Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Sự cần thiết phối hợp chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ ở Việt Nam.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (990.57 KB, 89 trang )

- 1 -

MỤC LỤC



Trang
Danh mục các từ viết tắt

Danh mục các bảng

Danh mục các sơ đồ

Phần mở đầu

CHƯƠNG 1
:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÁC RỦI RO TTQT CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Rủi ro trong hoạt động TTQT
1.1.1 Khái niệm về rủi ro và rủi ro TTQT
1.1.2 Phân loại rủi ro trong TTQT
1.1.2.1 Rủi ro kỹ thuật ( rủi ro tác nghiệp)
1.1.2.2 Rủi ro tín dụng
1.1.2.3 Rủi ro ngoại hối
1.1.2.4 Rủi ro ngân hàng đại lý
1.1.2.5 Rủi ro pháp lý
1.1.2.6 Rủi ro chính trị
1.1.2.7 Rủi ro đạo đức
1.2 Một số biện pháp phòng ngừa rủi ro TTQT
1.2.1 Hậu quả khi phát sinh rủi ro TTQT


1.2.2 Các biện pháp phòng ngừa rủi ro TTQT
1.2.2.1 Các biện pháp phòng ngừa rủi ro kỹ thuật
1.2.2.2 Các biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng
1.2.2.3 Các biện pháp phòng ngừa rủi ro ngoại hối
1.2.2.4 Các biện pháp phòng ngừa rủi ro quan hệ đại lý
1.2.2.5 Các biện pháp phòng ngừa rủi ro pháp lý
1.2.2.6 Các biện pháp phòng ngừa rủi ro chính trị



1
1
1
1
2
2
2
3
4
6
6
6
7
7
8
9
10
10
11
- 2 -


1.2.2.7 Các biện pháp phòng ngừa rủi ro đạo đức 12
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TTQT TẠI BIDV
2.1 Tổng quan về BIDV
2.1.1 Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của BIDV
2.1.2 Đặc điểm kinh doanh của BIDV
2.2 Tổ chức hoạt động TTQT tại BIDV
2.2.1 Mô hình tổ chức
2.2.2 Các hoạt động TTQT chủ yếu
2.2.2.1 Hoạt động thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ
2.2.2.2 Hoạt động thanh toán theo phương thức nhờ thu
2.2.2.3 Hoạt động thanh toán theo phương thức chuyển tiền
2.2.2.4 Hoạt động thanh toán séc du lịch, phát hành hối phiếu ngân
hàng
2.3 Kết qủa hoạt động TTQT tại BIDV trong thời gian qua
2.3.1 Hoạt động TTQT tăng trưởng cả về quy mô và chất lượng.
2.3.2 Các nghiệp vụ TTQT ngày càng được mở rộng.
2.3.3 Trình độ công nghệ ngân hàng và trình độ cán bộ được nâng cao.
2.3.4 Quy trình nghiệp vụ được cải tiến liên tục.
2.3.5 Quan hệ đại lý ngày càng được mở rộng.
2.3.6 Uy tín của BIDV ngày càng được nâng cao.


13
13
13
14
14
17

17
19
21
23

23
24
24
25
26
26
27
CHƯƠNG 3:
SỬ DỤNG ĐIỆN SWIFT ĐỂ HẠN CHẾ RỦI RO TRONG CÁC
PHƯƠNG THỨC TTQT TẠI BIDV
3.1 Phương thức chuyển tiền
3.1.1 Khái niệm.
3.1.2 Phương pháp trực tiếp.
3.1.3 Phương pháp gián tiếp.
3.1.4 Phương pháp chuỗi.
3.1.5 Các rủi ro trong thực hiện phương thức chuyển tiền tại BIDV.



28
28
29
31
35
38

- 3 -

3.2 Phương thức nhờ thu
3.2.1 Khái niệm.
3.2.2 Quy trình thực hiện thanh toán nhờ thu và các điện SWIFT được
sử dụng.
3.2.3 Các vướng mắc thường gặp trong phương thức nhờ thu.
3.3 Phương thức tín dụng chứng từ
3.3.1 Khái niệm.
3.3.2 Sử dụng các mẫu điện liên quan đến phát hành và thông báo L/C
3.3.2.1 Đối với ngân hàng phát hành L/C.
3.3.2.2 Đối với ngân hàng thông báo L/C.
3.3.3 Sử dụng các mẫu điện liên quan đến chứng từ xuất trình có bất
đồng.
3.3.4 Sử dụng các mẫu điện liên quan đến hoàn trả giữa các ngân hàng
3.3.4.1 Thực hiện thanh toán thông thường đối với thư tín dụng
không cho phép đòi tiền điện.
3.3.4.2 Thực hiện thanh toán trường hợp thư tín dụng cho phép đòi
tiền điện và tự động ghi nợ tài khoản nostro.
3.4 Các điện SWIFT dùng trong tra soát
3.4.1 Phương thức chuyển tiền.
3.4.2 Phương thức nhờ thu.
3.4.3 Phương thức tín dụng chứng từ.
38
38
39

41
43
43

43
43
48
49

52
52

55

59
59
59
60
CHƯƠNG 4:
NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ
4.1 Định hướng phát triển hoạt động TTQT tại BIDV đến 2010
4.2 Nhận xét về hệ thống thanh toán SWIFT
4.2.1 Những điểm mạnh.
4.2.2 Những tồn tại.
4.3 Đề xuất và Kiến nghị
4.3.1 Đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
4.3.1.1 Nhóm đề xuất về mô hình tổ chức, xây dựng quy chế, quy


61
62
62
63
64

65
65
- 4 -

trình TTQT trong hệ thống.
4.3.1.2 Nhóm đề xuất về quản lý và đào tạo.
4.3.1.3 Thực hiện các biện pháp hạn chế rủi ro cho các nghiệp vụ có
liên quan đến nghiệp vụ TTQT như tài trợ xuất nhập khẩu,
kinh doanh tiền tệ.
4.3.1.4 Nhóm đề xuất về công nghệ.
4.3.1.5 Nhóm đề xuất về phát triển và phòng ngừa rủi ro từ ngân
hàng đại lý.
4.3.1.6 Nhóm đề xuất về trích lập quỹ dự phòng và tăng cường giám
sát hoạt động TTQT trong hệ thống.
4.3.2 Một số kiến nghị với Nhà nước, NHNN và các đơn vị liên quan.
4.3.2.1 Kiến nghị với Nhà nước.
4.3.2.2 Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước.
4.3.2.3 Các đơn vị liên quan.

67
70


72
73

74

76
76

77
79
KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Các yêu cầu đối với điện thanh toán được xử lý tự động
ii
1.1 Các yêu cầu để điện MT103 được xử lý tự động. ii
1.2 Các yêu cầu để điện MT202 được xử lý tự động. iv
Phụ lục 2: Danh sách các tài khoản nostro của BIDV
vi
Phụ lục 3: Giới thiệu SWIFT và các hệ thống thanh toán chính vii
3.1 Giới thiệu SWIFT, đặc điểm của điện SWIFT.
3.1.1 Giới thiệu SWIFT.
3.1.2 Đặc điểm của điện SWIFT.
3.2 Hệ thống thanh toán đồng USD.
3.2.1 Hệ thống thanh toán bù trừ liên ngân hàng - CHIPS (Clearing
House Inter Bank Payments System).
3.2.2 FEDWIRE.
3.2.3 Chuyển khoản (Book Transfer).
vii
vii
vii
ix
ix
x
xi

- 5 -

3.3 Hệ thống thanh toán đồng EUR.
3.3.1 Hệ thống thanh toán tức thời xuyên suốt Châu Âu theo thời gian
thực- TARGET (Trans European Automated Real Time Gross
Settlement Express Transfer).
3.3.2 Hệ thống thanh toán bù trừ EBA (The ECU Banker Association)
3.3.3 Giới thiệu về IBAN (International Bank Account Number)
3.4 Hệ thống thanh toán bù trừ của các quốc gia (National Clearing
System).
3.5 Hệ thống mạng lưới ngân hàng đại lý.
3.6 Tài khoản Vostro và tài khoản Nostro.
xi
xi
xiii
xiii
xiii

xiii
xiv
Phụ lục 4: Danh mục điện SWIFT sử dụng trong phương thức nhờ thu
xv
Phụ lục 5: Danh mục điện SWIFT sử dụng trong phương thức tín dụng
chứng từ
xvi
Phụ lục 6: Định dạng điện SWIFT MT103 và MT202
xvii















