Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Tình hình rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phươngthức tín dụng chứng từ (L/C) tại ngân hàng NH TMCP Đầu tư & Phát triểnBÌNH ĐỊNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.71 KB, 65 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ TỰ VIẾT TẮT
DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU
LỜI MỞ ĐẦU

DANH MỤC CÁC KÝ TỰ VIẾT TẮT

STT

Từ viết
tắt

Diễn giải

1

ATM

Máy rút tiền tự động

2

BIDV

Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam

3

HĐBT

4



L/C

5

NH

6

Hội đồng bộ trưởng

Thư tín dụng
Ngân hàng
Quy tắc thống nhất và thực thành về tín dụng chứng từ

UCP 500

sô 500

1


7
8
9

10

USD


Đô la mỹ

VND

Việt Nam đồng

XNK

Xuất nhập khẩu

TMCP

Thương mại cổ phần

DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Tình hình thanh toán xuất nhập khẩu tại BIDV BÌNH ĐỊNH trong
những năm gần đây……………………………………………………………..24
Bảng 2.2. Dư nợ bảo lãnh L/C trả chậm tại BIDV BÌNH ĐỊNH…………...…..34

2


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, trong xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá của nhân loại, hoạt động
kinh tế quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ và chiếm một vị trí quan trọng đặc
biệt trong giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá của nước ta. Với tư cách là
chất xúc tác cho sự phát triển của thương mại quốc tế, công tác thanh toán quốc
tế cũng không ngừng được mở rộng và phát triển. Song, khi thương mại quốc tế
càng phát triển thì mối quan hệ giữa người mua và người bán càng trở nên đa

dạng và phức tạp. Điều này đồng nghĩa với nguy cơ rủi ro ngày càng cao trong
buôn bán quốc tế nói chung và thanh toán quốc tế nói riêng. Bằng chứng là nếu
nhìn lại công tác thanh toán quốc tế của các ngân hàng thương mại Việt Nam
trong thời gian qua, điều làm chúng ta không khỏi lo ngại là những con số thiệt
hại đáng kể trong nghiệp vụ thanh toán hàng hoá xuất nhập khẩu theo phương
thức thanh toán tín dụng chứng từ. Nếu xét trong cả nền kinh tế, hàng năm rủi ro

3


trong phương thức này có thể lên tới hàng trăm triệu USD, đe dọa sự an toàn
trong kinh doanh của cả ngân hàng và các doanh nghiệp.
Trong khi đó, với sự non trẻ và còn ít kinh nghiệm thực tế trong thanh
toán quốc tế, các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và BIDV BÌNH
ĐỊNH nói riêng đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc đối phó với xu thế hội
nhập ngân hàng khu vực và quốc tế cũng như tình hình cạnh tranh ngày càng gay
gắt. Do vậy, việc hoàn thiện và phát triển công tác thanh toán quốc tế cụ thể là
nghiên cứu và phòng tránh các rủi ro trong thanh toán quốc tế là một trong các
mối quan tâm hết sức cấp bách và thường xuyên của mỗi ngân hàng.
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu, em đã mạnh dạn chọn đề tài thực
tập tốt nghiệp là:  Tình hình rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương
thức tín dụng chứng từ (L/C) tại ngân hàng NH TMCP Đầu tư & Phát triển
BÌNH ĐỊNH cũng chỉ với mục đích làm sáng tỏ vị trí, vai trò của phương thức
thanh toán tín dụng chứng từ trong nền kinh tế, luận giải có tính hệ thống cơ sở
lý luận và thực tiễn, các ưu nhược điểm và nguyên nhân gây ra rủi ro trong
phương thức thanh toán này. Từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện và
hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc tế nói chung và thanh toán tín dụng chứng
từ nói riêng.
Em xin chân thành cảm ơn Ngân hàng TMCP Đầu tư & Phát triển BÌNH ĐỊNH,
Th.S Lê Việt An khoa TCNH & QTKD Trường ĐH Qui Nhơn đã giúp đỡ em

hoàn thành bài viết này.
2. Đối tượng nghiên cứu
Đây là đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề chung nhất về các rủi ro
trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ và những giải pháp để hạn chế
rủi ro đó.
3. Phạm vi nghiên cứu

4


Với phạm vi của một khoá luận, tôi cũng chỉ xin tập trung nghiên cứu và
trình bày các cơ sở lý luận theo thông lệ quốc tế liên quan đến hoạt động thanh
toán tín dụng chứng từ, thực tiễn về hoạt động này tại BIDV BÌNH ĐỊNH giai
đoạn 2010 - 2012
4. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu và cho ra đời sản phẩm có hiệu quả, tôi đã sử dụng tập hợp
các phương pháp như duy vật biện chứng, phân tích, tổng hợp, thống kê, so
sánh... cùng với việc tham khảo các sách, tài liệu trong và nước ngoài có liên
quan.
5. Kết cấu của khoá luận
Bài viết của em gồm ba chương:

CHƯƠNG 1: RỦI RO TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG
THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ(L/C)
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG RỦI RO TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ
THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI BIDV BÌNH ĐỊNH
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TRONG THANH TOÁN QUỐC
TẾ THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI BIDV BÌNH ĐỊNH

Trong quá trình làm báo cáo, do trình độ hiểu biết cũng như kinh nghiệm

thực tiễn còn hạn chế nên bài viết của em còn nhiều sai sót cả nội dung và hình
thức. Em rất mong sự đóng góp ý kiến nhận xét của thầy, cô để bài viết của em
được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
Qui Nhơn tháng 03 năm 2013
Sinh viên thực hiện
XAYYACHAK SOUNTHONE
5


6


CHƯƠNG 1: RỦI RO TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO
PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ(L/C)
1.Tín dụng chứng từ là một phương thức thanh toán quốc tế tại NHTM
1.1. Tên ,địa chỉ

Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (có hội sở chính đặt tại Hà Nội .
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam Tỉnh Bình Định ( gọi tắt là BIDV tỉnh
Bingf Định ) hạch toán độc lập, và là một trong những chi nhánh hàng đầu của
hệ thống BIDV Việt Nam.
-Tên đầy đủ
: Ngân hàng NHTMCP đầu tư và phát triển
Việt Nam Chi nhánh Bình Định
-Tên giao dịch quốc tế : Bank for Investment and Development
of Vietnam Binh Dinh Branch
-Tên gọi tắt

: BIDV chi nhánh Bình Định


- Slogan

: Chia sẻ cơ hội – hợp tác đầu tư

- Địa chỉ

: 72 Lê Duẩn, T.P Quy Nhơn, tỉnh
Bình Định

-Điện thoại

: 056.52006-520007-520068

-Fax

: 056.520065

-Website

: www.bidv.com.vn.

