Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Lý thuyết bộ ba bất khả thi và việc thực hiện chính sách tiền tệ ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.65 KB, 18 trang )

Đề tài:

LÝ THUYẾT BỘ BA BẤT KHẢ THI
VÀ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM

Page16

Nhóm thực hiện: nhóm 6


1.Lý thuyết bộ ba bất khả thi
Kinh tế là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định sự phát triển của một quốc gia,
và việc có thể đưa ra những chính sách vi mô hay vĩ mô hoàn hảo để nền kinh tế đạt hiệu
quả cao nhất là mong muốn tất yếu. Tuy nhiên trong thực tế không thể đạt đến sự hoàn hảo
tuyệt đối đó đòi hỏi chúng ta phải đối diện với câu hỏi: Trong một giai đoạn cụ thể, để đạt
được các mục tiêu cấp thiết nhât của mình liệu rằng sẽ được gì và mất gì? Tất cả như một
canh bạc, chỉ cần có một bước đi sai lầm thì cơ hội sẽ vụt mất. Thành công đi liền với khó
khăn, thử thách và làm thế nào để vượt qua nó? Đó là trăn trở của mọi quốc gia và Việt
Nam không là ngoại lệ. Hội nhập chỉ vừa mới bắt đầu, để hòa vào dòng chảy đầy sôi động
và tiến xa khẳng định vị thế của mình hơn chắc chắn rằng Việt Nam phải có những chiến
lược riêng để phù hợp với hoàn cảnh nhiều biến động của môi trường kinh doanh quốc tế
hiện tại. Trong số đó có thể nói tới một vấn đề nan giải mà không chỉ riêng Việt Nam mà
các quốc gia cũng phải giải quyêt, đó chính là “bộ ba bất khả thi” với việc lựa chọn giữa ổn
định tỷ giá, tự do hóa dòng vốn và giữ được chính sách tiền tệ độc lập.
Trong kinh tế học, Lý thuyết bộ ba bất khả thi-The Impossible Trinity (hay
Inconsistent Trinity/Triangle of Impossibility) một giả thuyết kinh tế cho rằng không thể
thực hiện đồng thời ba chính sách gồm chế độ tỷ giá hối đoái cố định, chính sách tiền tệ
độc lập để ổn định giá cả và tự do lưu chuyển vốn. Chỉ có thể thực hiện đồng thời hai trong
ba chính sách này mà thôi. Thuật ngữ này còn dùng để chỉ tình thế kinh tế dễ đổ vỡ khi mà
một quốc gia cố tình thi hành ba chính sách trên cùng lúc.



Page16

Sơ đồ nguyên tắc hoạt động của bộ ba bất khả thi.


1. Nếu dòng vốn được tự do lưu chuyển đồng thời NHTW vẫn muốn duy trì
chính sách tiền tệ độc lập, tỷ giá sẽ phải được thả nổi do NHTW không thể kiểm soát
lượng vốn mà các chủ thể đầu tư sẽ rút (thêm vào) là nhiều hơn hay ít hơn số lượng tiền tệ
mình sẽ rút khỏi lưu thông khi nền kinh tế xảy ra lạm phát ở mức cao (thấp).

Page16

Mỗi cạnh thể hiện cho các mục tiêu tốt nhất, lần lượt là: chính sách tiền tệ độc
lập, sự ổn định của tỷ giá, và hội nhập tài chính hoàn toàn. Đối nghịch với mỗi cạnh (hay
mỗi mục tiêu) là các công cụ chính sách tại các đỉnh. Mục tiêu hội nhập tài chính đối
ngược với đỉnh kiểm soát vốn; mục tiêu ổn định tỷ giá đối ngược với đỉnh thả nổi hoàn
toàn; mục tiêu chính sách tiền tệ độc lập đối ngược với đỉnh liên minh tiền tệ. Bất kỳ cặp
mục tiêu nào cũng có thể đạt được bởi một đỉnh nằm giữa. Ví dụ, mục tiêu chính sách tiền
tệ độc lập và tỷ giá ổn định đạt được bởi đỉnh kiểm soát vốn hoàn toàn.Mục tiêu chính sách
tiền tệ độc lập và hội nhập tài chính hoàn toàn có thể khả thi với đỉnh thả nổi hoàn toàn.
Cuối cùng, mục tiêu tỷ giá ổn định và hội nhập tài chính đạt được bởi đỉnh liên minh tiền
tệ. Hoàn toàn không khả thi để đạt được đồng thời cả ba mục tiêu.
Giả sử một nước cố gắng thực hiện cả ba chính sách trên đồng thời. Khi kinh
tế tăng trưởng nhanh, vốn nước ngoài sẽ chảy vào trong nước gây ra áp lực tăng giá nội tệ.
Khi đó, ngân hàng trung ương (NHTW) muốn bảo vệ chế độ tỷ giá cố định thì phải thực
hiện chính sách tiền tệ nới lỏng. Song điều này có thể làm tăng lượng cung tiền trong lưu
thông dẫn đến tăng tốc lạm phát. Muốn lạm phát không tăng tốc, thì phải thực hiện chính
sách thanh khoản đối ứng. Song như thế thì vốn nước ngoài càng chảy vào nhiều. Đây
chính là nguyên nhân làm xuất hiện “bộ ba bất khả thi”. Đầu thập niên 1990, một số nước

châu Á đã cố gắng thực hiện đồng thời ba chính sách và hậu quả là rơi vào khủng hoảng.
Vì vậy cần phải có sự lựa chọn, trong đó các trường hợp cụ thể là:


Tiêu biểu cho cách lựa chọn này là Chính phủ Mỹ. Mọi người Mỹ đều có thể dễ
dàng đầu tư ra nước ngoài, đơn giản nhất là gửi tiền cho 1 quỹ đầu tư tương hỗ quốc tế và
người nước ngoài có thể dễ dàng mua chứng khoán, trái phiếu tại Mỹ. Mặt khác, Cục dự
trữ liên bang FED cũng sử dụng chính sách tiền tệ để góp phần tạo việc làm và ổn định giá
cả. Tuy nhiên, kết quả của quyết định này là sự bất ổn đối với giá trị của đồng đôla trên thị
trường ngoại hối.
2. Khi dòng vốn ra vào (tài khoản vốn) được tự do, nếu muốn giữ tỷ giá hối đoái
ổn định thì NHTW buộc phải giữ lãi suất trong nước tương ứng với lãi suất nước ngoài,
hay tung đồng nội tệ mua đồng ngoại tệ trong trường hợp dòng tiền đi vào quá nhiều;
ngược lại, một lượng ngoại tệ dự trữ sẽ phải bán bớt ra để thu về đồng nội tệ khi dòng vốn
đảo chiều để đảm bảo trạng thái cân bằng trên thị trường ngoại hối. Trong bối cảnh như
vậy, tính độc lập của chính sách tiền tệ hay nói cách khác điều hành chính sách tiền tệ vì
mục tiêu lạm phát sẽ không thể đảm bảo vì cung tiền không phải dựa vào diễn biến giá cả
trong nền kinh tế mà do tỷ giá hay dòng tiền vào ra quyết định.
Đây là con đường mà phần lớn các nước châu Âu đã chọn. Bằng cách sử dụng
đồng euro để thay thế cho đồng franc Pháp, mác Đức, lira Italia... những nước này đã loại
bỏ những biến động tỷ giá hối đoái trong khu vực của họ. Thêm vào đó, dòng vốn tự do di
chuyển trong các quốc gia này. Nhưng cái giá của sự lựa chọn này là việc từ bỏ khả năng
sử dụng chính sách tiền tệ. NHTW châu Âu thiết lập lãi suất cho toàn bộ khu vực sử dụng
đồng euro. Nhưng nếu tình hình ở 1 nước nào đó – ví dụ Hy Lạp – xấu đi so với phần còn
lại của khu vực, nước đó sẽ không thể sử dụng chính sách tiền tệ để giải quyết những vấn
đề của quốc gia mình.
3. Khi NHTW muốn thi hành một chính sách tiền tệ độc lập, nếu nền kinh tế đang
xảy ra tình trạng lạm phát, ngân hàng trung ương phải thu hẹp lượng cung tiền và tăng lãi
suất, nhưng để giữ cho tỷ giá cố định, cùng lúc sẽ phải hạn chế lượng cung ngoại tệ, hay
giảm lượng vốn vào nền kinh tế bằng các biện pháp kĩ thuật như thuế vốn, quy định của

pháp luật. Ngược lại khi lượng cung tiền tăng tương ứng với việc NHTW muốn thúc đẩy
kinh tế phát triển, các nguồn vốn nước ngoài lại được thu hút mạnh, như vậy dòng vốn
không được tự do lưu chuyển theo ý muốn của các chủ thể đầu tư mà phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của NHTW nước đó.
Trung Quốc đang áp dụng lựa chọn này. NHTW nước này thực hiện chính sách
tiền tệ và duy trì kiểm soát chặt chẽ đối với giá trị trao đổi của đồng nhân dân tệ. Đổi lại
Trung Quốc phải hạn chế dòng vốn quốc tế, bao gồm cả việc hạn chế công dân Trung
Quốc chuyển tài sản ra nước ngoài. Nếu không có những hạn chế đó, tiền sẽ chu chuyển ra
và vào đất nước, khiến lãi suất trong nước bằng với mức lãi suất do các ngân hàng trung
ương nước ngoài thiết lập.
2.Chủ trương của NHTW trong việc điều hành chính sách tiền tệ ở Việt
Bộ ba bất khả thi là một chính sách mà bất cứ nước nào cũng phải quan tâm và có
ảnh hưởng rất lớn đến việc điều hành chính sách tiền tệ,đặc biệt là nước có nền kinh tế tăng

Page16

Nam


trưởng nóng như Việt Nam.Trong phần này chúng ta sẽ nghiên cứu thực tiễn việc áp dụng
các chính sách thuộc bộ ba bất khả thi như : Tự do hóa dòng vốn,chính sách tiền tệ độc lập
và ổn định tỷ giá trong 3 năm trở lại đây ở Việt Nam.(Tỷ giá ở đây ta sẽ tập trung vào tỉ giá
USD/VND).
Chủ trương chính sách tiền tệ 2008: kiềm chế lạm phát và ổn định tỉ giá.
Do ảnh hưởng cuộc khủng hoảng kinh tế,chỉ số giá tiêu dùng tăng cao,giá trị
đồng đôla giảm mà giá trị VND lại được neo vào đồng đôla,NHNN chủ trương kiềm chế
lạm phát và ổn định tỉ giá. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) điều hành chính sách
tiền tệ, tín dụng và tỷ giá một cách chặt chẽ, thận trọng và chủ động; sử dụng linh hoạt các
công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường để ổn định lãi suất, đảm bảo khả năng
thanh toán cho các tổ chức tín dụng (TCTD), kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh

toán và tín dụng,củng cố, lành mạnh hóa hệ thống TCTD.
Điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và lãi
suất chiết khấu; điều chỉnh tăng từ 10,8%/năm lên 15%/năm đối với lãi suất cho vay qua
đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh
toán bù trừ của NHNN đối với các ngân hàng để phù hợp với lãi suất tái cấp vốn và mặt
bằng lãi suất thị trường; NHNN quy định lãi suất vay vốn bằngVND giữa các TCTD trên
thị trường liên ngân hàng không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố (áp
dụng từ 19/8/2008); điều chỉnh tăng tiền gửi dự trữ bắt buộc từ 1,2%/năm lên 3,6%/năm
.Nguồn cung tiền được thắt rất chặt để hạn chế lạm phát.Năm 2008,công cụ lãi suất được
NHNN sử dụng một cách linh hoạt,theo sát diễn biến thị trường do đó mà sự lãi suất rất
biến động trong thời gian này.
Kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng chủ yếu thông qua điều tiết vốn khả
dụng bằng VND của các TCTD bằng công cụ chính sách tiền tệ; đồng thời, hỗ trợ vốn
thanh toán cho các NHTM thông qua nghiệp vụ thị trường mở và cho vay tái cấp vốn đối
với các NHTM, đặc biệt là các NHTM cổ phần nhỏ nhằm đảm bảo duy trì và phát triển hệ
thống ngân hàng an toàn, bền vững.
 Kiểm soát chặt chẽ các hoạt động thu đổi ngoại tệ nhằm chống tình trạng đầu
cơ và lũng đoạn thị trường tiền tệ.

Vào giữa tháng 6, thị trường có nhiều biến động đột biến, NHNN đã chủ động
thực hiện các giải pháp kịp thời, đồng bộ, thực hiện từng bước các giải pháp chính sách,
tập trung vào giai đoạn cuối tháng 6. Cụ thể:

Page16

Chỉ đạo các NHTM tập trung vốn cho vay đối với các dự án sản xuất có hiệu
quả, lĩnh vực xuất khấu, nhập khẩu hàng hoá thiết yếu, đặc biệt chỉ đạo các NHTM chủ
động cân đối nguồn vốn tạo điều kiện và ưu tiên hạn mức tín dụng và cho vay mở L/C và
nhu cầu vay vốn khác của các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu xăng, dầu một cách
bình thường.



֟ iều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng 2% để phản ánh sát hơn
Đ
cung cầu thị trường.
֟ ở rộng biên độ tỷ giá giao dịch USD/VND từ mức ±1% lên mức ±2% so
M
với tỷ giá bình quân liên ngân hàng do NHNN công bố.
֟ ăng mạnh lãi suất cơ bản tập trung nguồn tiền đồng vào hệ thống ngân
T
hàng, kiềm chế lạm phát và giảm áp lực lên tỷ giá.
֟Công bố mức dự trữ ngoại hối Nhà nước, củng cố lòng tin thị trường.
֟ ăng cường bán ngoại tệ cho các NHTM để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của
T
nền kinh tế, đáp ứng tối đa các nhu cầu thiết yếu như nhập khẩu xăng dầu, thuốc chữa
bệnh, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón, thiết bị y tế, đồng thời hỗ trợ ngoại tệ cho các ngân
hàng có phục vụ nhu cầu trả nợ vay hoặc thanh toán L/C đến hạn, các nhu cầu ngoại tệ hợp
pháp của cá nhân và hỗ trợ trạng thái cho các NHTM;
֟ Mở rộng biên độ tỉ giá giao dịch USD/VND từ mức 2% lên 3% so với tỉ giá
bình quân liên ngân hàng do NHNN công bố (Quyết định số 2635/QĐ-NHNN ngày
6/11/2008).
Với các biện pháp đồng bộ của NHNN, thị trường ngoại hối đã ổn định trở lại.
Tuy nhiên lãi suất lại biến động mạnh.
LS

Lãi suất tăng mạnh trong 6 tháng đầu năm,sau đó lại giảm mạnh vào cuối
năm,trong đó lãi suất cơ bản biến động mạnh nhất. Do lãi suất tăng cao và biến động thất

Page16


TG


thường,khả năng vay vốn của doanh nghiệp giảm,doanh nghiệp dè dặt trong việc vay vốn
để đầu tư,giảm đầu tư,sản xuất dẫn đến giảm mức độ tăng trưởng của nền kinh tế.Ước tính
GDP năm 2008 tăng 6,23% so với năm 2007 thấp hơn tốc độ tăng 8.48% của năm 2007 và
mục tiêu kế hoạch đã điều chỉnh là 7%. Tốc độ tăng vốn đầu tư nước ngoài giảm mạnh so
với năm 2007 từ 95,85% năm 2007 xuống còn 43,21% năm 2008.Việc cố gắng ổn định tỉ
giá khiến cho VND được định giá cao so với USD dẫn đến xu hướng nhập khẩu tăng ,
nhập siêu ước tính đạt 17,5 tỉ đô tăng 24,1% so với năm 2007.Kết quả là tuy có giảm thiểu
được mức độ lạm phát,và sự biến động về tỷ giá nhưng nền kinh tế lại có xu hướng tăng
trưởng chậm lại.
Chính sách tiền tệ năm 2009: nới lỏng có kiểm soát.
Năm 2009, một năm mà chính sách tiền tệ (CSTT) đã phải đối mặt với nhiều
thách thức khó lường phát sinh từ những bất cập của nền kinh tế và tác động bất lợi của
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế.
Nhìn nhận một cách khách quan có thể thấy, lạm phát cao năm 2008, cùng với sự
đảo chiều của vốn đầu tư nước ngoài và thâm hụt mạnh cán cân thương mại (12,783 tỷ
USD) đã có tác động mạnh đến tâm lý các nhà đầu tư trên thị trường ngoại hối, gây những
biến động khó lường đến tỷ giá.
Thêm vào đó, giải pháp hỗ trợ lãi suất có tác động tích cực hỗ trợ doanh nghiệp
phục hồi sản xuất, làm khởi sắc TTCK, bất động sản và thị trường tín dụng, nhưng cũng
gây sức ép tăng khối lượng tiền trong nền kinh tế, tín dụng tăng trưởng cao và áp lực giảm
giá VND.
Trước những tác động bất lợi như vậy, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thực thi
CSTT một cách linh hoạt phối hợp đồng bộ với nhiều giải pháp khác để giữ bình ổn thị
trường.
-Thị trường tiền tệ từng bước được bình ổn, tuy nhiên 6 tháng đầu năm 2009, thị
trường ngoại hối có những diễn biến không thuận lợi. Do áp lực từ cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu, lo ngại rủi ro biến động tỷ giá, các doanh nghiệp có tâm lý găm giữ ngoại

tệ.