- 6 -

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
Kinh tế quốc tế mở rộng, dẫn đến sự phát triển của thanh toán quốc tế như một
tất yếu khách quan để đáp ứng nhu cầu thương mại quốc tế. Đứng trước yêu cầu đó,
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã tham gia hoạt động thanh toán quốc tế
từ năm 1993. Trải qua hơn 10 năm hoạt động, tuy còn non trẻ, nhưng hoạt động
TTQT tại BIDV đã đạt được rất nhiều thành quả, góp phần đa dạng hoá dịch vụ, nâng
cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, mở rộng các sản phẩm dịch vụ phục vụ
khách hàng trong nước. Tuy nhiên, do còn mới mẻ, nên hoạt động TTQT tại BIDV
vẫn còn gặp không ít khó khăn, đặc biệt là vấn đề rủi ro trong TTQT, một vấn đề gây
hậu quả nghiêm trọng cho ngân hàng không chỉ về tài sản vật chất mà cả uy tín trên
trường quốc tế. Vì vậy, để đạt được mục tiêu của Ngân hàng là “phát triển bền vững”,
một trong những nhiệm vụ quan trọng đặt ra trong hoạt động thanh toán quốc tế là
phải ứng dụng các mẫu điện SWIFT một cách chính xác, linh hoạt và hiệu quả trong
từng phương thức thanh toán quốc tế để hạn chế tối đa các rủi ro TTQT có thể phát
sinh. Xuất phát từ thực tế đó, tôi đã chọn đề tài “Sử dụng điện SWIFT để hạn chế rủi

ro trong các phương thức thanh toán quốc tế tại BIDV” để làm luận văn tốt nghiệp
thạc sĩ kinh tế.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
- Nghiên cứu và ứng dụng các điện SWIFT trong các phương thức thanh toán
quốc tế: phương thức chuyển tiền, phương thức nhờ thu, phương thức tín dụng
chứng từ.
- Phối hợp các điện SWIFT trong từng phương thức thanh toán quốc tế phù hợp
với thực tế phát sinh, bảo đảm các giao dịch được thực hiện an toàn, chính xác,
nhanh chóng và hiệu quả.
- Đề xuất các nhóm giải pháp đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
và các kiến nghị với Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước và các đơn vị liên quan
để hạn chế các rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế.
-
- 7 -

3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng: các mẫu điện SWIFT được sử dụng và các đề xuất và kiến nghị
nhằm hạn chế rủi ro TTQT thông qua việc sử dụng điện SWIFT tại Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động TTQT của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn sử dụng các phương pháp điều tra, tổng hợp, phân tích, diễn giải,
quy nạp, so sánh trên cơ sở số liệu thống kê của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam để nghiên cứu.
Luận văn sử dụng phương pháp sưu tầm tại bàn thông qua tài liệu tại BIDV,
internet, thư viện.
Luận văn sử dụng phương pháp lấy mẫu thanh toán điện SWIFT tại BIDV.
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích SWOT.
5. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI

Đề tài có 80 trang, 3 bảng, 15 sơ đồ, 6 phụ lục kết cấu trong 4 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về các rủi ro TTQT của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng hoạt động TTQT tại BIDV
Chương 3: Sử dụng điện SWIFT để hạn chế rủi ro trong các phương thức TTQT tại
BIDV.
Chuơng 4: Nhận xét và kiến nghị










- 8 -


CHƯƠNG 1
:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÁC RỦI RO TTQT CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1 RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG TTQT
1.1.1 Khái niệm về rủi ro và rủi ro TTQT
Có thể nói rủi ro là một vấn đề tồn tại ở khắp mọi lĩnh vực của cuộc sống. Rủi
ro hiện diện hầu hết trong mọi hoạt động của con người. Khi có rủi ro, người ta
không thể dự đoán chính xác kết quả, và sự hiện diện của mọi rủi ro gây nên sự bất
định. Nguy cơ rủi ro sẽ phát sinh bất cứ khi nào một hành động dẫn đến khả năng

được hay mất không thể đoán trước .
Một khái niệm về rủi ro khá phổ biến hiện nay là: rủi ro là những biến động
tiềm ẩn ở những kết quả.
TTQT là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả về tiền tệ phát sinh từ các quan hệ
kinh tế, thương mại, tài chính, tín dụng và dịch vụ phi mậu dịch giữa các tổ chức kinh
tế quốc tế, giữa các hãng, các cá nhân của các nước khác nhau để kết thúc một chu
trình hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bằng các hình thức chuyển tiền hay
bù trừ trên các tài khoản tại các ngân hàng.
Rủi ro TTQT là những rủi ro về kinh tế phát sinh trong quá trình thực hiện
hoạt động TTQT, nó do các nguyên nhân phát sinh từ quan hệ giữa các bên tham gia
TTQT (nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu, ngân hàng, các tổ chức, cá nhân và các tác
nhân trung gian) hoặc những nguyên nhân khách quan khác gây nên.
1.1.2 Phân loại những rủi ro đặc thù trong TTQT
Trong hoạt động kinh doanh, một NH hiện đại thường phải đối mặt với nhiều
loại rủi ro. Trong đó có ít nhất là 7 loại rủi ro cơ bản trong hoạt động TTQT: rủi ro kỹ
thuật, rủi ro ngoại hối, rủi ro tín dụng, ngân hàng đại lý, rủi ro pháp lý, rủi ro chính
trị, rủi ro đạo đức .
1.1.2.1 Rủi ro kỹ thuật (rủi ro tác nghiệp)
- 9 -

Đây là những rủi ro xảy ra trong quá trình tác nghiệp, mang tính chủ quan, phụ
thuộc vào trình độ, kỹ năng xử lý nghiệp vụ của cán bộ TTQT và sự phối hợp giữa
các phòng ban và bộ phận trong ngân hàng. Những rủi ro kỹ thuật xảy ra tại các ngân
hàng phần lớn là do trình độ của cán bộ tác nghiệp. Hậu quả của rủi ro tác nghiệp rất
nghiêm trọng, ảnh hưởng đến uy tín và tài sản của ngân hàng. Tuy nhiên các rủi ro
này hoàn toàn có khả năng phòng tránh.
1.1.2.2 Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là những rủi ro phát sinh do việc cấp tín dụng cho các bên liên
quan nhưng không có khả năng đòi hoàn trả. Rủi ro tín dụng liên quan trực tiếp đến
tình hình tài chính, khả năng thanh toán của các bên. Trong phạm vi của bản luận văn

này chỉ xem xét đến các khoản tín dụng được cấp thông qua nghiệp vụ TTQT. Trong
các phương thức TTQT thực hiện qua ngân hàng, có phương thức bảo lãnh và tín
dụng chứng từ liên quan trực tiếp đến các rủi ro tín dụng nói trên.
1.1.2.3 Rủi ro ngoại hối
Có hai nguyên nhân chính gây nên rủi ro hối đoái: Thứ nhất, các NH giao dịch
các dòng tiền nước ngoài nhằm phục vụ cho khách hàng và cho chính bản thân mình;
thứ hai, các NH đầu tư vào tài sản có và huy động vốn bằng ngoại tệ. Cả hai nguyên
nhân này tạo ra một xu hướng trạng thái hối đoái mở trong mua bán ngoại hối và
trong cơ cấu tài sản bằng ngoại tệ. Rủi ro ngoại hối liên quan đến trạng thái hối đoái
mở và tỷ giá hối đoái của một đồng tiền nhất định. Nếu như trạng thái hối đoái mở là
dương (trường) đối với một loại ngoại tệ, mà loại ngoại tệ đó bị giảm giá thì ngân hàng
sẽ gặp rủi ro. Ngược lại, nếu trạng thái hối đoái mở là âm (đoản) và loại ngoại tệ đó lên
giá thì ngân hàng cũng gặp rủi ro về tỷ giá. Tỷ giá hối đoái phụ thuộc vào nhiều nhân tố
khác nhau mà các nhân tố này thường xuyên thay đổi kéo theo sự biến động không
ngừng của tỷ giá hối đoái. Cho dù chỉ với một sự thay đổi nhỏ trong tỷ giá hối đoái
nhưng khối lượng ngoại hối lớn thì cũng sẽ dẫn đến rủi ro rất lớn, thậm chí có thể dẫn
đến tình trạng phá sản. Vì vậy các ngân hàng phải luôn tìm cách cân bằng trạng thái hối
đoái thực để hạn chế bớt những thiệt hại của rủi ro này.
Chúng ta sẽ thấy rằng, nếu tỷ giá biến động càng mạnh thì rủi ro ngoại hối sẽ
càng lớn.

