Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC VÀ CAN THIỆP MỸ (19451954)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154 KB, 9 trang )

ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC VÀ CAN
THIỆP MỸ (1945-1954)
1. Bối cảnh ra đời và quá trình hình thành đường lối (1945-1947)


Bối cảnh ra đời đường lối kháng chiến

Tình hình chung sau khi Cách mạng tháng Tám thắng lợi
- Sau Cách mạng Tháng Tám, chính quyền nhân dân vừa mới được thành lập đã phải đương đầu
với những khó khăn, thử thách rất nghiêm trọng. Đất nước bị các thế lực đế quốc, phản động bao vây và
chống phá quyết liệt:
+ Phía Bắc vĩ tuyến 16, có gần 20 vạn quân Tưởng, Việt quốc, Việt cách, Mỹ.
+ Phía Nam vĩ tuyến 16, có gần 2 vạn quân Anh. Được sự hậu thuẫn của quân Anh, ngày 23-91945, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, mở đầu cuộc xâm lược nước ta lần thứ hai.
+ Trên đất nước ta lúc đó còn có khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp. Một số quân Nhật đã
thực hiện lệnh của quân Anh, cầm súng cùng với quân Anh dọn đường cho quân Pháp mở rộng vùng
chiếm đóng ở miền Nam.
+ Lúc này, các tổ chức phản động "Việt quốc", "Việt cách", Đại Việt ráo riết hoạt động. Chúng dựa
vào thế lực bên ngoài để chống lại cách mạng.
- Trong lúc đó, ta còn phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng về kinh tế, xã hội:
+ Nạn đói ở miền Bắc do Nhật, Pháp gây ra chưa được khắc phục. Ruộng đất bị bỏ hoang. Công
nghiệp đình đốn. Hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt, ngoại thương đình trệ.
+ Tình hình tài chính rất khó khăn, kho bạc chỉ có 1,2 triệu đồng, trong đó quá nửa là tiền rách.
Ngân hàng Đông Dương còn nằm trong tay tư bản Pháp. Quân Tưởng tung tiền quốc tệ và quan kim gây
rối loạn thị trường.
+ 95% số dân không biết chữ, các tệ nạn xã hội do chế độ cũ để lại hết sức nặng nề.
- Trong những năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chưa có
nước nào công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ ta. Đất nước bị bao vây bốn phía, vận mệnh
dân tộc như "ngàn cân treo sợi tóc". Tổ quốc lâm nguy!
Chủ trương “kháng chiến, kiến quốc” và quá trình tích cực chuẩn bị kháng chiến toàn quốc
(1945-1946)
- Chủ trương “kháng chiến, kiến quốc”:


+ Ngày 3-9-1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu
ra sáu việc cấp bách: 1. Phát động chiến dịch tăng gia sản xuất để chống đói; 2. Mở phong trào chống nạn
mù chữ; 3. Sớm tổ chức Tổng tuyển cử; 4. Mở phong trào giáo dục cần kiệm, liêm chính; 5. Bỏ thuế thân,
thuế chợ, thuế đò; 6. Tuyên bố tự do tín ngưỡng, lương giáo đoàn kết. Sau đó, Người đã nêu ra ba nhiệm
vụ lớn: diệt giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm.


+ Ngày 25-11-1945, BCH Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc, vạch rõ những
nhiệm vụ chiến lược và cần kíp, xác định cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân
tộc giải phóng với kẻ thù chính là thực dân Pháp xâm lược. Cách mạng Việt Nam có nhiệm vụ cơ bản,
trước mắt là: Củng cố chính quyền cách mạng, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện
đời sống nhân dân. Nhiệm vụ bao trùm là bảo vệ, củng cố chính quyền cách mạng. Chỉ thị vạch ra những
biện pháp cụ thể để thực hiện các nhiệm vụ trên.
- Tích cực xây dựng thực lực, chuẩn bị kháng chiến toàn quốc:
+ Xây dựng nền móng của chế độ mới: Tổ chức Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội đầu tiên của
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (6-1-1946), thành lập chính phủ chính thức, bầu cử hội đồng nhân dân
các cấp; thông qua bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên (9-11-1946).
+ Củng cố khối đại đoàn kết toàn dân: Hội liên hiệp Quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Liên Việt)
được thành lập (5-1946); các đoàn thể quần chúng và các đảng phái dân chủ lần lượt ra đời (Tổng liên
đoàn Lao động Việt Nam -5/1946, Đảng Xã hội Việt Nam -7/1946), Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam
-10/1946).
+ Đảng chú trọng xây dựng và phát triển các công cụ bạo lực của cách mạng. Cùng với lực
lượng quân sự, ngày 19-8-1945, lực lượng công an nhân dân được thành lập. Chúng ta nhanh chóng xoá
bỏ bộ máy cai trị của chính quyền cũ như liêm phóng, hiến binh, giải tán các đảng phái phản động.
+ Về kinh tế - tài chính, Đảng và Chính phủ phát động thi đua sản xuất; động viên nhân dân tiết
kiệm giúp nhau chống giặc đói; thực hiện bãi bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lý khác của chế độ thực dân;
tiến hành tịch thu ruộng đất của đế quốc, Việt gian chia cho nông dân nghèo, chia lại ruộng đất công một
cách công bằng, hợp lý; giảm tô 25%, giảm thuế, miễn thuế cho nông dân vùng bị thiên tai; chủ trương
cho mở lại các nhà máy do Nhật để lại, tiến hành khai thác mỏ, khuyến khích kinh doanh... Đảng đã động
viên nhân dân tự nguyện đóng góp cho công quỹ hàng chục triệu đồng và hàng trăm kilôgam vàng.