-Để tăng nguồn cung và ổn định thị trường ngoại tệ, NHNN đã triển khai quyết
liệt nhiều giải pháp như mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán USD/VND của các ngân
hàng thương mại từ +/-3% lên +/-5% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng cùng phối hợp
với các biện pháp điều tiết cung cầu ngoại tệ trên thị trường như bán ngoại tệ hỗ trợ nhu
cầu nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống; điều hoà
ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ trên ngân hàng.

Page16

-Mặt khác do tác động phụ của chính sách hỗ trợ lãi suất cho vay bằng VND và
việc điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản bằng VND, nhiều doanh nghiệp không muốn vay
ngoại tệ mà chuyển sang vay VND để mua ngoại tệ, dẫn đến nhu cầu mua ngoại tệ tăng
mạnh, tình hình cung cầu ngoại tệ trở nên căng thẳng.


-Đồng thời, trình Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính bán nguồn ngoại tệ thu
được từ phát hành trái phiếu Chính phủ cho NHNN; đề nghị một số doanh nghiệp nhập
khẩu lớn chuyển từ mua ngoại tệ sang vay bằng ngoại tệ; phối hợp chặt chẽ với Bộ Công
thương trong việc kiểm soát nhập siêu và đáp ứng các nhu cầu ngoại tệ thiết yếu của nền
kinh tế.
-Các biện pháp chấn chỉnh hoạt động ngoại hối cũng được tăng cường như phối
hợp với các bộ, ngành kiểm tra, xử lý vi phạm đối với các hành vi quảng cáo, niêm yết giá
hàng hóa bằng ngoại tệ, mua, bán ngoại tệ trái phép; tăng cường kiểm tra hoạt động mua
bán ngoại tệ của các ngân hàng thương mại và hoạt động của các đại lý đổi ngoại tệ, xử lý
nghiêm các vi phạm.
-Đặc biệt, áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế tâm lý găm giữ ngoại tệ của các
doanh nghiệp và người dân như đẩy mạnh công tác tuyên truyền và công bố công khai,
rộng rãi các thông tin về tình hình ngoại hối, tỷ giá; yêu cầu các NHTM nhà nước giảm lãi

suất cho vay và huy động bằng ngoại tệ (lãi suất cho vay giảm từ mức 6-6,5%/năm xuống
không quá 4%/năm kể từ ngày 15/4/2009 và giảm tiếp xuống mức không quá 3%/năm kể
từ ngày 01/6/2009, lãi suất huy động giảm xuống mức không quá l,5%/năm kể từ ngày
01/6/2009).

-Trước tình hình này, ngày 26/11, NHNN đã kịp thời điều chỉnh tỷ giá, nâng tỷ
giá công bố lên 17.980 đồng/usd, tăng 5,4% so với ngày trước đó, thu hẹp biên độ tỷ giá từ
+/-5% xuống còn +/-3%, đồng thời yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm biên độ
tỷ giá.

Page16

Tuy nhiên, diễn biến kinh tế những tháng cuối năm vẫn tiếp tục là thách thức cho
thực thi CSTT như thâm hụt cán cân thương mại không được cải thiện mà vẫn tiếp tục gia
tăng (theo số liệu của Tổng cục Hải quan 11 tháng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước
đạt 113,6 tỷ USD, giảm 14,7% so với cùng kỳ năm 2008, trong đó, xuất khẩu là 51,33 tỷ
USD, giảm 11,5% và nhập khẩu là 62,28 tỷ USD, giảm 17%. Cán cân thương mại hàng
hoá 11 tháng thâm hụt 10,95 tỷ USD bằng 21,3% xuất khẩu), nguồn bù đắp cho thâm hụt
này suy giảm như nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm sút mạnh so với năm 2008, đầu
tư gián tiếp nước ngoài không tăng mà còn giảm; nguồn kiều hối cũng giảm do khủng
hoảng kinh tế toàn cầu... do vậy dẫn đến thâm hụt cán cân thanh toán, tình hình này tiếp
tục gây bất lợi cho việc ổn định tỷ giá. Thêm vào đó, thâm hụt ngân sách tăng cao, năm
2009 mức thâm hụt ngân sách ở mức 6,5% GDP buộc ngân sách phải vay nợ nhiều, qua đó
mà gây áp lực giảm giá VND. Trên thị trường tiền tệ xuất hiện những hiện tượng bất cập,
mâu thuẫn nhau: Tốc độ tăng trưởng tín dụng cao, nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu vay vốn
của doanh nghiệp, VND vẫn khan hiếm, biểu hiện ở áp lực tăng lãi suất, thanh khoản VND
mỏng manh. Sự khan hiếm tiền đồng về mặt lý thuyết là làm cho VND lên giá. Nhưng
chính sách điều tiết vĩ mô thì lãi suất lại thấp (lãi suất cho vay hỗ trợ, trần lãi suất cho
vay..) gây áp lực giảm giá VND, đồng thời kích thích nhu cầu sử dụng tiền đồng, tăng nhu
cầu tín dụng, gây ra vòng xoáy khan hiếm tiền đồng, gây áp lực cho NHNN phải cung ứng

thêm tiền đồng. Điều này tiếp tục gây áp lực giảm giá VND. Đồng thời, sự biến động mạnh
của giá vàng cũng có những tác động bất lợi đến tỷ giá.


-Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng có trạng thái ngoại tệ từ âm 5% trở xuống lại
được NHNN bán ngoại tệ hỗ trợ nhằm đảm bảo hệ thống ngân hàng cam kết cung cấp đủ
ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, đặc biệt ưu tiên những mặt hàng nhập khẩu
phục vụ sản xuất.
-Đồng thời với điều chỉnh tỷ giá, NHNN đã thực hiện nâng các mức lãi suất chỉ
đạo lên thêm 1%. Đây là giải pháp có tính đồng bộ, phù hợp với tình hình thực tế, vừa có
tác dụng tiếp tục duy trì tăng trưởng của nền kinh tế đồng thời chủ động ngăn chặn nguy cơ
lạm phát và ổn định thị trường ngoại hối.

Page16

Năm 2009 mặc dù phải đối mặt với rất nhiều thách thức trong quá trình thực
thi CSTT, nhưng với sự điều hành linh hoạt, sự ứng phó kịp thời với những biến động của
tình hình, về cơ bản CSTT đã đạt được mục tiêu của năm 2009 là kiềm chế lạm phát từ
mức 19,98% năm 2008 xuống còn 6,52%, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức 5,2% và CSTT
đã góp phần quan trọng vào ổn định kinh tế vĩ mô.Thực hiệncó hiệu quả các chính sách hỗ
trợ lãi suất của Chính phủ; điều hành chính sách tiền tệ một cách thận trọng, linh hoạt theo
nguyên tắc thị trường, đáp ứng mục tiêu tăng trưởng, kiềm chế lạm phát do Quốc hội đề
ra.Ổn định thị trường ngoại hối, thị trường vàng trong nước; tăng cường năng lực, nâng
cao chất lượng công tác thống kê, dự báo tiền tệ và cán cân thanh toán quốc tế; đẩy mạnh
thanh toán không dùng tiền mặt; kiểm soát chặt chẽ nợ quá hạn, đảm bảo an toàn hệ thống
các tổ chức tín dụng.Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng GDP năm 2009 được xem là thấp nhất
trong 10 năm qua.


Chính sách tiền tệ năm 2010 : cân bằng lạm phát và tăng trưởng.


Đầu tháng 2/2010,NHNN đã “bơm” 70000 tỉ đồng cho các NHTM nhằm đảm
bảo thanh khoản và đáp ứng nhu cầu của khách hàng.Ngay sau đó vào tháng 3 NHNN đã
nhanh chóng thu hồi số tiền 38600 tỉ đồng,do đó nền kinh tế vẫn phát triển mà mức lạm
phát bắt đầu tăng chậm lại từ tăng 1,96% vào tháng 2 xuống 0,75% vào tháng 3. Năm
2010,NHNN thực hiện một mặt bằng lãi suất mới, nâng lãi suất cơ bản bằng đồng Việt
Nam lên 8%/năm(năm 2009 là 7%/năm) để thu hút nội tệ trong lưu thông về các
NHTM,mặt khác giảm tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động chỉ còn 80% đối với ngân
hàng,đối với các tổ chức tín dụng khác là 85% và tăng lãi suất tái cấp vốn lên 8%/năm,lãi
suất tái chiết khấu lên 6%/năm,hạ lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc từ 3,6%/năm xuống còn
1,2%/năm,và duy trì mức lãi suất ổn định từ đầu năm đến nay.Những tháng đầu năm
2010,NHNN thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt.Từ đầu tháng 3,NHNN giảm “bơm” tiền
qua kênh thị trường mở và chỉ duy trì mỗi ngày một phiên đấu thầu,do đó làm giảm khả
năng cải thiện vốn khả dụng của các NHTM.Qua các hành động trên,NHNN đã hạn chế
khả năng cấp tín dụng của các NHTM,nhờ đó tiền trong lưu thông giảm,giảm lạm
phát.Nhưng nếu chỉ áp dụng biện pháp này sẽ gây tổn hại đến nền kinh tế do lãi suất cho

Page16

Chủ trương không để lạm phát cao với mục tiêu không để chỉ số giá tiêu dùng
năm 2010 vượt quá và tăng trưởng kinh tế đạt 6.5% trong năm 2010.


vay của các ngân hàng sẽ tăng lên,doanh nghiệp khó vay vốn và chi phí vay lên cao gây trở
ngại cho việc vay vốn kinh doanh.Nên song song đó,NHNN vẫn tiếp tục thực hiện hỗ trợ
lãi suất đối với các khoản vay trung,dài hạn ằng đồng Việt Nam của các tổ chức ,cá nhân
tại Ngân hàng hàng phát triển Việt Nam để thực hiện dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh
doanh ,kết cấu hạ tầng và các nhu cầu vốn thực hiện hợp đồng xuất khẩu nhằm giảm chi
phí đầu tư,tăng năng lực sản xuất kinh doanh,khả năng cạnh tranh sản phẩm,tạo việc làm
,với mức lãi suất hỗ trợ là 4%/năm.Điều này đã đưa lãi suất vay thực tế VND của các

doanh nghiệp xuống 5-6%,thúc đẩy doanh nghiệp vay vốn kinh doanh.Đối với các tổ chức
tín dụng có trạng thái ngoại tệ từ âm 5% trở xuống,NHNN cam kết bán ngoại tệ hỗ trợ
nhằm đảm bảo hệ thống ngân hàng cung cấp đủ ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu,đặc biệt ưu tiên cho hàng nhập khẩu để phục vụ sản xuất. Nhìn chung đầu năm
2010,NHNN đặt trọng tâm vào vấn đề kiềm chế lạm phát.
Tỉ lệ tăng mở rộng tín dụng