- 10 -

1.1.2.4 Rủi ro ngân hàng đại lý
Khi triển khai hoạt động TTQT, các ngân hàng đều coi nhiệm vụ phát triển
quan hệ đại lý ra nước ngoài là một nhiệm vụ trọng tâm, mang tính quyết định cho
việc mở cửa hoạt động của ngân hàng. Việc thiết lập và phát triển rộng rãi hệ thống
ngân hàng đại lý tạo lòng tin lẫn nhau, giúp cho các ngân hàng thực hiện nghiệp vụ
TTQT được thuận tiện, nhanh chóng, giảm chi phí trung gian. Rủi ro ngân hàng đại lý
xuất hiện khi:

- Ngân hàng giữ tài khoản nostro của một ngân hàng bị phá sản, đóng cửa sẽ là
một rủi ro vô cùng nghiêm trọng đối với hoạt động của ngân hàng, thậm chí có thể
dẫn đến phá sản theo. Do vậy, để phân tán rủi ro, các ngân hàng không nên duy trì
một tài khoản Nostro duy nhất đối với mỗi loại ngoại tệ giao dịch chính.
- Một ngân hàng không thực hiện nghĩa vụ của mình theo đúng thông lệ quốc
tế, hoặc bị phá sản thì có thể làm ảnh hưởng đến các ngân hàng đại lý của mình. Ví
dụ nếu ngân hàng phát hành L/C bị phá sản thì ngân hàng xác nhận gặp rủi ro phải
thanh toán thay khi người thụ hưởng xuất trình bộ chứng từ phù hợp với quy định của
L/C. Để có thể hạn chế được các rủi ro trong quan hệ đại lý, các ngân hàng cần phải
lựa chọn những ngân hàng có uy tín, có năng lực tài chính lành mạnh để thiết lập các
quan hệ đại lý.
1.1.2.5 Rủi ro pháp lý
Rủi ro pháp lý là những rủi ro liên quan đến luật điều chỉnh các hoạt động
TTQT, quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan, luật giải quyết tranh chấp khi có vấn
đề khiếu kiện phát sinh. Vấn đề pháp lý trong hoạt động TTQT cũng là một nội dung
quan trọng và rất phức tạp, do các bên liên quan trong hoạt động TTQT ở các quốc
gia khác nhau, trong điều kiện môi trường pháp lý và hệ thống luật pháp khác nhau.
Trong hệ thống luật pháp điều chỉnh các hoạt động ngoại thương nói chung, hoạt
động TTQT nói riêng gồm có luật quốc tế và luật quốc gia.
Các tập quán quốc tế này mới chỉ điều chỉnh một số phương thức TTQT nhất
định như phương thức nhờ thu, tín dụng chứng từ, bảo lãnh… còn một số phương
thức TTQT khác hoàn toàn không có tập quán quốc tế điều chỉnh, ví dụ như chuyển
tiền (Remittance), ghi sổ (Open Account), hay uỷ thác mua (Authorise to Purchase).
- 11 -

Đối với những phương thức thanh toán này, người ta phải áp dụng luật của nước phát
hành. Luật pháp các nước khác nhau dễ gây tranh cãi trong giao dịch, dẫn đến rủi ro.
Những tập quán quốc tế chỉ là những quy phạm pháp lý tuỳ ý, không bắt buộc.
Do vậy mỗi nước vận dụng các tập quán quốc tế không giống nhau. Ví dụ, UCP 500
do phòng thương mại quốc tế phát hành điều chỉnh phương thức tín dụng chứng từ.

Tuy nhiên, nếu một L/C muốn áp dụng UCP 500 thì phải dẫn chiếu đến UCP trong
nội dung của L/C. Mặt khác, các ngân hàng có thể lựa chọn áp dụng một số điều của
UCP cũng như từ chối áp dụng một số điều khác bằng việc miễn trừ trong nội dung
của L/C phát hành. Như vậy, mức độ vận dụng UCP vào thực tiễn của từng nước,
từng ngân hàng rất khác nhau, tuỳ thuộc vào hệ thống pháp luật nước đó. Luật quốc
gia thông thường tôn trọng và ít khi có đối đấu với luật hoặc tập quán quốc tế, nhưng
không phải là không có mâu thuẫn. Nếu có sự khác biệt giữa luật quốc gia và luật
quốc tế thì luật quốc gia sẽ được ưu tiên áp dụng. Quan điểm của phòng thương mại
quốc tế là các tập quán thương mại quốc tế không thể thay thế luật quốc gia, những
tranh chấp nếu có tốt nhất là để cho tòa án xem xét giải quyết. Trên thực tế chưa có
một tòa án quốc tế đủ mạnh để áp đặt các chế tài đối với các bên liên quan. Nếu có
tranh chấp xảy ra, các bên có thể đưa ra Phòng thương mại quốc tế phân xử. Tuy
nhiên kết luận của Phòng thương mại quốc tế chỉ có tính chất tương đối bởi vì cơ
quan này thiếu sức mạnh trong việc yêu cầu các bên thi hành quyết định. Để giải
quyết vấn đề đó, các bên có thể thoả thuận đưa ra xét xử tại một toà án quốc gia.
Trong trường hợp đó, ít nhất có một bên không am hiểu về luật của nước ngoài nên
rất dễ bị thua kiện và gánh chịu rủi ro.
1.1.2.6 Rủi ro chính trị
Trong trường hợp ngân hàng đầu tư bằng bản tệ cho các công ty nước ngoài có
trụ sở ở nước ngoài cũng có thể chịu rủi ro nước ngoài đó là rủi ro quốc gia. Rủi ro
quốc gia còn nghiêm trọng hơn cả trường hợp rủi ro tín dụng mà ngân hàng gặp phải
khi đầu tư cho các công ty nội địa. Ví dụ: khi một công ty nội địa không có khả năng
hoặc không sẳn lòng hoàn trả vốn vay ngân hàng, ngân hàng là người chủ nợ có
quyền tham gia vào qúa trình phân chia tài sản của công ty khi nó phá sản, như vậy
chí ít ngân hàng cũng thu hồi lại một phần hay toàn bộ vốn cho vay. Trong trường
hợp ngân hàng đầu tư cho các công ty nước ngoài thì ngay trong cả trường hợp các
- 12 -

công ty có khả năng và sẳn lòng hoàn trả vốn vay, nhưng cũng có thể không thực hiện
được bởi vì chính phủ nước này cấm hoặc hạn chế việc thanh toán cho nước ngoài do

