Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tiểu luận sự phối hợp chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.24 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ QUỐC TẾ

BÀI TẬP NHÓM 14
LỚP TÍN CHỈ: KTE402.5

SỰ PHỐI HỢP CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM

Hà Nội, ngày 26 tháng 5 năm 2016
1


Contents

Dương Thị Nam

1411110445

Nguyễn Hoàng Nam

1411110446

Tô Hoàng Thanh Nga

1411110452

Lê Như Ngọc

1411110475


Phạm Thị Ngân

1411110464

Nguyễn Thị Hà Ngân

1411110463

2


Lời mở đầu
Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ là hai công cụ quan trọng trong điều
tiết nền kinh tế của mỗi quốc gia. Hai công cụ này vừa mang tính độc lập, và
bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau. Để đạt được hiệu quả tối ưu, gồm tăng trưởng và
ổn định giá cả, hai chính sách này cần được phổi hợp và bổ sung cho nhau. Sự
phối hợp này sẽ giúp cho nền kinh tế của mỗi quốc gia ứng phó linh hoạt hơn
với các chu kì của nền kinh tế. Ngược lại, sự phối hợp không nhịp nhàng,
không gắn kết sẽ làm giảm hiệu quả điều hành chính sách và thậm chí có thể
làm trầm trọng, làm cho kinh tế vĩ mô bất ổn. Vì vậy, tìm ra cơ chế phối hợp
giữa hai chính sách này luôn được chính phủ, các nhà hoạch định chính sách
quan tâm. Bài viết của chúng em đi sâu vào tìm hiểu về mối quan hệ giữa hai
chính sách và sự vận dụng linh hoạt các chính sách đó ở Việt Nam qua các
thời kì.

3


1.


I. Chính sách tài khóa, Chính sách tiền tệ và sự phối hợp hai chính sách
Chính sách tài khóa
- Khái niệm: Là các chính sách vĩ mô của chính phủ nhằm tác động lên các định
hướng phát triển của nền kinh tế thông qua chi tiêu chính phủ và thuế khóa
Chính

sách

Chính sách

tài khóa mở

tài

khóa

C

rộng
Tăng chi tiêu

thắt chặt
-Giảm G

ôn

chính phủ G

-Tăng thuế T


g

-Giảm thuế T

-Kết

hợp

cụ -Kết hợp tăng

giảm G và

th

tăng T

G và giảm T

ực
hi
ện
Tr -Khi nền kinh

-Khi

ạn

tế ở trạng thái

kinh


g

suy

thoái:

trạng

thái

th

Sản

lượng

phát

triển

ái

thấp hơn sản

nóng:

Sản

nề


lượng

lượng

cao

n

năng, tỷ lệ

hơn mức sản

ki

thất

lượng

nh

tăng cao.

tiềm
nghiệp

tế




tiềm

năng nhưng

tế

K

nền

giá quá cao,

-Tổng

cầu

lạm

phát

cao.
-Giảm

tổng
4


ết

tăng lên, sản


cầu,

qu

lượng

tăng,

lượng giảm,



tạo

thêm

làm

nhiều

việc

sản
phát

giảm nhưng

làm => giảm


đồng

thời

thất nghiệp

lượng

việc

làm cũng có
xu

hướng



-Vì tăng G và

giảm
-Vì tăng T và

nh

giảm T, dẫn

giảm G nên

hư đến thâm hụt


nguồn

ởn ngân

ngân sách sẽ

g

sách.

Chính

phủ

thu

tăng lên

phải có chính

=> thâm hụt

sách bù ngân

ngân sách ít

sách để đảm

đi nếu có, và


bảo

thặng

hoạt



động.

tăng lên nếu

-Lãi suất tăng

có.

nên

nội

tệ

mất giá, dẫn
đến thâm hụt
thương mại
=> Tình trạng
thâm hụt kép

5





Như vậy, chính sách tài khóa có tác dụng kích thích nền kinh tế trong tình
trạng suy thoái, và xoa dịu nền kinh tế đang trong tình trạng tăng trưởng
nóng.

