Tải bản đầy đủ (.docx) (82 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN NGẮN HẠN CỦA DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (623.17 KB, 82 trang )

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN NGẮN HẠN CỦA DOANH NGHIỆP

Những vấn đề cơ bản về tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp
Khái niệm, đặc điểm tài sản ngắn hạn
1.1.1.1. Khái niệm tài sản ngắn hạn
TSNH là những tài sản luân chuyển nhanh, không ngừng chuyển đổi
1.1.
1.1.1.

hình thái và hoàn thành một vòng luân chuyển sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh
doanh. [1, Tr119]
Cũng có thể hiểu tài sản ngắn hạn là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ
những tài sản của doanh nghiệp có thời gian luân chuyển ngắn, thường là
trong vòng một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh. [2, Tr8]
Trong quá trình sản xuất kinh doanh bên cạnh tài sản cố định, doanh
nghiệp luôn có một khối lượng tài sản nhất định nằm rải rác trong các khâu
của quá trình sản xuất như dự trữ chuẩn bị sản xuất, phục vụ sản xuất, phân
phối, tiêu thụ sản phẩm, đây chính là tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp. Đối
với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, giá trị của tài sản ngắn hạn thường
chiếm 50% - 70% tổng giá trị tài sản.
Tài sản ngắn hạn chủ yếu nằm trong quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp và là các đối tượng lao động. Đối tượng lao động khi tham gia
vào quá trình sản xuất không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu. Bộ phận
chủ yếu của đối tượng lao động sẽ thông qua quá trình sản xuất tạo thành thực
thể của sản phẩm, bộ phận khác sẽ hao phí mất mác đi trong quá trình sản
xuất. Đối tượng lao động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất do đó toàn bộ
giá trị của chúng được dịch chuyển một lần vào sản phẩm và được thực hiện
khi sản phẩm trở thành hàng hóa.
Đối tượng lao động trong các doanh nghiệp được chia thành hai thành
phần: một bộ phận là những vật tư dự trữ đảm bảo cho quá trình sản xuất
được liên tục, một bộ phận là những vật tư đang trong quá trình chế biến (sản


phẩm dở dang, bán thành phẩm,…) cùng với các công cụ, dụng cụ, phụ tùng
thay thế được dự trữ hoặc sử dụng, chúng tạo thành tài sản ngắn hạn nằm
trong khâu sản xuất của doanh nghiệp.
1


Bên cạnh tài sản ngắn hạn nằm trong khâu sản xuất, doanh nghiệp cũng
có một số tài sản ngắn hạn khác nằm trong khâu lưu thông, thanh toán đó là
các vật tư phục vụ quá trình tiêu thụ, là các khoản hàng gửi bán, các khoản
phải thu,…
Tài sản ngắn hạn được phân bổ đủ trong tất cả các khâu, công đoạn
nhằm đảm bảo cho các hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục, ổn
định, tránh lãng phí và tổn thất do thiếu phải dừng sản xuất, không làm ảnh
hưởng đến khả năng thanh toán và đảm bảo khả năng sinh lời của tài sản. Do
đó, tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp có đặc điểm sau.
1.1.1.2. Đặc điểm của tài sản ngắn hạn.
Một là, TSNH tham gia vào một chu kỳ SXKD và bị tiêu hao hoàn toàn
trong quá trình sản xuất đó. Giá trị luân chuyển một lần vào giá thành sản
phẩm làm ra.
Hai là, qua mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh TSNH thường xuyên
thay đổi hình thái biểu hiện, từ hình thái tiền tệ ban đầu chuyển sang hình thái
vật tư, hàng hoá dự trữ và sản xuất, rồi cuối cùng lại trở về hình thái tiền tệ.
Sau mỗi chu kỳ sản xuất, TSNH hoàn thành một vòng chu chuyển.1
1.1.2. Phân loại tài sản ngắn hạn
Để sử dụng TSNH một cách có hiệu quả người ta tiến hành phân loại
TSNH theo các tiêu thức khác nhau. Thông thường có những cách phân loại
TSNH như sau:


Phân loại theo các khoản mục trên bảng cân đối kế toán.

Trong bảng cân đối kế toán hiện nay, tài sản ngắn hạn là những tài sản

có thời gian luân chuyển dưới 1 năm hoặc dưới một chu kỳ kinh doanh nếu
doanh nghiệp có chu kỳ kinh doanh trên 12 tháng. Tài sản ngắn hạn bao gồm
năm yếu tố chủ yếu được sắp xếp vào bảng cân đối kế toán theo thứ tự giảm
dần tính thanh khoản: (1) tiền và các khoản tương đương tiền; (2) đầu tư ngắn
hạn; (3) các khoản phải thu; (4) tồn kho; (5) tài sản ngắn hạn khác.

1 />
2


Tiền và các khoản tương đương tiền: phản ánh toàn bộ số tiền hiện
có của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo, bao gồm: tiền mặt tại quỹ, tiền gửi
tại ngân hàng, tiền đang chuyển và các khoản đầu tư ngắn hạn có thời hạn
thanh toán không quá 3 tháng. Đây là loại tài sản có tính thanh khoản cao
nhất. Do vậy, số dư tiền và các khoản tương đương tiền (gọi tắt là tiền mặt)
càng lớn, khả năng thanh toán của doanh nghiệp càng cao. Tuy vậy, dự trữ
tiền mặt quá lớn làm giảm khả năng sinh lời của vốn do tiền mặt là tài sản có
khả năng sinh lời thấp, không sinh lời thậm chí sinh lời âm khi nền kinh tế có
mức lạm phát cao. Tiền và các khoản tương đương tiền bao gồm:
1. Tiền mặt tại quỹ.
2. Tiền gửi ngân hàng.
3. Tiền đang chuyển.
4. Các khoản tương đương tiền.
Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn: là giá trị của các khoản đầu tư
tài chính ngắn hạn như đầu tư chứng khoán ngắn hạn, cho vay ngắn hạn và
đầu tư ngắn hạn khác có thời gian đầu tư dưới 1 năm, không bao gồm các
khoản đầu tư có thời hạn dưới 3 tháng và ít rủi ro đã được coi là các khoản
tương đương tiền. Đầu tư tài chính ngắn hạn bao gồm:

1. Đầu tư chứng khoán ngắn hạn.
2. Đầu tư ngắn hạn khác.
3. Dự phòng giảm giá đầu tư ngắn hạn.
Các khoản phải thu: là các khoản mà khách hàng và các bên có liên
quan đang nợ doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo có thời hạn trả dưới 1 năm,
hoặc trong 1 chu kỳ kinh doanh. Do vậy, đây cũng được coi là loại tài sản có
tính thanh khoản cao chỉ sau tiền và các khoản đầu tư ngắn hạn. Trong nền
kinh tế thị trường, bán chịu được xem là chính sách khuyến mãi, khách hàng
chưa có tiền vẫn có thể mua sản phẩm của doanh nghiệp. Nhờ vậy, doanh
nghiệp có thể mở rộng thị trường, tăng doanh số, bán chịu còn giúp cho doanh
nghiệp củng cố mối quan hệ lâu dài với khách hàng. Tuy nhiên, bán chịu cũng
gây ra những bất lợi cho doanh nghiệp.
Khoản phải thu giữ vai trò quan trọng bởi nếu các nhà quản lý không
cân đối giữa các khoản phải thu thì doanh nghiệp sẽ gặp phải những rủi ro
3


thậm chí dễ dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán. Các khoản phải thu
gồm:
Phải thu của khách hàng
Trả trước cho người bán.
Phải thu nội bộ.
Phải thu theo tiến độ hợp đồng XD.
Các khoản phải thu khác.
Dự phòng các khoản phải thu khó đòi.
Hàng tồn kho: phản ánh giá vốn của nguyên vật liệu, công cụ, dụng
1.
2.
3.
4.

