Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TÌM HIỂU THUYẾT HÀNH VI TRONG QUẢN LÝ CỦA SIMON?. PHÂN TÍCH Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA TƯ TƯỞNG NÀY TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY?.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.45 KB, 20 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA KHOA HỌC QUẢN LÝ
****
BÀI TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
MÔN: LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG QUẢN LÝ
TÊN ĐỀ TÀI:
TÌM HIỂU THUYẾT HÀNH VI TRONG QUẢN LÝ CỦA SIMON?. PHÂN
TÍCH Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA TƯ TƯỞNG NÀY TRONG ĐIỀU KIỆN
HIỆN NAY?.
GIẢNG VIÊN: PGS. TS. PHẠM NGỌC THANH

HỌ TÊN: NGUYỄN THỊ NHÂM
LỚP: K56A – KHQL
MSV: 11030642

Hà Nội, 2013.

1


MỤC LỤC

I.

Lời mở đầu………………………...............................................

II.

Phần nội dung……………………………..................................


1. Tiểu sử tác giả……………………………………………………
2. Hoàn cảnh ra đời của học thuyết……………………………….
3. Tư tưởng chủ đạo……………………………………………….
4. Nội dung…………………………………………………………
III. Nhận xét, đánh giá……………………………………………
1. Ưu điểm………………………………………………………….
2. Nhược điểm……………………………………………………..
3. Những đóng góp của tác giả……………………………………
IV. Ứng dụng vào thực tiễn……………………………………..
V.

Kết luận………………………………………………………

VI. Tài liệu tham khảo…………………………………………..

2


I.

LỜI MỞ ĐẦU.

Như chúng ta đã biết quản lý là một lĩnh vực rất rộng lớn. Vì
vậy cũng không ít các nhà khoa học nghiên cứu về lĩnh vực này. Ở
mỗi thời kỳ mỗi hoàn cảnh đặt ra lại có nhiều vấn đề mà các nhà khoa
học phải nghiên cứu, tìm tòi khám phá, tìm ra phong cách quản lý
mới sao cho đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Trong lĩnh vực quản
lý không thể kể hết được có bao nhiêu học thuyết từ Đông sang Tây,
từ cổ chí kim. Khi nghiên cứu về mỗi học thuyết ta lại thấy nó tìm
hiểu ở những khía cạnh khác nhau. Với những kiến thức đã được biết

và tìm hiểu về nó sau đây tôi xin đi nghiên cứu sâu về thuyết hành vi
trong quản lý của Herbert. Simon. Với đề tài này tôi hy vọng chúng ta
sẽ hiểu rõ hơn về học thuyết và những ứng dụng của nó vào trong
thực tiễn quản lý hiện nay.
II.

PHẦN NỘI DUNG

1. TIỂU SỬ TÁC GIẢ
Herbert. Simon được coi là đại diện chủ yếu của lý luận thuyết
sách thuộc khoa học hành vi. Simon (1916 - ?) là giáo sư nghành máy
tính và tâm lý học ở Canegie là một trong những người đi sâu trong
hoạt động về “trí thông minh nhân tạo”. Ông đỗ cử nhân ở đại học
Chicago năm 1963 và đỗ tiến sĩ năm 1943 ở trường ấy. Ông đã giảng
dạy ở nhiều trường đại học như đại học harvard, đại học Illinois, đại
học công nghiệp M….Từ năm 1961 – 1965 ông làm chủ tịch hội
đồng khoa học của viện khoa học xã hội Mỹ. Ông đã giảng dạy về
khoa học máy tính và tâm lý học trong một thời gian dài và từng
nghiên cứu khoa học định lượng trong lĩnh vực kinh tế.
Do có nhiều đóng góp vào lý luận quyết sách (lý luận về việc ra
quyết định quản lý), ông đã được tặng giải thưởng Nobel về kinh tế
học năm 1978 công trình nghiên cứu kinh tế trong hai thế kỷ trước.

3


Simon nghiên cứu khi bắt đầu tìm hiểu vấn đề quản lý công cộng
của chính quyền thành phố. Các tác phẩm chủ yếu của ông là “hành
vi quản lý” (1947), “quản lý công cộng” cùng viết với S và T (1950),
“tổ chức” cung viết với Maxi (1985), “mô hình khám phá” (1977),