Khi chính phủ tăng chi tiêu G (hoặc giảm thuế T), đường IS dịch sang phải:
IS0 => IS1, sản lượng tăng lên từ Y0 đến Y’. Sản lượng tăng lên kéo theo cầu về
phương tiện thanh toán cũng tăng lên, và vì thế với mức cung tiền cho trước,
lãi suất cũng tăng lên từ r0 đến r1, dẫn đến I giảm, Y cũng giảm. Như vậy, thực
tế sản lượng chỉ tăng lên đoạn Y oY1, đoạn Y1Y’ bị mất đi do hiện tượng thoái
lui đầu tư.
-

Chính sách tài khóa hiệu quả khi: Y thay đổi nhiều nhất có thể
+ Đường IS dốc, đầu tư ít nhạy cảm với lãi suất nên thoái lui đầu tư ít
+ Đường LM thoải, lãi suất biến động ít nên thoái lui ít
+ Số nhân chi tiêu m lớn, Y thay đổi nhiều
+ Sử dụng tỷ giá hối đoái cố định (Với nền kinh tế mở)
6


-

Các quy tắc:
+ Thâm hụt và thặng dư ngân sách xuất hiện 1 phần là do sự hoạt động của
các nhân tố tự ổn định, chứ không hoàn toàn là do tác động của CSTK.
+ Thâm hụt hay thặng dư ngân sách cho phép chính phủ điều hòa thuế suất
theo thời gian, tránh thay đổi thuế suất nhiều từ năm này qua năm khác.

+ Thâm hụt ngân sách có thể được sử dụng để chuyển gánh nặng về thuế
trong hiện tại cho các thế hệ tương lai.

2.

Chính sách tiền tệ
- Khái niệm: Là chính sách vĩ mô do Ngân hàng Trung ương soạn thảo và thực
thi để điều hành toàn bộ khối lượng tiền trong nền kinh tế quốc dân nhằm đạt
được mục tiêu cơ bản là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền và ổn
định giá cả của hàng hóa.
Chính sách tiền tệ mở Chính sách tiền tệ thắt chặt
Công cụ

rộng
Giảm lượng dự trữ bắt buộc

Tăng lượng dự trữ bắt buộc

Nghiệp vụ thị trường mở

Nghiệp vụ thị trường mở

Giảm lãi suất chiết khấu

Tăng lãi suất

Tỷ giá hối đoái

Tỷ giá hối đoái


Quản lý mức tín dụng của Quản lý mức tín dụng của NHTM
Trạng

thái

NHTM (Tái cấp vốn)
(Tái cấp vốn)
nền Nền kinh tế có dấu hiệu suy Khi cung tiền vượt quá cầu tiền

kinh tế
Kết quả

thoái
Tăng cung tiền

gây lạm phát cao
Giảm cung tiền

Lãi suất giảm, đầu tư tăng

Lãi suất tăng, đầu tư giảm

Sản lượng tăng, thất nghiệp Lạm phát giảm (do cung tiền giảm
giảm
Ảnh hưởng

Lạm phát tăng

=> lãi suất tăng => tổng cầu giảm
=> giá giảm)

Thất nghiệp tăng

7


Chính phủ tăng cung tiền, qua đó giảm lãi suất => tăng tổng cầu.

-

Chính sách tiền tệ hiệu quả khi: Y thay đổi nhiều
+ Đường LM dốc, r thay đổi nhiều nên I thay đổi nhiều => Y thay đổi nhiều
+ Đường IS thoải, I nhạy cảm với lãi suất => I thay đổi nhiều
+ Số nhân chi tiêu lớn => Y thay đổi nhiều
+ Sử dụng tỷ giá hối đoái thả nổi (Với nền kinh tế mở)

-

Các quy tắc:
+ Tốc độ tăng cung tiền cần được giữ ổn định
+ Phải có mục tiêu cho GDP danh nghĩa
+ Phải có mục tiêu cho mức giá



Một số điểm khác biệt chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ.

8


-


Chính sách tài khóa tác động trực tiếp lên đường tổng cầu của nền kinh tế,
trong khi chính sách tiền tệ tác động lên đường tổng cầu 1 cách gián tiếp
thông qua lãi suất.