5.
6.

cụ, sản phẩm dở dang, thành phẩm và hàng hóa đang được tồn trữ trong kho
của doanh nghiệp cũng như tại các đại lý của doanh nghiệp dưới hình thức
hàng gửi bán tại thời điểm báo cáo. Đây là bộ phận tài sản ngắn hạn quan
trọng nhất của doanh nghiệp, các tài sản này phải luân chuyển nhanh và
thường xuyên đổi mới do vậy cũng được xem là loại tài sản có tính thanh
khoản cao sau các khoản phải thu.
Tuy nhiên trong quá trình sản xuất kinh doanh, hàng hóa sản phẩm
không tiêu thụ được, bị tồn đọng có thể làm cho tồn kho tăng lên do tồn kho
không luân chuyển được, trong trường hợp này doanh nghiệp phải tìm mọi
biện pháp để thanh lý hàng tồn kho ứ đọng, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển tồn
kho. Tồn kho bao gồm:
1. Hàng mua đang đi trên đường.
2. Nguyên liệu, vật liệu tồn kho.
3. Công cụ, dụng cụ trong kho.
4. Chi phí sản xuất, kinh doanh dở dang.
5. Thành phẩm tồn kho.
6. Hàng hóa tồn kho.
7. Hàng gửi đi bán.
8. Hàng hóa kho bảo thuế.
9. Dự phòng giảm giá hàng tồn kho.
Tài sản ngắn hạn khác: bao gồm các khoản tạm ứng chưa thu hồi, chi
phí trả trước, chi phí chờ kết chuyển, tài sản thiếu hụt chờ xử lý và các khoản
thế chấp, ký cược, ký quỹ ngắn hạn kết dư tại thời điểm báo cáo. Đây là giá
trị những tài sản mà phần lớn trong đó công ty không thể thu hồi lại được khi
công ty bị thanh lý (chi phí trả trước, chi phí chờ kết chuyển). Tài sản ngắn
hạn khác gồm:
4



1.
2.
3.
4.
5.

Tạm ứng.
Chi phí trả trước.
Chi phí chờ kết chuyển.
Tài sản thiếu chờ xử lý.
Các khoản thế chấp, ký quỹ, ký cược ngắn hạn. [1, Tr220]

Dựa theo lĩnh vực luân chuyển của TSNH đối với quá trình sản



xuất kinh doanh có thể chia TSNH thành các loại chủ yếu sau:
TSNH trong khâu sản xuất: là toàn bộ TSNH dự trữ cho quá trình sản
xuất của doanh nghiệp như nguyên liệu, nhiên liệu, công cụ dụng cụ… đang
dự trữ trong kho và tài sản trong quá trình sản xuất như giá trị sản phẩm dở
dang.
TSNH trong khâu lưu thông: là toàn bộ TSNH dự trữ cho quá trình lưu
thông của doanh nghiệp, bao gồm: hàng hóa, thành phẩm trong kho hoặc đang
gửi bán và tài sản trong quá trình lưu thông như vốn bằng tiền, các khoản phải
thu ngắn hạn.
TSNH tài chính là các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn với mục đích
kiếm lời như đầu tư liên doanh, đầu tư chứng khoán ngắn hạn.
TSNH khác như tạm ứng, ký quỹ, ký cược ngắn hạn,…

Theo cách phân loại này giúp cho các nhà quản lý doanh nghiệp xác
định được các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình luân chuyển của TSNH để
đưa ra biện pháp quản lý thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng chúng
một cách cao nhất. [2, Tr8]


Theo nguồn hình thành.
TSNH được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, tuy nhiên có thể

phân ra thành hai nguồn cơ bản: nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn vay.
a.

Nguồn vốn chủ sở hữu: “Là nguồn vốn do doanh nghiệp sở hữu được
chuyển sử dụng theo nhu cầu mục đích kinh doanh của mình”. TSNH được
hình thành từ nguồn vốn chủ sở hữu bao gồm số TSNH được Ngân sách Nhà
nước cấp hoặc có từ các cổ đông, xã viên góp; do chủ doanh nghiệp tư nhân

5


bỏ ra; số TSNH tăng thêm từ lợi nhuận bổ sung; vốn góp từ liên doanh; do
phát hành cổ phiếu…
Vốn pháp định: vốn pháp định là số vốn tối thiểu phải có để thành lập
doanh nghiệp do pháp luật quy định đối với từng ngành nghề. Đối với doanh
nghiệp Nhà nước, nguồn vốn này do ngân sách nhà nước cấp.
Vốn tự bổ sung: Thực chất nguồn vốn này là số lợi nhuận chưa phân
phối (lợi nhuận lưu giữ) và các khoản trích hàng năm của doanh nghiệp như
các quỹ xí nghiệp (quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ phúc
lợi,…).
Vốn chủ sở hữu khác: Thuộc nguồn này gồm khoản chênh lệch do

đánh giá lại tài sản, do chênh lệch tỷ giá ngoại tệ, do được ngân sách cấp kinh
phí, do các đơn vị phụ thuộc nộp kinh phí quản lý và vốn chuyên dùng xây
dựng cơ bản.
a.

Nguồn vốn đi vay:
Đối với một doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường, vốn
chủ sở hữu có vai trò rất quan trọng nhưng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng
nguồn vốn. Để đáp ứng đầy đủ các giai đoạn tuần hoàn và luân chuyển
TSNH, doanh nghiệp có thể chọn hình thức đi vay tùy theo điều kiện của
doanh nghiệp mình. Doanh nghiệp có thể đi vay từ ngân hàng, các tổ chức tín
dụng hoặc các hình thức khác.



Vốn vay: doanh nghiệp có thể vay ngân hàng, các tổ chức tín dụng các cá
nhân, đơn vị kinh tế để tạo lập hoặc tăng thêm nguồn vốn.
- Vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng rất quan trọng đối với các
doanh nghiệp. Nguồn vốn này đáp ứng đúng thời điểm các khoản tín dụng
ngắn hạn hoặc dài hạn tùy theo nhu cầu của doanh nghiệp trên cơ sở các hợp
đồng tín dụng giữa ngân hàng và doanh nghiệp.
- Vốn vay trên thị trường chứng khoán. Tại những nền kinh tế có thị
trường chứng khoán phát triển, vay vốn trên thị trường chứng khoán là một
hình thức huy động vốn cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể phát hành
6


trái phiếu, đây là một công cụ tài chính quan trọng dễ sử dụng vào mục đích
vay dài hạn đáp ứng nhu cầu vốn SXKD. Việc phát hành trái phiếu cho phép
doanh nghiệp có thể thu hút rộng rãi số tiền nhàn rỗi trong xã hội để mở rộng

hoạt động kinh doanh của mình.


