Đỗ Chu nói riêng đã thể hiện tư duy
sử thi, cảm hứng ngợi ca, đề tài gắn liền với vận mệnh dân tộc.
Với tâm hồn nghệ sĩ bay bổng, lãng mạn, tinh tế, nhạy cảm nhưng cũng đầy
nhiệt huyết và tinh thần chống giặc ngoại xâm. Đỗ Chu ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn,
những nghĩ suy, trăn trở và thế giới tình cảm phong phú và nhạy cảm của người lính
nơi tuyến lửa như Tuân (Hương cỏ mật), Huân trong Ráng đỏ. Ngoài ra, không trực
tiếp phản ánh hiện thực tàn khốc của chiến tranh, Đỗ Chu hướng ngòi bút vào việc ca
ngợi những con người hậu phương giàu niềm tin và nghị lực. Họ đã cống hiến hết
mình để chung tay xây dựng cuộc sống mới, góp phần chi viện cho tiền tuyến. Tác
phẩm của ông là bức tranh đời sống lao động sản xuất, sinh hoạt bình thường của
người dân trong các làng quê như trong Mùa cá bột, Mận trắng, Phù sa… Có thể thấy
hiện thực cuôc sống đã được Đỗ Chu lý tưởng hóa, thi vị hóa nên dẫu phản ánh chiến
tranh vẫn thấy lấp lánh sắc màu lạc quan, tin yêu vào tương lai đất nước và dân tộc.
Chủ nghĩa anh hùng cách mạng và cảm hứng ngợi ca đã chắp cánh cho những trang
văn của Đỗ Chu bay bổng.
Giai đoạn nửa sau thập kỷ 70 và nửa đầu thập kỷ 80, Đỗ Chu vẫn sáng tác
nhưng những truyện ngắn của ông chưa gây được tiếng vang trong đời sống văn học.
Nhưng sau đó, với tâm huyết và sự nỗ lực không ngừng nghỉ, Đỗ Chu đã đem đến
cho người đọc những tác phẩm đặc sắc như Mê lộ, Cánh đồng không có chân trời,
Mảnh vườn xưa hoang vắng,… Ở những truỵện ngắn này, người đọc thấy cảm hứng
bi kịch đã xuất hiện và dần dần đậm đặc. Đề tài chiến tranh và người lính vẫn được
Đỗ Chu khai thác nhưng với những bình diện hiện thực hoàn toàn mới. Tác giả đã
xoáy sâu vào những bi kịch đời thường của người lính như Đống trong Mảnh vườn
xưa hoang vắng hay Hoàng Trữ trong Mê lộ khi bước ra khỏi chiến tranh. Rõ ràng
Đỗ Chu đã có một cái nhìn khác về hiện thực và đây chính là sự phá cách của ngòi
bút Đỗ Chu thời kỳ đầu đổi mới. Tiếp đó, Đỗ Chu đã tiếp nối dòng chảy đổi mới với
hàng loạt truyện ngắn mang cảm hứng thế sự như Lão Mai, Họa mi hót, Người của
muôn năm trước, Một loài chim trên sóng, Tất cả những mặt trái trong hiện thực đời
thường đã được nhà văn Đỗ Chu khai thác sâu sắc. Bức tranh tâm trạng của con
người với các góc khuất của số phận được Đỗ Chu phản ánh rõ nét. Chất lãng mạn
cách mạng ngày nào đã nhường chỗ cho đôi mắt nghiêm nghị, nhìn vào sự thật và nói
thẳng sự thật.
2.1.2. Sự chiếm lĩnh hiện thực đời sống của Nguyễn Huy Thiệp
Sau 1975, các nhà văn không chỉ dừng lại ở phản ánh mà còn nghiền ngẫm
hiện thực. Trước đây, hoàn cảnh chiến tranh không cho phép họ khám phá tận cùng
sự phức tạp, bề bộn, ngổn ngang của đời sống. Giờ đây, do yêu cầu của thời đại, do
nhu cầu tự thân của hoạt động sáng tạo, hiện thực đời sống đi vào văn chương vẹn
9
nguyên sự đa chiều của nó, được soi sáng, cày xới cả những phần khuất lấp, mờ tối.
Các nhà văn trong đó có Nguyễn Huy Thiệp thể hiện tư duy chiêm nghiệm trong
những đề tài thế sự, đời tư.
Nếu như truyện ngắn Đỗ Chu là một bản tình ca mang âm hưởng vừa trữ tình
vừa hào hùng về cuộc sống thì truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp lại là một sân khấu
cuộc đời với đầy đủ trạng thái “hỉ, nộ, ái, ố”, với những đắng cay âm thầm, chua chát
cùng những mảnh vỡ của hiện thực sắc lạnh đến ghê người. Mang trong mình những
biến động âm thầm mà mãnh liệt của đời sống kinh tế, xã hội, tâm lý Việt Nam từ sau
1975, truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã chạm đến chiều sâu cơ cấu xã hội và nhân
tâm. Truyện của Nguyễn Huy Thiệp từ Tướng về hưu, Muối của rừng, Huyền thoại
phố phường, Những bài học nông thôn, Những người thợ xẻ, Không có vua đến Kiếm
sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết… “đều là những tín hiệu thức tỉnh sự chú ý của người đọc”.
Những Không có vua, Những người thợ xẻ, Huyền thoại phố phường… tái hiện hiện
thực cuộc sống dội lên là một thế giới phân rã với đầy xáo trộn, là âm vang của cuộc
khủng hoảng xã hội, là sự rạn vỡ các chuẩn mực truyền thống. Nhà văn đã rọi luồng
ánh sáng cực mạnh vào thế giới hiện thực, lách sâu vào đời sống đào sâu những mạch
ngầm ở trong tâm hồn con người, thăm dò những tầng ngầm bí ẩn của quy luật nhân
sinh nhằm khơi gợi nỗi lo âu và ý thức phản tỉnh sâu sắc ở người đọc. Không còn bị
che phủ bởi hào quang chiến thắng, Nguyễn Huy Thiệp buộc chúng ta đối mặt với
thực trạng xã hội phi lý, đầy bất cập thời hậu chiến, với cơ chế thị trường thực dụng
làm tha hóa tính người, với trạng thái cô độc, lạc loài của cá nhân trong một cộng
đồng xã hội đã đứt tung mối dây liên hệ bền chặt.
Tiểu kết
Nhìn vào văn học nghệ thuật, chúng ta thấy được lịch sử dân tộc trong đó. Mỗi
thời kỳ lịch sử khác nhau ta lại thấy được những cách phản ánh hiện thực khác nhau,
tạo nên nét đặc trưng thẩm mĩ của mỗi giai đoạn văn học. Văn học giai đoạn từ 1986
đến nay có những sự thay đổi trong cách phản ánh và lý giải hiện thực so với giai
đoạn văn học trước 1986. Đó là sự đổi mới cần thiết và cũng là tất yếu trong quá trình
vận động và phát triển của văn học. Soi vào truyện ngắn của Đỗ Chu và Nguyễn Huy
Thiệp, người đọc nhận thấy truyện ngắn Việt Nam hiện đại nói chung đã có sự
chuyển đổi từ tư duy sử thi với một khoảng cách khó vượt giữa nhà văn và đối tượng
mà nhà nghiên cứu nổi tiếng Bakhtin gọi là “khoảng cách sử thi”, sang kiểu tư duy
mới: suy ngẫm về hiện thực, suy ngẫm về cái đương đại đang diễn ra, “cái đương đại
chưa hoàn thành”. Về đề tài, từ sự gắn liền với vận mệnh dân tộc, truyện ngắn thời kỳ
đổi mới đã có sự lột xác dần với những đề tài thế sự đời tư, xu hướng ngợi ca cũng
được thay thế bằng cái nhìn phê phán hiện thực. Sự vận động này đã thể hiện sự đổi
mới trong tư duy nghệ thuật của các nhà văn sau năm 1975 và đặc biệt là sau Đổi
mới. Mối quan hệ giữa văn học và cuộc sống vẫn là một vấn đề quan trọng trong văn
học từ 1986 trở lại đây. Nhà văn không thể nhìn cuộc đời bằng con mắt hời hợt, phiến
diện, một chiều. Không thể chỉ ca tụng cái đẹp đẽ nhìn thấy bên ngoài mà làm ngơ
hoặc bỏ qua những chai sần của cuộc sống. Có những vấn đề nhìn bên ngoài tưởng
xấu xí nhưng bên trong lại rất đẹp. Và có những điều vẻ ngoài đẹp lung linh huyền ảo
nhưng đằng sau nó lại không hề như vậy. Họ có độ lùi so với quá khứ để nhìn cuộc
chiến khách quan, đa diện với những khám phá ở tầng sâu nhân tính, tầng sâu dân tộc
10
hơn. Có khi họ viết về cuộc sống của đất nước hòa bình không còn thấy sự đơn giản
một chiều mà là một hiện thực phong phú, đa dạng, đi sâu vào bản chất người, vào
tâm thức con người. Trở lại với hiện thực đời thường, chọn những con người, những
sự việc bình thường lâm tiêu điểm, đặt nó vào quỹ đạo quan sát của văn học các nhà
văn đâ khơi vào nguồn mạch mới để làm giàu thêm cho nhận thức và sinh hoạt tinh
thần của con người. Ở các truyện ngắn này, văn học bỗng trở thành “những vui buồn
của đời người, là sự chiêm nghiệm về những gì được mất, là hồi ức về quá khứ và dự
cảm về tương lai, là trầm tư về lẽ tồn vong của con người, trong mối quan hệ với xâ
hội, tự nhiên và vũ trụ”. Sự thay đổi trong nội dung chiếm lĩnh hiện thực của các nhà
văn trong hai giai đoạn trước và sau 1975 đã chứng tỏ sự thay đổi vị thế và tư duy
nghệ thuật của nhà văn.