“lẽ phải trong các công việc của con người” (1983)…. Đặc biệt là
cuốn “hoạt động quản lý” (1947) đã làm ông trở nên nổi tiếng.
Có thể nói Simon có rất nhiều đóng góp cho lĩnh vực quản lý và
nhất là cho phái hành vi. Với những nghiên cứu và học thuyết hành vi
trong quản lý của ông vẫn còn ảnh hưởng cho đến ngày nay.
2. Hoàn cảnh ra đời của học thuyết
Như ta đã biết H. Simon thuộc trường phái hành vi. Vậy trước tiên ta
có thể hiểu “thuyết hành vi” là một học thuyết tâm lý học tư sản hiện
đại gắn liền với chủ nghĩa thực dụng và chủ nghĩa thực chứng. thuyết
hành vi do G.B. Watson khởi xướng vào năm 1913 tại trường đại học
tổng hợp Chicago. Thuyết hành vi con người là một “bộ máy liên
hoàn”, quy định những hiện tượng tâm lý vào những phản ứng của cơ
thể, đồng hóa ý thức với hành vi như là tổng thể các động tác và thích
nghi. Thuyết hành vi chỉ chấp nhận phương pháp quan sát khách quan
nhưng lại mang tính duy vật máy móc, thực dụng chú trọng tới mối
liên hệ giữa kích thích, phản ứng để tạo ra hành vi mà không cần tính
đến các trạng thái ý thức và động cơ của con người. Trong khoa học
quản lý, thuyết hành vi có ảnh hưởng lớn tới nhiều nhà tư tưởng quản
lý như R. Likert, C. Argyris… và trong đó có Simon.
Thuyết hành vi được ra đời từ những năm 50 của thể kỷ XX.
Trước khi thuyết hành vi ra đời như ta đã biết ở đâu đó trong các học
thuyết, tư tưởng khác đã đề cập tới vấn đề hành vi. Thực ra vấn đề
hành vi đã được các nhà hiền triết cổ đại trung Hoa nghiên cứu từ rất
lâu. Trong các thuyết cai trị của Khổng Tử, Lão Tử, Hàn Phi Tử….
chúng ta có thể thấy những yếu tố chấm phá nhất định nói về hành vi
con người trong xã hội nói chung và tùy theo các quan điểm của mình
4


các nhà hiền triết đã đưa ra các lời giáo huấn về quản lý làm sao để

kích thích hành vi con người, đảm bảo hệ thống phát triển bền vững.
Nhiều tư tưởng cổ đại về hành vi quản lý cho đến nay vẫn còn có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Như vậy, ta có thể thấy tư tưởng về hành vi con người đã được
manh nha tư rất lâu và mãi cho tới những năm của thế kỷ XX cùng
với sự phát triển mạnh mẽ của môn tâm lý học, thuyết hành vi mới
trở thành một học thuyết hoàn chỉnh và được phát triển, ứng dụng
rộng rãi cho đến ngày nay. Một trào lưu tư tưởng và ý thức rất phổ
biến ở phương Tây đầu thế kỷ XX.
Quản lý là một quá trình nhằm đạt tới mục tiêu bằng cách thông
qua lỗ lực và hoạt động của bản thân. Do vậy, hành vi của con người
(bao gồm cả người quản lý và người bị quản lý) có vai trò vô cùng
quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả của quản lý. Thuyết hành vi
bắt nguồn từ tâm lý học hành vi. Tuy nhiên đầu thế kỷ XX thuyết này
còn bị phản đối. Hành vi cá nhân, tổ chức, xã hội… trong quản lý các
hành vi này còn bị thuộc vào yếu tố tổ chức, tâm lý xã hội và công
nghệ
Có thể nói phái hành vi trong quản lý là sự vận dụng các tư tưởng
và phương pháp của thuyết tâm lý học hành vi vào nghiên cứu những
vấn đề cơ bản của các tổ chức công nghiệp. Phái hành vi ra đời và
phát triển mạnh trong thời kỳ sản xuất xã hội vẫn đang ở thời kỳ
thống trị của công nghiệp hóa kiểu cũ, với các tính chất tập chung
hóa, kĩ thuật hóa, tiêu chuẩn hóa, chuyên môn hóa….
Được kế thừa các tư tưởng và học thuyết trước đó, đặc biệt gần
gũi nhất với thuyết tổ chức của Barnard. Thuyết quản lý của ông đã
có nhiều đóng góp cho khoa học nó là chìa khóa để giải quyết những
vấn đề về quản lý hiện đại liên quan tới hiệu quả, năng suất và lợi
nhuận. Vì vậy H. Simon được coi là đại biểu cho các nhà tư tưởng
quản lý thuộc phái hành vi.
5