Vốn liên doanh liên kết: Doanh nghiệp có thể kinh doanh, liên kết, hợp tác
với các doanh nghiệp khác để huy động thực hiện mở rộng hoạt động sản xuất
kinh doanh. Đây là một hình thức huy động vốn quan trọng vì hoạt động tham
gia góp vốn liên doanh, liên kết gắn liền với việc chuyển giao cộng nghệ thiết
bị giữa các bên tham gia nhằm đổi mới sản phẩm, khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp. Doanh nghiệp cũng có thể tiếp nhận máy móc, thiết bị nếu hợp



đồng liên doanh quy định góp vốn bằng máy móc thiết bị.
Vốn tín dụng thương mại: “Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp có
thể sử dụng tài trợ thông qua hình thức bán trả chậm của các nhà cung cấp để
có hàng hóa nguyên vật liệu để phục vụ sản xuất kinh doanh. Hình thức tài trợ
này gọi là tín dụng thương mại hay tín dụng nhà cung cấp”. [4, tr 164]
Tín dụng thương mại luôn gắn với một luồng hàng hóa dịch vụ cụ thể,
gắn với một quan hệ thanh toán cụ thể nên nó chịu tác động của cơ chế thanh
toán cụ thể nên nó chịu tác động của cơ chế thanh toán, của chính sách tín
dụng khách hàng mà doanh nghiệp được hưởng. Đây là phương thức tài trợ
tiện lợi, linh hoạt trong kinh doanh và nó còn tạo khả năng mở rộng các quan
hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Tuy nhiên các khoản tín dụng
thương mại thường có thời hạn ngắn nhưng nếu doanh nghiệp biết quản lý
một cách khoa học nó có thể đáp ứng phần nào nhu cầu vốn lưu động cho



doanh nghiệp.
Vốn tín dụng thuê mua [4, tr169]

Tín dụng thuê mua là một hình thức tài trợ tín dụng thông qua các loại
tài sản, máy móc, thiết bị…Thỏa thuận thuê mua là một hợp đồng giữa hai
hay nhiều bên, liên quan đến một hay nhiều tài sản. Người cho thuê (chủ sở
hữu tài sản) chuyển giao tài sản cho người thuê (người sử dụng tài sản) độc
quyền sử dụng trong một khoản thời gian nhất định. Đổi lại, người thuê phải
7


trả một số tiền cho chủ tài sản tương xứng với quyền sử dụng và quyền hưởng
dụng.
Việc phân loại theo cách này tạo điều kiện cho doanh nghiệp chọn lựa
đối tượng huy động vốn tối ưu để luôn có một số vốn ổn định đáp ứng nhu
cầu sản xuất. [2, Tr9]. Nó là cơ sở để doanh nghiệp lựa chọn nguồn tài trợ phù
hợp tùy theo loại hình sở hữu, ngành nghề kinh doanh, quy mô trình độ quản
lý, trình độ khoa học kỹ thuật cũng như chiến lược phát triển và chiến lược
đầu tư của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, đối với việc quản lý vốn ở các doanh
nghiệp trọng tâm cần đề cập là hoạt động luân chuyển của vốn, sự ảnh hưởng
qua lại của hình thái khác nhau của tài sản và hiệu quả quay vòng vốn. Vốn
cần được xem xét dưới trạng thái động với quan điểm hiệu quả.
Tóm lại: Ở các doanh nghiệp khác nhau thì kết cấu tài sản ngắn hạn
khác nhau. Việc phân tích tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp theo các tiêu
thức khác nhau sẽ giúp doanh nghiệp hiểu rõ thêm những đặc điểm riêng về
tài sản ngắn hạn mà mình đang quản lý và sử dụng. Từ đó xác định đúng biện
pháp quản lý tài sản ngắn hạn có hiệu quả hơn và cũng có thể thấy được
những biến đổi tích cực hoặc những hạn chế về mặt chất lượng trong công tác
quản lý và sử dụng tài sản ngắn hạn tại doanh nghiệp mình.
1.1.3. Vai trò của tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp
Tài sản ngắn hạn là điều kiện cần và đủ cho hoạt động SXKD, làm cho
tiến độ hoạt động của doanh nghiệp không bị gián đoạn. Để tiến hành sản
xuất, ngoài tài sản cố định như máy móc, thiết bị, nhà xưởng,... doanh nghiệp

phải bỏ ra một lượng tiền nhất định để mua hàng hóa, nguyên vật liệu,... phục
vụ cho quá trình sản xuất. Do vậy, tài sản ngắn hạn là điều kiện đầu tiên để
doanh nghiệp đi vào hoạt động hay quá trình sản xuất kinh doanh.
Tài sản ngắn hạn là bộ phận chủ yếu cấu thành nên giá thành sản phẩm.
Vai trò này được hình thành từ đặc điểm giá trị tài sản ngắn hạn luân chuyển
một lần vào giá thành sản phẩm làm ra. Giá thành sản phẩm bán ra được tính
toán trên cơ sở giá thành sản phẩm cộng thêm một phần lợi nhuận bù đắp. Do
8


đó, tài sản ngắn hạn đóng vai trò quyết định trong việc tính giá cả hàng hóa
bán ra của doanh nghiệp.
Tài sản ngắn hạn còn phản ánh số lượng vật tư, hàng hóa dự trữ sử
dụng ở các khâu dự trữ, sản xuất, lưu thông nhiều hay ít, có hợp lý hay không.
Vì vậy, thông qua tình hình tài sản ngắn hạn có thể kiểm tra, xem xét một
cách kịp thời các mặt mua sắm, dự trữ, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp. Do vai trò quan trọng này nên việc sử dụng TSNH trong doanh
nghiệp là một công việc đòi hỏi sự tính toán chính xác và hợp lý giữa các
khâu, các giai đoạn trong quá trình kinh doanh từ đó mới có thể phát huy hết
tác dụng và mang lại hiệu quả thiết thực trong doanh nghiệp.2
Trên đây là một số vai trò quan trọng, cơ bản của tài sản ngắn hạn đối
với doanh nghiệp trong hoạt động SXKD nói chung trong nền kinh tế thị
trường. Nhận thức được vai trò của tài sản ngắn hạn một cách sâu sắc, giúp
các doanh nghiệp sử dụng nó một cách tiết kiệm, có hiệu quả hơn và luôn tìm
cách nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn.
1.2.

Quản trị tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp (3, tr 439)

1.2.1. Quản trị hàng tồn kho


Hàng tồn kho là một trong những tài sản có giá trị lớn nhất trong tổng
giá trị tài sản của một doanh nghiệp, thông thường giá trị hàng tồn kho chiếm
40% tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp. Do đó việc điều khiển, kiểm soát
tốt hàng tồn kho luôn là một vấn đề cần thiết, chủ yếu trong quản trị sản xuất.
1.2.1.1.