-

Với nền kinh tế mở, chính sách tiền tệ hiệu quả với tỷ giá thả nổi, còn chính
sách tài khóa hiệu quả với tỷ giá cố định.

-

3.

Chính sách tài khóa có độ trễ trong lớn, chính sách tiền tệ có độ trễ ngoài lớn.

Sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
Chính sách tài khóa và Chính sách tiền tệ là hai chính sách vừa có tính độc lập
nhưng vừa có tính tương tác và hỗ trợ lẫn nhau trong việc điều tiết nền kinh
tế. Vì thế, để đạt được hiệu quả tối ưu, các nhà hoạch định chính sách cần vận
dụng một cách linh hoạt đồng thời cả hai chính sách.
a)
-

Chính sách tài khóa mở rộng – Chính sách tiền tệ mở rộng
Điều kiện áp dụng:
Khi nền kinh tế nước phải vấn đề suy thoái
Sản lượng chưa đạt mức sản lượng tiềm năng.
CSTK mở rộng: G tăng, T giảm, IS dịch chuyển sang phải
LM1

r
LM2

E1
r0
IS1

IS2
Y

Y0

Y1

r0

CSTT mở rộng: MS tăng => MD tăng => LM dịch chuyển sang phải


Không xảy ra hiện tượng thoái lui

9


Kết quả: Cả IS, LM đều dịch chuyển sang phải => sản lượng Y tăng, lãi suất r
không đổi.
b)

Chính sách tài khóa thắt chặt – Chính sách tiền tệ thắt chặt
Điều kiện áp dụng: Cầu vượt quá cung, sản lượng vượt mức sản lượng tiềm

năng. Chính phủ muốn giảm tổng cầu, nhưng không muốn làm giảm đầu tư.
E1

LM2

r

LM1
r0
IS1

IS2
Y1

Y

r0

Y0

CSTK thắt chặt: G giảm, T tăng => APE giảm => Y giảm => IS dịch chuyển
sang trái
CSTT thắt chặt: MS giảm => lãi suất r tăng => LM dịch chuyển sang trái từ
LM1 đến LM2
Kết quả: Cả IS, LM đều dịch chuyển sang trái => sản lượng Y giảm, lãi suất r
c)

không đổi
Chính sách tài khóa mở rộng – Chính sách tiền tệ thắt chặt
Điều kiện áp dụng: Sản lượng ổn định, chính phủ muốn mở rộng chi tiêu

công, nhưng không khuyến khích chi tiêu tư nhân.
Tác động: đường IS dịch chuyển sang phải, LM dịch chuyển sang trái
LM2

r

LM1

r1
r0

E1
IS2

IS1
Y0

Y

r0

10


d)

Kết quả: Sản lượng Y không thay đổi, lãi suất r tăng lên
Chính sách tài khóa thắt chặt – Chính sách tiền tệ mở rộng
Điều kiện áp dụng: Sản lượng ổn định, chính phủ giảm chi tiêu chính phủ và
khuyến khích chi tiêu tư nhân.

LM1

r
r0

LM2

E1

r1

IS1

IS2
Y0

Y

r0

Tác động: đường IS dịch chuyển sang trái, đường LM dịch chuyển sang phải.
Kết quả: Sản lượng Y không đổi, lãi suất r giảm.
VÍ DỤ: Áp dụng phối hợp chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trên
thế giới
VD: Năm 2007, sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, Trung quóc đã tăng tỷ
lệ lãi suất gấp 5 lần và tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên tới 9 lần. Trong khoảng
thời gian này, Trung Quốc đang chịu mức tăng trưởng nóng, cầu vượt quá
cung. Để vẫn thu hút được đầu tư, nhưng đồng thời cũng để ngăn chặn tình
trạng nền kinh tế tăng trưởng quá nóng,, Trung Quốc đã áp dụng chính sách
tài khóa thận trọng, và chính sách tiền tệ thắt chặt, để làm giảm sản lượng,

nhưng vẫn giữ nguyên được lãi suất.

1.