-Email

:
Logo của BIDV

7


1.1.1.Khái niệm L/C

Thư tín dụng (viết tắt là L/C - Letter of Credit) là một chứng thư trong đó
ngân hàng mở cam kết trả tiền cho người xuất khẩu nếu họ xuất trình được một
bộ chứng từ phù hợp với nội dung của thư tín dụng. Nó là căn cứ pháp lý để
ngân hàng trả tiền, chấp nhận hay chiết khấu chứng từ và cũng là cơ sở để người
mua quyết định trả tiền cho ngân hàng phát hành.
Về tính chất, L/C hoàn toàn độc lập với hợp đồng thương mại, có nghĩa là
khi thanh toán các ngân hàng chỉ căn cứ vào bộ chứng từ mà không cần biết đến
nội dung của hợp đồng mua bán cũng như không phụ thuộc vào mối quan hệ
giữa người mua và người bán hay mối quan hệ giữa ngân hàng với người mua
mà chỉ căn cứ vào nội dung của L/C để trả tiền. Ngân hàng cũng không có nghĩâ
vụ xem xét nội dung của L/C có đúng hợp đồng hay không, việc giao hàng thực
tế có đúng với nội dung của chứng từ xuất trình cho ngân hàng hay không, mà
chỉ căn cứ vào những chứng từ do người bán xuất trình. Ngân hàng sẽ trả tiền
cho người bán nếu các chứng từ đó phù hợp trên bề mặt với các điều khoản và
điều kiện của L/C.
Thông thường, thư tín dụng được bên nhập khẩu mở trước ngày giao hàng
một thời gian nhất định để bên xuất khẩu có đủ thời gian cần thiết chuẩn bị hàng
hoá gửi đi. Nếu L/C được mở sớm thì người xuất khẩu sẽ có lợi vì có đủ điều
kiện tốt để gửi hàng đi. Nhưng ngược lại, nếu mở L/C quá sớm trước ngày giao
hàng thì bên nhập khẩu sẽ bị đọng vốn đối với khoản ký quỹ là một phần hay
toàn bộ L/C. Vì vậy, thời gian mở L/C cần phải hợp lý cho cả hai bên xuất và
nhập khẩu.
1.1.2.Nội dung của L/C
Theo khái niệm trên thì thư tín dụng là một phương tiện thanh toán rất
quan trọng trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. Nó liên quan chặt

8


chẽ tới quyền lợi của các bên. Trong trường hợp thư tín dụng không mở được thì

phương thức thanh toán này không được xác lập và tất yếu sẽ không có việc giao
hàng cũng như việc thanh toán giữa người mua và người bán. Còn khi thư tín
dụng đã được mở thì nội dung của nó là một bộ phận vô cùng quan trọng và trở
thành cốt lõi để các bên thực hiện nghĩa vụ, đảm bảo quyền lợi cho đối tác cũng
như bản thân mình. Vì vậy, nội dung của thư tín dụng phải đầy đủ, rõ ràng và
chính xác. Mỗi thư tín dụng mang một nội dung riêng biệt tuỳ theo nội dung của
từng thương vụ, nhưng nhìn chung chúng có những nội dung cơ bản giống nhau
và thường không thể thiếu được trong một L/C, bao gồm: địa điểm mở thư tín
dụng, ngày mở thư tín dụng, số hiệu của thư tín dụng, loại thư tín dụng, số tiền,
thời hạn hiệu lực, thời hạn giao hàng, thời hạn thanh toán, nội dung về hàng hoá,
các nội dung về vận tải và giao nhận và đặc biệt là bộ chứng từ mà người xuất
khẩu phải xuất trình...
Các bên liên quan khi sử dụng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
cần chú ý tới tất cả các nội dung nêu trên, đặc biệt là điều khoản yêu cầu về bộ
chứng từ mà người bán phải xuất trình cho ngân hàng mở bởi đây chính là điều
kiện để cam kết thanh toán được thực hiện. Đối với người mua, thông thường họ
muốn bộ chứng từ phải thật đầy đủ. Ngược lại, người bán lại muốn bộ chứng từ
càng đơn giản càng tốt, tránh mất nhiều thời gian và chi phí. Bởi ngoài giấy tờ
mà họ thể chủ động lập ra còn có rất nhiều chứng từ khác đòi hỏi được lập bởi
một bên thứ ba. Khi đó bộ chứng từ được lập ra sẽ mất nhiều thời gian, ảnh
hưởng tới tốc độ thu tiền hàng của người bán, thậm chí còn dẫn đến vi phạm thời
gian xuất trình chứng từ, tạo ra nhiều cơ hội để ngân hàng kiểm tra chứng từ có
thể tìm ra sự sai biệt, tăng nguy cơ không đòi được tiền từ phía người mua. Khi
lập bộ chứng từ phải hết sức chú ý đến sự phù hợp của các chứng từ và không
trái với quy định của các văn bản pháp luật điều chúng. Đây là điều kiện tiên
quyết để người bán đòi được tiền hàng. Ngoài nội dung trên ra, một số điều
9