Chức năng của quản trị hàng tồn kho

Chức năng liên kết
Chức năng chủ yếu nhất của quản trị hàng tồn kho là liên kết giữa ba
quá trình cung ứng – sản xuất – tiêu thụ.
Khi nhu cầu về một loại hàng nào đó không đều đặn giữa các kỳ thì
việc duy trì thường xuyên một loại hàng tồn kho nhằm tích lũy cho một thời
kỳ cao điểm là một vấn đề hết sức cần thiết.
2 />
9


Thực hiện chức năng liên kết nhằm đảo bảo sản xuất liên tục, tránh
thiếu hụt gây lãng phí trong sản xuất. Hạn chế thấp nhất tình trạng cạn dự trữ
trong sản xuất và tăng khả năng sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của khách hàng lên
cao nhất.


Chức năng đề phòng tăng giá, đề phòng lạm phát
Một doanh nghiệp nếu biết trước tình hình tăng giá nguyên vật liệu hay

hàng hóa, họ có thể dự trữ tồn kho để tiết kiệm chi phí. Như vậy, tồn kho sẽ là

một hoạt động đầu tư tốt, trong hoạt động hàng tồn kho chúng ta phải xem xét
đến chi phí và rủi ro có thể xảy ra trong quá trình tiến hành hàng tồn kho.
Tuy nhiên, cần phân biệt tồn kho hợp lý với đầu cơ đợi giá lên để làm
lũng doạn thị trường.


Chức năng khấu trừ theo số lượng
Là một chức năng hết sức quan trọng trong hoạt động quản trị hàng tồn

kho. Rất nhiều nhà cung ứng sẵn sàng chấp nhận chiết khấu thương mại cho
những đơn hàng có số lượng lớn. Việc mua hàng với số lượng lớn có thể đưa
đến việc giảm phí tổn sản xuất, tuy nhiên mua hàng với số lượng lớn sẽ chịu
chi phí tồn trữ cao do đó trong quản trị tồn kho người ta phải xác định
lượng hàng tông kho tối ưu để hưởng giá khấu trừ mà chi phí dự trữ gia tăng
không đáng kể.
1.2.1.2. Các dạng tồn kho và các biện pháp giảm sản lượng hàng tồn kho
a. Các dạng tồn kho

Cung ứng

Sản xuất
NVL

Người
cung
ứng Bán thành
phẩm

Dự
trữ


Tiêu thụ
Thành
phẩm
trong
kho
thành
phẩm

Sản
phẩ
m dở
dang

Phụ tùng
thay thế
10

Thành
phẩm
trong
kho
người
bán
buôn

Thành
phẩm
trong
kho

người
bán lẻ


Sơ đồ 1.1. Các dạng tồn kho
b. Các biện pháp giảm lượng hàng tồn kho


Giảm lượng nguyên vật liệu dự trữ thể hiện chức năng liên kết giữa quá
trình sản xuất và nguồn cung ứng. Cách tiếp cận ưu tiên nhất là tìm cách
giảm bớt những sự thay đổi trong nguồn cung ứng về số lượng, chất lượng
trong kỳ giao hàng.
Giảm lượng sản phẩm dở dang: tồn kho xuất hiện là do nhu cầu thiết



yếu của quá trình sản xuất và chịu tác động bởi chu kỳ sản xuất. Muốn làm
được điều đó doanh nghiệp cần khảo sát kỹ lượng cơ cấu của chu kỳ sản xuất.


Giảm số lượng dụng cụ, phụ tùng thay thế: loại hàng tồn kho này tồn tại do
nhu cầu và thời gian duy trì bảo quản sữa chữa các thiết bị công cụ. Do đó, để
giảm lượng hàng tồn kho loại này cần có kế hoạch sửa chữa, bảo trì chính
xác.
Giảm số lượng thành phẩm tồn kho: sự tồn tại của nó xuất phát từ



nhu cầu của khách hàng trong từng thời điểm nhất định. Do đó nếu dự đoán



chính xác nhu cầu khách hàng sẽ giảm được hàng tồn kho này.
Áp dụng mô hình tồn kho để đưa ra sản lượng đặt hàng tối ưu.
1.2.1.3.

Mô hình tồn trữ tối ưu.

a. Mô hình đặt hàng hiệu quả EOQ (Economic Ordering Quantity)

Mô hình EOQ do Ford W.Harris đề xuất năm 1915, mô hình này là một
trong những kỹ thuật kiểm soát tồn kho và lâu đời nhất. Để áp dụng mô hình
này ta phải tuân thủ các giả thuyết sau:
-

Nhu cầu về hàng tồn kho là biết trước và không thay đổi.

-

Khoảng thời gian từ khi đặt hàng cho đến khi nhận hàng là không thay
đổi.

-

Sản lượng của đơn hàng phải được vận chuyển trong một chuyến hàng.

-

Chỉ có hai loại chi phí phù hợp là chi phí đặt hàng và chi phí tồn trữ.

-


Không có chiết khấu hàng bán dù mua nhiều hay mua ít và không có sự
mất mát, hao hụt trong quá trình vận chuyển.
11


-

Sự thiếu hụt trong kho là hoàn toàn không xảy ra.

-

Mô hình không chịu sự ảnh hưởng của khả năng tài chính và giới hạn
về kho tàng của doanh nghiệp đồng thời chỉ tính cho một loại hàng tồn
kho cụ thể.

Sản lượng Q
Q* ---------------------------------------------------------

Qtb -----------------------------------------------------------

Qmin=0

A

B

C

thời gian t


Sơ đồ 1.2. Biểu diễn hàng tồn kho theo mô hình EOQ
Để xác định lượng hàng Q* chúng ta phải tối thiểu hóa chi phí đặt hàng
và chi phí bảo quản, tức là: Tổng chi phí tồn kho

min

Hay: Tổng chi phí tồn kho = tổng chi phí đặt hàng + tổng chi phí bảo quản.
Như vậy, theo mô hình EOQ ta sẽ được lượng hàng tối ưu là:
Q* =
Trong đó: Q*: sản lượng tối ưu
S

: chi phí cho một lần đặt hàng

D : nhu cầu vật tư trong năm
H : chi phí tồn trữ bình quân tính cho một đơn vị hàng
b. Mô hình cung cấp theo nhu cầu sản xuất POQ (Production Oder

Quantity)
Mô hình POQ được áp dụng khi lượng hàng của một đơn vị hàng được
vận chuyển nhiều chuyến, còn mô hình EOQ lượng hàng của một đơn hàng
được vận chuyển một chuyến.
Q

12


Qmax --------------------------------------------------------


t

t
T

T

Sơ đồ 1.3. Biểu diễn hàng tồn kho theo mô hình POQ
Trong đó:

t : thời gian cung ứng
T : chu kỳ cung ứng
P : lượng hàng cung ứng mỗi ngày (mức độ sản xuất hàng ngày)
D : lượng hàng sử dụng mỗi ngày (lượng hàng tiêu thụ hàng

ngày)
Cũng xuất phát từ chi phí tồn kho là nhỏ nhất, ta xác định được lượng
hàng lượng hàng tối ưu sẽ là:
Q* =
1.2.2. Quản trị khoản phải thu