Sau những tháng đầu năm thắt chặt,NHNN đang dần dần nới lỏng chính sách tiền
tệ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khi lạm phát đã có xu hướng ổn định.NHNN ra thông tư
số 20/2010/TT-NHNH để hỗ trợ các tổ chức tín dụng cho vay phát triển nông nghiệp,nông
thôn .Theo đó giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng có tỉ trọng dư nợ cho
vay phát triển nông nghiệp và nông thôn trên tổng dư nợ bình quân từ 40% trở lên.Hoạt
động của thị trường mở sau khi sụt giảm nghiêm trọng vào tháng 8,đã khởi sắc trở lại vào
tháng 9.Khối lượng bơm ròng trên thị trường đạt mức cao tới 8020 tỉ đồng,nhu cầu vay của
các NHTM tăng mạnh.
Kết quả đấu thầu trên thị trường mở gần đây,theo các ngày kết thúc tuần(đơn vị:tỉ

Page16

đồng)


Nhờ đó giá trị sản xuất công nghiệp,nông,lâm ngư nghiệp đều tăng so với cùng
kỳ năm ngoái,tổng kim ngạch xuất khẩu tháng 9 tăng 23,2% so với 9/2009. Kết quả là tổng
sản phẩm trong nước tăng 6,52% so với cùng kì năm ngoái,chỉ số giá hàng tiêu dùng từ
đầu năm đến tháng 8 tăng chậm.

Page16

Biểu đồ chỉ số giá tiêu dùng 9 tháng đầu năm 2010(nguồn:Tổng cục thống kê)



Page16

Tuy nhiên chỉ số giá tiêu dùng tháng 9 tăng mạnh là do thực hiện chính sách tăng
giá học phí 2010-2011 và do việc điều chỉnh giá xăng làm tác động đấn giá cả hàng hóa.
Thị trường giá cả hàng hoá trong nước và thế giới diễn biến phức tạp. Đặc biệt trong nước,
một số yếu tố chủ yếu có thể sẽ là nguyên nhân gây áp lực đến mặt bằng giá nói chung, đó
là: (1) Việc tăng giá một số hàng hoá, dịch vụ sẽ tiếp tục ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp
đến giá cả của những hàng hoá và dịch vụ khác; (2) Nhu cầu tiêu dùng hàng hoá cho sản
xuất cũng như nhu cầu các dịch vụ và tiêu dùng hàng hoá trong dân cư thường tăng lên vào
dịp cuối năm; (3) Nhiều công trình, dự án tiếp tục đẩy nhanh tiến độ giải ngân để hoàn
thành kế hoạch năm; (4) Tỷ giá giữa VNĐ và USD được điều chỉnh tăng, ảnh hưởng đến
giá hàng nhập khẩu làm tăng chi phí đầu vào trong sản xuất hàng hoá.Trong đó chủ yếu là
do việc tăng tỉ giá vào tháng 8 vừa qua,đây là việc tất yếu sẽ xảy ra.So với đầu năm 2007,
VND đã tăng giá khoảng 20% so với USD tính theo tỷ giá hiệu dụng thực, trong đó nguyên
nhân chính là do lạm phát (đo bằng CPI) ở Việt Nam trong hai năm 2007 và 2008 rất cao,
lần lượt là 12,7% và 20%. Đáng lưu ý là trong năm 2009, mặc dù CPI ở mức thấp (6,52%)
nhưng sức ép giảm giá VND vẫn được duy trì, lần này là do thâm hụt cán cân thanh toán.
Cán cân thanh toán của Việt Nam đã thặng dư lớn trong năm 2007 (+10,2 tỷ USD), tuy
nhiên mức thặng dư này đã giảm mạnh trong năm 2008 (chỉ còn + 0,5 tỷ USD), và chuyển
sang thâm hụt (-5,7 tỷ USD) trong ba quý đầu năm 2009. Việc định giá VND cao so với
USD trong một thời gian dài đã góp phần làm giảm năng lực cạnh tranh của hàng xuất
khẩu, đồng thời khuyến khích nhập khẩu. Nhập siêu tăng nhanh trở lại trong khi các nguồn
thu ngoại tệ chính như xuất khẩu, đầu tư nước ngoài, kiều hối và du lịch 2009 đều giảm sút
mạnh so với năm 2008; và cùng với việc doanh nghiệp và người dân chuyển sang nắm
USD và vàng đã làm cho cán cân thanh toán của Việt Nam thâm hụt nặng. Việc hỗ trợ lãi


suất 4%khiến cho các doanh nghiệp cần vốn ngoại tệ để phục vụ xuất nhập khẩu sẽ đi vay