3. tư tưởng chủ đạo.
Ta có thể thấy xuyên suốt thuyết quản lý theo khoa học của H.
Simon đó chính là việc ra quyết định. Hành vi ra quyết định là
hành vi chính trong hoạt động quản lý. Cốt lõi của quản lý là ra
quyết định (quyết sách). Quyết sách quản lý gồm các việc: hoạch
định kế hoạch, lựa chọn phương án hành động, thiết lập cơ cấu tổ
chức, phân định trách nhiệm và quyền hạn, so sánh tình hình
thực tế với kế hoạch, lựa chọn phương pháp kiểm tra, quán
xuyến các mặt kế hoạch, tổ chức và điều khiển đối với mọi cấp
quản lý và mọi mặt của quá trình quản lý. Quyết sách gần như
đồng nghĩa với quản lý.
Theo Simon người ta thường nhấn mạnh vào “hoạt động”
hơn là “quyết định”. Ông muốn đảo ngược trật tự từ nhấn mạnh
việc thực hiện sang việc ra quyết định. Bởi vì việc thực hiện chỉ
đến sau khi các quyết định đã được đưa ra xem công việc gì sẽ
được làm, khi náo, như thé nào, ở đâu và ai được làm. Thêm nữa
vấn đề khi ra quyết định hay lựa chọn không phải bị hạn chế ở
những cấp cao nhất của hệ thống cấp bậc, mà thông qua tất cả
các cấp quản lý với sự thay đổi và tính chất, phạm vi lựa chọn.
4. Nội dung.
H. Simon cho rằng “việc ra quyết định là nội dung cốt lõi của
quản lý”, sau đó mới là hành động của quyết định. Các quyết
định quản lý được chia thành 2 nhóm lớn: Quyết định giá trị bao
quát là các quyết định về các mục tiêu cuối cùng; quyết định
thực tế là những quyết định liên quan đến việc thực hiện các
mục tiêu (đánh giá thực tế). Sự phối hợp 2 loại quyết định đó
được coi là trọng tâm của công việc quản lý. Một quyết định
quản lý chỉ được coi là có giá trị khi chứa đựng các yếu tố thực

tế, khả thi. Đó là quyết định "hợp lý - khách quan" chứ không
phải là quyết định "hợp lý - chủ quan" (tối ưu hoàn hảo).
6


Hai loại “giá trị” và “thực tế” có liên quan tới nhau. Sự kết hợp
hai nhóm đó là trọng tâm của công việc quản lý. Trong đó nhóm
một bao quát hơn và nhóm hai đặc trưng hơn. Suy cho cùng các
quyết định quản lý là các quyết định tổ hợp có đóng góp của
nhiều người. Điều quan trọng là các quyết định hợp lý khách
quan, phù hợp với thực tế chứ không phải là các quyết định hợp
lý chủ quan.
Theo ý nghĩa tâm lý học hay triết học của thuyết hành vi,
những giá trị bao hàm trong các quyết định quản lý rất ít khi là
những giá trị quyết định. Hầu hết các hoạt động có giá trị của
chúng bắt nguồn từ mối quan hệ phương tiện – mục đích, bằng
một quá trình thúc đẩy, giá trị vốn có trong mục tiêu muốn được
chuyển thành phương tiện. Do đó, ông chia quá trình ra quyết
định bao gồm hai phần. Phần thứ nhất, bao hàm việc xác nhận
các giá trị thích hợp và sự đánh giá những ảnh hưởng liên quan
của chúng. Phần thứ hai liên quan tới những phạm vi đa dạng
của hoạt động theo hệ thống giá trị đã thừa nhận và hạn chế các
vấn đề thực tế.
Quyết sách được cấu thành qua 4 giai đoạn có liên hệ với
nhau: thu thập và phân tích thông tin kinh tế - xã hội; thiết kế
các phương án hành động để lựa chọn; lựa chọn một phương án
khả thi; thẩm tra đánh giá phương án đã chọn để bổ sung hoàn
thiện.
Simon cho rằng, mọi hoạt động trong nội bộ một tổ chức có
thể chia ra 2 loại ứng với 2 loại quyết sách: hoạt động đã diễn ra

nhiều lần cần có quyết sách theo trình tự, và hoạt động diễn ra
lần đầu cần có quyết sách không theo trình tự. Quyết sách theo
trình tự là quyết sách được vạch ra đối với các hoạt động diễn ra
nhiều lần. Do nó là hoạt động lặp đi lặp lại nhiều lần nên mọi
người có thể tìm được quy luật cho nó qua kinh nghiệm thực tế,
7


từ đó có thể vạch ra những trình tự có thể thực hiện mà không
cần phải giải quyết lại mỗi khi nó diễn ra. Ông nhấn mạnh dù là
các tổ chức hay doanh nghiệp cẩn phải nâng cao mức độ trình
tự hóa quyết sách của tổ chức.Cần cố gắng nâng cao mức độ
trình tự hóa quyết sách để tăng cường hệ thống điều khiển có
hiệu quả, đồng thời tăng cường hệ thống điều hòa, phối hợp của
tổ chức. Quyết sách phi trình tự là việc tiến hành quyết sách đối
với mọi hoạt động xuất hiện lần đầu mà tính chất và kết cấu của
nó vẫn chưa rõ ràng. Quyết sách phi trình tự mang tính sáng tạo,
không có tiền lệ song dựa vào tri thức và phương pháp sẵn có để
xử lý, trong đó có sự vận dụng kinh nghiệm. Sự phân chia 2 loại
quyết sách chỉ là tương đối. Ông nói “Chúng không phải là hai
loại quyết sách khác nhau hoàn toàn mà là một thể thống nhất
liên tục giống như quang phổ, một đầu của nó là quyết sách trình
tự hóa ở mức cao còn đầu kia là quyết sách phi trình tự ở mức
cao…”. Hai quyết sách khác nhau phải dùng kĩ thuật khác nhau
để xử lý. Do vậy Simon đã dùng hai phương pháp truyền thống
và hiện đại để xử lý hai phương pháp này. Đối với quyết sách
trình tự hóa, phương pháp xử lý truyền thống là dựa vào việc
xây dựng kỹ năng hợp lý và thói quen, sau đó là xây dựng quy
trình thao tác chuẩn và xây dựng cơ tổ chức nhất định. Còn theo
kiểu hiện đại lại lựa chọn phương pháp vận trù học, tức là