khoản khác cũng cần phải hết sức chú ý như: loại thư tín dụng, số tiền, ngày và

nơi thư tín dụng hết hạn hiệu lực, thời hạn xuất trình chứng từ... Cụ thể là đối
với người mua, bao giờ họ cũng muốn mở thư tín dụng có thể huỷ ngang không
xác nhận, hết hạn hiệu lực ở ngân hàng mở (ngân hàng phục vụ mình) để có thể
chủ động trong mua bán hoặc đưa thêm một điều khoản có lợi cho mình. Trong
khi đó người bán lại mở thư tín dụng không huỷ ngang có xác nhận đảm bảo cho
việc thu được tiền hàng.
Thường người bán muốn thư tín dụng được mở sớm và hết hạn tại nước
họ để chủ động cho việc lập chứng từ, muốn thời hạn xuất trình chứng từ kéo dài
và L/C cho phép đòi tiền bằng điện.
Chính vì những mâu thuẫn trên mà L/C rất đa dạng, mỗi hoạt động xuất
nhập khẩu lại có thể sử dụng mội loại hình L/C riêng phù hợp và do các bên thoả
thuận với nhau.
1.2. Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng
chứng từ . Nguyên nhân và các biện pháp hạn chế rủi ro trong thanh toán
quốc tế theo L/C của NHTM
1.2.1. Rủi ro kỹ thuật
Là những rủi ro do những sai sót mang tính chất kỹ thuật trong quy trình
thanh toán L/C, thường do các bên tham gia thực hiện sai một khâu trong quy
trình nghiệp vụ thanh toán.
Rủi ro đối với người xuất khẩu
Như ta đã biết, trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, ngân
hàng phát hành đứng ra cam kết thanh toán cho người xuất khẩu khi họ xuất
trình bộ chứng từ phù hợp với L/C trong khi đó để đảm bảo việc giao hàng theo
quy định của hợp đồng thương mại, L/C thường đòi hỏi nhiều điều khoản rất chi
tiết và khắt khe. Chỉ với một sai khác dù rất nhỏ cũng có thể bị ngân hàng mở và
người mua từ chối thanh toán với lý do có sự sai biệt hoặc không phù hợp với
10


L/C. Việc duy nhất mà người xuất khẩu có thể làm để tránh được rủi ro trên là

nhanh chóng, khẩn trương lập bộ chứng từ phù hợp với L/C. Một bộ chứng từ
thanh toán phù hợp với L/C phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
- Các chứng từ phải được lập ra đúng yêu cầu về số lượng, số loại, nội dung như
đã quy định trong L/C.
- Nội dung của các chứng từ không được mâu thuẫn với nhau.
- Bộ chứng từ phải được xuất trình tại địa điểm trả tiền quy định trong L/C trong
thời hạn hiệu lực của L/C.
- Nhưng trong thực tế có rất nhiều sai sót xảy ra trong quá trình lập chứng từ mà
thường gặp nhất là:
- Sai lỗi chính tả, sai tên, địa chỉ...
- Chứng từ không hoàn chỉnh về mặt số lượng như số loại chứng từ, số bản của
mỗi loại.
- Các sai sót trên bề mặt chứng từ như:
+ Số tiền trên chứng từ vượt quá giá trị L/C.
+ Các chứng từ không ghi số L/C.
+ Hối phiếu ghi nhầm người bị ký phát.
+ Chứng từ không đánh dấu bản gốc.
+ Các chứng từ không khớp nhau hoặc không khớp với L/C về số
lượng, trọng lương hàng hoá...
+ Các chứng từ không tuân theo quy định của L/C về cảng bốc dỡ,
về hãng vận tải, phương thức vận chuyển...
Tất cả những sai sót trên đều có thể là nguyên nhân gây nên rủi ro trong
thanh toán, gây thiệt hại cho nhà xuất khẩu.
Khi nộp chứng từ cho ngân hàng chiết khấu, nếu ngân hàng phát hiện ra
các sai sót mà có thể sửa chữa được thì việc sửa chữa sẽ làm chậm quá trình
thanh toán. Nếu sai sót không thể sửa chữa thì bộ chứng từ không được chiết
11


khấu hoặc chấp nhận mà phải đợi ý kiến của ngân hàng mở và người mua để giải

quyết. Như vậy, quá trình thanh toán sẽ bị kéo dài làm cho người bán không thể
thu hồi vốn nhanh được. Hơn nữa, người mua và ngân hàng mở có thể dựa vào
những sai biệt rất nhỏ của chứng từ để từ chối thanh toán trong khi đó hàng hoá
đã được gửi đi. Nhà xuất khẩu sẽ chịu thiệt hại khi phải bán giảm giá hàng hoá
hoặc tìm khách hàng khác để tiêu thụ và cùng với nó là một các chi phí như phí
đền bù, cước lưu kho và các phí tổn phát sinh khác.
Một rủi ro kỹ thuật nữa là việc người bán phạm phải các sai lầm khi tiến
hành giao hàng như việc vi phạm thời hạn thanh toán thư tín dụng, giao hàng
muộn, xuất trình chứng từ muộn... Nếu việc xuất trình chứng từ thể hiện sự vi
phạm một trong các thời hạn nói trên cũng sẽ bị từ chối thanh toán.
Rủi ro đối với người nhập khẩu
Rủi ro lớn nhất đối với người nhập khẩu là việc nhận hành hoá không
đúng với hợp đồng mua bán. Sở dĩ xảy ra tình trạng trên là do bị lợi dụng tính
độc lập giữa L/C và hợp đồng thương mại. Việc thanh toán giữa ngân hàng hai
bên mua bán chỉ thực hiện trên cơ sở bộ chứng từ đã giao hàng xuất trình phù
hợp với quy định của L/C tức là ngân hàng chỉ chịu trách nhiệm về sự khớp đúng
trên bề mặt giữa bộ chứng từ thanh toán với L/C chứ không chịu trách nhiệm về
tính chân thực của chứng từ và tình hình thực tế giao hàng. Do vậy, người mua
sẽ phải chịu rủi ro khi tiền hàng đã trả theo bộ chứng từ xuất trình cho ngân hàng
đều phù hợp cả về số lượng, chất lượng... nhưng thực tế thì hàng hoá nhận được
lại không đúng với mong muốn, không giống như trong hợp đồng thương mại
mà trước đó hai bên đã thoả thuận.
Rủi ro đối với ngân hàng
Trong nghiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ, ngân hàng đóng vai trò
quan trọng không thể thiếu. Vì vậy, cũng giống như khách hàng của mình, với vị
trí khác nhau, ngân hàng cũng có thể gặp những rủi ro khác nhau.
12