II.
Sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ ở Việt Nam
Giai đoạn 2001-2007
• Giai đoạn 2001- 2005
- Thực trạng nền kinh tế Việt Nam:
11


+ Nền kinh tế Việt Nam đang trong thời kỳ đại khủng hoảng (những năm 80):
siêu lạm phát, kinh tế suy thoái trầm trọng, thất nghiệp cao, tích lũy thấp.
+ Bước qua năm 1998, dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Đông
Nam Á làm nhu cầu tiêu dùng của người dân giảm xuống, tổng cung hàng hóa
cao hơn cầu dẫn đến tình trạng giảm phát. Tỉ lệ lạm phát ở mức 0,1% năm
1999 và là -1,6% năm 2000. Thị trường khan hiếm tiền dẫn đến tình trạng đã
thiểu phát lại càng thiểu phát hơn.
- Mục tiêu:
+ Xây dựng nền tài chính quốc gia lành mạnh, đảm bảo giữ vững an ninh tài
chính, ổn định kinh tế vĩ mô, tài chính - tiền tệ
+ Tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng
trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế
+ Giải quyết tốt các vấn đề an sinh xã hội; huy động, quản lý, phân phối và sử
dụng các nguồn lực tài chính trong xã hội hiệu quả, công bằng; cải cách hành
chính đồng bộ, toàn diện;
+ Đảm bảo tính hiệu quả và hiệu lực của công tác quản lý, giám sát tài chính.
- Biện


pháp chính sách: CSTK thắt chặt – CSTT thắt chặt

CSTK thắt chặt: Hạn chế chi tiêu Chính phủ, việc chi tiêu căn cứ vào các
nguồn thu từ ngân sách chứ không ỷ lại vào việc phát hành tiền. Mặt khác việc
bù đắp bội chi ngân sách chủ yếu được thực hiện thông qua vay nợ nước ngoài
và các tổ chức quốc tế. Trên cơ sở đó, việc thực hiện CSTT cũng theo hướng
mới, NHTW hạn chế việc phát hành tiền mà có các quyết sách khuyến khích
NHTM huy động nguồn vốn từ dân cứ với mức lãi suất cao kỷ lục trong thời
kỳ đó (12%/ tháng).
-

Kết quả:
Sự phối hợp nhịp nhàng của CSTK và CSTT mang lại những dấu hiệu tác động
tích cực: lạm phát đã giảm xuống còn 2 con số và trong tầm kiểm soát của
NHNN.
12


-

Quá trình tăng trưởng kinh tế bắt đầu ở mức 6,79% vào năm 2000 và tăng một
mạch tới mức 8,44% năm 2005, sau đó giảm nhẹ xuống mức 8,23% năm 2006
và tăng bật trở lại mức 8,46% năm 2007.
Hạn chế:
- Trong điều hành CSTT và CSTK chưa phối hợp xây dựng một các đồng bộ
mục tiêu chính sách để vận hành có hiệu quả
- Việc thực thi CSTK có tác động không tích cực đến CSTT
- CSTT cũng có ảnh hưởng kém tích cực trong việc thực thi CSTK
Nguyên nhân



Chưa có sự phối hợp trong việc hoạch định mục tiêu chính sách ở tầm dài



hạn và trong ngắn hạn.
Việc tài trợ gián tiếp thâm hụt NSNN đã khiến cho CSTT phụ thuộc phần



nào vào CSTK.
Những khoản tái cấp vốn cho NHTM được sử dụng cho mục đích ngân
sách có nguy cơ gây lên những tác động bất lợi đối với điều hành CSTT của

NHNN.
• Hai là, sự phối hợp trong hoạt động quản lý nợ công chưa hữu hiệu.
- NHNN và BTC phát hành trái phiếu chưa phối hợp chặt chẽ, dẫn đến thời
điểm phát hành không hợp lý hoặc điều hành CSTT không có lợi cho việc
tối ưu hóa chi phí vay nợ của Chính phủ, đẩy lãi suất thị trường gây bất lợi
cho đầu tư, ảnh hưởng tiêu cực đến điều hành tiền tệ, lãi suất NHNN.
- NHNN chịu áp lực từ môi trường đan xen không có cơ chế minh bạch dưới
nhiều hình thức và qui mô khác nhau. Nhiều nguồn vốn sẽ chạy lòng vòng
từ loại định chế tài chính này sang loại định chế tài chính kia theo hƣớng


gây thiệt hại.
TTTC, tiền tệ kém phát triển (qui mô nhỏ, tính cạnh tranh thấp, kém linh
hoạt) đã hạn chế đáng kể tính hiệu quả của sự phối hợp giữa CSTT và
CSTK.


