Tải bản đầy đủ (.docx) (80 trang)

Đánh giá chung về quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam- Chi nhánh Quảng Ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.97 KB, 80 trang )

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN
DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.

Rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại

1.1.1. Khái niệm rủi ro tín dụng

Theo uỷ ban Basel (thuộc Ngân hàng Thanh toán quốc tế) thì: rủi ro tín dụng
là khả năng mà khách hàng vay hoặc bên đối tác không thực hiện được các nghĩa vụ
của mình theo những điều khoản đã cam kết. Rủi ro thất thoát đối với một ngân
hàng là sự vỡ nợ của người giao ước trong hợp đồng, trong đó sự vỡ nợ được xác
định là bất kỳ sự vi phạm nghiêm trọng nào đối với nghĩa vụ hợp đồng khi hoàn trả
nợ và lãi.
Hay rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu
do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi.
[7,543]
Theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN thì: rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân
hàng của tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng
của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực
hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết [9, tr2].
1.1.2. Phân loại rủi ro tín dụng
 Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro mà rủi ro tín dụng được phân thành hai

loại sau:


Rủi ro giao dịch
Là rủi ro liên quan đến từng khoản vay hoặc từng khách hàng cụ thể. Đây là

rủi ro có thể phát sinh liên quan đến quá trình thẩm định xét duyệt cho vay, kiểm


soát sau khi cho vay hoặc do sơ hở trong việc thực hiện bảo đảm tiền vay và những
cam kết ràng buộc trong hợp đồng tín dụng. [7,tr.612]
Rủi ro giao dịch có 3 bộ phận:
+ Rủi ro xét duyệt: là rủi ro liên quan đến quá trình phân tích, thẩm định, xét
duyệt cho vay.

1


Rủi ro này có thể do sự yếu kém của đội ngũ cán bộ. Sự yếu kém ở đây bao
gồm cả về năng lực và phẩm chất đạo đức. Nếu một cán bộ tín dụng non kém về
trình độ, thiếu kiến thức, thiếu kinh nghiệm thì sẽ không có khả năng thẩm định và
xử lý thông tin, đánh giá khách hàng thiếu chính xác, mức vay, lãi suất vay và kỳ
hạn không phù hợp dẫn đến chất lượng tín dụng thấp, rủi ro cao. Ngoài ra, nếu cán
bộ tín dụng không tuân thủ theo đúng quy trình tín dụng như giải ngân trước khi
hoàn thành chứng từ hay không kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn của người vay,
thì việc mất vốn rất dễ xảy ra. Hơn nữa, cán bộ tín dụng mà phẩm chất đạo đức
kém, không có tinh thần trách nhiệm, dễ bị cám dỗ thì sẽ gây thiệt hại rất lớn cho
ngân hàng bằng cách cho vay chỉ dựa trên mối quan hệ với khách hàng, dựa trên lợi
ích cá nhân mà bỏ qua những điều kiện và thủ tục cần thiết.
Một nguyên nhân khác có thể dẫn đến rủi ro xét duyệt là chất lượng thông tin
chưa cao.
Các thông tin mà ngân hàng thu thập thường liên quan đến hoạt động sản
xuất kinh doanh, khả năng tài chính của khách hàng, tình hình kinh tế xã hội, cạnh
tranh trên thị trường sau đó dựa vào các thông tin thu thập được để ra quyết định
cho vay. Tuy nhiên, trên thực tế thì không phải lúc nào các thông tin ngân hàng thu
thập được đều có tính chính xác, đầy đủ và kịp thời. Do vậy, nếu hệ thống thông tin
tín dụng của ngân hàng không hoạt động có hiệu quả, cập nhật được những thông
tin đáng tin cậy thì tất yếu dẫn đến việc ngân hàng thất thoát vốn khi cho vay.
+ Rủi ro kiểm soát: là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và