dự trữ ngoại hối hạn hẹp hay vì lý do chính trị… Ngân hàng lúc này là chủ nợ nhưng
có rất ít hoặc không có cơ hội khiếu nại lên toà án địa phương hay toà án quốc tế.
Tham gia vào nhiều lĩnh vực, ngành nghề, có quan hệ với nhiều đối tượng kinh tế của
nhiều quốc gia, TTQT chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của môi trường kinh tế, chính trị, xã
hội của các quốc gia. Một sự biến động về cơ chế quản lý kinh tế-chính trị sẽ ảnh
hưởng đến khả năng và sự sẵn sàng đáp ứng các cam kết như đã thoả thuận của các
bên. Sự suy thoái kinh tế, biến động chính trị sẽ ảnh hưởng bất lợi đến hoạt động sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, và từ đó ảnh hưởng đến quá trình thanh toán.
Rủi ro chính trị xảy ra khi môi trường pháp lý, môi trường kinh tế-chính trị của
một nước chưa ổn định, thường xuyên thay đổi. Khi một quốc gia thay đổi các chính
sách về dự trữ ngoại hối, thuế xuất nhập khẩu, tỷ giá, lãi suất… sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến hoạt động TTQT của các bên liên quan. Trong thực tế, những thay đổi này thường
khiến các ngân hàng, nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu không thể thực hiện cam kết của
mình, làm cho quá trình thanh toán bị ngưng trệ, thậm chí huỷ bỏ gây thiệt hại cho các
bên liên quan. Tỷ giá hoặc lãi suất của một loại tiền tệ thay đổi sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến các ngân hàng và khách hàng có phát sinh giao dịch bằng loại ngoại tệ đó, có thể
làm suy giảm khả năng thanh toán của ngân hàng hoặc khách hàng. Chính sách quản lý
hoạt động xuất nhập khẩu của một nước có thể làm cho nhiều lô hàng không được phép
xuất khẩu hoặc nhập khẩu, gây thiệt hại cho các bên liên quan. Ví dụ: hai doanh nghiệp
ký kết hợp đồng mua bán một loại hàng hoá, với hình thức thanh toán là tín dụng
chứng từ. Hàng đã được giao và chứng từ đã được lập đầy đủ phù hợp với quy định của
L/C và được gửi tới xuất trình tại ngân hàng phát hành. Tuy nhiên do chính sách điều
hành xuất nhập khẩu của nước nhập khẩu thay đổi, mặt hàng đó không được phép nhập
khẩu vào trong nước nếu không có giấy phép của một cơ quan có thẩm quyền. Lô hàng
bị ách lại tại cửa khẩu để chờ giấy phép trong khi bộ chứng từ phù hợp phải được thanh
toán theo đúng cam kết của L/C. Rủi ro trước tiên thuộc về nhà nhập khẩu, tuy nhiên
ngân hàng phát hành cũng bị ảnh hưởng, đặc biệt là trong trường hợp ngân hàng phát
hành tài trợ cho nhà nhập khẩu dưới hình thức phát hành L/C ký quỹ dưới 100%.
- 13 -


Rủi ro chính trị còn liên quan đến những lệnh cấm vận của các nước đặc biệt
là lệnh cấm vận của Mỹ đối với một số nước và tổ chức. Nếu thực hiện TTQT cho
những nước nằm trong danh sách cấm vận của Mỹ bằng đồng USD qua các ngân
hàng tại Mỹ, khoản tiền thanh toán đó lập tức bị phong toả. Ngân hàng thực hiện
thanh toán bị mất tiền trong khi người thụ hưởng vẫn chưa nhận được khoản tiền mà
họ được hưởng. Đã có rất nhiều khoản tiền của nhiều ngân hàng trên thế giới bị
phong tỏa tại Mỹ do vi phạm các quy định cấm vận của nước này.
1.1.2.7 Rủi ro đạo đức
Rủi ro đạo đức là những rủi ro khi một bên tham gia cố tình không thực hiện
đúng nghĩa vụ của mình, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên liên quan. Đây là
vấn đề quan trọng trong thương mại quốc tế, bởi vì các bên đối tác thường ở cách xa
nhau, thậm chí không hề gặp nhau trong quá trình mua bán, do vậy có thể không nắm
rõ những thông tin về uy tín, đạo đức kinh doanh, năng lực tài chính của đối tác. Hơn
nữa, do các bên đối tác ở cách xa nhau nên điều kiện tiếp cận thường xuyên để theo
dõi, giám sát việc thực hiện nghĩa vụ gặp nhiều khó khăn. Trong điều kiện như vậy,
các rủi ro đạo đức rất dễ xảy ra gây hậu quả nghiêm trọng đối với cả khách hàng lẫn
các ngân hàng. Nhìn chung, nguyên nhân sâu xa của rủi ro đạo đức là thông tin không
đầy đủ và thiếu chính xác. Giữa các đối tác tham gia giao dịch thường cách nhau một
khoảng cách địa lý rất xa nên không nắm được đầy đủ những thông tin cần thiết về
năng lực tài chính, tình hình hoạt động kinh doanh cũng như về uy tín và đạo đức
kinh doanh của đối tác. Vì vậy mà đã đưa ra những quyết định sai lầm gây nên rủi ro
trong thanh toán. .
1.2 MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA RỦI RO TTQT
1.2.1 Hậu quả khi phát sinh rủi ro TTQT
Rủi ro TTQT khi phát sinh sẽ có ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín và tài
chính của các bên liên quan. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, uy tín
của ngân hàng là vấn đề vô cùng quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của hoạt
động kinh doanh ngân hàng nói chung, hoạt động TTQT nói riêng. Nếu uy tín của
ngân hàng giảm sút, các khách hàng trong và ngoài nước sẽ không thực hiện các giao
dịch tại ngân hàng; các ngân hàng nước ngoài không lựa chọn ngân hàng đó làm đối

tác trong các giao dịch TTQT như thông báo, xác nhận, chiết khấu L/C, ngân hàng
- 14 -

nhờ thu hoặc ngân hàng chi trả trong hình thức chuyển tiền… Mặt khác, ngân hàng
cũng gặp khó khăn trong việc đề nghị các ngân hàng nước ngoài cung cấp các dịch vụ
TTQT cho mình, như xác nhận thư tín dụng, chiết khấu bộ chứng từ xuất trình theo
L/C do mình phát hành… Rủi ro về uy tín là những rủi ro không phát sinh hậu quả
ngay, không định lượng được và phải mất một thời gian dài người ta mới nhận ra hậu
quả của nó. Tuy nhiên, những hậu quả đó khi đã xảy ra sẽ gây hậu quả vô cùng
nghiêm trọng và rất khó khắc phục. Uy tín là vấn đề nhạy cảm và phải được xây dựng
trong một thời gian dài. Tạo được uy tín trên thị trường quốc tế đã là khó, nhưng đánh
mất uy tín và xây dựng lại uy tín còn là một vấn đề khó khăn hơn rất nhiều.
Bên cạnh những rủi ro về uy tín, các ngân hàng có thể gặp rủi ro về tài
chính, là những rủi ro có thể nhìn thấy ngay, định lượng được ngay và gây hậu trực
tiếp đến thu nhập của ngân hàng. Những rủi ro về tài chính những thiệt hại do ngân
hàng phải tự thanh toán bằng tiền của mình cho các khoản phí, tiền phạt hoặc trị giá
của lô hàng khi:
- Thực hiện thanh toán sai chỉ dẫn của khách hàng dẫn đến mất tiền, hoặc bị
phạt do chậm thanh toán (ngân hàng chuyển tiền, nhờ thu…);
- Phải thanh toán thay cho khách hàng nếu ngân hàng đã thay mặt khách hàng
cam kết trả tiền cho ngưòi thụ hưởng trên cơ sở một số điều kiện nhất định
nhưng không được khách hàng hoàn trả (ngân hàng phát hành, ngân hàng xác
nhận, ngân hàng bảo lãnh… );
- Phải chịu phạt do vi phạm cam kết hoặc các nghĩa vụ (chậm thanh toán bộ
chứng từ theo L/C, từ chối bộ chứng từ do những lỗi bất đồng không hợp lệ,
không thực hiện hoàn trả đúng cam kết …)
- Những rủi ro dù là về uy tín hay tài chính đều gây thiệt hại trực tiếp đến kết
quả hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Các ngân hàng cần phải đề xuất
nhiều giải pháp để phòng ngừa tốt nhất các rủi ro có thể xảy ra.
1.2.2 Các biện pháp phòng ngừa rủi ro TTQT.