phương pháp toán học hiện đại vào lĩnh vực quyết sách, đồng
thời vận dụng máy tính điện tử để xử lý số liệu và sử dụng công
nghệ tự động hóa đối với quá trình quyết sách theo trình tự mà
người ta thường gặp. Còn đối với quyết sách phi trình tự,
phương pháp xử lý truyền thống là dựa vào kinh nghiệm, khả
năng quan sát trực giác và tinh thần sáng tạo của người ra quyết
sách để quyết định. Phương pháp hiện đại thuộc quyết sách phi
trình tự hóa lại lựa chọn kĩ thuật giải quyết vấn đề theo kiểu
8


thăm dò sử dụng máy điện tử vào quá trình mô phỏng tư duy con
người và giải quyết vấn đề.
Trước tiên xem xét quá trình thông thường của quyết sách,
Simon cho rằng quyết sách là một quá trình hoàn chỉnh do một
loạt các giai đoạn có liên hệ với nhau cấu thành. Theo ông người
ta thường miêu tả một cách quá hạn hẹp tác dụng của người
vạch ra quyết định. Họ cho rằng người vạch ra quyết sách là
người có khả năng lựa chọn và ra quyết định con đường đúng
nhất ở ngã tư đường, vào thời khắc quan trọng nhất. Do họ chỉ
chú ý đến giây phút chọn lựa cuối cùng mà xem nhẹ toàn bộ quá
trình hoàn chỉnh của quyết sách nên đã miêu tả sai lệch quyết
sách, theo Simon thì quyết sách có 4 giai đoạn có liên hệ với
nhau cấu thành:
Giai đoạn thu thập thông tin, công việc của giai đoạn này là
thu thập và phân tích thông tin về kinh tế - xã hội trong điều kiện
môi trường của tổ chức và những thông tin về các yếu tố kinh
doanh, sản xuất trong điều kiện nội bộ của tổ chức, để đưa ra
vấn đề cần quyết định và mục tiêu của nó, tìm ra căn cứ để
hoạch định quyết sách.

Giai đoạn thiết kế, công việc của giai đoạn này là căn cứ vào
vấn đề cần phải giải quyết và mục tiêu của nó, nêu ra và phân
tích các phương án hành động để có sự lựa chọn dựa trên các
thông tin đã có được. Do lúc đầu, người ta thường thiết kế vài
phương án khác nhau, sau đó mới phân tích, so sánh những
phương án khác nhau sau đó để chọn lấy một phương án. Vì vậy
những phương án thiết kế đầu tiên thường được gọi là “phương
án dùng để lựa chọn”.
Giai đoạn lựa chọn, công việc của giai đoạn này là lựa chọn
một phương án khả thi trong các phương án được đưa ra lúc đầu
nhằm đạt được mục tiêu đã định.
9


Giai đoạn thẩm tra, công việc của giai đoạn này là thẩm tra,
đánh giá thêm phương án đã chọn trong quá trình thực thi để bổ
sung và sửa chữa, làm cho nó càng hợp lý hơn.
Các quyêt sách phải được tiến hành một cách tuần tự. Chỉ có
nghĩa là sau khi thu thập thông tin mới có thể thiết kế các
phương án được đưa ra để chọn và từ đó để chọn lấy một
phương án và sau khi thẩm tra, đánh giá kết quả thực hiện
phương án mới có thể tiến hành các hoạt động của tổ chức một
cachhs thuận lợi. Đồng thời tạo cơ sở cho quyết sách mới. Song
trên thực tế các giai đoạn này thường đan xem với nhau. Simon
cho rằng, đây là một quá trình phức tạp, trong cái lồng lớn có
những cái lồng nhỏ, trong cái lồng nhỏ có những cái lồng nhỏ
hơn.
Đối với mục đích và phương tiện, Simon cho rằng các mục
tiêu của quyết định phụ thuộc bởi các mục đích xa hơn và được
sắp xếp thành một hệ thống cấp bậc. Trong đó mỗi cấp bậc là

mục tiêc cấp dưới và là phương tiện của mục tiêu cấp trên nó.
Chính thông qua hệ thống mục tiêu – phương tiện mà hoạt động
của tổ chức được thực hiện thống nhất. Simon cho rằng để hiểu
được các quyết định đưa ra như thế nào trong một tổ chức, cần
phải xem xét cấp dưới chịu ảnh hưởng ra sao các quyết định.
Tuy vậy các mục tiêu – phương tiện không phải lúc nào cũng
phối hợp với nhau một cách chính xác. Những hạn chế của mô
hình này là: thứ nhất, các mục đích có thể bị lu mờ, lẫn lộn hoặc
xác định không đầy đủ. Thứ hai phương tiện và mục đích khó
phân định được giới hạn hoặc phân biệt được rõ ràng vì phương
tiện lựa chọn thường không phải là giá trị thích hợp, dễ dẫn tới
sự lẫn lộn “mục đích biện hộ cho phương tiện”. thứ ba, thuật
ngữ mục đích – phương tiện có xu hướng làm lu mờ vai trò của
yếu tố thời gian trong việc ra quyết định.
10