Cùng với quản trị tiền mặt và hàng tồn kho, quản trị khoản phải thu gắn
liền với việc đánh đổi giữa chi phí liên quan đến khoản phải thu và doanh thu
tăng thêm do bán chịu hàng hóa.
Hầu hết các doanh nghiệp đều phát sinh các khoản phải thu nhưng ở
mức độ khác nhau từ mức không đáng kể cho đến mức không thể kiểm soát
nổi, kiểm soát các khoản phải thu liên quan đến việc đánh đổi giữa lợi nhuận
và rủi ro. Nếu không bán chịu hàng hóa thì sẽ mất đi cơ hội bán hàng, do đó
mất đi lợi nhuận. Nếu bán chịu hàng hóa quá nhiều thì chi phí cho khoản phải
thu tăng và nguy cơ phát sinh các khoản nợ khó đòi, do đó rủi ro không thu

hồi được nợ cũng gia tăng.
Bán chịu
Tăng doanh thu
13

Tăng các khoản phải
thu


Tăng chi phí có liên quan

Tăng lợi nhuận

So sánh chi phí và lợi
nhuận
Quyết định chính sách
bán chịu hợp lý

Sơ đồ 1.4. Quản trị khoản phải thu
Để quyết định xem có gia tăng khoản bán chịu hay không, doanh
nghiệp cần phải xem xét khoản lợi nhuận gia tăng có lớn hơn các chi phí liên
quan đến khoản phải thu và chi phí cơ hội do đầu tư khoản phải thu hay
không?
Khoản phải thu của doanh nghiệp phát sinh nhiều hay ít phụ thuộc vào
các yếu tố như tình hình nền kinh tế, giá cả sản phẩm, chất lượng sản phẩm,
chính sách bán chịu hàng hóa của doanh nghiệp. Trong các yếu tố này chính
sách bán chịu ảnh hưởng mạnh nhất đến các khoản phải thu. Hạ thấp tiêu
chuẩn bán chịu có thể kích thích được nhu cầu dẫn đến gia tăng doanh thu và
lợi nhuận, nhưng vì bán chịu sẽ làm phát sinh khoản phải thu và bao giờ cũng
phát sinh chi phí đi kèm khoản phải thu nên doanh nghiệp cần xem xét cẩn

thận sự đánh đổi này.
Những yếu tố ảnh hưởng đến chính sách bán chịu của doanh nghiệp:
-

Mục tiêu mở rộng thị trường tiêu thụ

-

Tính chất thời vụ trong sản xuất và tiêu thụ

-

Tình trạng cạnh tranh của các doanh nghiệp

-

Tình trạng tài chính của doanh nghiệp
14


Xem xét chính sách bán chịu tức xem xét các vấn đề như tiêu chuẩn bán
chịu, điều khoản bán chịu, rủi ro bán chịu, chính sách và quy trình thu nợ.
a. Tiêu chuẩn bán chịu

Tiêu chuẩn bán chịu là tiêu chuẩn về mặt uy tín tín dụng của khách
hàng để được doanh nghiệp chấp nhận bán chịu hàng hóa. Tiêu chuẩn bán
chịu là một bộ phận cấu thành chính sách bán chịu của doanh nghiệp. Nếu đối
thủ cạnh tranh mở rộng chính sách bán chịu trong khi chúng ta không phản
ứng lại điều này thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng bởi vì bán chịu là yếu tố ảnh
hưởng rất lớn và có tác dụng kích thích đến nhu cầu. Ở đây, có sự đánh đổi

giữa lợi nhuận tăng thêm và chi phí liên quan đến khoản phải thu tăng thêm
do hạ thấp tiêu chuẩn bán chịu. Vấn đề đặt ra là khi nào công ty nên và không
nên nới lỏng tiêu chuẩn bán chịu. Cụ thể khi các tiêu chuẩn bán chịu tăng lên
ở mức cao hơn, dẫn đến doanh số bán sẽ giảm và ngược lại khi các tiêu chuẩn
bán chịu giảm thì doanh số bán sẽ tăng, tuy nhiên khi các tiêu chuẩn tín dụng
được hạn thấp thường sẽ thu hút nhiều khách hàng có tiềm lực tài chính yếu.
Ngoài ra, kỳ thu tiền bình quân tăng lên, doanh nghiệp sẽ có khả năng gặp
những món nợ khó đòi nhiều hơn, khả năng thua lỗ cũng tăng lên. Do đó, một
doanh nghiệp khi quyết định thay đổi tiêu chuẩn bán chịu là phải dựa trên cơ
sở phân tích về chi phí và lợi nhuận trước khi thay đổi tiêu chuẩn bán chịu.
Nếu việc nới lỏng các chỉ tiêu chuẩn bán chịu đem lại lợi nhuận cao hơn thì
doanh nghiệp sẽ quyết định thay đổi, bằn không thì nên giữ nguyên.
b. Điều khoản bán chịu

Là điều khoản xác định độ dài thời gian hay thời hạn bán chịu và tỷ lệ
chiết khấu áp dụng nếu khách hàng trả sớm hơn thời hạn bán chịu cho phép.
Ví dụ điều khoản bán chịu “2/10 net 30” có nghĩa là khách hàng được hưởng
2% chiết khấu nếu thanh toán trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày sản xuất hóa
đơn, và nếu khách hàng không lấy chiết khấu thì khách hàng sẽ được trả chậm
trong 30 ngày kể từ ngày xuất hóa đơn. Điều khoản bán chịu gồm hai vấn đề:

15


-

Thời hạn bán chịu: là độ dài thời gian mà các khoản bán chịu được phép kéo
dài.

-


Chiết khấu thương mại: là phần tiền chiết khấu đối với những giao dịch mua
hàng bằng tiền. Chiết khấu thương mại tạo ra những khuyến khích thanh toán
sớm hơn các hợp đồng mua hàng. Điều khoản chiết khấu liên quan đến hai
vấn đề là thời hạn chiết khẩu và tỷ lệ chiết khấu.
c. Rủi ro bán chịu

Là loại rủi ro phát sinh do khách nợ không còn khả năng chi trả. Chính
sách bán chịu không chỉ liên quan đến tăng hoặc giảm khoản phải thu mà còn
liên quan đến khả năng thu hồi khoản phải thu. Do đó khi quyết định có nên
nới lỏng chính sách bán chịu hay không doanh nghiệp còn phải xét đến rủi ro
bán chịu như thế nào? Tức là liệu lợi nhuận gia tăng có đủ bù đắp tổn thất do
nợ không thu hồi và chi phí đầu tư khoản phải thu hay không?
1.2.3. Quản trị tiền mặt

Các nhà kinh tế định nghĩa tiền là bất cứ phương tiện nào được thừa
nhận chung để thanh toán chung cho việc mua bán, trao đổi hàng hóa dịch vụ
hoặc thanh toán nợ nần. Trong lĩnh vực tài chính doanh nghiệp, tiền mặt được
hiểu bao gồm tiền tồn quỹ và tiền trên tài khoản thanh toán của doanh nghiệp
ở ngân hàng và tiền mặt là một phần quan trọng trong tài sản ngắn hạn.
1.2.3.1.

Sự luân chuyển của tiền mặt trong quá trình SXKD
Hoạt động của hầu hết các doanh nghiệp được bắt đầu bằng tiền mặt.