13




Năng lực điều hành CSTT, nhất là lãi suất còn nhiều hạn chế đã làm hạn
chế khả năng hỗ trợ của CSTT đến hiệu quả của chính sách quản lý nợ công



của BTC.
Phong trào đi vay của các nhà đầu tư, tổ chức và cá nhân (năm 2007 –
2008, gia nhập WTO, TTCK Việt nam tăng trưởng mạnh mẽ) để có nhiều
tín dụng gia tăng đầu tư. “Rủi ro hệ thống” hình thành và phát triển nhanh,
làm cho TTCK “mất hết khả năng đề kháng’’, chỉ số chứng khoáng sụt
nhanh.



Giai đoạn 2005 – 2007
- Thực

trạng nền kinh tế:
Tỉ lệ lạm phát có xu hướng tăng lên. Điều này xuất phát từ việc thực hiện
chính sách tài khóa lỏng lẻo, đã làm cho thâm hụt ngân sách tăng lên cao hơn
giai đoạn trước. Và việc bù đắp nguồn thâm hụt ngân sách bằng các nguồn
vay từ nước ngoài hay trong nước làm tăng lượng tiền vào thị trường trong
nước gây ra lạm phát.
Mục tiêu: Tăng trưởng kinh tế.
Và để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế đã đề ra, Chính phủ đã áp dụng

chính sách tài khóa mở rộng, kết hợp với chính sách tiền tệ mở rộng để kích
thích nền kinh tế
- Biện pháp chính sách : CSTK mở rộng và CSTT mở rộng
+ Giai đoạn 2000-2007, CSTT hầu như đều có thay đổi mang hướng thúc đẩy
tăng trưởng. Tuy nhiên, đối với CSTK thì không luôn thực hiện mục tiêu thúc
đẩy tăng trưởng mà cũng phải thực hiện chống lạm phát như năm 2004, khi
lạm phát tăng
+ Năm 2007 do cán cân thanh toán thặng dư lớn, để ổn định tỷ giá NHNN đã
mua vào một khối lượng lớn ngoại tệ cho dự trữ quốc gia. Cũng trong thời kỳ
này, sự mở rộng tín dụng quá mức đã đẩy cung ứng tiền tệ năm 2007 tăng kỷ
lục, ở mức tăng 46%, cùng với tỷ lệ tăng chi NSNN 25,3% (cao hơn so với
14


những năm trước) đã làm tăng lạm phát năm 2007 và có ảnh hưởng trễ sang
năm 2008
+ Chính phủ đã mở rộng đầu tư công qua các chương trình phát triển và hỗ trợ
dưới nhiều hình thức cho khu vực doanh nghiệp nhà nước.
+ Các khoản chi lớn như: đầu tư phát triển, lương và bảo hiểm xã hội, phát
triển y tế, văn hóa, giáo dục, điều chỉnh lương tối thiểu, chi đột xuất hỗ trợ
vùng bị thiên tai, phòng chống dịch bệnh, sâu bệnh... đã được thực hiện.
Kết quả:
- Năm 2006 tốc độ tăng trưởng vẫn ổn định và giữ ở mức tương đối cao. Tốc độ
tăng trưởng GDP tăng 8,2. Tổng thu ngân sách năm 2006 đạt trên 261,1 nghìn
tỉ đồng tăng 20,3% so năm 2005. Tổng chi ngân sách ước đạt trên 315 nghìn tỉ
đồng tăng 20% so với năm 2005. Qua năm 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế
vẫn giữ ở mức ổn định 8,44%
- Bội chi ngân sách nhà nước ước bằng 5% GDP (dự toán 5%), trong đó trên 80%
được bù đắp bằng vay trong nước, 20% vay nước ngoài
- Tỉ lệ lạm phát có xu hướng giảm đi rõ rệt, từ mức 8,4% năm 2005 xuống còn