Cũng như rủi ro trong nghiệp vụ tín dụng, rủi ro trong nghiệp vụ thanh

toán L/C không hẳn là những mất mát, thiệt hại xảy ra cho các ngân hàng do
không thu hồi được vốn đã thanh toán cho nước ngoài, nhiều khi còn là việc
không thu hồi vốn đúng hạn, hoặc làm phát sinh các khoản chi phí vô ích khác.
 Ngân hàng mở L/C
Ngân hàng mở L/C là người cam kết trả tiền cho người xuất khẩu. Vì vậy,
nguy cơ rủi ro đối với ngân hàng mở là rất lớn.
- Rủi ro trong nghiệp vụ mở:
Việc đầu tiên của các ngân hàng thương mại khi mở L/C nhập khẩu là
phải kiểm tra tính pháp lý của doanh nghiệp (đối với doanh nghiệp mới giao dịch
lần đầu), hợp đồng thương mại, đơn xin mở L/C, nguồn vốn thanh toán bao gồm
vốn vay hay vốn tự có và các chứng từ có liên quan khác. Rủi ro ở công đoạn
này thường xảy ra ở phía doanh nghiệp thể hiện trong các điều khoản của hợp
đồng ngoại thương như giá cả, phương thức thanh toán, phương thức vận tải,
điều khoản trọng tài... Vì vậy, để giảm thiểu rủi ro, các cán bộ tác nghiệp của
ngân hàng hết sức lưu ý nghiên cứu kỹ các điều khoản trong hợp đồng ngoại
thương và đơn xin mở L/C để tư vấn cho doanh nghiệp lấy lại lợi thế nếu thấy
cần thiết. Thực tế đã xảy ra nhiều trường hợp mà lợi thế thuộc về khách hàng
nước ngoài và ngân hàng đã tư vấn dàn xếp ổn thoả theo đúng luật của nước phát
hành và quốc tế.
Một rủi ro nữa mà ngân hàng có thể gặp phải khi mở L/C là dùng sai hoặc
sót trong từng chữ, dấu chấm, dấu phẩy... so với đơn xin mở L/C của doanh
nghiệp. Tất nhiên phí tu chỉnh cho những sai sót đó ngân hàng phải chịu. Vì vậy,
để khắc phục rủi ro này, cần phải tiến hành kiểm tra lại kỹ càng sau khi đã mở
L/C trên máy. Một điều cũng cần quan tâm là ngân hàng mở tuyệt đối không
được tự thêm bớt nội dung vào L/C so với đơn xin mở, ngoại trừ sự thêm bớt đó
làm tăng thêm lợi thế cho khách hàng của mình và phù hợp với hợp đồng ngoại
13


thương, và các văn bản pháp luật điều chỉnh đã được dẫn chiếu trong L/C như

UCP 500 và Incoterms 2000.
- Rủi ro khi kiểm tra bộ chứng từ đến và khi thanh toán.
Có thể nói đây là nghiệp vụ "vạch lá tìm sâu" của ngân hàng mở nhằm
phát hiện những sai sót, những điểm không phù hợp của bộ chứng từ so với nội
dung và bề mặt của L/C đã mở. Rủi ro cho ngân hàng sẽ xảy ra khôn lường nếu
ngân hàng không kiểm tra kỹ bộ chứng từ mà vẫn thực hiện thanh toán hoặc
chấp nhận thanh toán. Bởi lẽ từ trước đến nay đã có những bộ chứng từ giả, đặc
biệt là B/L giả nhằm mục đích lừa đảo hoặc rửa tiền, cũng có trường hợp ghi
"theo lệnh" (to order...) không đúng tên người nhận, làm cho việc nhận hàng bị
chậm trễ, tăng chi phí lưu kho bãi, gây thiệt hại không chỉ cho khách hàng mà cả
cho ngân hàng mở nếu lô hàng đó ngân hàng cho vay thanh toán. Nhằm hạn chế
phần nào các trường hợp trên, các doanh nghiệp cũng như các ngân hàng thương
mại khi mở L/C nhập khẩu nên quy định thêm điều khoản: Gửi lên tàu ngay sau
khi giao hàng một bản sao bộ chứng từ cho người mở L/C, nhằm mục đích để
cho người mở kiểm tra trước, nếu có sai sót thì kịp thời tu chỉnh sửa đổi, đồng
thời có tác dụng tăng thêm độ tin cậy rằng hàng đã được bốc xếp lên tàu.
Sau khi kiểm tra chứng từ, ngân hàng cũng có thể vấp phải một số rủi ro
kỹ thuật như không tuân thủ UCP, ví dụ: chuyển giao bộ chứng từ không phù
hợp cho người mở đi nhận hàng, hoặc làm mất không trả lại chứng từ cho phía
xuất trình nguyên vẹn như khi nó nhận được, hoặc không giao chứng từ đó cho
bên thứ ba do phía xuất trình chỉ định.
Chúng ta đều biết rằng bằng việc đồng ý mở L/C, ngân hàng mở cam kết
thay mặt người mua thanh toán cho người xuất khẩu nếu anh ta thực hiện đúng
như quy định của L/C. Chính vì tính thay mặt cho người mua đã làm xuất hiện
khả năng xảy ra rủi ro đối với ngân hàng mở. Đó là rủi ro không đòi được tiền từ
phía nhà nhập khẩu do người nhập khẩu mất khả năng thanh toán hoặc bị phá
14