Từ đó, tiền mặt được chuyển đổi thành những loại tài sản khác nhau, tạo ra
đòn bẩy hoặc mở rộng hoạt động kinh doanh với các khoản đi vay và cuối
cùng là biến nó thành tiền mặt nhưng với số lượng lớn hơn ban đầu.
Sự luân chuyển của tiền mặt có thể được phân tích thành các chu kỳ, có
mối quan hệ chặt chẽ. Kỳ luân chuyển tiền mặt nằm trong chu kỳ kinh doanh

của doanh nghiệp, là khoảng thời gian tính từ lúc doanh nghiệp thực sự trả
tiền cho nhà cung cấp đến khi thực sự thu hồi tiền của khách hàng. Có thể
thấy, hoạt động của doanh nghiệp rất đa dạng, tất cả các hoạt động đều có sự
16


tham gia của tiền mặt, việc quản lý tiền mặt gồm quản lý nhiều hoạt động
khác nhau.
1.2.3.2.

Nội dung quản trị tiền mặt
Quản trị tiền mặt bao gồm các nội dung sau:


Kiểm soát thu, chi tiền mặt



Xác định nhu cầu tồn trữ tiền mặt mục tiêu



Đầu tư tiền mặt nhàn rỗi

Quản trị tiền mặt có mối quan hệ thống nhất và tác động qua lại với
công tác quản trị những tài sản ngắn hạn khác như quản trị hàng tồn kho,
quản trị khoản phải thu. Ngoài ra, công tác quản trị tiền mặt còn được đặt
trong mối quan hệ với những công tác quản trị tài chính ngắn hạn khác đó là
quản trị khoản phải trả, quản trị đầu tư tài chính ngắn hạn và huy động vốn
ngắn hạn.

1.2.3.3.

Kiểm soát thu, chi tiền mặt
Hoạt động của doanh nghiệp có thể được chia thành những lĩnh vực

khác nhau, trong đó tồn tại những khoản thu, chi tiền mặt đa dạng và có đặc
trưng riêng. Các khoản thu chi tiền mặt trong ba lĩnh vực hoạt động chính của
doanh nghiệp:
+ Tiền mặt trong hoạt động kinh doanh – điều hành kinh doanh
+ Tiền mặt trong hoạt động đầu tư – phát triển doanh nghiệp
+ Tiền mặt trong hoạt động tài chính – vốn hóa doanh nghiệp
Tồn quỹ của công ty báo cáo trên sổ sách kế toán ít khi khớp với tồn
quỹ trên tài khoản ngân hàng,. Chênh lệch giữa tồn quỹ trên tài khảo ngân
hàng với tồn quỹ trên sổ sách kế toán gọi là tiền đang chuyển (float). Tiền
đang chuyển này phát sinh là do sự châm trễ thời gian từ lúc doanh nghiệp ghi
nhận khoản thu chi tiền mặt đến lúc việc thu chi được thực hiện.
Sự chậm trễ gây ra lượng tiền đang chuyển sẽ mang lại lợi ích cho
người chi trả và gây thiệt hại cho người nhận thanh toán. Do đó bên nhận

17


thanh toán sẽ cố gắng tăng tốc các khoản thu của mình và bên chi trả sẽ cố
gắng chậm trễ trong khoản chi trả.
Mục tiêu của quản trị thu tiền là cắt giảm khoảng thời gian giữa thời
điểm khách hàng chi trả hóa đơn và mục tiêu của quản trị chi tiền là giảm tốc
độ thanh toán.
1.2.3.4.

Xác định nhu cầu tồn trữ tiền mặt mục tiêu

Tồn quỹ mục tiêu là tồn quỹ mà công ty hoạch định lưu giữ dưới hình

thức tiền mặt. Quyết định tồn quỹ mục tiêu túc là quyết định xem công ty nên
thiết lập và duy trì mức tồn quỹ bao nhiêu là hợp lý. Liên quan đến quyết định
tồn quỹ, công ty cần xem xét sự đánh đổi giữa chi phí cơ hội do giữ quá nhiều
và chi phí giao dịch do giữ quá ít tiền mặt.
Nếu công ty giữ quá nhiều tiền mặt thì chi phí giao dịch sẽ nhỏ nhưng
ngược lại chi phí cơ hội sẽ lớn. Tổng chi phí giữ tiền mặt chính là tổng chi phí
cơ hội và chi phí giao dịch. Tồn quỹ tiền mặt tối ưu là điểm mà tại đó tổng chi
phí giữ tiền mặt là nhỏ nhất.
Mô hình tối ưu hóa tiền mặt thực chất là sự cân bằng giữa tiền mặt và
chứng khoán ngắn hạn. Các loại chứng khoán giữ vai trò bước đệm cho tiền
mặt vì doanh nghiệp có thể đầu tư tiền mặt vào chứng khoán có tính thanh
khoản cao, nhưng khi cần thiết cũng có thể chuyển đổi chúng sang tiền mặt
một cách nhanh chóng. Có thể sử dụng mô hình ước lượng để xác định tồn
quỹ tối ưu:
Mô hình Baumol: phát triển từ mô hình lượng đặt hàng tối ưu, mô
hình có mục tiêu tối thiểu hóa các chi phí bao gồm chi phí giao dịch bán
chứng khoán thu về tiền mặt và chi phí cơ hội của việc nắm giữ tiền mặt.
Mô hình Miller – Orr: xác định các giới hạn kiểm soát của số dư tiền
mặt gồm giới hạn trên và giới hạn dưới.
1.2.3.5.

Đầu tư tiền mặt nhàn rỗi
Công ty, đặc biệt là những công ty hoạt động mang tính thời vụ, đôi khi

có một số lượng tiền tạm thời nhàn rỗi. Nhàn rỗi mang tính tạm thời cho đến
18



khi tiền được huy động vào kinh doanh, trong thời gian nhàn rỗi tiền được
đầu tư ngắn hạn nhằm mục đích sinh lợi như mua chứng khoán ngắn hạn.
Ở Việt Nam hiện nay, thị trường tiền tệ chưa phát triển nên ngoài việc
gửi tiền tạm thời nhàn rỗi vào ngân hàng với lãi suất thường rất thấp thì công
ty thường khó kiếm được cơ hội đầu tư.
Vì vậy, khi quyết định đầu tư tiền nhàn rỗi thì công ty phải tạo ra được
lợi nhuận dù là đầu tư trong ngắn hạn, nhưng do tiền nhàn rỗi tạm thời nên
không thể sử dụng để đầu tư lâu dài vào những tài sản kém thanh khoản.
1.3.

Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp
Để đánh giá trình độ quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh

của một doanh nghiệp, người ta sử dụng thước đo là hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp đó. Hiệu quả sản xuất kinh doanh được đánh giá trên
hai giác độ: hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Trong phạm vi quản lý doanh
nghiệp, người ta chủ yếu quan tâm đến hiệu quả kinh tế. Đây là một phạm trù
phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để đạt được kết
quả cao nhất với chi phí hợp lý nhất. Do vậy, các nguồn lực kinh tế nói chung,
tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp nói riêng có tác động rất lớn tới hiệu quả
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó, việc nâng cao hiệu quả sử dụng
tài sản ngắn hạn là yêu cầu mang tính thường xuyên và bắt buộc đối với
doanh nghiệp. Đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn sẽ giúp ta thấy
được hiệu quả của hoạt động kinh doanh nói chung và trình độ quản lý sử
dụng tài sản ngắn hạn nói riêng. Hiệu quả sản xuất kinh doanh luôn là vấn đề
mà các doanh nghiệp quan tâm, quản trị kinh doanh sản xuất có hiệu quả thì
doanh nghiệp mới có thể tồn tại trên thi trường. Để đạt được hiệu quả đó đòi
hỏi doanh nghiệp phải có nhiều cố gắng và có những chiến lược hợp lý từ
khâu sản xuất cho đến khi sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Để có thể đi đến
mục tiêu cuối cùng mà các doanh nghiệp đặt ra thì vấn đề chung mà các

doanh nghiệp phải quan tâm đến đó chính là hiệu quả sử dụng vốn và tài sản
trong doanh nghiệp.
19


Khái niệm hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn

1.3.1.

Hiệu quả sử dụng tài sản trong doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế
phản ánh trình độ năng lực khai thác và sử dụng tài sản của doanh nghiệp vào
hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích tối đa hóa lợi ích và tối thiểu
hóa chi phí. Tức là làm sao doanh nghiệp chỉ bỏ ra một lượng tài sản nhỏ nhất
mà thu về được lợi nhuận lớn nhất
Với mỗi doanh nghiệp sẽ có sự khác nhau trong việc cân đối mỗi loại
tài sản, nếu như các doanh nghiệp chế biến hay công nghiệp nặng thì tỷ lệ tài
sản cố định chiếm một tỷ lệ rất cao trong tổng giá trị tài sản, ngược lại với các
doanh nghiệp thuộc lĩnh vực thương mại, sản xuất thì tài sản ngắn hạn lại
chiếm đa số.
Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn là kết quả đạt được cao nhất với mục
tiêu mà doanh nghiệp đặt ra. Nghĩa là phải làm sao có được nhiều lợi nhuận
từ việc khai thác và sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp vào hoạt động
sản xuất kinh doanh nhằm tối đa hóa lợi ích và tối thiểu hóa chi phí.

1.3.2.

Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
Quá trình hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp là quá trình hình

thành và sử dụng vốn kinh doanh. Ngày nay các doanh nghiệp hoạt động

trong nền kinh tế thị trường yêu cầu về tài sản ngắn hạn là rất lớn, có thể coi
tài sản ngắn hạn là nhựa sống tuần hoàn trong doanh nghiệp.
Để đánh giá quá trình độ quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh của
một doanh nghiệp, người ta sử dụng thước đo hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp đó. Hiệu quả sản xuất kinh doanh được đánh giá trên hai
góc độ là hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Vì thế, việc nâng cao hiệu quả
sử dụng tài sản ngắn hạn là yêu cầu mang tính bắt buộc và thường xuyên đối
với doanh nghiệp

20


• Xuất phát từ mục đích kinh doanh của doanh nghiệp

Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp hoạt động với mục tiêu
xuyên suốt là tối đa hóa giá trị doanh nghiệp. Để đảm bảo mục tiêu này,
doanh nghiệp thường xuyên phải đưa ra và giải quyết tập hợp các quyết định
tài chính dài hạn và ngắn hạn. Quản lý và sử dụng hiệu quả tài sản ngắn hạn
là một nội dung trọng tâm trong các quyết định tài chính ngắn hạn và là nội
dung có ảnh hưởng lớn đến mục tiêu tối đa hóa giá trị doanh nghiệp.
Với bản chất và định hướng mục tiêu như trên, doanh nghiệp luôn luôn
tìm mọi biện pháp để tồn tại và phát triển. Xuất phát từ vai trò to lớn đó khiến
cho yêu cầu doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung và
tài ngắn hạn nói riêng là một yêu cầu khách quan, gắn liền với bản chất của
doanh nghiệp.


Xuất phát từ vai trò quan trọng của tài sản ngắn hạn
Đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Một doanh nghiệp
trong nền kinh tế thị trường, muốn hoạt động kinh doanh thì cần phải có vốn.

Tài sản ngắn hạn là một thành phần quan trọng trong tất cả các khâu của quá
trình sản xuất kinh doanh.
Trong khâu dự trữ và sản xuất, tài sản ngắn hạn đảm bảo cho sản xuất
của doanh nghiệp được tiến hành liên tục, đảm bảo quy trình công nghệ, công
đoạn sản xuất. Trong lưu thông, tài sản ngắn hạn đảm bảo dự trữ thành phẩm
đáp ứng nhu cầu tiêu thụ được liên tục, nhịp nhàng và đáp ứng nhu cầu tiêu
thụ được liên tục, nhịp nhàng và đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Thời
gian luân chuyển tài sản ngắn hạn lớn khiến cho công việc quản lý và sử dụng
tài sản ngắn hạn luôn luôn diễn ra thường xuyên, hàng ngày với vai trò to lớn
như vậy, việc tăng tốc độ luân chuyển tài sản ngắn hạn, nâng cao hiệu quả sử
dụng tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp là một yêu cầu tất yếu.
21




Xuất phát từ ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn
hạn
Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn tức là có thể tăng tốc độ luân

chuyển tài sản ngắn hạn, rút ngắn thời gian tài sản ngắn hạn nằm trong lĩnh
vực dự trữ, sản xuất và lưu thông, từ đó giảm bớt số lượng tài sản ngắn hạn
chiếm dùng, tiết kiệm tài sản ngắn hạn trong luân chuyển.
Tăng tốc độ luân chuyển tài sản ngắn hạn còn có ảnh hưởng tích cực đối
với việc hạ thấp giá thành sản phẩm, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có đủ
vốn thỏa mãn nhu cầu sản xuất và hoàn thành nghĩa vụ nộp các khoản thuế
cho ngân sách Nhà nước, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội trong cả
nước.
Để đánh giá hiệu quả quản trị tài sản ngắn hạn, ta sử dụng nhóm các chỉ
tiêu dưới đây:

1.3.3. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn.
Hiệu quả sử dụng tài sản bao hàm nhiều mặt tác động khác nhau. Vì
vậy, khi phân tích các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn cần xem xét
trên nhiều góc độ khác nhau như tình hình quản lý tiền mặt thông qua các chỉ
tiêu về khả năng thanh toán, tình hình quản lý hàng tồn kho thông qua tốc độ
luân chuyển hàng tồn kho, khoản phải thu của công ty thông qua khả năng thu
hồi các khoản nợ...
1.3.3.1. Các chỉ tiêu về khả năng thanh toán.
Tình hình tài chính được đánh giá là lành mạnh trước hết phải được thể
hiện ở khả năng thanh toán. Khả năng thanh toán của một công ty được đánh
giá dựa trên qui mô và khả năng luân chuyển của tài sản ngắn hạn, là những
tài sản có khả năng luân chuyển nhanh, phù hợp với thời hạn thanh toán các
khoản nợ ngắn hạn. Nợ ngắn hạn càng lớn nhu cầu thanh toán càng cao. Do
đó, khi phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp người ta thường sử
dụng các chỉ tiêu sau đây:
22


a.