theo dõi khoản vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật
xử lý các khoản cho vay có vấn đề.
Rủi ro này có thể do sự giám sát của các cấp quản lý trong ngân hàng là thiếu
sát sao. Cán bộ tín dụng cần có sự phê duyệt của lãnh đạo trước khi giải ngân. Vậy
nên nếu cấp trên không có sự kiểm tra, đánh giá xem quyết định của cán bộ đã thực
sự chính xác chưa thì nguy cơ rủi ro tín dụng sẽ là rất cao. Hơn nữa, sau khi giải
2


ngân rồi, cán bộ tín dụng vẫn phải tiếp tục theo dõi khách hàng để sớm phát hiện ra
dấu hiệu của những khoản nợ có vấn đề. Tuy nhiên, việc theo dõi này đối với nhiều
cán bộ chỉ mang tính hình thức. Do vậy, nếu các cấp quản lý không có sự giám sát
đối với cán bộ tín dụng, hoạt động của các cán bộ tín dụng sẽ không hiệu quả, thậm
chí dẫn đến những sai phạm đạo đức trong cho vay và thu nợ. Ngoài ra, các cơ quan
cấp trên không quan tâm đến thực trạng tín dụng của ngân hàng thì sẽ không có
những chỉ đạo kịp thời để ngăn ngừa và xử lý rủi ro xảy ra.
Sơ đồ 1.1. Các bộ phận của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng

Rủi ro giao dịch

Rủi ro danh mục

Rủi ro xét duyệt Rủi ro kiểm soát Rủi ro bảo đảm

Rủi ro cá biệt
Rủi ro tập trung cho vay

Nguồn:[7,tr. 623]
+ Rủi ro bảo đảm: phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm như các điều khoản

trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản bảo đảm, chủ thể bảo đảm, cách thức bảo
đảm và mức cho vay trên trị giá của tài sản bảo đảm.
Rủi ro này có thể do định giá khoản vay không theo mức độ rủi ro của khách
hàng. Về cơ cấu, lãi suất cho một khoản vay phải được xác định ở mức đảm bảo bù
đắp được chi phí vốn đầu vào, chi phí quản lý, phần lợi nhuận mong muốn và phần
bù đắp rủi ro của khoản vay. Khách hàng được đánh giá có mức độ rủi ro càng cao,
phần bù rủi ro càng lớn. Nhưng vì cạnh tranh nên một số ngân hàng có thể chấp nhận
mức giá cho vay thấp, thậm chí chỉ đủ chi phí vốn đầu vào và chi phí quản lý, không
3


tính đến phần bù rủi ro. Việc làm đó trong dài hạn không những làm giảm lợi nhuận
mà còn làm tăng tính rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.



Rủi ro danh mục
Là rủi ro phát sinh liên quan đến sự kết hợp nhiều khoản tín dụng trong danh

mục tín dụng của ngân hàng do sản phẩm không phù hợp hoặc quá tập trung cho
vay vào một ngành, lĩnh vực. [7,tr.612]
Rủi ro danh mục được phân thành 2 loại:
+ Rủi ro cá biệt: xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính
riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất
phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn.
Rủi ro này có thể do hai nguyên nhân sau:
Thứ nhất: Do khách hàng kinh doanh thua lỗ nên mất khả năng trả nợ.
Trường hợp này rất phổ biến do khách hàng có trình độ yếu kém trong dự
đoán các vấn đề kinh tế, yếu kém trong năng lực quản lý, sử dụng vốn sai mục đích,
sản phẩm chất lượng thấp không bán được… Hơn nữa có rất nhiều người vay sẵn

sàng lao vào những cơ hội kinh doanh mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận
cao, mà không tính toán kỹ hoặc không có khả năng tính toán những bất trắc có thể
xảy ra nên khả năng xảy ra tổn thất với ngân hàng là rất lớn.
Thứ hai: Do khách hàng cố tình chiếm dụng vốn của ngân hàng.
Để đạt được mục đích thu được lợi nhuận, nhiều khách hàng sẵn sàng tìm mọi
thủ đoạn để ứng phó với ngân hàng như mua chuộc hoặc cung cấp các báo cáo tài
chính sai lệch. Trong trường hợp này, nếu không phát hiện ra, ngân hàng sẽ đánh giá
sai về khả năng tài chính của khách hàng và cho vay vốn với khối lượng và thời hạn
không hợp lý, dẫn đến rủi ro tiềm ẩn là rất cao. Ngoài ra, cũng có những trường hợp
4