2.2. Từ quan niệm về con người đến những kiểu nhân vật đặc trưng
Văn học và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”.
Nhận xét trên của nhà văn Nguyễn Minh Châu nói lên được sứ mệnh cao cả của văn
chương là phản ánh một cách sinh động và trung thực về con người. Mỗi thời kỳ văn
học, mỗi nhà văn lại thể hiện quan niệm riêng về con người và từ đó xây dựng những
kiểu mẫu nhân vật khác nhau trong tác phẩm của mình. Nhân vật chính là chìa khóa
giúp người đọc khám phá thế giới nghệ thuật của nhà văn.
2.2.1. Quan niệm nghệ thuật về con người và những kiểu nhân vật trong
truyện ngắn Đỗ Chu
Là một nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, được sống trong
những năm tháng hào hùng của dân tộc, lại được sinh trưởng trên mảnh đất Kinh Bắc
– một trong những cái nôi văn hóa của dân tộc, Đỗ Chu đã sớm định hình cho mình
một quan niệm riêng về con người và cuộc sống. “Với tấm lòng nhân hậu, bao dung
và gần như tuyệt đối tin vào tình người, tình đời, Đỗ Chu có một quan niệm về con
người hết sức trong sáng, nhân ái và vị tha. Trong thế giới nhân vật của Đỗ Chu
không có kẻ ác và rất ít cái xấu”, “hầu như chỉ có nhân vật chính diện”.
Quan niệm về con người này của Đỗ Chu đã chi phối thế giới nhân vật trong
truyện ngắn của ông. Các kiểu nhân vật quen thuộc là:
2.2.1.1. Nhân vật đời thường với những vẻ đẹp thời đại, hòa mình vào
đời sống cộng đồng
Là bộ phận của nền văn học chiến tranh, truyện ngắn Đỗ Chu gắn với kiểu nhà
văn - chiến sĩ, nhà văn - cách mạng. Họ phát ngôn cho tiếng nói thời đại, nhân danh
kinh nghiệm cộng đồng. Giai đoạn này, nhân vật trung tâm của văn học nói chung và
truyện ngắn Đỗ Chu nói riêng là những người có sự kết tinh các phẩm chất cao quý
của cộng đồng, gắn bó số phận mình với số phận đất nước. Đó là những người anh
hùng đại diện cho giai cấp, cho dân tộc và thời đại.
Thời đại mà Đỗ Chu đang sống là thời đại “ra ngõ gặp anh hùng”. Đó là lý do
ta bắt gặp trong sáng tác của Đỗ Chu những đặc tính của người anh hùng. Hình tượng
nhân vật trung tâm trong sáng tác của ông là thế hệ trẻ tuổi, với khát khao và hoài bão
cháy bỏng, những con người mang trong mình lý tưởng sống cao đẹp như người thanh
niên trong Đường qua nhà, Nghĩa trong Một người lính trở về, Trọng trong Tâm sự
người ở lại, Hàm-người lính lái xe và Chuyên – cô thanh niên xung phong làm giao
11
liên trong Ráng đỏ, Liệu trong Tiếng vang của rừng, Quế trong Nhành quế, Cung, An
và Bích trong Trung du. Đọc truyện ngắn của Đỗ Chu, ta không thể quên được hình
ảnh những cô thanh niên xung phong, những cô gái mở đường, những người chiến sỹ
quân bưu, những cô văn công phục vụ chiến trường. Đó là những Quế (Nhành quế),
Chuyên (Ráng đỏ), Bích (Trung du), Vui, Thư, Hồng (Gió qua thung lũng)…
2.2.1.2. Kiểu nhân vật có biểu hiện tiêu cực
Trước 1975, cảm hứng lãng mạn cách mạng là nguồn mạch chính trong các
truyện ngắn của Đỗ Chu. Nguồn mạch này chi phối đến hệ đề tài, khiến Đỗ Chu thiên
về khai thác cái đẹp, chất thơ trong đời sống. Nó biểu hiện ở vẻ đẹp tâm hồn, thế giới
tinh thần phong phú của nhân vật, cách nhìn về thiên nhiên và cách phản ánh hiện
thực đời sống. Tuy nhiên từ sau năm 1975, cảm hứng bi kịch trở nên đậm đặc. Nhân
vật của ông trở nên đời hơn, và cũng có phần nghiệt ngã hơn. Nhiều mảng tối của đời
sống được lật xới lên. Con người trong xã hội hiện đại có những dấu hiệu thoái hóa,
sống ích kỷ. Tất cả đều được Đỗ Chu phản ảnh chân thực trong Mê lộ, Người của
muôn năm trước, Họa mi hót, Ngày đang trôi… Có thể nói, với chất thời sự nóng hổi
của hiện thực đời thường lấp lánh qua từng trang sách, truyện ngắn của Đỗ Chu thời
kỳ đổi mới đã có sự lột xác để đến gần hơn với bạn đọc.
2.2.2. Quan niệm nghệ thuật về con người và những kiểu nhân vật trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Với nguyên tắc “tôn trọng sự thật”, Nguyễn Huy Thiệp xem sự thật như linh
hồn của nghệ thuật chân chính, hướng đến phanh phui các mặt trái của xã hội, của
lòng người. Nếu như nhân vật của Đỗ Chu dường như đẹp một cách hoàn mỹ, có thể
gọi họ là những con người sử thi thì nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp lại hiện lên với
hai cực đối lập: bản chất thấp hèn và tinh thần cao cả, thú tính và nhân tính. Chúng tôi
soi chiếu vào truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và nhận thấy, thế giới con người trong
truyện khá phong phú và đa dạng. Các kiểu nhân vật quen thuộc là:
2.2.2.1. Nhân vật đời thường phản ánh đúng bản chất xã hội hiện đại
Trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975, cô đơn là một trong những
chủ đề kiêng kị, bị đa số các nhà văn né tránh. Bởi khi tồn tại với tư cách con người
tập thể, nhân vật sẽ được bủa vây xung quanh là bạn bè, đồng đội, dân tộc, đất
nước… họ không có không gian để quan tâm đến đời sống riêng tư của mình, và do
đó, không cảm thấy cô đơn. Điều này ta nhận thấy rất rõ trong truyện ngắn Đỗ Chu.