Để phòng ngừa các rủi ro TTQT có thể xảy ra, các ngân hàng trên thế giới đã
áp dụng rất nhiều biện pháp. Sau đây là một số biện pháp cơ bản nhất.
1.2.2.1 Các biện pháp phòng ngừa kỹ thuật (rủi ro tác nghiệp):
a)
Bố trí nhân sự phù hợp:
- 15 -

Rủi ro tác nghiệp là những rủi ro gây ra bởi sự không cẩn trọng một cách hợp lý
trong quá trình xử lý giao dịch của cán bộ nghiệp vụ dẫn đến vi phạm các quy tắc, quy
ước, các cam kết của ngân hàng. Trong vấn đề rủi ro tác nghiệp, con người là yếu tố
quan trọng nhất và có tính chất quyết định. Do vậy, để phòng tránh rủi ro tác nghiệp
cần phải tác động vào yếu tố con người trước tiên. Các ngân hàng cần bố trí cán bộ có
đủ năng lực, trình độ, tinh thần trách nhiệm thực hiện hoạt động TTQT. Sự cẩn thận,
am hiểu sâu nghiệp vụ của cán bộ tác nghiệp trong quá trình xử lý giao dịch sẽ góp
phần đáng kể trong việc hạn chế các rủi ro tác nghiệp có thể xảy ra.
Tuy nhiên, không phải lúc nào con người cũng đảm bảo xử lý các giao dịch
một cách hoàn hảo, không sai sót. Do vậy, xây dựng cơ chế kiểm tra kiểm soát hợp lý
để nhanh chóng phát hiện và ngăn chặn các sai sót trong quá trình xử lý nghiệp vụ là
một nhiệm vụ cần thiết của mỗi ngân hàng.
Bên cạnh việc bố trí cán bộ có năng lực phù hợp với công việc, các ngân hàng
cần phải quan tâm thích đáng đến công tác đào tạo cán bộ, đặc biệt là trong hoạt động
TTQT. Đây là một lĩnh vực hoạt động mang tính quốc tế, đa dạng, phức tạp và
thường xuyên vận động. Nếu không chú trọng đến công tác đào tạo cán bộ thì cho dù
có bố trí cán bộ có năng lực tốt vẫn không thích ứng kịp với sự thay đổi nhanh chóng
của thị trường. Một ví dụ rất đơn giản là sự vận dụng các quan điểm của ICC trong
việc phân tích, đánh giá các lỗi bất đồng của chứng từ xuất trình theo L/C. Có những
tình huống tại thời điểm này được ICC giải thích là bất đồng chứng từ nhưng sau một
thời gian lại được phân tích là không bị bất đồng. Đó là kết quả tất yếu của sự vận
động liên tục của hoạt động TTQT trên toàn thế giới, để tìm ra những cách giải thích
hợp lý nhất với thực tiễn hoạt động. Nếu các cán bộ nghiệp vụ không ngừng học hỏi,

cập nhật các kiến thức liên quan thì sẽ không thể đáp ứng được yêu cầu của hoạt động
TTQT.
b) Xây dựng quy trình nghiệp vụ
Quy trình nghiệp vụ là văn bản pháp lý do bản thân ngân hàng ban hành, quy
định rõ các bước thực hiện của từng nghiệp vụ TTQT, nhiệm vụ và trách nhiệm của
các cá nhân, bộ phận tham gia trong nghiệp vụ đó. Quy trình nghiệp vụ rõ ràng sẽ là
cẩm nang để các cán bộ tác nghiệp thực hiện đúng trách nhiệm của mình, nâng cao
- 16 -

năng lực kiểm soát hoạt động TTQT, phòng ngừa và hạn chế các rủi ro có thể xảy ra
trong quá trình tác nghiệp.
Việc ban hành quy trình nghiệp vụ phải dựa trên các tập quán và thông lệ quốc
tế, phù hợp với quy định của pháp luật quốc gia.
1.2.2.2 Các biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng là rủi ro phát sinh do việc cấp tín dụng khi chưa điều tra kỹ về
năng lực tài chính, khả năng hoàn trả, hiệu quả kinh doanh của đối tác. Rủi ro tín
dụng thường dẫn đến hậu quả là người được cấp tín dụng không có khả năng hoàn trả
khoản tín dụng đã được cấp
Để phòng ngừa rủi ro tín dụng, trước khi quyết định cấp tín dụng cho đối tác,
ví dụ như mở L/C không yêu cầu ký quỹ 100%, xác nhận thư tín dụng, chiết khấu bộ
chứng từ…, ngân hàng cần phải phân tích và đánh giá mức độ an toàn tín dụng của
người được cấp tín dụng. Xây dựng hạn mức tín dụng cho từng đối tác cụ thể để kiểm
soát được mức độ rủi ro tín dụng có thể xảy ra. Áp dụng các biện pháp đảm bảo hợp
lý (ví dụ như đảm bảo bằng tài sản thế chấp, đảm bảo bằng bảo lãnh của một ngân
hàng có uy tín, đảm bảo bằng quyền ghi nợ tài khoản tự động, đảm bảo bằng lô hàng
nhập khẩu…) để đảm bảo khả năng hoàn trả.
1.2.2.3 Các biện pháp phòng ngừa rủi ro ngoại hối:
Các bên tham gia hoạt động TTQT có thể thực hiện các biện pháp:
- Nghiệp vụ hối đoái có kỳ hạn: Để tránh những rủi ro biến động tỷ giá gây
nên, đảm bảo khả năng chủ động trong nguồn ngoại tệ thanh toán, các ngân hàng có

thể ký các hợp đồng mua bán ngoại tệ kỳ hạn theo tỷ giá ở một thời điểm cố định cho
một số lượng ngoại tệ nhất định.
- Giới hạn trạng thái ngoại hối: Giới hạn trạng thái ngoại hối của một ngoại tệ
là mức chênh lệch cao nhất hoặc thấp nhất giữa tổng tài sản có và tổng tài sản nợ của
ngoại tệ đó. Việc quy định giới hạn trạng thái ngoại hối giúp ngân hàng có thể kiểm
soát và hạn chế tối đa những tổn thất có thể xảy ra do tỷ giá hối đoái của loại ngoại tệ
đó thay đổi. Nếu như đối với một loại ngoại tệ tại một thời điểm bị vượt giới hạn
trạng thái ngoại hối thì ngân hàng cần phải cân bằng trạng thái ngoại hối dư thừa hay
thiếu hụt này.
- 17 -

- Để phòng tránh rủi ro tỷ lệ lãi suất (tỷ lệ SWAP), xảy ra khi chênh lệch lãi
suất giữa hai đồng tiền tham gia vào giao dịch biến đổi bất lợi, ngân hàng có thể áp
dụng một số công cụ hiệu quả như Hợp đồng lãi suất kỳ hạn. Khi ký một hợp đồng kỳ
hạn cho một đồng tiền là chúng ta tạo khả năng ấn định trước lãi suất của đồng tiền
đó cho một thời hạn trong tương lai. Đây là hình thức hợp đồng lãi suất được kinh
doanh trên thông tin liên ngân hàng và được các ngân hàng sử dụng như một công cụ
phòng tránh rủi ro lãi suất cho từng khối lượng tiền, đồng tiền hay thời gian nhất định
nào đó.
1.2.2.4 Các biện pháp phòng ngừa rủi ro quan hệ đại lý:
Để phòng ngừa và hạn chế rủi ro quan hệ đại lý, trước khi thiết lập quan hệ đại
lý với một ngân hàng nào thì cần phải nghiên cứu, tìm hiểu, đánh giá tình hình tài
chính, uy tín kinh doanh, các chỉ tiêu cơ bản của ngân hàng như Tổng tài sản, lợi
nhuận, ROA, ROE… để xếp hạng ngân hàng. Những thông tin trên có thể được tìm
hiểu từ nhiều kênh: tài liệu trao đổi giữa hai ngân hàng, tìm hiểu qua các tổ chức đánh
giá và xếp loại ngân hàng quốc tế như Ficht Rating, …
Thường xuyên theo dõi, đánh giá, cập nhật thông tin về tình hình hoạt động
của mỗi ngân hàng, xếp loại ngân hàng để có đề xuất ký kết các thỏa thuận đại lý với
những ngân hàng tốt, có uy tín.
1.2.2.5 Các biện pháp phòng ngừa rủi ro pháp lý:

Rủi ro pháp lý là một trong những rủi ro khó phòng tránh bởi liên quan đến
môi trưởng pháp lý của các bên liên quan. Tuy nhiên, các bên có thể hạn chế bằng
cách quy định rõ các nguồn luật điều chỉnh, tòa án giải quyết tranh chấp có lợi nhất
cho mình. Nếu có thể sử dụng luật quốc tế hoặc các tập quán quốc tế để điều chỉnh thì
cần phải dẫn chiếu đến trong giao dịch.
Như đã trình bày trong phần rủi ro pháp lý, các luật quốc tế và các tập quán
quốc tế hiện nay tuy chưa đầy đủ nhưng cũng đã tạo nên một khuôn khổ chung cho
các bên liên quan trong các giao dịch TTQT có dẫn chiếu áp dụng. Luật và tập quán
quốc tế điều chỉnh quyền và nghĩa vụ cũng như mối quan hệ của các bên liên quan
trong giao dịch TTQT. Nếu các bên liên quan trong giao dịch TTQT thống nhất áp
dụng luật hoặc các tập quán quốc tế thông qua việc dẫn chiếu đến luật hoặc điều ước
đó thì có thể tạo được tiếng nói chung trong việc thực hiện trách nhiệm và quyền lợi
của mình, tránh được các rủi ro trong quá trình tác nghiệp. Mặt khác, khi đã dẫn chiếu
đến nguồn luật điều chỉnh, các bên đều có điều kiện để nghiên cứu kỹ nguồn luật đó
- 18 -

nên nếu có tranh chấp phát sinh thì có thể bảo vệ được quyền lợi của mình một cách
hợp lý.
Các tập quán quốc tế không có tính bắt buộc như luật pháp trong nước. Nếu
muốn áp dụng các tập quán đó thì phải dẫn chiếu đến trong các tài liệu liên quan.
Chính vì vậy, để phòng tránh các rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động TTQT, các bên
tham gia cần hiểu rõ các tập quán quốc tế và lựa chọn những điều khoản, những quy
ước phù hợp để điều chỉnh các giao dịch TTQT của mình.
Trong trường hợp không có luật quốc tế và tập quán quốc tế điều chỉnh thì tốt
nhất là nên chọn luật quốc gia và tòa án quốc gia hoặc một tòa án quốc tế trung lập,
có uy tín để đảm bảo hiểu rõ các quy định cũng như trình tự tố tụng. Việc giành được
quyền chọn luật hoàn toàn phụ thuộc vào tương quan lực lượng giữa hai bên. Trong
trường hợp không thể chọn luật quốc gia và tòa án trong nước điều chỉnh quan hệ
kinh tế của hai bên, cần nghiên cứu kỹ luật điều chỉnh cũng như trình tự tố tụng của
tòa án được lựa chọn.

Điều quan trọng hơn là phải xem xét quy định các điều khoản điều kiện trong
hợp đồng chặt chẽ, đảm bảo an toàn, tránh xảy ra các tranh chấp hạn chế việc khiếu
kiện ra toà án. Trong những trường hợp phức tạp, cần có các chuyên gia pháp lý tư
vấn, tránh tình trạng có tranh chấp xảy ra mới tìm đến các luật sư, vừa tốn kém, lại
không hiệu quả.
1.2.2.6 Các biện pháp phòng ngừa rủi ro chính trị:
Rủi ro chính trị là một trong những rủi ro khó phòng tránh nhất bởi liên quan
đến nền kinh tế, chính trị của mỗi quốc gia. Mỗi sự thay đổi trong kinh tế, chính trị
của một nước ảnh hưởng đến tất cả các mặt hoạt động của nền kinh tế và tất cả các
đối tác.
Vấn đề phòng ngừa rủi ro chính trị liên quan đến việc tìm hiểu nắm bắt thông
tin về tình hình kinh tế chính trị của nước đó, đánh giá mức độ rủi ro quốc gia của
từng nước, từng khu vực để có chính sách riêng đối với từng thị trường cụ thể.
Đối với những quốc gia có nền kinh tế chính trị ổn định, mức độ rủi ro quốc
gia thấp thì các giao dịch TTQT có thể được thực hiện bình thường mà không cần bất
kỳ biện pháp đảm bảo bổ sung nào. Tuy nhiên đối với những quốc gia có mức độ rủi
ro quốc gia cao, cần giói hạn hạn mức thực hiện giao dịch cũng như quy định thêm
các biện pháp đảm bảo bổ sung. Ví dụ: yêu cầu các L/C phát hành từ những nước này
phải được xác nhận bởi một ngân hàng có uy tín trên thế giới để đảm bảo khả năng
- 19 -

thanh toán, hoặc để xác nhận những L/C nói trên, ngân hàng phát hành cần phải ký
quỹ 100% tại ngân hàng xác nhận…
Ngoài ra, ở một số nước, để hạn chế bớt các thiệt hại do rủi ro quốc gia gây ra,
người ta đã thành lập các hãng bảo hiểm. Ví dụ ở Đức có hãng bảo hiểm tín dụng của
chính phủ đảm nhiệm bảo hiểm 85-90% các rủi ro. Như vậy các nhà xuất khẩu ở
Cộng hòa Liên bang Đức chỉ phải chịu trách nhiệm 10% rủi ro thanh toán do các
nguyên nhân về chính trị hoặc 15% rủi ro do nguyên nhân về kinh tế.
1.2.2.7 Các biện pháp phòng ngừa rủi ro đạo đức:
Yếu tố tiên quyết để phòng ngừa rủi ro đạo đức là tìm hiểu kỹ đối tác giao

dịch. Vấn đề rủi ro đạo đức liên quan chặt chẽ đến văn hóa doanh nghiệp. Khi tiến
hành giao dịch với một đối tác, trước tiên cần tìm hiểu tư cách pháp nhân, năng lực
tài chính và mức độ uy tín của doanh nghiệp đó. Đối với các đối tác chưa thực sự
hiểu rõ cần phải áp dụng các biện pháp, các phương thức thanh toán đảm bảo an toàn.
Đối với các ngân hàng, khi thực hiện các giao dịch TTQT cần phải lựa chọn các đối
tác tin cậy, có uy tín cao trên trường quốc tế.
Để phục vụ yêu cầu tất yếu đó của các ngân hàng, đã có rất nhiều tổ chức đánh
giá ngân hàng quốc tế ra đời, thực hiện dịch vụ nghiên cứu và đánh giá các ngân hàng
trên toàn thế giới về xếp loại tín dụng, xếp loại uy tín, năng lực tài chính, mức độ tín
nhiệm… Ví dụ tổ chức Standard and Poor, Fitch Rating…
Đối với các khách hàng thực hiện giao dịch TTQT, ngân hàng cần phải xây
dựng chính sách khách hàng riêng cho từng đối tượng, áp dụng các chính sách ưu đãi
đối với các khách hàng truyền thống, có quan hệ tốt, có uy tín. Ngược lại đối với các
khách hàng mới, khách hàng nhiều rủi ro tiềm ẩn phải có các quy định chặt chẽ đảm
bảo an toàn cho ngân hàng. Thường xuyên theo dõi, đánh giá tình hình kinh doanh
của khách hàng để phát hiện kịp thời những vấn đề phát sinh của khách hàng để có
biện pháp xử lý kịp thời.
Tư vấn và hỗ trợ khách hàng trong việc tìm hiểu các thông tin về đối tác nước
ngoài để có các quyết định kinh doanh đúng đắn. Việc tìm hiểu thông tin có thể được
thực hiện qua nhiều kênh khác nhau, như thông qua các ngân hàng đại lý, các tổ chức
xúc tiến thương mại, tham tán thương mại tại quốc gia đó, các tạp chí chuyên ngành,
các mạng Internet của các tổ chức quốc tế có uy tín…