người kinh doanh có lãi song vẫn không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn mà cố tình
kéo dài với ý định không trả nợ hoặc tiếp tục sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
+ Rủi ro tập trung cho vay: là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay
quá nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động
trong cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế; hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định;
hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao.
Rủi ro này có thể do ngân hàng chưa đa dạng hoá các danh mục đầu tư.
Một công cụ luôn được nhắc đến trong quản trị tín dụng ở tất cả các ngân
hàng trên thế giới là quản trị danh mục đầu tư. Quản trị danh mục làm cân đối và
kiềm chế rủi ro bằng cách nhận dạng, dự báo và kiểm soát mức độ rủi ro với từng
thị trường, khách hàng, loại sản phẩm tín dụng và điều kiện hoạt động khác nhau.
Nhiều chuyên gia ngân hàng tin rằng đa dạng hoá là giải pháp phòng ngừa rủi ro tín
dụng hữu hiệu nhất. Mặc dù hiểu rõ tầm quan trọng của việc đa dạng hoá danh mục
đầu tư, song rất nhiều ngân hàng chỉ cho vay một hoặc hai ngành hoặc chỉ cho vay
một vài doanh nghiệp lớn, nhóm kinh doanh đơn lẻ. Một danh mục đầu tư phụ
thuộc chủ yếu vào một ngành hay một loại mặt hàng là rất nguy hiểm vì không
ngành nào là không có rủi ro.
 Căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng, rủi ro tín dụng được phân chia thành


các loại sau:


Rủi ro đọng vốn
Đó là rủi ro tín dụng khi người vay sai hẹn trong thực hiện nghĩa vụ trả nợ

theo hợp đồng, bao gồm gốc và/hoặc lãi vay. Sự sai hẹn này là do trễ hạn. Rủi ro
đọng vốn gây ảnh hưởng đến khách hàng khác muốn sử dụng vốn cũng như gây khó
khăn cho việc chi trả người gửi tiền. [3,tr.9]


Rủi ro mất vốn
Đó là rủi ro tín dụng khi người vay sai hẹn trong thực hiện nghĩa vụ trả nợ

theo hợp đồng, bao gồm gốc và/hoặc lãi vay. Sự sai hẹn này là do không thanh toán.
5


Rủi ro mất vốn làm tăng chi phí hoạt động, tăng trưởng giảm sút, khả năng sinh lợi
giảm. [3,tr.9]
Ngoài những nguyên nhân từ phía khách hàng vay thì hai loại rủi ro trên còn
có thể do những biến động kinh tế không dự báo được. Khi nền kinh tế ổn định,
tăng trưởng lành mạnh thì nhu cầu đầu tư trong xã hội có xu hướng gia tăng, tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, khi xuất hiện những biến
động kinh tế như lạm phát, giá tăng ở một số mặt hàng nào đó ảnh hưởng đến một
nhóm ngành thì rủi ro tín dụng với ngân hàng là rất lớn. Nhiều người vay có thể
thích ứng và vượt qua khó khăn đó, nhưng cũng có rất nhiều người bị đình trệ hoạt
động sản xuất, kinh doanh thua lỗ nên khả năng trả nợ vốn vay ngân hàng không
được đảm bảo.

1.1.3. Hậu quả của rủi ro tín dụng
 Đối với Ngân hàng

Việc không thu hồi được nợ (gốc, lãi và các khoản phí) làm cho
nguồn vốn của các NHTM bị thất thoát, trong khi đó, các ngân hàng này vẫn phải
chi trả tiền lãi cho nguồn vốn hoạt động, làm cho lợi nhuận bị giảm sút. Nếu lợi
nhuận không đủ thì ngân hàng còn phải dùng chính vốn tự có của mình để bù đắp
thiệt hại. Điều này có thể làm ảnh hưởng đến quy mô hoạt động của các NHTM.
Mặt khác, tỷ lệ nợ quá hạn cao làm cho uy tín, niềm tin vào tiềm lực tài chính
của ngân hàng bị suy giảm, dẫn đến làm giảm khả năng huy động vốn của ngân
hàng, nghiêm trọng hơn nó có thể dẫn đến rủi ro thanh khoản, đẩy ngân hàng đến
bờ vực phá sản và đe dọa sự ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng.
 Đối với khách hàng

Đối với bản thân chủ thể không có khả năng hoàn trả vốn (lãi) cho ngân hàng
thì họ gần như không có cơ hội tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng và thậm chí là cả
những nguồn khác trong nền kinh tế do đã mất đi uy tín.