Nhưng văn học sau 1975, với sự xuất hiện của con người cá thể, sự bừng tỉnh của ý
thức cá nhân, con người thường xuyên đối diện với chính mình và cảm nhận đặc
biệt trong sự cô đơn. Vì thế khi đọc truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, độc giả nhận
thấy một mẫu hình nhân vật quen thuộc là con người cô đơn như Đăng trong Tâm
hồn mẹ,Chương (Con gái thủy thần), chàng trai (Truyện tình kể trong đêm mưa),
Thuấn (Tướng về hưu), cô gái (Không khóc ở Califorlia), Hồ Xuân Hương (Chút
thoáng Xuân Hương)…
Hình tượng con người bị dục vọng, đồng tiền tha hóa cũng được Đỗ Chu
phản ánh trong những sáng tác sau năm 1975 nhưng với tần suất và cường độ ít hơn
so với Nguyễn Huy Thiệp. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã tái hiện lại một thế giới
12
người không có vua, biển không có thuỷ thần như Thủy (Tướng về hưu), Thiều Hoa
(Giọt máu), gia đình Không có vua…
2.2.2.2. Nhân vật người anh hùng
Không bằng lòng với cách tái hiện hiện thực bằng những con người bình
thường, Nguyễn Huy Thiệp còn tìm cách “lạ hóa” nhân vật bằng cách tạo ra kiểu
nhân vật giả cổ tích, giả huyền thoại, giả lịch sử. Với cách viết này, ông đã hạ bệ
người anh hùng. Dưới con mắt của nhà văn ấy, những nhân vật lịch sử nổi tiếng như
Nguyễn Trãi, Quang Trung, Nguyễn Du, Hoàng Hoa Thám không phải được nhận
thức như chính sử, với những nguyên tắc có sẵn, theo đúng những mô hình đã được
định dạng chắc chắn trong ý thức xã hội, lịch sử mà Nguyễn Huy Thiệp đã “thông
hiểu” người anh hùng theo sự vận động của đời sống tâm linh của mỗi người. Nhà
văn đã bình dân hóa các vĩ nhân, gỡ bỏ hào quang, thế tục hoá các thánh nhân để họ
trở thành những người bình thường trong đại chúng. Với hướng đi xây dựng các hình
tượng người anh hùng như thế, Nguyễn Huy Thiệp đã đi theo đúng xu thế chung của
nhân loại. Bởi trở về với đại chúng, đi vào tâm lý của cá nhân con người, xét tới tận
cùng, đó cũng là qui luật của văn học hậu hiện đại nói riêng và văn học nói chung. Đó
là những sáng tạo nghệ thuật thể hiện tài năng của Nguyễn Huy Thiệp mà khó ai có
thể phủ nhận.
2.2.2.3. Con người dị dạng, dị biệt (ngoại hình, tính cách, tâm hồn)
Nếu như nhân vật trong truyện ngắn Đỗ Chu thường được xây dựng khá hoàn
hảo, mang những vẻ đẹp của thời đại, của dân tộc, nhân vật của ông miêu tả bao giờ
cũng thanh tú, lịch lãm, hiền lành với bút pháp miêu tả chân dung ít nhiều mang tính
ước lệ như nhân vật Chuyên, Quế, An, Lân, Hàm, Sơn, Vĩnh, Hạnh Nguyễn, Nham…
thì trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, người đọc lại thấy xuất hiện một thế
giới người dị biệt, dị dạng về ngoại hình, tích cách và cả tâm hồn. Loại hình nhân vật
này được cụ thể hoá bằng hình ảnh của chàng Khó, nàng Pùa trong Những ngọn gió
Hua Tát, lão già bại liệt Chương, thằng bé Dân mồ côi trong Con gái thuỷ thần, như
Tốn trong Không có vua, cô Lài trong Tướng về hưu, nhân vật Cún trong Cún, Hạnh
trong Giọt máu, chú Hoạt trong chú Hoạt tôi, Trương Chi trong Trương Chi. Việc các
nhân vật dị biệt xuất hiện ngày càng nhiều trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp nói
riêng và văn học thời kỳ Đổi mới cho thấy nhà văn đã nhìn cuộc sống trong tính toàn
vẹn, quan tâm đến nhiều loại nhân vật khác nhau chứ không bằng lòng với những
nhân vật “quá sạch sẽ”. Thông qua loại nhân vật này, nhà văn muốn biểu đạt quan
niệm riêng của họ về một thế giới chưa hoàn thiện, một xã hội phức tạp và bồn bề
nhiều vấn đề như chính quy luật của cuộc sống.
Tiểu kết
Có thể nói năm 1975, chiến tranh kết thúc đã đánh dấu những chuyển biến
mạnh mẽ trong đời sống và văn học cũng vì thế cựa mình thay đổi. Một luồng gió
mới ào ạt thổi vào đời sống văn học nước nhà. Bên cạnh tiểu thuyết, thơ, kí, kịch…
truyện ngắn trở thành một thể loại rực rỡ của văn học Việt Nam sau 1975. Nó được
xem là một “cú hích” mạnh mẽ và khả quan, tạo nên một phản ứng dây chuyền, có
tác dụng “kích nổ” sự phát triển truyện ngắn với rất nhiều gương mặt tiêu biểu như:
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp,… Ngòi bút của các nhà văn thay đổi trên
13
nhiều phương diện, trong đó đặc biệt chú ý nhất là thay đổi quan điểm nghệ thuật về
con người, đây là một bước chuyển quan trọng cho truyện ngắn. Nhìn lại quan niệm
nghệ thuật về con người của Đỗ Chu và Nguyễn Huy Thiệp, người đọc phần nào thấy
được phong cách, giọng điệu riêng của hai nhà văn, đồng thời thấy được sự vận động
của truyện ngắn Việt Nam sau Đổi mới. Sau Nguyễn Huy Thiệp, hoàn toàn không
thiên cưỡng để nói rằng, một diện mạo mới của truyện ngắn Việt Nam đã hình thành.
Trong giai đoạn mới, truyện ngắn đã phát huy được khả năng tiếp cận và phản ánh
hiện thực con người một cách nhanh nhạy và sắc bén. Với đặc trưng cơ bản của thể
loại, truyện ngắn đã tạo cơ sở cho sự biểu hiện những thay đổi trong quan niệm nghệ
thuật về con người. Với tầm nhìn mới phóng chiếu vào quá khứ và hiện tại, các tác
giả trẻ sau năm 1975 đi sâu khám phá về đời tư của cá nhân. Nhà văn cũng không bị
chìm vào các sự kiện, không khí lịch sử. Trọng tâm chú ý của nhà văn là từng con
người, từng số phận. Văn học sau 1975 hướng đến khám phá và tạo dựng con người
thế sự - đời tư, con người cá nhân với những phức tạp và bí ẩn của nó. Nhân vật thực
sự là điểm mấu chốt trong sự đổi mới của văn học nói chung và truyện ngắn đương
đại nói riêng. Sự đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người đã phá bỏ truyền
thống của những sự phân tuyến tốt – xấu; cao cả- thấp hèn… rạch ròi; con người cá
nhân thay thế cho con người cộng đồng, được nhìn nhận từ nhiều góc độ, nhiều chiều.
Khác với hình tượng phổ biến của văn học giai đoạn 1945 - 1975 về những con người
lạc quan, yêu đời, sống hòa mình vào cái ta chung, một bộ phận lớn truyện ngắn sau
đổi mới 1986 khai thác hình ảnh con người cô đơn như một loại hình nhân vật tiêu
biểu của thời hiện đại. Sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người này đã chứng
minh cho luận điểm của Milan Kundra: “con người là hiền minh của lưỡng lự”, con
người quả là đa dạng, phong phú. Chính điều này đã khiến cho nhân vật trong truyện
ngắn thời kỳ Đổi mới đã có những đặc trưng khác biệt so với giai đoạn trước: đa dạng
và phong phú với nhiều kiểu dạng nhân vật, tính cách. Điều này thể hiện rõ hơn khả
năng nhạy bén trong việc tiếp cận và khai thác hiện thực của các nhà văn, đồng thời
thấy được hiện thực cuộc sống luôn bộn bề và phức tạp. Nó thể hiện cái nhìn toàn
vẹn, đa chiều về đời sống bằng tính đa nguyên của nghệ thuật. Có thể nói chưa bao
giờ trong văn xuôi nói chung và truyện ngắn nói riêng, con người lại được khai thác ở
nhiều chiều kích và bình diện đến vậy. Tiếp cận với thế giới nhân vật trong các sáng
tác, người đọc như được tiếp xúc với những con người có thực ở ngoài đời, cũng sinh
động, phong phú và không kém phần phức tạp. Với ý nghĩa nhân sinh sâu sắc, truyện
ngắn góp phần làm cân bằng hài hoà trở lại cách nhìn nhận con người về mặt cộng
đồng tập thể của giai đoạn văn học trước.
Chương 3
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VẬN ĐỘNG VỀ NGHỆ THUẬT
CỦA TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
QUA TRUYỆN NGẮN ĐỖ CHU VÀ NGUYỄN HUY THIỆP
3.1. Sự vận động về nghệ thuật xây dựng cốt truyện và kết cấu
3.1.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “là hệ thống các sự kiện cụ thể được tổ chức
14
theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định tạo thành một bộ phận cơ bản, quan
trọng trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc loại hình tự sự và kịch”. Cốt
truyện đóng vai trò quan trọng trong thể tự sự.
3.1.1.1. Cốt truyện trong truyện ngắn Đỗ Chu
Đọc truyện ngắn Đỗ Chu, độc giả có thể nhận ra sáng tác của ông chủ yếu
được cấu tạo theo hai loại hình cột truyện chính là: truyện không có truyện và cốt
truyện có những tình huống, chi tiết bất ngờ và thường đưa đến kết thúc có hậu.
a. Truyện không có cốt truyện
Từ những năm 60, với tác động của văn học dịch, nhất là truyện ngắn của
Pauxtốpxki (K. Paustovski), truyện ngắn Việt Nam đã dần dần xuất hiện loại truyện
ngắn không có cốt truyện chặt chẽ: một số truyện trong tập Rẻo cao của Nguyên
Ngọc, trong hai tập Trăng sáng và Đôi bạn của Nguyễn Ngọc Tấn, và nhất là các
truyện ngắn của Đỗ Chu. Loại truyện “không có chuyện” này có lúc trở thành “mốt”.