- 20 -

CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TTQT TẠI BIDV

2.1 TỔNG QUAN VỀ BIDV

2.1.1 Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của BIDV
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là doanh nghiệp nhà nước hạng đặc
biệt, giữ vai trò chủ đạo trong cung cấp dịch vụ ngân hàng phục vụ lĩnh vực đầu tư và
phát triển ở Việt Nam và là một trong năm ngân hàng thương mại quốc doanh lớn
nhất tại Việt Nam.
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, tùy theo yêu cầu chức năng
nhiệm vụ của từng thời kỳ lịch sử, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã 3 lần
thay đổi tên gọi (Bảng 2.1)
Bảng 2.1:Tên gọi của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam qua các thời kỳ
Thời gian Tên gọi Theo Quyết định
Từ 26/04/1957
đến 24/06/1981
Ngân hàng Kiến Thiết Việt Nam 177/TTg ngày 26/04/1957
Từ 24/06/1981
đến 14/10/1990
Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng
Việt Nam
259/CP ngày 24/06/1981
Từ 14/10/1990
đến nay
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam
401/CP ngày 14/10/1990

2.1.2 Đặc điểm kinh doanh của BIDV
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là doanh nghiệp Nhà nước hạng đặc
biệt, có tư cách pháp nhân, thực hiện chế độ hạch toán kinh tế tổng hợp, hoạt động
theo luật ngân hàng, luật các tổ chức tín dụng, luật doanh nghiệp nhà nước, luật
doanh nghiệp và các quy định khác của pháp luật.
Cơ cấu tổ chức của BIDV gồm Hội đồng quản trị (Văn phòng và Ban kiểm

soát), Ban Tổng giám đốc (Tổng giám đốc, các Phó Tổng giám đốc, Văn phòng, các
Ban, phòng chức năng và các đơn vị thành viên).
- 21 -

Hội đồng quản trị là cơ quan có thẩm quyền cao nhất được Nhà nước uỷ quyền
thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu Nhà nước với toàn bộ hệ thống và chịu trách
nhiệm trước Nhà nước. Các thành viên của Hội đồng quản trị do Thủ tướng Chính
phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm.
Tổng giám đốc là đại diện pháp nhân trong các hoạt động của Ngân hàng và
chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hoạt động của Ngân hàng.
Các đơn vị thành viên của BIDV gồm:
- Các chi nhánh hạch toán phụ thuộc: được chủ động trong kinh doanh, hoạt
động tài chính, tổ chức và nhân sự, được uỷ quyền một phần trong đầu tư phát triển
và huy động vốn đầu tư, thành lập các đơn vị trực thuộc. Hiện nay, BIDV có 72 chi
nhánh cấp 1 tại tất cả các tỉnh thành phố trên cả nước, 42 chi nhánh trực thuộc, 59
phòng giao dịch và 215 quỹ tiết kiệm.
- Các thành viên hạch toán độc lập: là các đơn vị trực tiếp làm nhiệm vụ kinh
doanh. Các doanh nghiệp này vừa có sự ràng buộc về nghĩa vụ và quyền lợi đối với
Tổng công ty, vừa có quyền tự chủ kinh doanh và hoạt động tài chính với tư cách
pháp nhân kinh tế độc lập, gồm Công ty thuê mua tài chính, Công ty chứng khoán,
Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản.
- Các đơn vị liên doanh: được thành lập với tỷ lệ góp vốn giữa BIDV và các đối
tác nước ngoài là 50/50, hoạt động trong các lĩnh vực ngân hàng và bảo hiểm, gồm có
Ngân hàng Liên doanh VID-PUBLIC (liên doanh với Public Bank Berhad, Malaysia),
Ngân hàng Liên doanh Lào-Việt (liên doanh với Ngân hàng ngoại thương Lào –
Banque pour le Commerce Exterieure Lao) và Công ty Liên doanh Bảo hiểm Việt-Úc
(liên doanh với Tập đoàn bảo hiểm QBE, Úc)
- Các đơn vị sự nghiệp: gồm Trung tâm đào tạo, Trung tâm công nghệ thông tin,
Trung tâm thanh toán điện tử hoạt động theo quy chế do Tổng giám đốc duyệt, thực
hiện hạch toán nội bộ, lấy thu bù chi, được sự hỗ trợ tài chính của Ngân hàng và được

tạo nguồn thu từ thực hiện dịch vụ, hợp đồng nghiên cứu.
2.2 TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TTQT TẠI BIDV
2.2.1 Mô hình tổ chức:
Từ năm 1990, nền kinh tế nước ta bắt đầu chuyển sang cơ chế thị trường nên
các giao dịch ngoại thương đã có điều kiện phát triển làm cho kim ngạch xuất nhập
- 22 -

khẩu tăng lên. Đặc biệt là từ sau khi Mỹ bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam thì
ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia vào hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.
Để đảm bảo đáp ứng được nhu cầu TTQT của các khách hàng có quan hệ tín dụng
với BIDV, từ tháng 3 năm 1993, phòng Kinh tế đối ngoại tại Hội sở chính bắt đầu
thực hiện nghiệp vụ TTQT. Ban đầu do lượng khách hàng chỉ bó hẹp ở những khách
hàng có quan hệ tín dụng có nhu cầu TTQT, nên ngoài việc thực hiện hoạt động
TTQT, phòng Kinh tế đối ngoại còn đảm nhiệm các nghiệp vụ tài trợ xuất nhập khẩu,
mua bán ngoại tệ, quan hệ quốc tế… Sau này, để đáp ứng được nhu cầu khách hàng
sử dụng dịch vụ này ngày càng tăng, các nghiệp vụ dần được tách riêng, và Phòng
Kinh tế đối ngoại được đổi tên thành phòng TTQT, chỉ đảm nhiệm nghiệp vụ TTQT.
Mô hình hoạt động TTQT của BIDV được tổ chức theo ngành dọc. Đầu mối
thanh toán với nước ngoài của cả hệ thống là Hội sở chính. Chỉ có Hội sở chính mới
được phép đặt quan hệ đại lý và mở tài khoản Nostro tại các ngân hàng nước ngoài.
Sơ đồ 2.1: Mô hình tổ chức hoạt động




Trung tâm tài trợ
thương mại (TFC)
Chi nhánh thực
hiện TTQT trực
tiếp

Vượt hạn mức
Trong hạn mức
Hệ thống
SWIFT
Chi nhánh thực
hiện TTQT gián
tiếp






Trong hoạt động TTQT, các chi nhánh trong hệ thống BIDV được chia thành 2 loại:
+ Loại 1: Các chi nhánh thực hiện TTQT trực tiếp: là các chi nhánh có đủ điều
kiện cần thiết để trực tiếp xử lý các nghiệp vụ TTQT, cụ thể là:
- Cán bộ được đào tạo về nghiệp vụ TTQT, có trình độ ngoại ngữ và kiến thức
ngoại thương đủ đáp ứng yêu cầu công việc.
- Có thị trường và khách hàng xuất nhập khẩu.
- Có đủ trang thiết bị và phương tiện cần thiết trong hoạt động TTQT.
- 23 -

- Được Tổng giám đốc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cấp giấy phép
hoạt động TTQT trực tiếp.
Chi nhánh trực tiếp nhận hồ sơ của khách hàng, xử lý và chịu trách nhiệm vê
các giao dịch phát sinh với các đối tác trong và ngoài nước. Các điện giao dịch của
chi nhánh sẽ được chuyển tới Hội sở chính bằng hệ thống thanh toán điện tử T5 và
SIBS (đối với các chi nhánh đã triển khai dự án Hiện đại hoá Ngân hàng) để chuyển
tiếp ra nước ngoài thông qua hệ thống SWIFT.
Tuỳ theo trình độ nghiệp vụ và chất lượng giao dịch TTQT của các chi nhánh,