6


Cơ hội tiếp cận vốn ngân hàng của các chủ thể đi vay khác cũng bị hạn chế
hơn khi rủi ro tín dụng buộc các NHTM hoặc thắt cho vay hay thậm chí phải thu
hẹp quy mô hoạt động.
Các chủ thể gửi tiền vào ngân hàng có nguy cơ không thu hồi được khoản
tiền gửi và lãi nếu như các ngân hàng lâm vào tình trạng phá sản.
 Đối với nền kinh tế

Hệ thống ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ với nền kinh tế, là kênh thu hút
và cung cấp tiền cho các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân trong nền kinh tế. Do đó,

rủi ro tín dụng có ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế.
Ở mức độ thấp, rủi ro tín dụng khiến cơ hội tiếp cận vốn mở rộng hoạt động
sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng của các khách hàng bị hạn chế, ảnh hưởng xấu
đến khả năng tăng trưởng của nền kinh tế.
Ở mức độ cao hơn, khi có một ngân hàng lâm vào tình trạng khó khăn dẫn
đến phá sản, thì hiệu ứng dây chuyền rất dễ xảy ra trong toàn bộ hệ thống ngân
hàng, gây nên khủng hoảng đối với toàn bộ nền kinh tế, ảnh hưởng tiêu cực đến đời
sống xã hội và sự phát triển của đất nước.
1.1.4. Các chỉ tiêu đánh giá rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại

1.1.4.1. Tỷ lệ nợ quá hạn
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc, lãi không thu hồi
đầy đủ và đúng hạn như cam kết như trong hợp đồng tín dụng nên đã bị chuyển
sang nợ quá hạn. Nợ quá hạn thường là biểu hiện kém về tài chính của khách hàng
và là dấu hiệu rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Trong hoạt động tín dụng ngân hàng,
nợ quá hạn phát sinh là không thể tránh khỏi nhưng nếu nợ quá hạn vượt quá tỷ lệ
cho phép sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh toán cho ngân hàng có thể dẫn đến mất
khả năng thanh toán.
Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100%
Theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 nợ được phân loại theo
các tiêu chuẩn. Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thể hiện chất lượng tín dụng của ngân

7


hàng càng kém và ngược lại tỷ lệ nợ quá hạn càng thấp chứng minh được chất
lượng tín dụng ngân hàng càng tốt.
1.1.4.2. Tỷ lệ nợ xấu
Nợ xấu được định nghĩa theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013
của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước như sau: “Nợ xấu là những khoản nợ được phân

loại vào nhóm 3 (dưới chuẩn), nhóm 4 (nghi ngờ) và nhóm 5 (có khả năng mất vốn)”.
Tỷ lệ nợ xấu = x 100%
Tỷ lệ nợ xấu cho biết chất lượng và rủi ro của danh mục cho vay của ngân
hàng. Tỷ lệ này cao hay thấp thể hiện chất lượng các khoản tín dụng và khả năng
quản lý chất lượng cho vay của ngân hàng. Theo quy định của Ngân hàng nhà nước
hiện nay chỉ tiêu này không được vượt quá 3%.