sản. Đây chính là rủi ro gây thiệt hại nặng nề nhất cho ngân hàng mở. Nguyên

nhân có thể là do ngân hàng không tiến hành thẩm định khi doanh nghiệp lần đầu
tiên đến quan hệ mở L/C thậm chí ngân hàng có tiến hành thẩm định nhưng
không phải lúc nào kết quả thẩm định cũng chính xác do thông tin không đầy đủ,
không tin cậy hoặc do lúc ngân hàng thẩm định thì tình hình tài chính của khách
hàng rất tốt nhưng trong quá trình sản xuất kinh doanh, nhà nhập khẩu bị thua lỗ
liên tục mà ngân hàng không hay biết, chẳng hạn như hàng nhập khẩu về bán
không thu được tiền, nợ đọng thuế nhập khẩu kéo dài bị hải quan cưỡng chế
không cho nhận hàng.
Trong nghiệp vụ thông báo L/C, ngân hàng mở có thể bị rủi ro do không
hành động đúng theo UCP mà L/C đã dẫn chiếu. Theo UCP 500, ngân hàng mở
được miễn trách nhiệm thanh toán nếu toàn bộ chứng từ có sai biệt hay không
phù hợp với L/C. Tuy nhiên nếu ngân hàng mở không hành động đúng theo
những quy định tại điều 13 UCP 500 thì ngân hàng mở gặp rủi ro trên chính
những bộ chứng từ không phù hợp đó. Đó là các trường hợp:
+ Thông báo từ chối nhưng không nói rõ sự sai biệt của chứng từ hoặc
những điểm không phù hợp bị ngân hàng chiết khấu phủ nhận và trở nên không
có giá trị.
+ Thông báo những sai biệt, không phù hợp và từ chối chứng từ vượt quá
7 ngày làm việc của ngân hàng.
 Ngân hàng thông báo
Rủi ro xảy ra đối với ngân hàng thông báo khi ngân hàng này quyết định
thông báo phải một L/C giả hoặc một tu chỉnh L/C không có hiệu lực trong khi
chính ngân hàng chưa xác định được tình trạng mã khoá (hay mẫu chữ ký uỷ
quyền đối với trường hợp phát hành L/C bằng thư) hoặc khi ngân hàng thông
báo quyết định của mình cho ngân hàng mở biết một cách chậm trễ.

15


Theo quy định của UCP 500, khi trên thư tín dụng chuyển bằng điện có

ghi "các chi tiết đầy đủ gửi sau" hay những từ có nội dung tương tự hoặc ghi
rằng thư xác nhận sẽ là văn bản có hiệu lực của thư tín dụng... thì điện chuyển sẽ
không được xem như là văn bản có hiệu lực. Vì vậy, nếu ngân hàng thông báo về
thư tín dụng cho khách hàng thì phải ghi rõ trên thông báo: "thông báo sơ bộ
chưa có hiệu lực thi hành". Khi ngân hàng thông báo không làm đúng điều đó để
khách hàng hiểu lầm rằng đó là L/C có hiệu lực và thực hiện giao hàng thì mọi
rủi ro ngân hàng sẽ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm.
 Ngân hàng xác nhận (nếu có)
Rủi ro xảy ra đối với ngân hàng xác nhận là do không nắm chắc năng lực
tài chính của ngân hàng mở lại vội đi xác nhận theo yêu cầu của họ để rồi cuối
cùng phải nhận lãnh trách nhiệm thanh toán thay cho ngân hàng mở trong trường
hợp ngân hàng mở thiếu thiện chí hoặc mất khả năng thanh toán thậm chí bị phá
sản.
 Ngân hàng chiết khấu (nếu có)
Đối với ngân hàng chiết khấu rủi ro xảy ra phần nhiều tuỳ thuộc vào thiện
chí của ngân hàng mở và nhà nhập khẩu. Ngân hàng chiết khấu sẽ không thu hồi
được tiền hoặc thu chậm là do nhà nhập khẩu trì hoãn thanh toán, thậm chí từ
chối thanh toán thông qua việc "bới bèo ra bọ" trong việc kiểm tra chứng từ của
ngân hàng mở. Lý do để người nhập khẩu trì hoãn chủ yếu là do gặp khó khăn
trong thanh toán hoặc cũng có thể do bên mua không tin tưởng bên bán vì hay
giao hàng trễ, giao hàng kém chất lượng. Mục đích của người mua là muốn hàng
thật sự về cảng, nhìn thấy hàng rồi mới trả tiền. Để trì hoãn thanh toán, họ sẽ yêu
cầu ngân hàng mở thông báo những sai biệt của chứng từ trong vòng 7 ngày làm
việc để dành quyền được từ chối thanh toán sau này. Đối với ngân hàng chiết
khấu, thời gian trì hoãn thanh toán càng dài, ngân hàng bị chiếm dụng vốn càng
lâu.
16


1.2.2. Rủi ro đạo đức

Mặc dù trong phương thức tín dụng chứng từ, quyền lợi và nghĩa vụ của
mỗi bên tham gia được quy định rõ ràng, song không phải lúc nào nguyên tắc đó
cũng được tôn trọng. Rủi ro đạo đức là những rủi ro khi một bên tham gia cố tình
không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các
bên còn lại.
Về phía người xuất khẩu, họ có thể lợi dụng về tính độc lập giữa bộ chứng
từ thanh toán và tình hình giao hàng thực tế để lập ra những bộ chứng từ giả mạo
phù hợp với L/C nhằm đòi tiền hàng. Vấn đề chứng từ giả mạo hiện đang là vấn
đề khó khăn chưa có giải pháp nào quy định trong UCP 500. Điều đáng chú ý là
trong UCP 500, có quy định cho ngân hàng được miễn trách nhiệm về chứng từ
giả mạo vì thực tế ngân hàng cũng khó phát hiện chứng từ giả mạo nhưng dù sao
quy định này lại trở thành khe hở để cho hành vi gian lận, giả mạo dễ bề len lỏi.
Về phía người nhập khẩu, họ có thể không hoặc kéo dài thời gian đi nhận
chứng từ và trả tiền khi không muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng do cơ hội kinh
doanh đã mất hay do các mối hàng khác hoặc tình hình trên thị trường hàng hoá
có những biến động bất lợi. Đặc biệt khi vay ngân hàng để mở L/C, họ có thể sử
dụng số tiền bán hàng vào mục đích khác, kinh doanh quay vòng thay vì thanh
toán cho ngân hàng ngay như là một hình thức chiếm dụng vốn của ngân hàng.
Đặc biệt các ngân hàng mở cũng có thể vi phạm cam kết của mình như
đứng về phía người nhập khẩu từ chối hoặc trì hoãn thanh toán cho người xuất
khẩu. Đó là chưa kể tới không ít trường hợp cán bộ ngân hàng và khách hàng
thông đồng với nhau cố tình vi phạm quy trình thanh toán của ngân hàng nhằm
chiếm dụng vốn của ngân hàng và bạn hàng.
Tất cả những rủi ro do những vi phạm nêu trên đều được coi là rủi ro đạo
đức. Ngày nay, khi quan hệ thương mại và thanh toán quốc tế được mở rộng thì
rủi ro đạo đức trở thành mối quan tâm lớn không chỉ của các ngân hàng mà cả
17