Với những quyết định, Simon đã nhận định rằng “hầu như
không có một quyết định nào trong tổ chức là nhiệm vụ của cá
nhân đơn độc. Mặc dù trách nhiệm dứt khoát để thực hiện một
hành động riêng biệt tùy thuộc vào cá nhân nhất định”. Rất khó
có thể xác định ai là người ra quyết định nó phức tạp giống như
một dòng sông lớn bắt nguồn từ nhiều nhánh. Và suy cho cùng
các quyết định là các quyết định tổ hợp, có sự đóng góp của
nhiều người. Trong một tổ chức việc ra quyết định cần được
phân chia sao cho mỗi thành viên có quyền ra quyết định trong
lĩnh vực mà họ có nhiều hiểu biết và năng lực nhất. Khi ra quyết
định phải dựa trên cơ sở có thông tin và thông tin phải được
phân bổ theo cả hai chiều.
Như vậy, ra quyết định mới là một nửa quá trình. Kết quả

cuối cùng của quyết định đó nó mới có ý nghĩa. Ra quyết định
chỉ là một trong các chức năng của quả lý. Phải đồng bộ tất cả
các chức năng quản lý
Khi đưa ra được các quyết định cũng cần phải xác định cũng
cần phải xác định tính hợp lý của việc ra quyết định. Chịu ảnh
hưởng của Barnard – người đề cao vai trò của tư duy phi logic,
Simon cho rằng những quan niệm về con người có lý trí sang
suốt là một nhận thức sai lầm… nó đã bị tâm lý học và xã hội
học dứt khoát loại bỏ”. Mục đích của ông là phát triển các quyết
định hợp lý chứ không phải là các quyết định tối ưu hoàn hảo.
Theo Simon một quyết định gọi là hợp lý, khách quan nếu nó tối
đa hóa các giá trị sẵn có trong một tình huống xác định – nó phù
hợp với các quyết định thực tế. Một quyết định là “hợp lý, chủ
quan” nếu nó tối đa hóa điều đạt được liên quan tới kết quả, và
các hợp lý khác như hợp lý tổ chức, hợp lý cá nhân. Simon còn
có một sự so sánh giữa con người kinh tế và người quản lý.
Thông thường con người kinh tế muốn lựa chọn tốt nhất giữa
11


những lựa chọn có sẵn thì người quản lý biết dừng lại ở chỗ tìm
kiếm một hành động thỏa đáng; người bình thường thấy thế hỗn
loạn, phức tạp còn người quản lý biết đơn giản hóa nó theo kiểu
mô hình.
Một khái niệm trong lý thuyết của ông đó chính là tính hợp lý
có giới hạn. Nó được xuất phát từ quan niệm triết học ý thức
của con người có giới hạn và quá trình nhận thức lại có thể bị
méo mó bởi cảm xúc, trong khi đó thế giới là vô hạn và phức tạp
cho nên cách thức khôn ngoan là dựa vào tính hợp lý chứ không
thể đạt tới tối ưu. Sự khác biệt giữa lục lọi một đống cỏ khô để

tìm lấy một chiếc kim sắc nhất trong đó với việc lục lọi đống cỏ
để tìm chiếc kim đủ sắc để khâu. Đó là việc ra quyết định hợp lý
– khôn ngoan nhất.
Để hiểu được các quyết định trong tổ chức cần phải xem xét
cấp dưới chịu ảnh hưởng như thế nào bởi các quyết định, đồng
thời phải nghiên cứu các kênh thông tin tới người quyết định.
Trong những phương sách để thúc đẩy các quyết định cần
phải kể đến việc lập kế hoạch và xem xét lại. Lập kế hoạch là
một phương pháp kĩ thuật, nhờ đó những người lành nghề có thể
đóng góp kỹ năng của họ và tam dự vào quá trình ra quyết định
mà không có những khó khăn nảy sinh do vi phạm quyền hạn
trong tổ chức. Quá trình xem xét lại giúp cho các cấp cao hơn
kiểm tra được cấp dưới trong việc thực hiện. Việc xem xét lại có
ảnh hưởng lớn đối với việc ra quyết định, giúp cho cấp trên nhận
biết khả năng ra quyết định và thực hiện quyết định của cấp
dưới, giúp cho việc hiệu chỉnh các quyết định đã ra.
Quá trình xem xét lại có thể tiến tới tập quyền hay phân
quyền. Nếu việc xem xét lại được sử dụng để hiệu chỉnh các
quyết định cá nhân có thể dẫn tới tập quyền. việc xem xét lại có
thể dẫn tới phân quyền khi cấp trên tìm cách thức và phương
12


tiện củng cố tiềm năng của cấp dưới nhờ đó trang bị tốt để ra
quyết định. Simon ủng hộ xu hướng phân quyền khi ra quyết
định vì điều đó có lợi cho tổ chức. Simon đã phát triển tư tưởng
của Barnard về hai mặt cá nhân và tổ chức của người quản lý.
Các giá trị của tổ chức dần được “chủ quan hóa”. Qua lòng trung
thành và tư cách của tổ chức cá nhân nhận được cho mình lương
bổng ưu đãi.