1.1.4.3. Hệ số thu nợ
Hệ số thu nợ = x 100%
Hệ số thu nợ cao cho thấy công tác thu nợ đang tiến hành tốt, rủi ro tín dụng
thấp. Chỉ tiêu này còn biểu hiện khả năng thu hồi nợ từ việc cho khách hàng vay
của Ngân hàng. Nó phản ánh trong một thời kỳ nào đó, với doanh số cho vay nhất
định thì ngân hàng sẽ thu về được bao nhiêu đồng vốn.
1.1.4.4. Tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
Tỷ lệ trích lập dự phòng RRTD =
Tùy theo mức độ rủi ro mà các tổ chức tín dụng phải trích lập dự phòng rủi
ro từ 0 đến 100% giá tri của từng khoản vay (sau khi trừ giá trị tài sản đảm bảo đã
được định giá lại). Như vậy nếu một ngân hàng có danh mục cho vay càng rủi ro thì
tỷ lệ trích lập dự phòng sẽ càng cao. Thông thường tỷ lệ này dao động khoảng từ 0
đến 5%. Hiện nay việc trích lập dự phòng rủi ro của hầu hết các ngân hàng được
thực hiện theo thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013. Theo đó, tỷ lệ trích
lập dự phòng cụ thể đối với từng nhóm nợ như sau: Nhóm 1: 0%; Nhóm 2: 5%;
Nhóm 3: 20%; Nhóm 4: 50%; Nhóm 5: 100%. Theo điều 13, tổ chức tín dụng thực

8


hiện trích lập và duy trì dự phòng chung bằng 0,75% tổng giá trị các khoản nợ từ
nhóm 1 đến nhóm 4.
1.2. Quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại

1.2.1. Khái niệm quản trị rủi ro tín dụng
Đối với bất kì một hoạt động kinh doanh nào khi rủi ro xảy ra đều gây ra
những hậu quả khó lường. Chính vì thế quản trị rủi ro tín dụng được coi là hoạt
động trọng tâm của các tổ chức tài chính – ngân hàng bởi kiểm soát và quản lí rủi ro
chặt chẽ đồng nghĩa với việc sử dụng một cách có hiệu quả nguồn vốn huy động.
Có rất nhiều khái niệm đề cập đến quản trị rủi ro tín dụng của các NHTM. Cụ thể:
Quản trị rủi ro tín dụng là một quá trình quan trọng dựa trên cơ sở kết hợp lý
thuyết xác suất và lý thuyết rủi ro. Nó phụ thuộc vào chính sách của từng ngân hàng
trên mức độ vi mô và của NHNN trên mức độ vĩ mô. [5, tr8]
Theo quan điểm hiện đại được các ngân hàng áp dụng phổ biến, Quản trị rủi
ro tín dụng là quá trình Ngân hàng hoạch định, tổ chức triển khai và thực hiện và
giám sát, kiểm tra toàn bộ hoạt động cấp tín dụng nhằm tối đa hóa lợi nhuận với
mức rủi ro có thể chấp nhận được. Kiểm soát rủi ro tín dụng ở mức có thể chấp
nhận là việc NHTM tăng cường các biện pháp phòng ngừa, hạn chế và giảm thấp nợ
quá hạn, nợ xấu trong kinh doanh tín dụng, giảm thấp chi phí bù đắp rủi ro, nhằm
đạt được hiệu quả trong kinh doanh tín dụng cả trong ngắn hạn và dài hạn.
Chủ thể của hoạt động quản trị rủi ro trong ngân hàng là sự thống nhất của
nhiều cấp độ: Hội đồng quản trị của ngân hàng, Ban Giám Đốc, bộ phận quản lí tín
dụng và bản thân mỗi cán bộ tín dụng của ngân hàng.
Mục đích chung nhất của quản trị rủi ro tín dụng là đảm bảo rủi ro trong
phạm vi ngân hàng chấp nhận được. Mục đích này phụ thuộc vào mục tiêu tối đa
hóa giá trị mà ngân hàng hy vọng được xác định trong điều kiện biến động của môi
trường xung quanh.
1.2.2. Sự cần thiết của quản trị rủi ro tín dụng