doanh nghiệp nhằm bảo toàn vốn và an toàn trong kinh doanh. Mặc dù trong

phương thức thanh toán tín dụng chứng từ đã có sự cam kết của ngân hàng mở,
nhưng sự tin tưởng và thiện chí giữa người bán và người mua vẫn được coi là
yếu tố quan trọng đảm bảo cho sự an toàn và hiệu quả của thanh toán quốc tế.
Khi người mua có thiện chí thì việc thanh toán sẽ diễn ra thuận lợi hơn rất nhiều
cho dù bộ chứng từ có sai sót cũng dễ được chấp nhận. Ngược lại, khi họ có ý
không muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng có thể do cơ hội kinh doanh đã mất hay
do các mối hàng khác... họ có thể dựa vào những sai sót dù là rất nhỏ của chứng
từ để đòi giảm giá, kéo dài thời gian để chiếm dụng vốn của người bán, thậm chí
từ chối thanh toán. Với người mua, sự trung thực của người bán cũng rất quan
trọng, bởi vì ngân hàng chỉ làm việc với những chứng từ mà không cần biết việc
giao hàng có đúng hợp đồng hay không. Do đó, người mua có thể vẫn phải thanh
toán L/C với ngân hàng mà không nhận được hàng hoá theo đúng hợp đồng. Các
vi phạm về hợp đồng có thể được giải quyết sau đó nhưng phải mất nhiều thời
gian và phí tổn, trước hết là người mua mất cơ hội kinh doanh và bị chiếm dụng
vốn. Song, không chỉ người mua và người bán mà cả ngân hàng cũng đang đứng
trước mối đe dọa to lớn đó. Con số thiệt hại hàng năm trong thanh toán xuất
nhập khẩu của các ngân hàng thương mại không phải nhỏ, gây khó khăn cho
hoạt động của ngân hàng. Trước hết, ngân hàng chịu ảnh hưởng gián tiếp từ
những rủi ro của khách hàng. Khi người mua không nhận được hàng theo đúng
yêu cầu và kế hoạch kinh doanh của họ bị phá vỡ thì họ không thể trả ngân hàng
số tiền đã vay của ngân hàng để thanh toán L/C. Khi người bán không nhận được
tiền hàng thị họ không thể thanh toán cho ngân hàng khoản vay để sản xuất, thu
gom hàng xuất khẩu. Song ảnh hưởng gián tiếp chỉ là rất nhỏ so với những rủi ro
trực tiếp mà nó có thể gây ra. Nguyên nhân chủ yếu của rủi ro đạo đức là vấn đề
thông tin không đầy đủ, thiếu chính xác về tình hình tài chính, hoạt động kinh

18


doanh cũng như về uy tín và tính trung thực của đối tác. Chính vì vậy mà đưa ra

những phán quyết sai lầm gây nên rủi ro trong thanh toán.
Để hạn chế rủi ro đạo đức, vấn đề cốt lõi là khắc phục tình trạng thông tin
không cân xứng. Đứng ở góc độ ngân hàng, phải tiến hành điều tra, thu thập
thông tin chính xác về khách hàng để có thể sàng lọc những khách hàng chất
lượng. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng hơn cả vẫn là uy tín của khách hàng.
1.2.3. Rủi ro chính trị:
Rủi ro chính trị trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng
từ là những rủi ro bắt nguồn từ sự phát triển kinh tế, chính trị của các nước có
liên quan trong quá trình thanh toán.
Tham gia vào nhiều lĩnh vực ngành nghề, có quan hệ với nhiều đối tượng
kinh tế của nhiều quốc gia, thanh toán quốc tế mà chủ yếu là phương thức thanh
toán tín dụng chứng từ chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của môi trường kinh tế - chính
trị - xã hội của các quốc gia. Một khi các yếu tố trên biến động dù là nhỏ cũng sẽ
ảnh hưởng tới sự vận động của tự do thương mại, đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp... và từ đó ảnh hưởng tới quá trình thanh toán.
Rủi ro chính trị thường gặp nhất là rủi ro do thay đổi môi trường pháp lý
đặc biệt ở những nước có hệ thống pháp luật chưa ổn định, thường xuyên có sửa
chữa bổ sung. Những rủi ro pháp lý thường liên quan đến việc thay đối các quy
định về dự trữ, thuế hay việc ban hành các quy định cản trở hoạt động của ngân
hàng trong lĩnh vực thanh toán quốc tế. Trong thực tế, những thay đổi này
thường khiến các bên xuất nhập khẩu và ngân hàng không thực hiện nghĩa vụ
của mình, làm cho L/C bị huỷ bỏ, gây thiệt hại cho các bên. Sự phong toả kinh tế
của các quốc gia vì mục đích chính trị như trường hợp CuBa. Iraq hay Việt Nam
trước đây cũng mang lại những rủi ro tương tự.
Bên cạnh đó, các cuộc nổi loạn, biểu tình, bạo động hay chiến tranh, đảo
chính, đình công... cũng có thể gây ra rủi ro cho quá trình thanh toán như mất
19