Trong một tổ chức, các giá trị của một tổ chức là những giá trị
quan trọng nhất nhờ những giá trị này mà cá nhân sẽ thực hiện
theo những hành động theo mệnh lệnh. Nhưng là một cá thể có
những lợi ích và động cơ riêng, cá nhân chỉ thực hiện các mục
tiêu của tổ chức trong phạm vi “chấp nhận”. Phạm vi chấp nhận
là phạm vi các mệnh lệnh, quyết định của tổ chức hòa hợp hoặc
không xung đột vớ lợi ích cá nhân. Khi các mệnh lệnh của tổ
chức nằm ngoài phạm vi này, động cơ cá nhân sẽ tự xác định
xem nên va chạm hay bỏ qua các mục tiêu của tổ chức. Và tiêu
chuẩn cơ bản của quyết định quản lý phải là tiêu chuẩn hiệu quả
chứ không phải là tiêu chuẩn tương xứng. Người quản lý phải tối
đa hóa các giá trị xã hội với nguồn tài nguyên có giới hạn.
Trong tổ chức thương mại được dẫn dắt bởi động cơ lợi
nhuận. Trong các tổ chức dịch vụ công, tính hiệu quả rất khó xác
định bằng tiền ở đầu ra mà phải thay thế bằng giá trị đo lường.
Simon chỉ ra những hạn chế của tiêu chuẩn hiệu quả, thuật ngữ
hiệu quả thường có nghĩa là “tinh tế” hay là giảm chi phí. Mục
tiêu hiệu quả có thể dẫn tới một phương pháp máy móc hơn là
phương pháp có tính người, dẫn đến quan hệ không đúng giữa
mục đích và phương tiện. Để khắc phục hạn chế này Simon cho
rằng mục đích và phương tiện không tách rời nhau, rằng tiêu
chuẩn hiệu quả chỉ có thể áp dụng được nếu các quyết định dựa
trên tính thực tế của nó. Người quản lý phải có khả năng tối, ưu
13


hóa việc thực hiện mục đích với những tiềm năng hữu hạn mà
mình có.
Về quyền hành, cũng giống như Barnard, Simon đưa ra lý
thuyết quyền hành. Cả 2 người đều có điểm chung là xem xét

quyền hành trong phạm vi mô hình, quan hệ giữa cấp trên và cấp
dưới, trong đó cấp dưới thừa nhận tính quyền lực của các quyết
định được cấp trên ban ra. Khi lý giải về quyền hành quản lý.
Quyền hành được Simon xem xét về mặt quan hệ. Cấp dưới
chấp nhận quyết định của cấp trên Simon cho là đó là ảnh hưởng
của thói quen, phong tục được xã hội thừa nhận. Nhưng vùng
chấp thuận cần phải không quá rộng. Vùng chấp thuận không
phải lúc nào cũng cố định mà phải co giãn, biến đổi với thời
gian. Quyền hành làm cho hoạt động có sự phối hợp, các quyết
định trở nên đúng đắn và phù hợp với nhau và nhờ sự phối hợp
và thừa nhận của tất cả các thành viên trong tổ chức. Tóm lại
theo Simon quyền hành liên quan tới vùng chấp thuận.
Đối với thông tin, nó có vai trò rất là quan trọng trong quản
lý. Theo ông thông tin và tri thức là đầu ra cần thiết trong quá
trình ra quyết định và nó phải chuyển từ các điểm khác nhau của
tổ chức hoặc từ các nguồn của tổ chức tới các trung tâm quyết
định. Hơn nữa thông tin phải được chuyển tới các vị trí chức
năng khác. Tuy nhiên cũng có những khó khăn cản trở trong
việc truyền thông tin. Ngoài phương tiện thông tin chính thức
còn có phương tiện thông tin không chính thức. Thông tin là một
quá trình hai chiều truyền qua cả chính thức và không chính
thức. Trong quá trình truyền thông tin có thể bị xuyên tạc không
xác đáng hoặc không thích hợp. Simon viết “trong mọi trường
hợp tâm trạng của người nhận, thái độ và động cơ của anh ta
phải là những yếu tố cơ bản trong việc ra quyết định, thiết kế