Truyện ngắn của Đỗ Chu thường viết về những điều rất đỗi giản dị, bình thường. Có
lẽ cũng chính vì nhà văn luôn có ý thức “thường cốt truyện không thành vấn đề lắm”
cho nên ông không chú trọng nhiều vào việc xây dựng những cốt truyện li kì, giật
gân, những tình huống bất ngờ hay những yếu tố kì ảo. Trong truyện ngắn của Đỗ
Chu, những chi tiết, biến cố, sự kiện không phải là chất kết dính duy nhất mạch
chuyện kể. Có thể nói Đỗ Chu là nhà văn mạnh về trực giác.
Những truyện ngắn như Hương cỏ mật, Mùa cá bột, Tiếng vang của rừng…
không phải không có một “biến cố” nào đó làm cơ sở cho cốt truyện, có điều “biến
cố” đó là những xung động hết sức nhỏ nhẹ, khẽ khàng trong tâm lý của một hoặc
một tập thể nhân vật. Cốt truyện kiểu này phù hợp để nhà văn Đỗ Chu thể hiện chủ đề
ân tình ân nghĩa, nó nhằm thể hiện những nhận thức và xúc cảm bên trong hơn là
những tương quan và xung đột bên ngoài.
b. Cốt truyện có những tình huống, chi tiết bất ngờ và thường đưa đến kết thúc
có hậu.
Cốt truyện kiểu này xuất hiện nhiều trong các sáng tác của Đỗ Chu từ sau năm
1975 như Họa mi hót, Đất bãi, Mê lộ… Có lẽ chính hiện thực xã hội phức tạp, bộn bề
sau năm 1975 đã kích thích nhà văn có những sáng tạo tình huống độc đáo “thoát ra
ngoài khuôn khổ” như thế. Tình huống mà người đọc nhận thấy khá nhiều trong kiểu
cốt truyện này là tình huống trở về – bất ngờ gặp lại và cuối cùng nhân vật tìm thấy
hạnh phúc. Nhân vật chính trong những truyện này thường là người lính trở về sau
những năm tháng chiến tranh ác liệt như Nhuần (Đất bãi), Trữ (Mê lộ), Thiêm (Hoạ
mi hót), Nhưỡng (Cánh đồng không có chân trời) Xây dựng cốt truyện như vậy tác
giả Đỗ Chu đã thể hiện tấm lòng nhân hậu và niềm tin của nhà văn trước cuộc đời và
con người.
3.1.1.2. Cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Khảo sát qua tập truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, có thể thấy phần lớn truyện
ngắn của ông có cách tổ chức thành phần cốt truyện không theo lối truyền thống.
Điều đặc biệt là cách sắp xếp cốt truyện của nhà văn rất linh hoạt, ở mỗi truyện đều
không giống nhau. Nhưng tựu trung lại, có thể phân loại cách xây dựng cốt truyện
15
của Nguyễn Huy Thiệp tập trung thành hai loại chính là: cốt truyện kết thúc không có
hậu và cốt truyện phức tạp.
a. Cốt truyện kết thúc thường không có hậu:
Nếu như truyện ngắn Đỗ Chu với những cái kết có hậu luôn lấp lánh một niềm
tin tưởng lạc quan của nhà văn về con người và cuộc sống, thì trogn thế giới truyện
ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, người đọc lại rất khó có thể tìm được một với kết thúc
có hậu. Truyện ngắn truyền thống thường có mô hình cốt truyện “kết thúc có hậu”.
Nếu như đặc điểm thi pháp truyện cổ tích là phải có kết thúc có hậu thì liên truyện giả
cổ tích Những ngọn gió Hua Tát của Nguyễn Huy Thiệp lại khác biệt rõ rệt. Người
đọc cũng chỉ tìm thấy 4/10 truyện có kết thúc có hậu. Trong cả tuyển tập Nguyễn Huy
Thiệp truyện ngắn, độc giả thống kê được 40/47 truyện có thể coi là kết thúc không
có hậu. Con số ít ỏi này cho thấy dường như với ông, cách kết thúc không có hậu dễ
tạo được ấn tượng mạnh hơn cho độc giả về một xã hội hiện đại đang bộc lộ những
mặt trái. Kiểu truyện này cũng thể hiện cái nhìn và sự phản ánh hiện thực một cách
chân thực và nhất quán của Nguyễn Huy Thiệp trước hiện thực cuộc sống.
b. Cốt truyện phức tạp
Với cảm hứng ngợi ca và một thế giới nhân vật thuần nhất, truyện ngắn Đỗ
Chu thường có cốt truyện giản dị và đào sâu vào những cảm xúc bên trong thì truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp lại là bức tranh đậm nét từng mảng hiện thực, hiện thực xã
hội giống như một mớ bòng bong, rốt loạn khiến cốt truyện mà nhà văn Nguyễn Huy
Thiệp xây dựng cũng phức tạp, nhiều mối quan hệ chằng chịt, nhiều biến cố, tình tiết
phức tạp hay có khi là những chùm truyện,… như Tướng về hưu, Những ngọn gió
Hua Tát…
Tóm lại, truyện ngắn trước và sau năm 1975 đã có sự đổi mới về cốt truyện.
Các nhà văn đã chú trọng xây dựng những cốt truyện có tình huống độc đáo, nhiều
biến cố và tình tiết hấp dẫn hơn, đặc biệt với những tác phẩm có hơi hướng tiểu
thuyết, nhà văn đã thả lỏng cốt truyện, mở rộng không gian, thời gian, khiến tác phẩm
có cấu trúc lỏng nhưng phản ánh được nhiều chiều hiện thực. Có lẽ chính bức tranh
hiện thực đời sống bộn bề, phức tạp đương đại đã thôi thúc các nhà văn như Đỗ Chu,
Nguyễn Huy Thiệp phải đổi mới cốt truyện để những sáng tác của họ được mở rộng
tối đa chiều kích phản ánh. Hiện thực cuộc sống và con người vì thế cũng được phản
ánh có chiều sâu và tầm khái quát rộng lớn hơn.
3.1.2. Kết cấu
Kết cấu theo GS. Hà Minh Đức: “Kết cấu tác phẩm là toàn bộ tổ chức tác
phẩm phục tùng đặc trưng nghệ thuật và nhiệm vụ nghệ thuật, không tách rời nội
dung cuộc sống và tư tưởng trong tác phẩm”.
3.1.2.1. Kết cấu trong truyện ngắn Đỗ Chu
a. Kết cấu giản dị, tự nhiên, tuân thủ những nguyên tắc truyền thống:
Đỗ Chu từng tâm sự: “với tôi cốt truyện không thành vấn đề lắm”. Có lẽ chính
vì vậy mà truyện ngắn của ông thường có lối kết cấu tự nhiên, giản dị. Đã có lần ông
từng bộc bạch rằng trong quá trình sáng tác, ông thường không có thói quen xây dựng
kết cấu truyện mà kết cấu thường xuất hiện cùng một lúc với ý đồ nghệ thuật của nhà
văn, “có truyện ban đầu chỉ đến với tôi bằng một cái tên Hương cỏ mật, Mùa cá bột,
16
tôi nghĩ ra những cái tên ất trước, thấy hay hay, rồi liên tưởng ra nhân vật và cốt
truyện. Có truyện chỉ bắt đầu từ một khung cảnh. Như trường hợp truyện Phù sa…
Hoặc Ráng đỏ thì truyện bắt đầu từ những số phận tôi gặp trong đời sống”.
b. Kết cấu truyện lồng trong truyện
Đọc truyện ngắn Đỗ Chu, ta bắt gặp một lối kết cấu khá phổ biến là hình thức
truyện lồng trong truyện. Người đọc dễ dàng tìm thấy trong hàng loạt các truyện ngắn
mang kết cấu này như Hương cỏ mật, Đường qua nhà, Chuyện mùa hạ, Gió qua
thung lũng, Ráng đỏ, Trung du, Tháng hai, Hoạ mi hót, Chiến sỹ quân bưu, Chân
trời… Lồng ghép những mảnh đời vào câu chuyện, tác giả đã làm đa dạng hóa kết
cấu trần thuật. Với cách kết cấu này, người đọc có hình dung ra những câu chuyện
trên như những bông hoa đang chớm nở. Ta phải bóc dần từng cánh từng cánh để
thấy được cái nhụy bên trong – một cái nhụy mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc như
một hạt giống lành để lại mùa sau.
c. Kiểu kết cấu truyện đơn tuyến
Kết cấu tác phẩm phản ánh quá trình tư duy của nhà văn, quá trình vận động
của tư duy ấy. Khi tư duy nghệ thuật của nhà văn có sự biến đổi, vận động thì tất yếu
kết cấu tác phẩm cũng có sự thay đổi. Truyện ngắn Đỗ Chu thể hiện khá rõ nét đặc
điểm này.