+ Về văn hóa – xã hội, Đảng đã vận động toàn dân xây dựng nền văn hóa mới, xóa bỏ mọi tệ nạn
văn hóa nô dịch của thực dân, xóa bỏ các hủ tục lạc hậu, phát triển phong trào bình dân học vụ để chống
nạn mù chữ, diệt "giặc dốt".
+ Thực hiện sách lược hòa hoãn, bảo vệ chính quyền cách mạng, từ 9-1945 đến 3-1946, Đảng và
Chính phủ ta đã thực hiện sách lược hoà hoãn, nhân nhượng với quân đội Tưởng và tay sai của chúng ở
miền Bắc để tập trung chống Pháp ở miền Nam; từ 3-1946 đến 12-1946, Đảng và Chính phủ ta đã chọn
giải pháp thương lượng với Pháp, nhằm mục đích buộc quân Tưởng rút ngay về nước. Hiệp định Sơ bộ 63-1946, cuộc đàm phán ở Đà Lạt, ở Phôngtennơbờlô, Tạm ước 14-9-1946 đã tạo điều kiện cho quân dân
ta có thêm thời gian để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới.
Thực lực đất nước sau hơn 1 năm xây dựng, củng cố
- Đất nước có gần 1 năm tương đối hoà bình để ổn định kinh tế, chính trị xây dựng lực lượng, mở
rộng tuyên truyền quốc tế:


- Hệ thống chính quyền được củng cố từ Trung ương đến địa phương. Chính phủ VNDCCH đã
hoàn toàn hợp hiến, là đại diện hợp pháp của nhân dân Việt Nam để thực hiện chức năng đối nội và đối
ngoại. Khối đại đoàn kết được tăng cường vững chắc.
- Sau 19 tháng, bắt đầu từ 2/9/45-19/12/46, từng bước khắc phục giặc đói, giặc dốt, đời sống của
nhân dân được cải thiện đáng kể, đồng thời xây dựng được nền tài chính độc lập. Về mọi mặt, nhân dân ta
được hưởng những quyền dân sinh, dân chủ. Điều đó thể hiện rõ sự ưu việt của chế độ mới.
- Từng bước loại bớt các kẻ thù dân tộc, tập trung vào kẻ thù chính là thực dân Pháp.
• Quá trình hình thành đường lối kháng chiến
-

Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ nhất (10-1946) và Chỉ thị “Công việc khẩn cấp bây giờ”

(11-1946):
+ Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ nhất đề ra những chủ trương, biện pháp cụ thể về tư tưởng,
tổ chức để quân và dân có thể sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới với một kẻ thù nguy hiểm, không từ bỏ
dã tâm xâm lược đất nước ta.
+ Chỉ thị “Công việc khẩn cấp bây giờ” nêu lên những vấn đề có tầm chiến lược và toàn cục cần

phải tiến hành khi bước vào cuộc kháng chiến, đồng thời khẳng định niềm tin sắt đá vào thắng lợi cuối
cùng.
- Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” (12-12-1946) của Ban thường vụ Trung ương Đảng và “Lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến” (19-12-1946) của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
+ Bản Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” làm rõ tính chất, mục đích của cuộc kháng chiến, các chính
sách của cuộc kháng chiến như đoàn kết toàn dân, xây dựng thực lực về mọi mặt, đoàn kết quốc tế (cả với
nhân dân Pháp) để chống bọn thực dân Pháp phản động, đồng thời còn dự đoán về các giai đoạn phát
triển của cuộc kháng chiến, về chương trình kháng chiến, về cơ quan lãnh đạo kháng chiến, về tuyên
truyền trong kháng chiến ...
+ “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” là lời hịch của non sông, đất nước, khơi dậy tình yêu quê
hương, đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí ‘quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Đó chính là Cương lĩnh
kháng chiến khái quát ở trình độ cao, chứa đựng tư tưởng và đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
-

Tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” (1947) của đồng chí Trường Chinh tiếp tục làm

sáng tỏ thêm những vấn đề thuộc về đường lối kháng chiến như: Tính chất, mục đích kháng chiến, kháng
chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính… bổ sung kịp thời những vấn đề nảy sinh từ
thực tiễn kháng chiến qua gần một năm.
2. Nội dung đường lối kháng chiến


- Cuộc kháng chiến nhằm vào kẻ thù chính là bọn thực dân phản động Pháp đang dùng vũ lực
cướp lại nước ta, giành độc lập tự do và thống nhất thực sự, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, phát
triển chế độ dân chủ nhân dân.
- Cuộc kháng chiến chống Pháp là tiếp tục sự nghiệp của cuộc Cách mạng Tháng Tám, nên nó có
tính chất dân tộc giải phóng. Lúc này, nhiệm vụ giải phóng dân tộc là yêu cầu nóng bỏng và cấp bách
nhất.
- Cuộc kháng chiến chống Pháp còn mang tính chất dân chủ mới. Trong quá trình kháng chiến,

phải từng bước thực hiện cải cách dân chủ và thực chất của vấn đề dân chủ lúc này là từng bước thực hiện
“người cày có ruộng”.
- Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa
vào sức mình là chính:
+ Toàn dân: Là chiến lược quan trọng, cơ bản, cốt lõi nhất, xuyên suốt toàn bộ cuộc kháng chiến,
nhằm tạo ra sức mạnh to lớn đối trọng với bọn xâm lược Pháp. Dùng sức mạnh toàn dân để tiến hành
kháng chiến ở khắp mọi nơi, mọi lúc. Chủ trương được đề ra dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin
“cách mạng là sự nghiệp của toàn dân” và so sánh lực lượng giữa ta-địch.
+ Toàn diện là phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân để đánh giặc trên mọi phương
diện:
Về chính trị, đoàn kết toàn dân, thực hiện quân, dân nhất trí, động viên nhân lực, vật lực, tài lực
của cả nước; đoàn kết với hai dân tộc Lào, Campuchia anh em, với nhân dân Pháp, với các nước châu Á
và các dân tộc bị áp bức, các dân tộc yêu chuộng hoà bình, dân chủ trên thế giới, cô lập kẻ thù, tranh thủ
thêm nhiều bầu bạn, củng cố chế độ cộng hoà dân chủ, lập ra Uỷ ban kháng chiến các cấp.
Về quân sự, cuộc kháng chiến sẽ trải qua ba giai đoạn: phòng ngự, cầm cự, phản cộng; triệt để
dùng “du kích vận động chiến”, tiến công địch khắp nơi, vừa đánh địch vừa xây dựng lực lượng; tản cư
nhân dân ra xa vùng chiến sự.
Về kinh tế, toàn dân tăng gia sản xuất, tự túc, tự cấp, xây dựng kinh tế theo hướng “vừa kháng
chiến, vừa kiến quốc”; ra sức phá kinh tế địch, không cho chúng lấy chiến tranh nuôi chiến tranh.
Về văn hoá, đánh đổ văn hoá nô dịch, ngu dân xâm lược của thực dân Pháp, xây dựng nền văn
hoá mới, xoá nạn mù chữ; thực hiện cần, kiệm, liêm, chính; động viên các nhà văn hoá tham gia kháng
chiến.
+ Đánh lâu dài: Ta thực hiện chủ trương này để làm cho những chỗ yếu cơ bản của địch ngày
càng bộc lộ, chỗ mạnh của địch ngày một hạn chế; chỗ yếu của ta từng bước được khắc phục, chỗ mạnh
của ta ngày một phát huy. Chủ trương này được đề ra dựa trên âm mưu của địch: đánh nhanh, thắng
nhanh và so sánh lực lượng giữa ta - địch.