chứng từ, hàng hoá bị mất mát, hư hỏng, ngân hàng bị phong toả hoặc tạm

ngừng hoạt động.
Những biểu hiện bất lợi của các yếu tố kinh tế - chính trị còn được nhân
lên gấp nhiều lần khi nó ảnh hưởng đến sự ổn định giá trị đồng tiền. Vì phương
thức thanh toán tín dụng chứng từ thường liên quan đến nhiều quốc gia khác
nhau với đồng tiền khác nhau nên rủi ro do thay đổi tỷ giá cũng là một rủi ro rất
lớn tuy không xuất phát từ quá trình thanh toán. Một ngân hàng có thể bị thiệt
hại khi cho khách hàng vay để mở L/C hoặc chiết khấu chứng từ khi tỷ giá thay
đổi. Trong các giao dịch, người ta thường dùng các ngoại tệ mạnh hơn để làm
đơn vị tiền tệ, mà chủ yếu là USD. Thông thường, ngân hàng cho khách hàng
vay ngoại tệ để thanh toán L/C, và có thể phải mua ngoại tệ này ở nơi khác. Khi
người mua trả tiền cho ngân hàng, nếu tỷ giá tăng thì ngân hàng thu được một
khoản chênh lệch tỷ giá bổ sung. Ngược lại, nếu tỷ giá giảm thì khoản phí thu
được chưa chắc đã bù đắp được khoản lỗ do chênh lệch tỷ giá gây ra. Ngoài việc
ngân hàng buộc khách hàng phải ký quỹ mở L/C bằng ngoại tệ mạnh sẽ không
chỉ gây thiệt hại cho khách hàng trong giai đoạn tỷ giá không ổn định mà nhiều
khi còn tiềm ẩn những rủi ro đối với ngân hàng. Vì ngân hàng nhà nhập khẩu
không thể lường trước được mức độ trượt giá đồng nội tệ so với ngoại tệ mạnh
nên khi hàng nhập về, tỷ giá trượt mạnh, đối với những mặt hàng bán giá cạnh
tranh không thể tăng giá được, nhà nhập khẩu không muốn nhập hàng vì sợ bị lỗ.
Trong trường hợp đó, nếu tỷ lệ ký quỹ không bù đắp tỷ lệ trượt giá nội tệ thì rủi
ro có thể xảy ra đối với ngân hàng phát hành.
Các biến động kinh tế, chính trị, xã hội dù trực tiếp hay gián tiếp, tức thì
hay lâu dài đều gây những ảnh hưởng tới hoạt động của các ngân hàng và khách
hàng. Vì vậy, rủi ro chính trị luôn là mối đe dọa đến hoạt động thanh toán quốc
tế của ngân hàng.

20


Bên cạnh những rủi ro trên, hoạt động thanh toán quốc tế theo phương

thức tín dụng chứng từ cũng như các hoạt động khác của ngân hàng còn gặp phải
nhiều rủi ro bất khả kháng như thiên tai, hoả hoạn... gây thiệt hại cho các bên nói
riêng và nền kinh tế nói chung.
Ngoài ra, các loại L/C cũng tiềm ẩn trong nó những rủi ro riêng. Hiện nay, L/C
là phương thức thanh toán có nhiều loại hình đa dạng và thuận tiện nhất cho các
hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng mở rộng và phát triển. Do đó, việc nghiên
cứu các loại L/C hiện có và rủi ro của nó cũng rất cần thiết.

21


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG RỦI RO TRONG THANH TOÁN QUỐC
TẾ THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI BIDV
BÌNH ĐỊNH
2.1. Lịch sử hình thành của BIDV BÌNH ĐỊNH
Chặng đường đầu tiên
Đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh, nền kinh tế còn rất nhiều khó khăn,
CN Ngân hàng Kiến thiết tỉnh Nghĩa Bình lúc ấy được thành lập trên cơ sở
Phòng cấp phát ngân sách chỉ với 12 cán bộ. Nhiệm vụ của CN trong giai đoạn
đó gồm: cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản; tín dụng theo kế hoạch nhà nước;
quản lý các kênh vốn sự nghiệp, vốn kinh tế mới, vốn định canh định cư…
Trong điều kiện làm việc rất khó khăn, CN đã góp phần quan trọng cùng
với tỉnh Nghĩa Bình khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh, dần hình thành lên
những công trình, nhà máy đưa vào hoạt động sản xuất và từng bước nâng cao
đời sống nhân dân. Hầu hết những công trình đó đến nay vẫn phát huy tác dụng,
như Thủy điện Vĩnh Sơn, hồ Núi Một, đập Thạch Nham, đập dâng Thạnh Hòa,
đê Khu Đông Tuy Phước, Xí nghiệp Dược phẩm trung ương 2, Trường Đại học
Sư phạm Quy Nhơn…
Bước ngoặt - đường đến thành công
Có thể nói Quyết định 293/QĐ-NH5 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước

đã chấm một dấu son mới từ thời điểm 1.1.1995, đưa BIDV Bình Định từ chỗ là
một ngân hàng cấp phát vốn sang một ngân hàng thương mại (NHTM). Với hành
trang gồm có 265 tỉ đồng tài sản cùng 23 cán bộ vào cuối năm 1994, BIDV Bình
Định đi vào một chặng đường mới với rất nhiều thử thách ở phía trước. Hành

22


lang pháp lý cho hoạt động còn thiếu và chưa đồng bộ, kiến thức và nhận thức
của cán bộ chưa được chuẩn bị, nền vốn không có, thị phần được bắt đầu từ con
số không…
Mang trên vai những trọng trách hết sức to lớn, Ban lãnh đạo BIDV Bình
Định lúc ấy mà đứng đầu là đồng chí Trần Bắc Hà- nay là Chủ tịch HĐQT BIDV
- đã kịp thời củng cố mô hình tổ chức, động viên tư tưởng cán bộ, mạnh dạn triển
khai các dịch vụ mới, xây dựng định hướng kinh doanh năm 1995 và các năm
tiếp theo. Hoạt động tín dụng được chuyển từ cho vay theo kế hoạch và cấp phát
sang tìm kiếm các dự án, phương án kinh doanh thương mại. Đặc biệt, từ con số
không trong hoạt động công nghệ thông tin và thanh toán quốc tế, CN đã mạnh
dạn triển khai và thành công ngay trong năm đầu tiên, sớm trở thành trung tâm
công nghệ và thanh toán quốc tế mạnh trên địa bàn.
Thành công tiếp nối, các năm sau, BIDV Bình Định tiếp tục tiên phong
trong các nghiệp vụ cho vay theo các phương thức thu phí hoàn vốn, BT, BOT,
tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu; phát triển các dịch vụ thanh toán; đa dạng hóa
sản phẩm huy động vốn (chứng chỉ tiền gửi, tiết kiệm tích lũy...). CN cũng là
NHTM đầu tiên trên địa bàn tiếp cận Khu công nghiệp Phú Tài ngay từ giai đoạn
thai nghén và tài trợ thành công cho rất nhiều doanh nghiệp hoạt động trong khu
công nghiệp này. Đến năm 2006, sau khi chia tách thành hai CN Bình Định và
Phú Tài, quy mô và hiệu quả của cả hai CN vẫn không ngừng tăng trưởng. Đến
cuối năm 2011, tổng tài sản của hai CN đã lên đến 11.800 tỉ đồng, chiếm gần
40% thị phần trên địa bàn Bình Định.