6,6% năm 2006. Năm 2007, mức lạm phát là 12,6%. Điều này cho thấy dường
như Việt Nam đã đánh đổi lạm phát với tăng trưởng kinh tế
Hạn chế:
- Thực

hiện CSTT thắt chặt là nguyên nhân đổ vỡ TTCK tháng 6 năm 2008: Lạm

phát đột ngột tăng cao từ cuối năm 2007 và đầu năm 2008 dẫn tới sựu cần
thiết khách quan phải thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ. Chính sách này đã
tác động mạnh tới TTCK và đưa tới sự sụp đổ vào tháng 6/2008.
2.

Giai đoạn 2007-2015
Thực trạng phối hợp CSTK và CSTT ở Việt Nam giai đoạn 2007 - 2015: thiếu
đồng bộ thống nhất, thiếu nhịp nhàng, chưa hiệu quả.
- Tình hình nền kinh tế từ cuối năm 2007: Kinh tế thế giới biến động mạnh và
bước vào thời kỳ suy thoái, gây ra những bất ổn khó lường đối với nền kinh tế
15


Việt Nam, thị trường tài chính trong nước chao đảo mạnh, đe dọa tính thanh
khoản của hệ thống ngân hàng, lãi suất và tỉ giá biến động mạnh, lạm phát liên
tục leo thang.
- Mục tiêu chung: Tăng trưởng kinh tế bền vững, kiểm soát lạm phát và hạn
chế thất nghiệp.


Giai đoạn 2007 – 2008:

- Mục tiêu: kiểm soát lạm phát

- Biện pháp: CSTT thắt chặt
+ Phát hành bắt buộc 20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNN và quy định các tín
phiếu NHNN không được sử dụng để vay tái cấp vốn tại NHNN
+ Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc
+ Lãi suất cơ bản được điều chỉnh lên mức 12% rồi 14%
- Kết quả:
Theo lý thuyết
Giảm tỉ lệ lạm phát

Thực tế
Nguy cơ khủng hoảng bị đẩy lùi nhưng ko giải quyết hiệu
quả lạm phát

- Nguyên nhân: Chính sách được đề ra nhưng chưa thực hiện quyết liệt, vẫn
còn chi tiêu quá dự kiến, thâm hụt ngân sách lớn và nợ công chiếm 27,2%
GDP. Dẫn đến CSTT thắt chặt nhưng CSTK nới lỏng khiến áp lực lãi suất và
lạm phát tăng. Khi đó mới đề ra cắt giảm chi tiêu công: giảm 10% chi tiêu
thường xuyên.


Giai đoạn 2008 – 2009:

16


- Mục tiêu: hỗ trợ phục hồi kinh tế sau khủng hoảng.
- Biện pháp: nới lỏng CSTK và CSTT:
+) CSTT: NHNN đã điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản để giảm mặt bằng lãi suất
cho vay, đồng thời tăng cường nguồn vốn huy động, đáp ứng nhu cầu mở rộng
tín dụng trong nền kinh tế.

+) CSTK: Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 30/NQ-CP ngày 11/12/2008
về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, bảo đảm an
sinh xã hội, bao gồm 5 nhóm giải pháp cơ bản, trong đó kích cầu kinh tế là
một trong những giải pháp ưu tiên hàng đầu. Bên cạnh khoản 36.000 tỉ đồng
trái phiếu Chính phủ và hàng loạt chính sách an sinh xã hội và phát triển hạ
tầng nông thôn, miễn giảm một số loại thuế, hoãn thu hồi vốn đầu tư xây dựng
cơ bản ứng trước 2009, phát hành trái phiếu Chính phủ bổ sung, …. Chính
phủ đã dùng 1 tỉ USD từ dự trữ ngoại hối quốc gia để hỗ trợ giảm 4% lãi suất
(thời hạn 8 tháng) và 20.000 tỉ đồng (thời hạn 24 tháng).
- Kết quả:
Theo lý thuyết
Tăng sản lượng
Tỉ giá hối đoái,
tỉ lệ lạm phát
không đổi