+ Tự lực cánh sinh: Dựa vào sức lực của toàn dân, vào đường lối của Đảng, vào các điều kiện
nhân hoà, địa lợi, thiên thời của đất nước ta, đồng thời ra sức tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế để

chiến thắng kẻ thù.
- Triển vọng của cuộc kháng chiến: Cuộc kháng chiến sẽ lâu dài, gian khổ, song nhất định thắng
lợi.
3. Quá trình bổ sung, hoàn chỉnh đường lối kháng chiến (1948-1954)


Bổ sung đường lối kháng chiến trong những năm 1948-1950

Trong suốt năm 1947 đến đầu năm 1951, các HNTƯ của Đảng liên tục được nhóm họp, đánh giá
tình hình sau ngày kháng chiến bùng nổ, bàn những nhiệm vụ:
- Đẩy mạnh mặt trận quân sự, công tác chính trị, kinh tế, văn hoá, nhằm thúc đẩy kháng chiến tiến
lên giai đoạn mới.
- Phát triển, củng cố các đoàn thể; tổ chức các Hội, đoàn, các cơ quan chuyên môn của Hội, đoàn.
- Xây dựng lực lượng, xây dựng kinh tế, xây dựng và chuẩn bị cho Đại hội lần thứ II của Đảng.
- Chuẩn bị chuyển sang tổng phản công.


Đại hội II của Đảng (2-1951) và các Hội nghị Trung ương (khóa II) tiếp tục bổ sung,
hoàn chỉnh đường lối kháng chiến

Bối cảnh lịch sử họp Đại hội II của Đảng (2-1951)
- Liên Xô lớn mạnh vượt bậc, các nước dân chủ nhân dân châu Âu, châu Á bước vào công cuộc
xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH. Nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời làm thay đổi so sánh lực
lượng trên trường quốc tế có lợi cho hoà bình và cách mạng.
- Các nước đế quốc chủ nghĩa lâm vào một cuộc khủng hoảng mới. Mỹ trở thành tên sen đầm
quốc tế, tăng cường giúp đỡ Pháp và can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến tranh Đông Dương.
- Ở trong nước, nhân dân ta đã giành được nhiều thắng lợi trong cuộc kháng chiến. Uy tín của
Đảng và Chính phủ được nâng cao trên trường quốc tế.
- Điều kiện lịch sử đặt ra cho Đảng ta các yêu cầu bổ sung và hoàn chỉnh đường lối cách mạng
Việt Nam, có chính sách đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi; đặc biệt là yêu cầu Đảng phải ra công khai

lãnh đạo cách mạng với tư cách là một Đảng cầm quyền.
Chính cương Đảng Lao động Việt Nam
- "Xã hội Việt Nam hiện nay gồm có ba tính chất: Dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa
phong kiến".
- Đối tượng của cách mạng Việt Nam: Có hai đối tượng, đối tượng chính hiện nay là chủ nghĩa đế
quốc xâm lược, cụ thể lúc này là đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ. Đối tượng phụ hiện nay là phong
kiến, cụ thể lúc này là phong kiến phản động.
- Nhiệm vụ cơ bản hiện nay của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành
độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc, xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho
người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho CNXH".


Ba nhiệm vụ đó khăng khít với nhau. Nhiệm vụ chính lúc này là hoàn thành giải phóng dân tộc, phải
tập trung lực lượng vào cuộc kháng chiến để quyết thắng quân xâm lược...
- Lực lượng của cách mạng Việt Nam gồm có: Giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp
tiểu tư sản và tư sản dân tộc. Ngoài ra, còn có những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những giai
cấp, tầng lớp và phần tử đó họp lại thành nhân dân mà nền tảng là công, nông và lao động trí thức. Giai
cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng.
- Tính chất của cách mạng Việt Nam là CMDTDCND. Cách mạng Việt Nam do Đảng của giai cấp
công nhân lãnh đạo, nhất định sẽ tiến lên CNXH. Đây là một quá trình lâu dài, và đại thể trải qua ba giai
đoạn:
+ Giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc.
+ Giai đoạn thứ hai, nhiệm vụ chủ yếu là xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, thực
hiện triệt để người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân.
+ Giai đoạn thứ ba, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho CNXH, tiến lên thực hiện CNXH.
Ba giai đoạn ấy không tách rời nhau mà mật thiết liên hệ xen lẫn với nhau. Nhưng mỗi giai đoạn có
nhiệm vụ trung tâm.
- Chính cương cũng nêu rõ 15 chính sách lớn của Đảng để đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi và
đặt cơ sở kiến thiết quốc gia.
- Quan hệ quốc tế: Việt Nam đứng về phe hoà bình và dân chủ, phải tranh thủ sự giúp đỡ của các