nội tệ để mua ngoại tệ thay vì vay ngoại tệ,thậm chí có những doanh nghiệp có số dư vay
vốn ngân hàng bằng ngoại tệ cũng tìm mọi cách vay nội tệ để mua ngoại tệ trả nợ trước
hạn vốn vay ngoại tệ cho ngân hàng dẫn đến áp lực về ngoại tệ đối với các ngân hàng,làm
tăng cầu ngoại tệ gây áp lực tăng tỉ giá.Để tránh phá giá VND NHNN đã phải giảm dự trữ
ngoại hối xuống(ước tính dự trữ ngoại hối đã giảm 35% xuống khoảng 15 tỷ đô vào cuối
năm) nhằm tăng ngoại tệ cần thiết cho lưu thông ,thực hiện biện pháp kết hối đối với một
số tập đoàn,tổng công ty nhà nước với tỉ lệ kết hối ban đầu là 30% vào đầu năm. Thậm chí
NHNN đã giảm lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng đôla xuống còn 1%,khiến cho tiền gửi
bằng VND sẽ trở nên hấp dẫn hơn so với khoản gửi bằng đôla Mỹ(lãi suất tiền gửi VND
phổ biến là 10,49%),khiến cho các doanh nghiêp sẽ từ bỏ việc găm giữ ngoại tệ,mà bán lại
cho các ngân hàng để tăng lưu thông trên thị trường ngoại tệ. Nhưng kết quả vẫn phải phá
giá VND hai lần trong năm.Dự đoán trong thời gian tới tỷ giá vẫn sẽ tiếp tục tăng nguyên
nhân là do dù ta đã phá giá hai lần nhưng VND vẫn còn định giá cao hơn so với USD.Tuy
nhiên,đối với Việt Nam là đất nước mà người dân ưa chuộng hàng ngoại,nguồn nguyên
liệu sản xuất có nguồn gốc là nhập khẩu cao tức tỷ trọng hàng nhập khẩu lớn thì việc phá
giá nội tệ lại làm cho mặt bằng giá cả tăng,tức là lại tạo ra áp lực lạm phát. Nhưng tỷ giá
tăng lại góp phần thu hút được vốn đầu tư từ nước ngoài,dòng vốn đi vào sẽ mạnh hơn do
giá trị vốn ngoại tệ của nhà đầu tư nước ngoài sẽ tăng lên khi chuyển thành nội tệ để đầu
tư.Khối lượng hàng xuất khẩu tăng do hàng trong nước trở nên rẻ hơn đối với thị trường
nước ngoài nền kinh tế sẽ tăng trưởng .Qua phân tích và thực tiễn ta thấy ta có thể tự do
hóa dòng vốn vẫn tự chủ về tiền tệ nhưng vẫn phải hy sinh tỷ giá.
Trong đa phần các trường hợp,các nước đều chọn kiềm chế lạm phát.Tuy nhiên
có những giai đoạn NHNN phải tìm cách để nâng mức lạm phát lên.Năm 2001 ở Việt Nam
là một năm đặc biệt đó.
Chính sách tiền tệ năm 2001:tăng trưởng kinh tế,hạn chế giảm phát.

-Lãi suất:NHNN liên tục hạ thấp lãi suất để kích thích vay vốn cho đầu tư và tiêu
dùng trong đó lãi suất cơ bản là có sự đều chỉnh nhiều nhất từ 9%/năm vào đầu năm xuống
còn 7.2%/năm vào thời điểm cuối năm. Từ tháng 6/2001, cơ chế điều hành lãi suất USD đã
được đổi mới theo hướng bỏ quy định về biên độ lãi suất cho vay, các tổ chức tín dụng

được tự do xác định lãi suất cho vay trên cơ sở thoả thuận với khách hàng.

Page16

Năm 2000,nền kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng giảm phát(2000:-0.6%),nền
kinh tế có nguy cơ suy thoái.Đầu năm 2001,nhiều nước trên thế giới bị suy thoái kinh tế
,đặt biệt là các nước châu Á từ Nhật Bản ,Hàn Quốc,Đài Loan,Hong Kong cho đến các
nước Malaysia , Singapore, Phillipines nền kinh tế Việt Nam cũng rơi vào vòng xoáy
đó.Trước tình hình đó NHNN thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng để kích thích nền kinh
tế phát triển qua đó cải thiện giảm phát.


Diễn biến lãi suất năm 2001:
LS

Tháng

-Tỷ lệ dự trữ bắt buộc:Vào tháng 5/2001,NHNN tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng
ngoại tệ lên 15%, giảm tỷ lệ dự trữ bằng VND xuống 3%; tháng 11/2001 giảm tỷ lệ DTBB
bằng ngoại tệ xuống còn 10%,NHNN từng bước chuyển sang áp dụng hình thức cho vay
bằng ngoại tệ.
Từ tháng 7/2001, NHNN bắt đầu sử dụng công cụ hoán đổi ngoại tệ (Swap) giữa
NHNN với các ngân hàng để đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn bằng VND của các ngân hàng
trong trường hợp thiếu hụt tạm thời vốn khả dụng nhằm điều hành thị trường tiền tệ theo
mục tiêu CSTT trong từng thời kỳ .
-Tỷ giá:Để khuyến khích xuất khẩu,NHNN đẩy tỉ giá USD/VND tăng lên 3.8%.
-NHNN tăng dự trữ ngoại hối từ 3,030 triệu đô vào năm 2000 lên 3,601 vào năm
2001.

Thông qua các hành động can thiệp này lượng nội tệ trong lưu thông tăng lên

đáng kể góp phần đẩy mạnh sản xuất và tiêu dùng.Kết quả tỉ lệ tăng trưởng GDP thực năm
2001 là 4.7% thấp hơn so với tỷ lệ tăng trưởng GDP thực năm 2000 là 5.5%.Nguyên nhân
là do ảnh hưởng của xu hướng suy thoái kinh tế thế giới,sự suy yếu của nền kinh tế Mỹ do
ảnh hưởng sự kiện ngày 11/09,và do giá dầu thế giới tăng nhanh.Gía trị xuất nhập khẩu
tăng,tuy nhiên giá trị nhập khẩu vẫn lớn hơn giá trị xuất khẩu (năm 2000 giá trị xuất khẩu
là 14,4 tỉ đô,nhập khẩu là 15,6 tỉ đô;năm 2001:giá trị xuất khẩu là 15,5 tỉ đô,nhập khẩu là

Page16

-Nghiệp vụ thị trường mở bước đầu được đưa vào hoạt động.