Từ sau năm 1986, sự chiếm lĩnh hiện thực và quan niệm nghệ thuật của nhà
văn Đỗ Chu có sự biến đổi rõ nét, điều này kéo theo sự thay đổi của cốt truyện và kết
cấu. Cốt truyện giai đoạn này thường được Đỗ Chu xây dựng theo kiểu đơn tuyến.
Với kiểu kết cấu này, nhà văn đã tập trung ngòi bút của mình vào xây dựng tình tiết,
sự kiện và các biến cố. Ở một số truyện xuất hiện những yếu tố bất ngờ, đột biến
trong tâm lý nhân vật. Chính điều này đã thể hiện rõ nét, sâu sắc hơn những bi kịch
cuộc sống của con người và những mặt trái trong xã hội hiện đại. Một loạt những
truyện ngắn như Cánh đồng không có chân trời, Mảnh vườn xưa hoang vắng, Một
loài chim trên sóng, Mê lộ, Ngày đang trôi,… đều có kết cấu này.
3.1.2.2. Kết cấu trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Nếu như truyện ngắn Đỗ Chu thường giản dị và chuẩn mực thi kết cấu truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp thường phức tạp, không tuân theo những mô hình truyền thống.
Kết cấu phức tạp thể hiện trước hết là cách xây dựng cốt truyện với sự lắp
ghép liên văn bản, gồm những mảng sự kiện có tính chất tương đối độc lập: Con gái
thủy thần, Những ngọn gió Hua Tát, Kiếm sắc, Thương nhớ đồng quê, Huyền thoại
phố phường… có tác dụng “hình thức hóa” sự phồn tạp, hỗn loạn của hiện thực đời
sống. Kiểu kết cấu phân mảnh như vậy cũng thể hiện quan niệm của nhà văn về hiện
thực. Đó là một hiện thực không toàn vẹn, một hiện thực rời rạc, đổ vỡ, rạn nứt, một
cuộc sống đang tan rã dần dần, một cuộc sống không dễ tìm mối tương giao, liên kết.
Kết cấu phức tạp còn ẩn chứa sự giãn cách bởi sự đan xen của những đoạn thơ,
đoạn trữ tình ngoại đề, mấy dòng nhật kí, một bức thư… như Giọt máu, Con gái thủy
thần, Những ngọn gió Hua Tát, Chút thoáng Xuân Hương…có tác dụng làm chậm lại
mạch tự sự, đào sâu tâm trạng nhân vật, làm sáng tỏ thêm nội dung tư tưởng của tác
phẩm. Người đọc bắt trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp những mô hình cốt truyện
đã bị phân tán, thậm chí gẫy vụn bởi sự bất lực của người kể chuyện trong việc tìm
17
kiếm những tư liệu cổ, những chi tiết trong xây dựng mạch truyện như Vàng lửa,
Nguyễn Thị Lộ,…
Kết cấu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp còn hấp dẫn người đọc bởi những
cách kết thúc mở, đa nghĩa hoặc bỏ lửng. Khảo sát truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp,
chúng tôi nhận thấy ông đã sáng tạo ra nhiều kiểu kết thúc không khép kín khá độc
đáo: kết thúc bỏ lửng, kết thúc với nhân vật chính tiếp tục ra đi, kết thúc mở ra nhiều
kiểu khác nhau trong việc giải quyết các xung đột và số phận nhân vật, kết thúc đảo
ngược so với cổ tích, và thực tế lịch sử… Những truyện ngắn như Con gái thủy thần,
Vàng lửa, Không có vua, Chăn trâu cắt cỏ… mở ra chân trời liên tưởng rộng lớn cho
độc giả đồng thời tạo sự đa thanh trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
3.2. Sự vận động về nghệ thuật trần thuật
3.2.1. Ngôn ngữ
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp đặc thù của con người. Nó giúp cho con
người có thể hiểu được những tâm tư tình cảm của nhau, từ đó có thể xây dựng nên
một xã hội bền vững, phát triển. Văn học, với tư cách là một một bộ môn nghệ thuật
đặc biệt cũng dùng ngôn ngữ làm phương tiện biểu đạt.
3.2.1.1. Ngôn ngữ truyện ngắn Đỗ Chu
a. Ngôn ngữ giàu chất thơ
Ngôn ngữ của Đỗ Chu tươi đẹp, hiền hòa chứ không cốt phô diễn cá tính
mạnh mẽ như nhà văn Nguyễn Tuân. Truyện ngắn Đỗ Chu vì thế mang đậm tính chất
trữ tình, giàu chất thơ, thứ thơ thanh cao và bình dị. Người đọc cảm nhận được rằng
tác phẩm của ông thể hiện sự quan sát tinh tế của nhà văn trước thiên nhiên và cuộc
sống. Đọc truyện ngắn Đỗ Chu, độc giả không chỉ biết được cuộc sống mà còn cảm
được nó nhờ vào lối viết nên thơ của nhà văn. Nhìn chung, giai đoạn trước 1975, thứ
văn xuôi giàu chất thơ của Đỗ Chu chảy tràn trên từng câu chữ đã mang lại cho lòng
người một thứ tình cảm ấm áp, tin yêu.
b. Ngôn ngữ giàu chất khẩu ngữ
Từ sau 1989, bên cạnh những trang văn giàu chất thơ, văn Đỗ Chu có khi cũng
thô mộc, sù sì, đậm chất hiện thực. Ngôn ngữ trở nên “đời” hơn do nhu cầu phản ánh
đa dạng các góc cạnh phức tạp của đời sống. Ông định danh, định tính sự vật, hiện
tượng bằng câu từ chính xác, không cầu kỳ, trau chuốt. Nhờ sự suồng sã, thân mật mà
các đối tượng phản ánh trở nên chân thực hơn bao giờ hết, khắc họa được sinh động,
sắc nét cá tính, chân dung các nhân vật. Một số truyện ngắn qua hai tuyển tập Mảnh
vườn xưa hoang vắng và đặc biệt là Một loài chim trên sóng xuất hiện nhiều tiếng
chửi, lối nói trần trụi, bụi bặm, dân dã. Khảo sát các truyện ngắn trong hai tập Mảnh
vườn xưa hoang vắng và Một loài chim trên sóng, ta thấy Đỗ Chu vận dụng khá
nhiều thành ngữ, lối nói khẩu ngữ dân gian.
3.2.1.2. Ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Trong văn xuôi, bước đổi thay của ngôn ngữ lúc đầu gắn với nhu cầu “được
nói thật”. Sự cổ vũ của Đảng “nhìn thẳng và nói thật” cho phép nhiều tác phẩm chống
tiêu cực ra đời. Ngôn ngữ văn xuôi bắt đầu bớt đi vẻ trang trọng, ít du dương, ít rào
đón mà gần gũi với đời thường, chân thật trong giọng điệu, thô nhám trong từ ngữ.
Sự xuất hiện của Nguyễn Huy Thiệp như một hiện tượng “lạ”. Ngoài khả năng biến
18
ảo của một bút pháp đa dạng, đa tầng, tác giả này còn gây cú sốc thực sự cho ngôn
ngữ văn học. Lối nói “cộc lốc”, sắc bén và hàm súc, câu văn ngắn gọn, dồn dập, hạn
chế tối đa các liên từ, nén năng lượng làm rung chuyển lối văn mực thước, trang
trọng hoặc rào đón, đưa đẩy. Ngòi bút tác giả này như không hề biết đến những gửi
thưa kiểu cách, những nghi thức nhiều khi rất nhiều khách sáo, mặc nhiên khẳng định
tư thế bình đẳng, dân chủ giữa con người với con người. Lối văn đó phù hợp với cái
hiện thực đời thường mà ông mô tả.
Nguyễn Huy Thiệp sử dụng các đối thoại giàu tính kịch, dung hợp những từ
ngữ thông tục, gần với ngôn ngữ đời sống khác với ngôn ngữ truyện ngắn Đỗ Chu có
mức độ cách điệu hóa ngôn ngữ ngoài đời cao hơn. Thu hẹp khoảng cách giữa truyện
kể và những “chuyện” của hiện thực, ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp nói riêng và truyện ngắn đương đại trở nên gần với ngôn ngữ đời sống
hơn bao giờ hết.