14


thông tin – chức năng của thông tin rốt cuộc không phải là lấy

đi cái gì từ óc của người nhận nó”.
Ông cho rằng người quản lý có thể và nên ủy thác một số
nhiệm vụ và thông tin của mình cho những cán bộ giúp việc như
nghiên cứu thư từ và tuyền thông tin…. Đồng thời ông ủng hộ ý
kiến cho rằng cần phải có sự đào tạo trong thông tin. Đào tạo là
cần thiết, nhưng thành công của nó phụ thuộc vào năng lực, khả
năng chấp thuận và uy tín của người đào tạo và phương pháp
đào tạo, đặc biệt là tính thực tiễn và thái độ tiếp nhận của người
được đào tạo.
Có thể thấy rằng Simon đã đưa ra những quan điểm hoàn
toàn mới về việc ra quyết sách. Simon đã cho thấy rằng việc ra
các quyết định không phải là dễ nhưng cũng không phải là khó
khăn khi người quản lý biết đưa ra các quyết định hợp lý, phù
hợp, và sự giao quyền cho tất cả các nhân viên cũng có thể ra
các quyết định và sự linh động trong việc ra các quyết định.
III.

NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ.
Ta có thể thấy rằng do thời kỳ hoàn cảnh đặt ra. Tình hình

kinh tế - xã hội ở mỗi thời kỳ là khác nhau nên. Mỗi học thuyết
khi đưa ra nó chỉ nhằm đáp ứng cho hoàn cảnh đặt ra của xã hội
lúc bấy giờ. Vì vậy khi chúng ta nghiên cứu ta có thể thấy nó có
những ưu nhược điểm nhất định. Thuyết hành vi trong quản lý
của H. Simon cũng vậy cũng có ưu, nhược điểm nhất định.
1. Ưu điểm.
Xét theo ngọn nghành của tư tưởng quản lý phương Tây, tư
tưởng của Simon chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng quản lý của
Barnard về nhiều mặt. Do vậy có những thuận lợi để ông đi sâu,
nghiên cứu sớm nhất một cách có hệ thống quá trình quyết sách.

Một đặc điểm quan trọng của Simon trong lý luận là phân
tích các hiện tượng tổ chức một cách cụ thể như Barnard, đồng
15


thời phân tích có trọng điểm đặc trưng các hoạt động của tổ
chức. Simon cho rằng quyết sách là một nội dung cơ bản của
quán xuyến toàn bộ quá trình hoạt động của tổ chức từ đó đưa ra
mệnh đề quản lý là quyết sách. Do đó lý luận của ông không
những có thể dùng cho tổ chức doanh nghiệp mà áp dụng cho
việc quản lý của các tổ chức khác.
Lý luận của Simon không chỉ nghiên cứu chính sách quản
lý, cũng không chỉ phải nghiên cứu kỹ thuật quản lý mà phân
tích và nói rõ cơ chế hoạt động của tổ chức, đồng thời đưa ra
một loạt khái niệm có liên quan tới quá trình quyết sách như
tiền đề của quyết sách, khả năng áp dụng của tổ chức, vấn đề
trình tự hóa và phi trình tự hóa quyết sách. Đồng thời từ đó tác
động cơ cấu lý luận quản lý của mình, đặt nền móng lý luận cho
việc hoạch định quyết sách một cách khoa học.
Những thành quả nghiên cứu của ông được nhiều người
thừa nhận, và giới nghiên cứu học thuật quản lý phương Tây
đánh giá cao.
Việc xác lập mô thức hành vi đã mở ra mô hình tự động
hóa quyết sách kiểu trình tự bằng việc vận dụng sự phát triển
của kĩ thuật máy tính, từ đó nâng cao hiệu quả của quyết sách rất
nhiều.
Ông đã sử dụng nhiều kiến thức chuyên nghành để tìm
hiểu vấn đề của tổ chức và quản lý làm cho lý luận của ông thêm
phong phú và phát triển.
Khi xã hội vẫn đang trong thời ký sản xuất kiểu cũ thì

thuyết hành vi trong quản lý của ông ra đời đã góp phần làm
thay đổi phương pháp, phong cách quản lý. Nhà quản lý có thể
nhận ra rằng không chỉ làm theo dây chuyền, không chỉ đưa
thêm cho người ta ít tiền mà bắt người ta phải làm việc cật lực,
mà bên cạnh đó phải có sự quan tâm, cho họ được ra những
16


quyết định, người quản lý tôn trọng quyết định của họ thì từ đó
năng suất và lợi nhuận mới được tăng cao.
2.Nhược điểm.
Bên cạnh những thuận lợi thì thuyết hành vi trong quản lý
của ông vẫn còn mắc phải những hạn chế nhất định. Đó là:
Theo giới học thuật quản lý phương Tây thì vẫn còn một số
người cho rằng lý luận quyết sách của Simon vẫn còn một vài
chỗ chưa đủ. Chẳng hạn ông coi trọng quyết sách trình tự hóa
nhưng không nghiên cứu sâu đầy đủ mô thức quyết sách phi
trình tự mang tính sáng tạo và chiến lược. Ngoài ra ông nghiên
cứu một cách kỹ lưỡng các loại trình tự quyết sách nhưng lại ít
đề cập tới vấn đề quyết sách nghiệp vụ thí nghiệp – hình thái tổ
chức điển hình của xã hội tư bản.
Ông chỉ nghiêng nhiều về chức năng ra quyết định của
quản lý. Vì vậy cần phải đồng bộ tất cả các quyết định của quản
lý.
Những nhược điểm của ông về sau được các nhà lý luận
trong thuyết hành vi tổ chức bổ sung thêm.
4.