Khả năng thanh toán hiện hành
HTTHH =

Tài sản ngắn hạn
Nợ ngắn hạn

Chỉ tiêu này nhằm đo lường khả năng đảm bảo thanh toán các khoản nợ
ngắn hạn từ tài sản ngắn hạn của công ty. Vì vậy để đảm bảo khả năng thanh
toán ngắn hạn, hệ số khả năng thanh toán hiện hành phải lớn hơn 1. Hệ số khả
năng thanh toán hiện hành càng cao thông thường khả năng thanh toán sẽ

được đảm bảo tốt, nhưng đồng thời cũng thể hiện khả năng linh hoạt về nguồn
vốn của công ty hạn chế. Hệ số khả năng thanh toán hiện hành của công ty
nhỏ hơn 1, thể hiện công ty bị mất cân bằng trong cơ cấu tài chính, rủi ro
thanh toán cao, công ty đã sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để đầu tư vào tài sản
dài hạn.
Tuy nhiên hệ số khả năng thanh toán hiện hành chỉ phản ánh một cách
khái quát khả năng thanh toán nợ ngắn hạn. Bởi vì, một khi tài sản ngắn hạn
công ty lớn hơn nợ ngắn hạn thì cũng chưa chắc tài sản ngắn hạn có thể đảm
bảo thanh toán cho các khoản nợ ngắn hạn nếu như tài sản này luân chuyển
chậm, chẳng hạn hàng tồn kho ứ đọng, không luân chuyển được, các khoản
phải thu tồn đọng, không thu được tiền. [1, Tr219]
b.

Hệ số thanh toán nhanh
Hệ số thanh toán nhanh được tính toán trên cơ sở những tài sản ngắn

hạn có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền, bao gồm tài sản ngắn hạn trừ
hàng tồn kho.
HTTN =

Tiền + Đầu tư ngắn hạn + Khoản phải thu

Chỉ tiêu này phản ánh khả năng côngNợ
ty ngắn
có thểhạn
thanh toán ngay các
khoản nợ ngắn hạn đến mức độ nào căn cứ vào những tài sản ngắn hạn có khả
năng chuyển hóa thành tiền nhanh nhất. Không có cơ sở để yêu cầu chỉ tiêu
này phải lớn hơn 1 vì trong các khoản nợ ngắn hạn, có những khoản đã và sẽ


23


đến hạn thanh toán ngay thì mới có nhu cầu thanh toán, những khoản chưa
đến hạn chưa có nhu cầu thanh toán ngay. [1, Tr221].
Nhìn chung, hệ số này quá nhỏ thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong
việc thanh toán công nợ. Tuy nhiên, độ lớn của hệ số này còn phụ thuộc vào
ngành nghề kinh doanh cũng như kỳ hạn thanh toán các món nợ phải thu.
c. Hệ số khả năng thanh toán nhanh bằng tiền
Tiền

HTTBT =

Nợ ngắn hạn

Chỉ tiêu này cho biết khả năng thanh toán của tiền và các khoản tương
đương tiền đối với các khoản nợ ngắn hạn, chỉ tiêu này quá cao và kéo dài
chứng tỏ khả năng thanh toán nhanh tốt nhưng có thể dẫn đến hiệu quả sử
dụng vốn giảm. Chỉ tiêu này quá thấp chứng tỏ doanh nghiệp không đủ khả
năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn, dấu hiệu rủi ro tài chính xuất hiện và
nguy cơ phá sản có thể xảy ra. [4, Tr81]
Do tính chất của tiền và tương đương tiền nên khi xác định khả năng thanh
toán tức thời, các nhà phân tích thường so với các khoản nợ có thời hạn thanh
toán trong vòng 3 tháng. Do vậy, khi trị số của chỉ tiêu này ≥ 1, doanh nghiệp
đảm bảo và thừa khả năng thanh toán tức thời và ngược lại, khi trị số của chỉ
tiêu này < 1 thì doanh nghiệp không đảm bảo khả năng thanh toán tức thời.
Trong khoảng thời gian này (3 tháng), trị số của chỉ tiêu này có giá trị cảnh
báo khá cao, nếu doanh nghiệp không đảm bảo khả năng thanh toán tức thời,
các nhà quản trị doanh nghiệp sẽ phải áp dụng ngay các biện pháp tài chính
khẩn cấp để tránh cho doanh nghiệp không bị lâm vào tình trạng phá sản.

Để thấy rõ hơn khả năng chuyển hóa thành tiền của các khoản tiền thu bán
hàng và tồn kho ta sẽ tiến hành phân tích số ngày luân chuyển hàng tồn
kho và kỳ thu tiền bình quân trong nhóm các chỉ tiêu hoạt động.
Nhóm các chỉ tiêu về khả năng hoạt động
Nhóm các chỉ số này đo lường hiệu quả quản lý tài sản của công ty. Để

1.3.3.2.

nâng cao tỷ số hoạt động các nhà quản trị phải biết những tài sản nào chưa
dùng hoặc không dùng không tạo ra thu nhập và dùng có hợp lý chưa , vì thế
24


doanh nghiệp cần phải biết sử dụng chúng có hiệu quả hoặc loại bỏ chúng đi.
Khi phân tích chỉ tiêu hoạt động thì thường sử dụng các chỉ tiêu sau:
a. Vòng quay hàng tồn kho, số ngày một vòng quay hàng tồn kho
Hệ số vòng quay hàng tồn kho thể hiện khả năng quản lý hàng tồn kho.
Vòng quay hàng tồn kho là số lần mà hàng hóa tồn kho bình quân luân
chuyển trong kỳ. Hệ số vòng quay hàng tồn kho dược xác định bằng gía vốn
hàng bán chia cho bình quân hàng tồn kho.
Gía vốn hàng bán
Bình quân hàng tồn kho

Vòng quay hàng tồn kho
=
Trong đó:
Bình quân hàng tồn kho

Hàng tồn kho năm trước + Hàng tồn kho năm nay
2


=

Số ngày một vòng
quay hàng tồn kho
Hoặc
=

=

Tồn kho bình quân
Gía vốn hàng bán bình quân một ngày
360
Vòng quay hàng tồn
kho

Số ngày một vòng quay hàng tồn kho là số ngày cần thiết đủ để hàng
tồn kho của doanh nghiệp quay được một vòng. Số vòng quay hàng tồn kho
càng lớn thì số ngày một vòng quay hàng tồn kho càng được rút ngắn, thể
hiện công ty hoạt động tốt, việc gia tăng sản phẩm tiêu thụ sẽ làm tăng giá
vốn hàng bán đồng thời làm giảm tồn kho. Lượng hàng tồn kho được giải
phóng nhanh sẽ rút ngắn thời gian luân chuyển vốn và tăng khả năng thanh
toán cho công ty. [1, Tr228]
Hệ số vòng quay hàng tồn kho thường được so sánh qua các năm để
đánh giá năng lực quản lý hàng tồn kho là tốt hay xấu qua từng năm. Hệ số
này lớn cho thấy tốc độ quay vòng của hàng hóa trong kho là nhanh và ngược
lại, nếu hệ số này nhỏ thì tốc độ quay vòng hàng tồn kho thấp. Cần lưu ý,

25



×