Cùng với Nguyễn Huy Thiệp và trong không khí dân chủ cởi mở của xã hội,
xuất hiện hàng loạt cây bút trẻ. Họ ít bị ràng buộc bởi những tín điều đạo đức, luân lý.
Họ vừa tự tin vào mình, vừa nhiều hoài nghi đối với cuộc đời. Bởi vậy họ sử dụng
ngôn ngữ văn chương để bộc lộ “cái tôi” cá tính của mình. Những cái tên như
Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Ngọc Tư, Phan Thị Vàng Anh… và
những truyện ngắn của họ chính là những dấu hiệu sắc nét thể hiện sự vận động của
truyện ngắn Việt Nam hiện đại nhìn từ góc độ ngôn ngữ trần thuật.
3.2.2. Giọng điệu trần thuật
Giọng điệu “là thái độ, tình cảm của nhà văn đối với sự việc, hiện tượng được
miêu tả mà người đọc có thể cảm nhận qua sắc thái biểu cảm của lời văn”.
3.2.2.1. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Chu
Có thể nhận thấy, trước 1975, Đỗ Chu thiên về bộc bạch cảm xúc, tâm trạng
và những nghĩ suy trước thực tế lớn của đất nước. Nó được lọc qua một cái “tôi” trữ
tình của tác giả hoặc của nhân vật. Cho nên ta bắt gặp hầu hết trong sáng tác của Đỗ
Chu trước 1975 là giọng điệu trữ tình, đằm thắm. Từ sau 1975, do sự khám phá, phát
hiện các bề trái của hiện thực cuộc sống nên xuất hiện thêm giọng chiêm nghiệm, suy
tư và giọng điệu mỉa mai, châm biếm.
3.2.2.2. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Nếu giọng điệu chủ đạo của truyện ngắn Đỗ Chu là giọng trữ tình, thì giọng
Nguyễn Huy Thiệp là sự giễu nhại, khách quan, sắc lạnh. Đây là chất giọng tiêu biểu
của thể loại tự sự, nó phá vỡ khoảng cách sử thi, đưa văn học về gần với hiện thực
cuộc sống. Giọng lu loa, sừng sộ, tiếng gầm gào cuộn réo trong văn học thời đổi mới
không thể cất lên thành tiếng hát. Cái vô lí, phi lí, chất văn xuôi và vẻ đẹp của đời
sống phồn tạp chỉ có thể hoá thân vào tiếng cười trào tiếu, giễu nhại để văn học thế
sự biến thành tiếng nói nghệ thuật.
Với phương thức giễu nhại, nhà văn đã miêu tả cuộc đời giống như một kịch
trường như để muốn thức tỉnh lòng người trước những vấn đề về cuộc sống hiện đại.
Ẩn giấu đằng sau sự giễu nhại của Nguyễn Huy Thiệp người đọc cảm nhận được một
cảm giác tái tê, một nỗi đau âm thầm, lặng lẽ mà sâu sắc, một nỗi hoài nghi về trật tự
xã hội và về chính con người. Đó chính là lớp trầm tích đằng sau một thế giới nhại có
19
phần lạnh lùng của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Tóm lại, giọng trào lộng đã thể
hiện rõ chức năng chỉnh lý hình tượng bằng tiếng cười, là một trong những nỗ lực
khám phá tích cực và toàn diện cuộc sống của người viết. Nó góp phần mang lại sự
cởi mở, thoải mái, dân chủ của đời sống văn học đương đại. Một mặt nó giải thoát
cho khả năng phán đoán, mở rộng trí tưởng tượng, mặt khác lại không ngừng duy trì
mối liên hệ tỉnh táo với hiện thực. Đây cũng chính là một trong những nhân tố quan
trọng tạo ra tính hiện đại của văn học giai đoạn này, bởi hài hước là “phát minh lớn
nhất của tinh thần hiện đại”.
Trong mỗi tác phẩm, bên cạnh giọng điệu chủ đạo, bao giờ cũng tồn tại nhiều
sắc thái giọng điệu khác nhau. Bởi cũng theo M. Khrapchencô, “giọng điệu chủ đạo
không những không loại trừ mà còn cho phép tồn tại trong tác phẩm văn học những
giọng điệu khác nhau”. Khi đọc truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, độc giả dễ dàng
nhận ra giọng điệu chủ đạo trong các tác phẩm của ông là giọng giễu nhại. Bên cạnh
đó người đọc còn bắt gặp giọng điệu triết lí, suy tư và giọng điệu trữ tình thiết tha,
sâu lắng trong một số sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Nhiều sắc thái giọng điệu trần
thuật này giúp nhà văn tạo được sự đa thanh và góp phần quan trọng vào thành công
của mỗi tác phẩm.
3.2.3. Nhịp điệu trần thuật
Theo Trần Đăng Suyền: “Trong tác phẩm tự sự, nhịp điệu trần thuật chủ yếu
được xác định bởi sự nhanh hay chậm của các tình tiết, sự kiện, biến cố”.
3.2.3.1. Nhịp điều trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Chu
Với kiểu truyện không có chuyện, lối kết cấu nương theo dòng hồi tưởng,
dòng ý thức của nhân vật, với nhiều đoạn trữ tình ngoại đề, độc thoại nội tâm và cách
viết câu văn dài, Đỗ Chu đã tạo cho truyện ngắn của mình một điều hồn riêng, một
nhịp điệu riêng – chậm rãi, khoan thai, nhẩn nha. Với việc sử dụng đắc địa nhịp điệu
trần thuật như vậy, Đỗ Chu vừa có khả năng phản ánh đời sống hiện thực bằng cái
nhìn chiệm nghiệm, vừa tạo ra những khoảng lặng nghệ thuật để độc giả cùng suy
ngẫm. Đây cũng là cách Đỗ Chu nhẹ nhàng đưa tác phẩm của mình đến với công
chúng yêu nghệ thuật chân chính.
3.2.3.2. Nhịp điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Nhịp điệu trần thuật của Nguyễn Huy Thiệp thường nhanh, ngắn, gấp gáp.
Nhịp điệu này một chuỗi những câu văn ngắn, súc tích. Qua khảo sát, chúng tôi nhận
thấy mô hình câu văn quen thuộc trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là câu văn kể
ngắn gọn, trần trụi, bảo đảm tính khách quan tối đa cho ngôn ngữ trần thuật.
Ngoài ra, nhịp điệu của lời đối thoại gọn, nhanh, không cần bất cứ sự che
chắn, trợ giúp ngoài ngôn ngữ nào. Lời dẫn truyện cũng bị gọt tỉa đến mức tối đa.
Điều đó tạo nên hiệu quả thẩm mĩ tích cực. Sự dồn nén thông tin như vậy đem đến
cho câu văn của Nguyễn Huy Thiệp những khoảng lặng, khoảng mở cần thiết để
người đọc tự do suy tưởng và tưởng tượng. Những câu văn dài xuất hiện chẳng qua là
sự chắp nối của những đoản ngữ cô đặc ngắn gọn, được ghép lại liền mạch với một
nhịp điệu dồn đập như chính nhịp chảy sôi động, gấp gáp của cuộc sống hiện đại.
20
Tiểu kết
Trần thuật là một phương diện cơ bản của tự sự, bao gồm rất nhiều vấn đề liên
quan đến tổ chức và cấu trúc một văn bản. Khảo sát truyện ngắn Đỗ Chu và Nguyễn
Huy Thiệp, luận văn bước đầu ghi nhận một số xu hướng đổi mới nghệ thuật trần
thuật như hiện tượng phân rã cốt truyện; ngôn ngữ trần thuật giàu chất hiện thực đời
thường; nhịp điệu trần thuật nhanh, tính thông tin cao; truyện ngắn vận dụng nhiều
hình thức trần thuật, trong đó tính chất phức điệu của giọng trần thuật biểu hiện ở sự
pha trộn các lời nói khác nhau là một trong nguyên nhân dẫn đến tính đa thanh, phức
điệu của các giọng trần thuật…
Khám phá truyện ngắn Đỗ Chu và Nguyễn Huy Thiệp từ phương diện nghệ
thuật, độc giả đã nhận diện được hai phong cách độc đáo, góp phần làm nên diện mạo
của truyện ngắn Việt Nam đa dạng, nhiều vẻ. Các tác giả viết truyện ngắn trong thời
kỳ Đổi mới đã thổi vào truyện ngắn một luồng gió mới, trần trụi hơn, thật hơn, đời
hơn. Cấu trúc truyện ngắn của họ không chỉ là mặt phẳng, mà đã có cái gì như thể
không gian đa chiều.