Những đóng góp của tác giả.


Simon đã cho ra đời thuyết từ đó làm thay đổi phong cách
lãnh đạo, giúp cho các nhà quản lý thay đổi phong cách, phương
pháp lãnh đạo, ông đã vận dụng tốt các tư tưởng trước đó, đặc
biệt là thuyết tổ chức của Barnard.
Ông đã đưa ra được một mô hình quyết sách kiểu mới.
Những nghiên cứu của ông có một ý nghĩa rất to lớn trong lĩnh
vực khoa học quản lý.
IV. ỨNG DỤNG VÀO THỰC TIỄN
Tuy học thuyết ra đời từ thể kỷ XX, nhưng ngày nay nó vẫn
còn có một ý nghĩa to lớn. Nó là một mô hình để cho các tổ chức
và doanh nghiệp học hỏi thêm.
17


Ở Việt nam, trong các tổ chức, doanh nghiệp khi ra quyết
định phải tránh hai khuynh hướng. Đó là khuynh hướng cầu
toàn, tối ưu và khuynh hướng cẩu thả nóng vội.
Công việc ra quyết định là công việc rất quan trọng. Vì vậy,
khi ra quyết định cũng cần phải xem xét một cách kỹ lưỡng,
tránh những sai lầm.
Qua học thuyết ta cũng có thể học hỏi được là khi ra quyết
định người quản lý nên cân nhắc xem xét hành vi của nhân viên,
tránh việc ôm đồm tất cả các quyết định mà nên giao cho các
cấp dưới một số quyết định để các nhân viên có thể phát huy
được năng lực của bản thân.
Khi ra các quyết định không nên cứng nhắc qua mà dựa vào
từng hoàn cảnh cụ thể mà đưa ra các quyết định hợp lý.
Khi đưa ra các quyết định cần phải có đầy đủ thông tin
tránh tình trạng thiếu thông tin. Hiện nay trong nhiều tổ chức khi
đưa ra các quyết định vẫn còn trong tình trạng thiếu thông tin

hoặc thông tin không chính xác. Từ đó làm ảnh hưởng nghiêm
trọng tới quá trình ra các quyết định.
Việc ra quyết định là một chức năng rất quan trọng trong
quản lý. Nhưng không nên quá chú trọng tới việc ra quyết định
mà cần có sự chú trọng đồng bộ trong tất cả các chức năng khác.
Nếu là nhà quản lý tôi sẽ chọn mô thức này cho quá trình ra
quyết định của mình và của nhân viên. Nhưng trên cở sở đó
cũng chú trọng tới các chức năng khác trong khâu quản lý.
V. KẾT LUẬN.
Tóm lại, có thể thấy rằng mỗi học thuyết đều có ưu, nhược
điểm nhất định. Nhưng với học thuyết hành vi trong quản lý của
Simon tôi có thể thấy rằng, học thuyết có một vai trò quan trọng
trong khoa học quản lý. Nó đã làm thay đổi sự quản lý của xã
hội ở thế kỷ thứ XX. Và cho đến ngày nay nó vẫn còn một có ý
18


nghĩa to lớn cho không chỉ riêng cho các tổ chức doanh nghiệp
mà còn cho nhiều tổ chức khác.

19


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Canh Chắt dịch và biên soạn, Tinh hoa quản lý, NXB Lao
động – xã hội, 2003.
2. PGS.TS. Đoàn Thị Thu Hà và PGS.TS. Nguyễn Thị Ngọc Huyền chủ
biên,Giáo trính khoa học quản lý tập I,NXB Khoa học kỹ thuật, 2009.
3. Đỗ Minh Cương chủ biên, Các học thuyết quản lý,NXB Chính trị
quốc gia, 1996.

4. PGS.TS. Đào Duy Huân chủ biên,Quản trị học trong xu thế hội
nhập,NXB Thống kê, 2003.
5. />6. />7. />8. />9. />%C3%A0nh-vi-trong-qu%E1%BA%A3n-l%C3%BD-v%C3%A0-v
%E1%BA%ADn-d%E1%BB%A5ng-v%C3%A0o-c%C3%A1cdoanh-nghi%E1%BB%87p-n%C6%B0%E1%BB%9Bc-ta.
10. />%E1%BA%BFt-v%E1%BB%81-hanh-vi-qu%E1%BA%A3n-l
%C3%BD-lanh-%C4%91%E1%BA%A1o.

20



×