Hội sở chính xây dựng hạn mức điện tự động cho từng loại giao dịch của từng chi
nhánh. Dưới hạn mức đã được xác định, các giao dịch của chi nhánh sẽ tự động
chuyển tới các ngân hàng đại lý qua hệ thống SWIFT. Các giao dịch vượt hạn mức sẽ
được kiểm soát và duyệt lại tại Hội sở chính.
Định kỳ, các chi nhánh thực hiện TTQT trực tiếp phải báo cáo Hội sở
chính về doanh số và tình hình hoạt động nghiệp vụ TTQT phát sinh tại chi
nhánh.
+ Loại 2: Các chi nhánh thực hiện TTQT gián tiếp: là các chi nhánh có thị
trường và khách hàng xuất nhập khẩu nhưng chưa đáp ứng đủ các điều kiện để thực
hiện trực tiếp nghiệp vụ TTQT. Tại chi nhánh cũng tiếp nhận và kiểm tra hồ sơ do
khách hàng xuất trình. Những hồ sơ này sau đó sẽ được chuyển lên Hội sở chính để
xử lý nghiệp vụ và chuyển tiếp ra nước ngoài. Chi nhánh là đầu mối trực tiếp tiếp xúc
với khách hàng, tư vấn và hướng dẫn khách hàng thực hiện các thủ tục và các chứng
từ cần thiết cho giao dịch TTQT, có trách nhiệm quản lý khách hàng, kiểm tra tính
xác thực của các chứng từ do khách hàng xuất trình. Hội sở chính có trách nhiệm
kiểm tra nội dung của các loại giao dịch phù hợp với quy định của pháp luật, các
thông lệ quốc tế, thực hiện giao dịch theo đúng quy trình đảm bảo an toàn về vốn và
uy tín cho Ngân hàng và khách hàng.
Chất lượng giao dịch của các chi nhánh được đánh giá định kỳ 1 lần/năm theo
quy trình quản lý chất lượng ISO để có những điều chỉnh hạn mức cho phù hợp với
hoạt động TTQT của từng chi nhánh, đảm bảo hoạt động TTQT an toàn trong toàn hệ
thống.

- 24 -

2.2.2 Các hoạt động TTQT chủ yếu:
2.2.2.1 Hoạt động thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ.
Sơ đồ 2.2:Quy trình tiến hành nghiệp vụ phương thức tín dụng chứng từ

(8) Thanh toán (bộ chứng từ phù hợp)










Ngân hàng mở L/C
(Issuing Bank)
Nhà xuất khẩu
(Beneficiary)
(7) Gửi bộ chứng từ đòi tiền
(6) Xuất trình bộ
chứng từ
(4) Thông báo L/C
(3) Phát hành L/C
(2) Đơn đề nghị
mở L/C
(1) Ký hợp đồng
Nhà nhập khẩu
(Applicant)
Ngân hàng thông báo
(Advising Bank)
(8’) Trích tài khoản
hoặc báo nợ, giao
bộ chưng từ
(9) Báo có
(5) Giao hàng


a. L/C nhập khẩu: Phương thức tín dụng chứng từ được sử dụng nhiều nhất trong
hoạt động TTQT của các khách hàng sử dụng dịch vụ TTQT của BIDV. Do vậy,
doanh số thanh toán nhập khẩu theo phương thức này chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
doanh số hoạt động TTQT của BIDV (chiếm gần 60%- Bảng 2.2)
Về bản chất của việc mở thư tín dụng là ngân hàng đứng ra cam kết thanh toán
cho người thụ hưởng khi họ xuất trình bộ chứng từ hoàn toàn phù hợp với điều
khoản, điều kiện của thư tín dụng. Để tránh rủi ro trong việc thực hiện cam kết thanh
toán, Ngân hàng phải xem xét rất kỹ nguồn vốn thanh toán thư tín dụng.
i) Nếu khách hàng mở thư tín dụng bằng vốn vay của BIDV, khách hàng không
cần ký quỹ. Đây là các giao dịch an toàn về nguồn vốn thanh toán nhưng lại
tiềm ẩn rủi ro về tín dụng. Hiệu quả phương án nhập khẩu của khách hàng sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tín dụng và vốn của ngân hàng. Khối lượng
những giao dịch này chiếm tỷ trọng khá lớn trong các giao dịch tín dụng
chứng từ tại BIDV (chiếm khoảng 50% tổng khối lượng giao dịch bằng
phương thức tín dụng chứng từ của BIDV)
ii) Nếu khách hàng mở thư tín dụng bằng vốn tài trợ uỷ thác của các tổ chức quốc
tế, khách hàng cũng không cần ký quỹ. Các giao dịch này không nhiều nhưng
- 25 -

thường có trị giá lớn, nằm trong các dự án ODA do các tổ chức nước ngoài
hoặc các quốc gia cấp cho Việt Nam chủ yếu trong lĩnh vực y tế, giao thông
công cộng, cấp thoát nước… Việc thanh toán được thực hiện theo phương thức
tín dụng chứng từ bằng Thư cam kết của tổ chức cấp ODA hoặc rút tiền từ tài
khoản đặc biệt của khách hàng mở tại BIDV. Đây là các giao dịch an toàn về
vốn nhưng rất phức tạp về nghiệp vụ và khả năng thu phí dịch vụ còn hạn chế.
iii) Nếu khách hàng mở thư tín dụng bằng nguồn vốn của bên thứ ba như vốn vay
của ngân hàng khác, vốn đồng tài trợ, nguồn vốn từ Quỹ hỗ trợ phát triển,
ngoài việc xem xét điều kiện tín dụng của bên thứ ba đó, BIDV còn yêu cầu
khách hàng phải có biện pháp dự phòng nguồn vốn gối đầu và ký quỹ tối thiểu

5%. Mức độ rủi ro của các giao dịch này phụ thuộc vào uy tín và năng lực tài
chính của bên thứ ba cấp tín dụng hoặc bảo lãnh và các điều kiện khoản vay.
iv) Nếu khách hàng mở thư tín dụng bằng vốn tự có, BIDV yêu cầu khách hàng
phải ký quỹ tối thiểu 5% và có các biện pháp đảm bảo cho nguồn vốn còn lại
như ký Hợp đồng tín dụng dự phòng, Bảo lãnh của bên thứ ba, ví dụ như Tổng
công ty…
Việc phát hành thư tín dụng được thực hiện tại tất cả các chi nhánh đã thực
hiện TTQT trực tiếp. Chi nhánh tự chịu trách nhiệm xem xét hồ sơ khách hàng,
nguồn vốn thanh toán thư tín dụng trong mức phán quyết tín dụng của chi nhánh do
Tổng giám đốc giao. Những thư tín dụng vượt hạn mức tự động của chi nhánh được
kiểm soát lại tại Hội sở chính.
Cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ trong doanh số và số lượng thư tín dụng
phát hành, cơ cấu hàng hoá nhập khẩu thanh toán qua BIDV cũng thay đổi qua các
năm theo xu hướng đa dạng hoá. Nếu trong những năm mới hoạt động, mặt hàng
nhập khẩu chủ yếu là máy móc thiết bị do các khách hàng hoạt động trong lĩnh vực
xây dựng cơ bản nhập khẩu để phục vụ sản xuất kinh doanh thì nay đã mở rộng thêm
các mặt hàng điện tử, nguyên vật liệu, phân bón, xăng dầu, bông sợi, hoá chất…
b. L/C xuất khẩu: Hoạt động thanh toán xuất khẩu theo phương thức tín dụng chứng
từ là một nghiệp vụ quan trọng trong hoạt động TTQT của BIDV. Sự tăng trưởng và
phát triển trong hoạt động này là kết quả của sự nỗ lực vượt bậc của Ngân hàng trong
hoạt động TTQT. Từ khi mới thực hiện hoạt động TTQT, các giao dịch thanh toán

×