Sự đổi mới của nghệ thuật viết truyện ngắn ấy xuất phát từ con đường mở cửa
với các nền văn hóa trên thế giới của nước ta. Đây là một điều kiện thuận lợi để nền
văn học dân tộc tiếp thu những tinh hoa thế giới, tiến lên nhịp bước với những nền
văn học hiện đại của nhân loại. Những phương diện nghệ thuật mới mẻ trong truyện
ngắn Đỗ Chu sau năm 1975 và đặc biệt là của Nguyễn Huy Thiệp là kết quả của sự
đổi mới tư duy nghệ thuật và quá trình tiếp thu chọn lọc ấy và đó cũng là công cụ độc
đáo giúp mỗi nhà văn đem đến cho độc giả những thông điệp về cuộc sống và con
người. Đây là những tín hiệu đáng mừng của một nền văn học đang hướng đến những
tiêu chí mới hiện đại, giao lưu và hội nhập.
KẾT LUẬN
Mặc dù thuật ngữ truyện ngắn ra đời muộn (khoảng cuối thế kỷ XIX) nhưng
bản thân truyện ngắn đã xuất hiện và tồn tại ngay từ khi con người biết sáng tác
văn chương. Trải qua hàng ngàn năm với bao biến cố thăng trầm của thể loại, ngày
nay truyện ngắn đã chiếm lĩnh được vị trí quan trọng trên văn đàn trong kỉ nguyên
hiện đại, hậu hiện đại. Truyện ngắn đã hàm chứa cái thú vị của những điều sâu sắc
trong một hình thức nhỏ, gọn và đầy truyền cảm, truyền dẫn cực nhanh những
thông tin.
Lại Nguyên Ân có viết: "Nghĩ ra được cả một chiến lược đổi mới tư duy ( )
việc khó, hầu như quá sức chúng tôi. Thiết thực nhất xem đây là cả một quá
trình ". Đổi mới là một quá trình trong đó mỗi người cầm bút đều phải vượt lên
quá khứ của mình, nhìn lại những sai lầm, vấp váp và tích cực đi tìm con đường
mới. Từ Đỗ Chu đến Nguyễn Huy Thiệp, người đọc đã phần nào thấy được quá
trình đổi mới ấy của truyện ngắn Viết Nam. Sự vận động của truyện ngắn Việt
Nam qua hai hiện tượng Đỗ Chu và Nguyễn Huy Thiệp là “hai cái mốc đánh dấu
hai thời kỳ văn học nước ta, bằng hai tài năng trẻ cùng viết truyện ngắn: Đỗ Chu là
người thể hiện chất thơ của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, còn Nguyễn Huy Thiệp thì
21
thể hiện chất văn xuôi phàm tục và chất bi hài của chủ nghĩa xã hội hiển lộ ra từ
thời kỳ đổi mới” (Nguyễn Đăng Mạnh).
Có người đã từng định nghĩa rằng: lịch sử văn học là lịch sử của sự tiếp nối
của những phong cách nghệ thuật. Đúng vậy, bản chất của văn học nghệ thuật là sự
sáng tạo, một sự sáng tạo miệt mài, không ngừng nghỉ. Đỗ Chu và Nguyễn Huy
Thiệp với tư duy nghệ thuật và cá tính khác nhau đã mang hai phong cách nghệ
thuật độc đáo riêng. Đỗ Chu và Nguyễn Huy Thiệp, một đằng là cái tinh tế, mượt
mà, giàu chất thơ, lãng mạn, thậm chí có thể gọi là “đóa hoa hiền nõn nà của một
mùa xuân non dại và ngây thơ”; một đằng là sự cô đặc của một kiếp người, một thời
đại lịch sử với những bi kịch con người và lịch sử dữ dội ác liệt. Qua hai hiện tượng
truyện ngắn này, độc giả đã phác thảo được biểu đồ lịch sử văn học Việt Nam nói
chung và sự vận động của truyện ngắn Việt Nam hiện đại nói riêng. Nhìn tổng thể,
sự vận động của truyện ngắn sau 1975 đã diễn ra giống như một cuộc nhận đường
toàn diện và sâu sắc: từ ý thức nghệ thuật đến hành vi sáng tạo, từ tư tưởng đến thi
pháp. Sự vận động ấy hướng mạnh mẽ đến những nỗ lực cách tân nhằm đổi mới thể
loại truyện ngắn. Và việc nghiên cứu, giải mã sự vận động của truyện ngắn bằng
cách đối chiếu, so sánh hai hiện tượng truyện ngắn tiêu biểu, điển hình ở hai thời kì
khác nhau như Đỗ Chu và Nguyễn Huy Thiệp là một hướng nghiên cứu mới, phù
hợp với xu hướng phê bình văn học hiện đại hiện nay. Nó góp phần tạo nên một góc
nhìn mới về thể loại truyện ngắn, truyện ngắn Đỗ Chu, truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp đặt trong cách nhìn lịch đại và đồng đại.
Trước hết, sự thay đổi trong chiếm lĩnh hiện thực khách quan và quan niệm
nghệ thuật về con người là một bước chuyển quan trọng cho truyện ngắn. Từ năm
1945 đến năm 1975, những nhiệm vụ lịch sử đặt văn học vào quỹ đạo hiện thực chủ
nghĩa, vì vậy một mô hình văn học nói chung và truyện ngắn nói riêng đặc thù của
giai đoạn này là những tác phẩm mang tinh thần sử thi, diễn đạt kinh nghiệm cộng
đồng. Nhưng sau năm 1975, đất nước trở lại quỹ đạo hòa bình và đổi mới, hội nhập
mở ra những tiền đề quan trọng cho truyện ngắn vận động. Giai đoạn này, truyện
ngắn vừa mở rộng đề tài vừa cố cưỡng lại “từ trường” của khuynh hướng sử thi để
gia tăng chất đời tư và thế sự. Con người trong truyện ngắn thời kì này không còn
nhất phiến, đơn trị mà đa trị phân mảnh. Không phải sự kiện lịch sử mà chính con
người với số phận cá nhân của nó đã đóng vai trò chi phối cấu trúc truyện ngắn.
Truyện ngắn thời kì đổi mới đã nhanh nhạy trong cách tiếp cận và phản ánh cuộc
sống con người dưới cái nhìn đa chiều kích. Để đi sâu, mở rộng sự chiếm lĩnh hiện
thực và con người, nghệ thuật tự sự của truyện ngắn Đỗ Chu và Nguyễn Huy Thiệp
đã chuyển từ ngôn ngữ đơn giọng sang ngôn ngữ đối thoại, đa thanh, có sự tác
động, hòa trộn giữa ngôn ngữ tác giả, ngôn ngữ người kể, ngôn ngữ nhân vật. Đặc
biệt do dung lượng ngắn nên ngôn ngữ truyện ngắn cô động, dồn nén, kiệm lời hơn.
Hơn nữa, truyện ngắn thời kỳ đổi mới thường không kết thúc có hậu, nhà văn đã tạo
ra các kiểu kết thúc mới như: cái kết để ngõ, cái kết đối nghịch, kết thúc có nhiều
đoạn kết… làm cho truyện hấp dẫn hơn. Những yếu tố nghệ thuật trên xuất hiện với
mật độ tăng dần từ trong sáng tác của Đỗ Chu sau năm 1975 đến các truyện ngắn
của Nguyễn Huy Thiệp để từ đó giúp các nhà văn có thêm những “kênh” mới để
khám phá và tìm hiểu đời sống cũng như bản chất con người theo những cách thức
của riêng mình.
22
Từ hai hiện tượng văn học Đỗ Chu và Nguyễn Huy Thiệp, độc giả có thể
thấy được sự vận động của truyện ngắn Việt Nam trước và sau thời kỳ Đổi mới. Sự
vận động ấy có thể coi là một tiến bộ văn học. Cần hiểu rằng tiến bộ văn học có sự
độc đáo, khác biệt. Khác với các lĩnh vực khoa học tự nhiên, tiến bộ văn học không
phải bao giờ cái có sau cũng hơn cái có trước và cái có trước còn có giá trị đến mai
sau nữa. Chính bởi vậy mà C. Mác cho rằng: Thần thoại và sử thi Hy Lạp là những
tác phẩm không thể bắt chước, một đi không trở lại. Truyện Kiều mãi là “tâm sự của
con người không chia lìa mà da thời đại” và Nguyễn Du mãi là “bậc kỳ tài đời nay
không sánh kịp”. Sự tiến bộ văn học có thể được hiểu là sự vận động, thay đổi theo
hướng khác trước để phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi và thực tiễn cuộc sống, thực tiễn
văn học cũng như tư duy của nhà văn và tầm đón nhận của độc giả.