Thực tế
Về vấn đề kích cầu, NHNN đã thực hiện đúng nguyên tắc với
nhiều giải pháp thích hợp nhằm hướng các khoản vay đúng đối
tượng, kiểm soát chặt chẽ việc cho vay hỗ trợ lãi suất và hạn chế
rủi ro hệ thống.
Các tổ chức, cá nhân đã tiếp cận được vốn ngân hàng với chi phí
thấp, giảm giá thành sản phẩm, duy trì sản xuất kinh doanh và
việc làm, từng bước khắc phục khó khăn do ảnh hưởng của
khủng hoảng kinh tế thế giới.
Tính đến ngày 26/11/2009, tổng dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất là
415.886,92 tỉ đồng.

Tuy nhiên, với mức thâm hụt ngân sách khá cao để nới lỏng CSTT và CSTK,
nguồn vốn trong nền kinh tế dường như đã bị cạn kiệt, có thể ảnh hưởng đến

17


giá trị VND và gây áp lực tăng lãi suất, nhiều ngân hàng đã tăng lãi suất huy
động đến sát trần qui định 10%, nhất là từ cuối tháng 10/2009, buộc NHNN
phải quyết định tăng lãi suất cơ bản từ 7% lên 8%, bắt đầu có hiệu lực từ
tháng 12/2009.


Giai đoạn 2010 – 2011:

- Mục tiêu: Đây là giai đoạn nền kinh tế Việt Nam ở trong tình trạng lạm phát
cao, do đó, Chính phủ đã xác định nhiệm vụ của giai đoạn này tập trung chủ
yếu vào việc kiểm soát lạm phát
- Biện pháp: CSTT thắt chặt - CSTK thắt chặt
+ Tăng lãi suất cơ bản, quy định trần lãi suất huy động, tăng dự trữ bắt buộc,
tăng lãi suất chiết khấu, tái cấp vốn, tăng tỷ giá.
+ Hạn chế tăng trưởng tín dụng và cung tiền; cắt giảm đầu tư, tiết kiệm 10%
chi tiêu.
- Kết quả:
Theo lý thuyết
Thực tế
Giảm sản lượng, giữ nguyên tỉ lệ lạm phát Tốc độ lạm phát vẫn ở mức khá cao
Tốc độ tăng GDP đã giảm từ mức
6,24% của năm 2011 xuống còn
5,25% vào năm 2012, nền kinh tế có
nguy cơ rơi vào thiểu phát

Thực tế này đã buộc chính sách tài khóa – tiền tệ chuyển sang hướng ổn định
kinh tế vĩ mô và hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong

các năm tiếp theo.
- Nguyên nhân:

18


+ Nền kinh tế kém hiệu quả nên đầu tư nhiều nhưng không mấy hiệu quả đã
tạo ra sự mất cân đối giữa lượng hàng hóa với số lượng tiền trong nền kinh tế
và kết quả tất yếu phải xảy ra là lạm phát.
+ Trong khi chính sách tiền tệ đang vận hành theo hướng thắt chặt tiền tệ để
ổn định giá cả, Chính phủ lại điều chỉnh tăng giá một số mặt hàng như xăng
dầu, giá điện
+ Trong khi chính sách tiền tệ đang điều hành theo hướng giảm lãi suất thị
trường để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn với chi phí thấp thì để
huy động vốn cho gia tăng đầu tư công, Chính phủ phải tăng cường phát hành
trái phiếu chính phủ với lãi suất ở một số thời điểm lên tới 11 - 12%/năm, cao
hơn lãi suất huy động vốn của các tổ chức tín dụng. Các ngân hàng thương
mại đã sử dụng vốn huy động được trên thị trường mua trái phiếu chính phủ
hấp dẫn hơn là cho các doanh nghiệp vay và mức lãi suất này vô hình trung đã
đẩy mức lãi suất huy động trên thị trường lên cao.