Cùng với toàn hệ thống, các sản phẩm dịch vụ công nghệ cao cũng dần
được triển khai và ngày càng hiện đại hơn, sau khi dự án hiện đại hóa được triển
khai thành công, các dịch vụ Homebanking, ATM, VISA, BSMS, IBMB, WU,

23


POS… đã đưa BIDV Bình Định là NHTM mạnh trên địa bàn về các dịch vụ
ngân hàng có công nghệ hiện đại, từ đó uy tín - thương hiệu ngày càng được
nâng cao.
Những kết quả đạt được đến ngày hôm nay đã thể hiện đường lối đúng đắn
của Đảng và Nhà nước, của Ban lãnh đạo BIDV cùng với lòng quyết tâm, bản
lĩnh vững vàng của lãnh đạo và tập thể CN, đã phấn đấu không mệt mỏi suốt 35
năm qua. Trong hành trình tìm tòi, đổi mới của mình, mặc dù gặp phải không ít
khó khăn, thách thức, nhưng BIDV Bình Định đã vững vàng vượt qua sóng gió
thử thách, gặt hái những thành công thật xứng đáng. Chỉ tính trong vòng 5 năm
qua (2007-2011), tổng tài sản đã tăng gấp 3,4 lần, đạt trên 5.300 tỉ đồng; tổng dư
nợ tăng gấp 3,7 lần, đạt trên 5.000 tỉ đồng; tổng chênh lệch thu chi thực hiện
trong giai đoạn này đạt 534 tỉ đồng, trong đó riêng thu DVR trên 156 tỉ đồng…
Bên cạnh đó, cũng cần nói đến sự trưởng thành của một đội ngũ cán bộ
BIDV Bình Định hôm nay. Có thể nói đó là một đội ngũ trẻ và năng động, giỏi
chuyên môn, giàu tri thức, được trang bị đầy đủ về quy chuẩn đạo đức và quy tắc
nghề nghiệp cùng với nét văn hóa của BIDV, là tài sản quý mà CN luôn trân
trọng, gìn giữ và phát huy. BIDV Bình Định cũng tự hào là nơi đã đóng góp rất
nhiều lãnh đạo giỏi trong và ngoài hệ thống.
Có được kết quả hôm nay, BIDV Bình Định không thể quên những tháng
ngày nhiều khó khăn thách thức, BIDV vẫn có những lớp khách hàng truyền
thống, thủy chung, vừa là người bạn đồng hành, vừa là động lực, là yêu cầu để
CN ngày càng cố gắng vươn lên. Thật đáng tự hào và tri ân khi BIDV Bình Định
tròn 35 tuổi cũng là bấy nhiêu năm được sự tín nhiệm gắn bó của khách hàng.

Đất nước đã hội nhập, trọng trách của hệ thống tài chính ngân hàng trong
công cuộc dựng xây đất nước ngày càng to lớn và rất đáng tự hào. Ở lứa tuổi 35
24


chín chắn, trưởng thành và tràn đầy sức sống của mình, BIDV Bình Định chắc
chắn sẽ tiếp tục vai trò tiên phong trong công cuộc đóng góp xây dựng quê
hương vững bước đi lên.
2.2. Tình hình hoạt động qua các năm 2010-2012
2.2.1.Đánh giá chung tình hình hoạt động 03 năm 2010-2012
- Mặc dù giai đoạn 2010-2012 có nhiều khó khăn thách thưc. ảnh hưởng
khủng hoảng tài chính thế giới.nhưng hoạt động của BIDV Bình Đình luôn ổn
định phát triển một cách bền vững, tạo dựng tiền đề vững chắc cho hoạt động
của những r tiếp theo.
- Với tổng tài sản tăng trường 15%/năm. dư định tín dụng tăng bình quân
16%/năm. vốn huy động tăng bình quân 41%/năm. chất lượng hoạt động ổn định
và nâng cao. Với nợ xấu kiểm soát ở mức thấp <1%. Lợi nhuận trước thuế tăng
bình quân 34%/năm. chuyển dịch mạnh mẽ sang hoạt động kinh doanh bán lẻ vớ
dư nợ bán lẻ tăng bình quân 32%/năm, huy động vốn tăng bình quân 35%/năm.
Tỷ trọng thu dịch vụ ròng trong tổng lợi nhuận chiếm tỷ lệ cao.
- Hàng năm BIDV Bình Định đều đặt và vượt kế hoạch kinh doanh tổng
giảm đốc giao. Được xếp loại hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Năm 2010 BIDV
Bình Định được Hội đồng quản trị BIDV phong tăng danh hiệu “Đơn vị kinh
doanh đặc biệt xuất sắc”. “lá cờ đều toàn hệ thống BIDV”, “Cờ thi đua của Thu
tưởng chính phủ”, “Cờ thi đua của tổng đốc”. “Cờ thi đua của UBND tỉnh Bình
Định”, năm 2011 là 01 trong 05 chi nhánh đặt danh hiệu “Đơn vị kinh doanh đặc
biệt xuất sắc ”.toàn hệ thống BIDV. “Cờ thi đua của thống đốc”,”Bằng khen của
UBND tỉnh Bình Định”. Năm 2012 đặt danh hiệu. “Đơn vị kinh doanh xuất
sắc”.dẫn đầu khu vực Nam Trung Bộ, đủ tiêu chuẩn đề nghị các cấp xết tăng
thưởng

- Ngoài nhiệm vụ kinh doanh, BIDV luôn quan tâm và tích cực đi đầu
trong công tác đền ơn đắp nghĩa, phụng dưỡng các mẹ VNAH .Công tắc An sinh
25


×