nước XHCN và nhân dân thế giới, của Trung Quốc, Liên Xô; thực hiện đoàn kết Việt –Trung -Xô và
đoàn kết Việt- Miên -Lào.
Các Hội nghị Trung ương (1952-1954)
- Các Hội nghị đã cụ thể hóa đường lối kháng chiến và chủ trương đẩy mạnh kháng chiến, tập
trung giải quyết các nhiệm vụ:
+ Xây dựng kinh tế - tài chính kháng chiến, bồi dưỡng sức dân và bảo đảm cung cấp cho quân
đội. Từ tháng 1-1953, chủ trương thực hiện triệt để giảm tô, chuẩn bị tiến tới cải cách ruộng đất và từ
tháng 11- 1953, tiến hành cải cách ruộng đất trong kháng chiến.
+ Thực hiện phương châm tác chiến là tiêu diệt địch, phát triển lực lượng ba thứ quân; tăng
cường công tác địch vận.
+ Tiến hành chỉnh Đảng, chỉnh quân coi đó là nhiệm vụ trung tâm của công tác xây dựng Đảng,
xây dựng quân đội.
4. Tiến hành thắng lợi kháng chiến chống Pháp và ý nghĩa đường lối kháng chiến


Tiến hành thắng lợi kháng chiến chống Pháp

Tiến hành kháng chiến toàn dân, toàn diện, phát triển chiến tranh du kích (1946-1950)


- Đêm 19-12-1946, cuộc chiến đấu của nhân dân ta chống Pháp bùng nổ. Đất nước chuyển sang
thời chiến và bắt đầu triển khai thế trận chiến tranh nhân dân. Các cơ quan chuyển lên căn cứ địa Việt
Bắc.
- Tiêu biểu là cuộc chiến đấu của quân dân Hà Nội trong vòng 2 tháng đã bảo vệ an toàn các cơ
quan lãnh đạo của Đảng và nhân dân di tản ra vùng tự do.
- 10-1947, quân và dân ta đã chiến đấu anh dũng kịp thời chuyển sang phản công thắng lợi. Chiến
lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của Pháp thất bại, từ năm 1948, thực dân Pháp phải chuyển từ chiến lược
đánh nhanh, thắng nhanh sang chiến lược đánh lâu dài. Bộ đội ta trưởng thành một bước về trình độ tác
chiến. Đảng có thêm kinh nghiệm về chỉ đạo chiến tranh. Nhân dân ta phấn khởi tin tưởng vào thắng lợi
của cuộc kháng chiến.

- Đảng phát triển phong trào du kích chiến rộng khắp ở hậu địc,h từ đồng bằng Bắc Bộ đến miền
Trung, Tây Nguyên và Nam Bộ đã tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, bảo toàn và tăng cường bồi dưỡng lực
lượng của ta.
- Tháng 6-1950, Ban thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Biên giới. Thắng lợi
của Chiến dịch biên giới đã làm phá sản kế hoạch Rơve. Thực dân Pháp thấy rõ chúng không thể thắng
bằng quân sự. Ý chí xâm lược của chúng bị lung lay. Thắng lợi đã mở ra bước ngoặt chuyển cuộc kháng
chiến của ta từ hình thái chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy, kết hợp chiến tranh chính quy với
chiến tranh du kích ở trình độ cao hơn, tiến lên giành nhiều thắng lợi to lớn.
Đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi (1951-1954)
- Xây dựng thực lực kháng chiến về mọi mặt:
+ Xây dựng hệ thống chính trị: Củng cố các tổ chức quần chúng và Mặt trận dân tộc thống nhất;
thành lập Mặt trận Liên Việt; ; thành lập khối Liên minh ba nước Việt-Lào-Campuchia; từng bước ổn
định, củng cố bộ máy chính quyền phù hợp với tình hình kháng chiến.
+ Xây dựng từng bước nền kinh tế kháng chiến: Phát triển sản xuất, mở cuộc vận động tham gia
lao động, sản xuất, thực hành tiết kiệm, nhằm giảm bớt căng thẳng về lương thực; thực hiện chính sách
ruộng đất; phát triển tài chính, thương nghiệp, ngân hàng
+ Xây dựng văn hoá - xã hội: Xây dựng nền văn hoá mới - nền văn hoá dân tộc, khoa học, đại
chúng; thực hiện cải cách giáo dục theo đường lối giáo dục mới.
+ Xây dựng lực lượng vũ trang:Xây dựng lực lượng vũ trang toàn dân và ba thứ quân làm nòng
cốt, chú trọng chất lượng, nâng cao giác ngộ giai cấp trong lực lượng, tăng cường vũ khí, đạn dược, thuốc
men.
+ Xây dựng Đảng vững mạnh: Thực hiện cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong hai
năm 1952,1953, nhằm quán triệt đường lối cách mạng và quan điểm kháng chiến; kết nạp, phát triển cơ
sở đảng trong lực lượng vũ trang và các làng xã, xí nghiệp.
- Cuộc kháng chiến phát triển thắng lợi:


+ Giai đoạn 1950-1953: Ta liên tiếp mở các chiến dịch (Trần Hưng Đạo, Hoàng Hoa Thám,
Quang Trung), đánh vào vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Cuộc đấu tranh giữa ta và địch, đặc biệt là
đồng bằng Bắc Bộ và vùng sau lưng địch trở lên cực kỳ ác liệt. Tuy nhiên, các chiến dịch có hiệu quả

chiến đấu còn thấp vì chúng ta đã lựa chọn phương hướng tác chiến chưa thích hợp. Từ cuối năm 1951, ta
quyết định tiêu diệt địch ở Hoà Bình, đồng thời đẩy mạnh chiến tranh du kích ở đồng bằng Bắc Bộ lên
quy mô cao hơn. Ta liên tiếp chiến thắng ở chiến dịch Hòa bình, Tây Bắc, Thượng Lào. làm chủ chiến
trường, chuyển sang tiến công địch.
+ Cuộc tấn công chiến lược Đông - Xuân 1953-1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ: Hội nghị Bộ Chính
trị đã họp và tập trung thảo luận để tìm ra quyết sách, nhằm phân tán lực lượng cơ động của địch đang tập
trung ở đồng bằng, chọn hướng chiến lược mà địch sơ hở và thuận lợi cho ta. Trước những thắng lợi vững
chắc trong chiến cuộc Đông - Xuân, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Thắng lợi của
ta trong chiến dịch Đông -Xuân 1953-1954, mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ đã làm phá sản kế
hoạch Nava của địch, giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp. Ý đồ xâm lược Việt
Nam một lần nữa bị đánh bại một bước quan trọng. Chúng buộc phải ngồi vào bàn Hội nghị Giơnevơ


Ý nghĩa của đường lối kháng chiến

- Đường lối kháng chiến của Đảng là sự kế thừa, nâng lên tầm cao mới tư tưởng quân sự truyền
thống của cha ông ta, là sự vận dụng lý luận chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và kinh
nghiệm quân sự một số nước anh em vào điều kiện Việt Nam.
- Đường lối kháng chiến của Đảng thể hiện tư tưởng kết hợp độc lập dân tộc và CNXH trong điều
kiện chiến tranh cách mạng bảo vệ Tổ quốc. Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, kháng chiến toàn dân, toàn
diện, lâu dài, tự lực cánh sinh là chính.
- Đường lối kháng chiến của Đảng là đường lối đấu tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc, tập trung
vào nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc. Nhiệm vụ cách mạng ruộng đất, chống phong kiến được
tiến hành từng bước, kết hợp và phục vụ cho nhiệm vụ chống đế quốc. Đường lối đó là đúng đắn, sáng
tạo.
- Đường lối kháng chiến lâu dài, toàn diện toàn dân là niềm tin, động lực, sức mạnh cho toàn dân
Việt Nam chiến đấu và chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp chứng minh sự tài tình của việc hoạch định
đường lối, cũng như tổ chức chỉ đạo kháng chiến của Đảng. Với chiến thắng Điện Biên Phủ - kháng chiến
chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi cho thấy Đảng đạt tầm cao tư tưởng và trí tuệ Việt Nam, cũng như

thời đại.
- Tuy nhiên, do chưa có thực tiễn chỉ đạo kháng chiến nên cũng có những điểm hạn chế, còn
nhiều biểu hiện của sự rập khuôn theo lý luận quân sự nước ngoài như lý luận kháng chiến ba giai đoạn
(phòng ngự, cầm cự, tổng phản công). Những hạn chế ấy được dần nhận thức qua thực tiễn của cuộc
kháng chiến và từng bước bổ sung đường lối kháng chiến, phát triển một cách khoa học nghệ thuật chiến
tranh nhân dân.




×