CSTT và CSTK bị triệt tiêu tác động của nhau
• Giai đoạn 2012 - 2015

Để tăng cường công tác phối hợp, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước đã ký
kết Quy chế phối hợp công tác và trao đổi thông tin (ngày 29/2/2012) với 5
nội dung chính gồm:
- Phối hợp xây dựng và điều hành chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ;
Quản lý ngân quỹ của Chính phủ và phát triển hệ thống thanh toán; Quản lý

nợ quốc gia và vốn ODA;
- Phối hợp trong việc phát triển các thị trường tài chính an toàn, bền vững;
- Phối hợp trong việc thực hiện công tác quản lý, giám sát liên quan đến thu
thuế, hải quan qua hệ thống ngân hàng;
19


- Phối hợp trong lĩnh vực hợp tác quốc tế thông qua việc chia sẻ thông tin;
- Phối hợp trong nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ
đảm bảo phù hợp với nhu cầu của hai Bộ.
Cùng với việc tạo lập khuôn khổ pháp lý cho cơ chế phối hợp vĩ mô, trên thực
tế, chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ cũng từng bước được phối hợp
nhịp nhàng trong giai đoạn 2012-2015. Theo đó, từ đầu năm 2012, trước tình
hình tăng trưởng thấp, có dấu hiệu suy giảm kinh tế, hàng tồn kho cao, chính
phủ tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Cụ thể là phải thực
hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, linh hoạt; tiếp tục thực hiện chính
sách tài khóa chặt chẽ, hiệu quả; tăng cường kiểm soát thị trường, giá cả, tổ
chức tốt thị trường trong nước; khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu,
hạn chế nhập siêu.
Thực trạng CSTT và CSTK thời gian qua cho thấy, mặc dù hai chính sách này
đã được tận dụng tối đa và phối hợp khá chặt chẽ, nhưng giới hạn chính sách
đang cản trở những tác động tích cực và làm nảy sinh nhiều hệ lụy cho thời
gian tới. Điều này cũng do CSTT linh hoạt hơn so với CSTK, việc thay đổi
lượng tiền cung ứng sẽ làm thay đổi mức lãi suất và NHTW có thể tác động
đến đầu tư, xuất khẩu ròng và tiêu dùng trong ngắn hạn. Trong đó, NHNN có
thể sử dụng CSTT để điều chỉnh mức lạm phát, gây tác động lên năng suất lao
động và tăng trưởng GDP tiềm năng trong dài hạn. Tuy nhiên, rất khó thay đổi
CSTK do Chính phủ lập kế hoạch chi tiêu, thuế và thâm hụt ngân sách, kế
hoạch ngân sách hàng năm do Quốc hội thông qua, điều này tạo ra sự lệch pha
so với CSTT.


20


3.

Đề xuất, kiến nghị
- Chính phủ cần đưa ra một kế hoạch tổng thể chính sách về mặt tài chính-tiền tệ,
đưa ra các kế haochj cân đối chi tiêu, cắt bỏ những khoản đầu tư công không
hiệu quả, gây thâm hụt ngân sách.
- Từng

bước giảm bội chi ngân sách theo hướng Chính phủ chỉ đầu tư các công

trình cơ sở hạ tầng trọng điểm liên quan đến quốc kế dân sinh, khuyến khích
khu vực kinh tế tư nhân tham gia đầu tư các công trình xây dựng cơ sở hạ
tầng thông qua hình thức đối tác công tư.
- Chính

phủ cần kiên định với mục tiêu ưu tiên ổn định vĩ mô thay vì thúc đẩy

tốc độ tăng trưởng GDP, thậm chí cần đặt mục tiêu tăng trưởng thấp hơn.
Làm được như vậy nền kinh tế sẽ duy trì tốc độ tăng trưởng vững chãi, lâu
dài.
- Cần

có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa ngay

từ khâu xây dựng và hoạch định chính sách, tránh tình trạng hai chính sách
không đồng bộ với nhau, triệt tiêu lẫn nhau.


21



×