Tóm lại, có thể nói, với những tìm tòi, sáng tạo trong tác phẩm của mình, Đỗ
Chu và Nguyễn Huy Thiệp đã dấn thân vào một cuộc thử nghiệm đầy sóng gió. Từ
đó, các nhà văn đã thực sự mang đến cho người đọc những day dứt, trăn trở khôn
nguôi trước những vấn đề thực tế của cuộc sống. Và với tất cả những biểu hiện về
hình thức và nội dung của truyện ngắn sau 1986, văn học giai đoạn này đang
hướng tới một cái nhìn trung thực và toàn diện hơn về hiện thực lịch sử, một quan
niệm nhân văn về con người với những nỗ lực vượt thoát khỏi ràng buộc của các
dạng thức tự sự truyền thống đưa nền văn học nước ta phát triển ở một tầm mới.
Sự đổi mới trong truyện ngắn Việt Nam nói riêng và văn học Việt Nam nói chung
đã thể hiện sự dân chủ trong cách nghĩ của nhà văn, sự đa dạng, nhiều chiều trong
cách viết. Đó là sự tất yếu và hợp với quy luật phát triển trong dòng thác đổi mới
nói chung của lịch sử và đất nước: đời sống văn học đã được dân chủ hóa và sự
đổi mới tư duy. Đời sống văn học Việt Nam sau 1986 đã thực sự “sung túc” hơn
trong bầu không khí dân chủ. Trên thực tế, văn học nước nhà đã thoát khỏi quán
tính của những “khuôn vàng thước ngọc” cũ để hoà nhịp cùng văn học thế giới.
Truyện ngắn là một thể loại có khả năng biến hóa linh hoạt luôn biến đổi
không ngừng. Ngày nay truyện ngắn vẫn đang vận động, vẫn đang định hình và
luôn bám sát mọi biến chuyển của đời sống bằng các phương tiện của thời hiện đại.
Vì vậy con đường khám phá, nghiên cứu sự vận động của thể loại này vẫn là một
hành trình chưa có hồi kết và hứa hẹn nhiều điều thú vị cho các nhà nghiên cứu
cũng như bạn đọc hôm nay và mai sau.
References.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÁC PHẨM
1. Đỗ Chu (2010), Chuyện mùa hạ, Nxb Văn học, H.
2. Đỗ Chu (2010), Lão Mai, Nxb Văn học, H.
3. Nguyễn Huy Thiệp (2004), Nguyễn Huy Thiệp truyện ngắn, Nxb Hội nhà
văn, H.
SÁCH THAM KHẢO
4. Lại Nguyên Ân (biên soạn) (1999), 150 từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, H.
23
5. Hà Minh Đức - Đỗ Văn Khang - Phạm Quang Long - Phạm Thành Hưng -
Nguyễn Văn Nam – Đoàn Đức Phương - Trần Khánh Thành – Lý Hoài Thu
(2006), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, H.
6. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà
Nội.
7. Nguyễn Văn Kha (2006), Đổi mới quan niệm về con người trong truyện Việt
Nam 1975-2000, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
8. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2006), Từ
điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, H.
9. Phong Lê (1994), Văn học và công cuộc đổi mới, Nxb Hội Nhà Văn, H.
10. Phương Lựu - Trần Đình Sử - Nguyễn Xuân Nam - Lê Ngọc Trà - La Khắc
Hoà - Thành Thế Thái Bình (2006), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, H.
11. Nguyễn Văn Long (2001), Văn học Việt Nam trong thời đại mới. Nxb Giáo
dục, H.
12. Nguyễn Đăng Mạnh (2001), Nhà văn tư tưởng và phong cách, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, H.
13. Phạm Xuân Nguyên (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, Nxb Văn hoá
Thông tin, H.
14. Huỳnh Như Phương (1991), “Văn xuôi những năm 80 vâ vấn đề dân chủ
hóa nền văn học”, Tạp chí Văn học, số 4.
15. Lã Nhâm Thìn - Nguyễn Văn Long (2001), Văn học Việt Nam sau năm 1975 -
những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, H.
16. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể
loại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
17. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục, H.
18. Trần Đình Sử (chủ biên) (2000), Tự sự học, Một số vấn đề lí luận và lịch sử,
Nxb Đại học sư phạm Hà Nội.
TÀI LIỆU TRÊN TẠP CHÍ, LUẬN VĂN, WEBSITA
19. Phạm Tuấn Anh, “Cái cao cả trong văn xuôi Việt Nam sau 1975”,
.
20. Lại Nguyên Ân (1981), “Nhìn chủ nghĩa hiện thực trong sự vận động lịch
sử”. Tạp chí Văn học, số 4.
21. Lại Nguyên Ân, “Tiểu thuyết và lịch sử”, http:// www.vietnamnet.vn
22. Văn Chinh (2001), “Nhà văn Đỗ Chu: Con người phải được yêu mến và
kính trọng”, Báo Văn nghệ, số (7).
23. Trần Cương (1995), “Nhân vật nông dân trong một số tác phẩm văn xuôi
thời kì đổi mới”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 12.
24. Phan Huy Dũng (2007), “Đỗ Chu chiêm nghiệm về nghề văn và nghệ
thuật”, Tạp chí Nhà văn, số tháng 3.
25. Nguyễn Đăng Điệp, “Cuốn theo chiều văn Nguyễn Huy Thiệp”,
.
24
26. Hồng Thanh Quang (2004), “Nhà văn Đỗ Chu: Cô đơn được càng tốt”, báo
An ninh thế giới cuối tháng, .
27. Nguyễn Kiên (1996), “Về chất thơ trong truyện ngắn”, Tạp chí Văn học, số
(3).
28. Lưu Thị Thu Hà (2008), Sự vận động của truyện ngắn Việt Nam từ 1986
đến nay, nhìn từ góc độ thể loại, luận văn Thạc sĩ văn học, Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐHQGHN), Hà Nội.
29. Nguyễn Hòa, “Văn chương - Hy vọng về những điều tốt đẹp”,
http://203.162.0.19:8080/show-content.pl.
30. Tô Hoàng, “Đỗ Chu – một tài năng nở sớm”, .
31. Tô Hoàng, “Nhà văn Đỗ Chu – 40 năm tung hoành văn trường”,
.
32. Tô Hoàng (17/05/2009), “Đỗ Chu: Nhà văn binh nhì của chúng tôi”,
.
33. Hà Khải Hưng, “Nhà văn Đỗ Chu: Dù được nhớ tới ở thể loại nào cũng là
quý”, .
34. Cao Kim Lan (2006), “Lịch sử trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp và dấu
vết của hệ hình thi pháp Hậu hiện đại”, http: //vienvanhoc.org
35. Tôn Phương Lan (2001), “Một vài suy nghĩ về con người trong văn xuôi
thời kì đổi mới”. Tạp chí Văn học, số 9.
36. Nguyên Ngọc (2005), “Một giai đoạn sôi động của văn xuôi trong thời kỳ
đổi mới”, Tạp chí Xưa và Nay, số (227-228).
37. Lã Nguyên, “Nhìn lại các bước đi, lắng nghe những tiếng nói”,
38. Bùi Việt Thắng (1991), “Văn xuôi gần đây và quan niệm con người”, Tạp
chí Văn học, số 6.
39. Nguyễn Thị Phương Thảo (2003), “Hình như tôi vẫn giấu tôi”, báo An ninh
thế giới, 10/2003.
40. Đỗ Ngọc Thạch, “Truyện ngắn – đặc trưng thể loại”,
41. Bích Thu (1996), “Những thành tựu của truyện ngắn Việt Nam sau 1975”,
Tạp chí Văn học, số 9.
42. Nguyễn Văn Thuần (2008), “Nguyễn Huy Thiệp – đưa nhân vật vào lập
trường đối thoại”, Tạp chí Sông Hương, số 233 (7).
43. Lý Hoài Thu, “Sự vận động của các thể văn xuôi trong văn học thời kỳ đổi
mới”, Tạp chí Sông Hương, số 186 (8).
44. Lê Hương Thủy, “Đặc trưng truyện ngắn Đỗ Chu” (2006), Tạp chí Nghiên
cứu văn học, số 9.
45. Nguyễn Văn Tùng, “Cấu tứ tự sự của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp”,
.
46. Nguyễn Thanh Tú (2003), “Đặc điểm kết cấu truyện ngắn Đỗ Chu”, Báo
Văn nghệ quân đội, số (586).
25
47. Lê Ngọc Trà, “Văn học Việt Nam những năm đầu đổi mới”,
48. Việt báo (2003), “Đỗ Chu: Hình như tôi vẫn dấu tôi”,