16,2 tỉ đô).Tỷ lệ lạm phát năm 2001 là 2%,kinh tế bước đầu thoát khỏi giảm phát đạt được
mục tiêu đề ra.Tỷ giá sau nhiều năm ổn định đã phải tăng lên.
3)Kết luận:
Qua thực tiễn ở Việt Nam cho thấy ảnh hưởng của bộ ba bất khả thi đối với nền
kinh tế của một đất nước là rất lớn,là vấn đề quan tâm hàng đầu trong chính sách tiền tệ
của mỗi quốc gia.Chính vì vậy khi đưa ra bất kỳ một chính sách tiền tệ nào cần phải cân
nhắc lựa chọn mối quan tâm,sự ưu tiên của mình thật kỹ lưỡng cũng như dự tính được
những thiệt hại đánh đổi để có được mục tiêu đó xem khả năng của mình có thể thực hiện
được tới đâu,cũng như đánh giá sự đánh đổi đó có thực sự xứng đáng với những gì đã bỏ ra
hay không.Ở Việt Nam do hạn chế về tầm nhìn chiến lược mà chúng ta đã mắc phải nhiều
sai lầm trong việc thực hiện chính sách tiền tệ như việc mở rộng chính sách tiền tệ vào năm
2001,bước đầu có thu được hiệu quả nhưng do sự mở rộng chỉ theo qui mô mà không kiểm
soát được chất lượng đó là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng lạm phát hiện
nay.Hay việc cố gắng ổn định tỉ giá dẫn đến tình trạng VND bị định giá cao làm giảm năng
lực cạnh tranh của hàng hóa trong nước so với nước ngoài gây thiệt hại cho xuất khẩu.Mặt
khác NHNN vẫn chưa có sự độc lập tương đối cần thiết để thực hiện mục tiêu chính sách
tiền tệ của mình.


Lựa chọn nào cho Việt Nam?
Trong bộ ba bất khả thi,các nước phát triển thường ưu tiên mục tiêu chống lạm phát.
Vì chi phí khi xuất hiện lạm phát và xử lí lạm phát khá tốn kém. Do đó, các nước phát triển
thường để ngân hàng trung ương độc lập và có nhiệm vụ chính là kiểm soát lạm phát thấp <
5% điển hình là Mỹ. Tuy nhiên, một số nước đang phát triển lại đi theo hướng khác là ưu tiên
cho việc kiểm soát dòng vốn và tỷ giá, còn lạm phát thì kiểm soát lỏng hơn. Chính sách này
gọi là chính sách ưu tiên tăng trưởng với lạm phát mục tiêu( trong khoảng 1 con số). Nghĩa là

Page16

Như vậy chúng ta có thể cũng từng thắc mắc liệu bộ ba bất khả thi có thật sự bất khả
thi hay không hay nó chỉ đúng với đa số trường hợp chứ không phải là tất cả?Thật sự câu hỏi
này người bạn láng giềng Trung quốc của chúng ta đã giúp chúng ta tìm ra câu trả lời. Trung
Quốc thực hiện chính sách duy trì định giá thấp đồng NDT,đồng thời thực hiện chính sách vô
hiệu hóa.Từ thực tế thực hiện chính sách tiền tệ của Trung quốc cho thấy, Trung Quốc đã có
một số thành tựu trong việc “hài hoà” các biến số kinh tế vĩ mô. Mặc dù nền kinh tế tăng
trưởng cao, cung tiền được mở rộng nhưng lạm phát vẫn ở mức khá thấp. Dòng vốn đầu tư
nước ngoài đã mang lại hiệu quả thực sự, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.Tuy nhiên,Trung Quốc
vẫn không tránh khỏi những tác động mà lý thuyết bộ ba bất khả thi đã nói. Việc duy trì chính
sách tỷ giá cố định trong xu hướng dòng vốn nước ngoài ngày một gia tăng, và chính sách vô
hiệu hoá ngày càng tỏ ra không hiệu quả, đã làm cho Trung Quốc mất đi tính tự chủ trong
chính sách tiền tệ. Đó chính là sự gia tăng trong lạm phát, áp lực tăng giá đồng NDT, và khó
khăn trong việc sử dụng công cụ lãi suất để chống lạm phát. Tình hình Trung Quốc gần đây
cho thấy những khó khăn đang ngày càng trở nên trầm trọng. Tháng 12/2007 và tháng
1/2008, lạm phát của Trung Quốc lần lượt là 6.9% và 7.1%, cao nhất trong vòng 10 năm qua.
Đồng NDT tăng giá 6.9% so với USD trong năm 2007. Những kinh nghiệm của Trung quốc
chính là bài học lớn đối với Việt Nam.


chấp nhận có lạm phát trong giới hạn <10% để ưu tiên mục tiêu tăng trưởng và thu hút nguồn

vốn, ổn định tỷ giá điển hình là Chi Lê rất thành công với xu hướng này. Chính sách này giúp
phát triển một tầng lớp trung lưu - tầng lớp có vai trò rất lớn trong phát triển bền vững nền
kinh tế của các nước đang phát triển. Tuy nhiên, người lao động và dân nghèo là tầng lớp chịu
thiệt thòi của chính sách này. Chính vì vậy,việc lựa chọn đi theo xu hướng nào để đạt được
kết quả tối ưu nhất cho nền kinh tế Việt Nam cần phải được xem xét cẩn thận,và thực hiện
triệt để nhằm tránh những tổn thất không đáng có cho nền kinh tế vì lợi ích của mọi người
dân Việt Nam.

Tài liệu tham khảo:
Website: Tổng cục thống kê

Vnexpress và các nguồn khác

Page16

Ngân hàng Nhà nước


Page16

Giáo trình Tài chính quốc tế NXB Thống kê-2010



×