9





Rủi ro tín dụng là nguyên nhân chủ yếu gây ra sự tổn thất về vốn của các
NHTM.
Rủi ro tín dụng là loại rủi ro lớn nhất, thường xuyên xảy ra và thường gây
hậu quả nặng nề nhất, việc đánh giá rủi ro là trách nhiệm chính của hầu hết tất cả
mọi ngân hàng. Hoạt động của NHTM chủ yếu là hoạt động tín dụng và đầu tư.
Thông thường trên thế giới nó mang lại khoảng 6% thu nhập còn ở Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay thu nhập từ hoạt động tín dụng mang lại trên 90% tổng thu nhập
của mỗi ngân hàng. Nhưng đồng thời trong lĩnh vực này rủi ro đã đưa đến cho ngân
hàng những thiệt hại nặng nề, có khi dẫn đến phá sản. Tuy thiếu tính lỏng và có rủi
ro vỡ nợ cao nhưng ngân hàng thu được lợi tức cao nhất nhờ vào các món vay. Rủi
ro tín dụng là loại rủi ro phức tạp, do đó công tác quản lý, phòng ngừa là cần thiết,
tuy nhiên nó cũng gặp rất nhiều khó khăn, nó có thể xảy ra bất cứ ở đâu, bất cứ lúc
nào. Vì vậy rủi ro tín dụng được xem là một trong những nhân tố hết sức quan
trọng, đòi hỏi các ngân hàng phải có khả năng phân tích, đánh giá và quản trị rủi ro
tín dụng hiệu quả. Một khi ngân hàng chấp nhận nhiều khoản cho vay có rủi ro tín
dụng cao thì ngân hàng có khả năng phải đối mặt với tình trạng thiếu vốn hay tính
thanh khoản thấp. Điều này có thể làm giảm hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
Cho nên các NHTM cần phải chú trọng hơn nữa đến quản trị rủi ro tín dụng để có
những giải pháp cụ thể ngăn ngừa và hạn chế tối đa rủi ro tín dụng xảy ra.



Quản trị rủi ro tín dụng là thước đo năng lực kinh doanh của các NHTM
Tình hình kinh tế ngày càng có nhiều biến động, thị trường tài chính, tiền tệ
và ngân hàng cũng diễn biến phức tạp hơn, tiềm ẩn nhiều rủi ro, nhất là rủi ro tín
dụng. Mặc dù trước khi cho vay nhân viên ngân hàng đã tìm hiểu thị trường và dự
đoán những rủi ro có thể xảy ra nhưng mức độ phức tạp của những dạng rủi ro cũng
như mức độ ứng phó của nhân viên ngân hàng là có giới hạn. Trên thực tế rủi ro tín
dụng phát sinh do nhiều nguyên nhân có thể do khách quan hoặc chủ quan. Vì vậy
quản trị rủi ro tín dụng phải được xem là một nghiệp vụ chủ đạo và là thước đo

10


năng lực kinh doanh của ngân hàng để ngăn ngừa và hạn chế tối đa những tổn thất
do rủi ro tín dụng gây ra.


Quản trị tín dụng tốt là một lợi thế cạnh tranh của các NHTM
Quản trị rủi ro tín dụng được thực hiện tốt sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng
sàng lọc được những khách hàng có năng lực pháp lí tốt, năng lực tài chính tốt, có
tiềm năng phát triển nhằm giúp cho việc tài trợ vốn của ngân hàng thực sự mang lại
hiệu quả và sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM trong quá trình cạnh tranh.
1.2.3. Nội dung quản trị rủi ro tín dụng
Công tác quản trị rủi ro tín dụng tại NHTM gồm 4 nội dung: [5, tr10]
1.2.3.1. Nhận diện rủi ro tín dụng
Nhận diện rủi ro tín dụng là quá trình xác định liên tục và có hệ thống các
hoạt động kinh doanh có thể gây ra rủi ro tín dụng. Nhận diện rủi ro tín dụng bao
gồm các công việc theo dõi, xem xét, nghiên cứu môi trường hoạt động và toàn bộ
mọi hoạt động của ngân hàng nhằm thống kê được tất cả các nguyên nhân gây ra rủi
ro tín dụng, để từ đó có các biện pháp phù hợp giảm thiểu rủi ro tín dụng. Những
dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng:

-

Từ phía khách hàng vay vốn: Trì hoãn hoặc gây trở ngại đối với ngân hàng trong
quá trình kiểm tra theo định kỳ hoặc đột xuất tình hình sử dụng vốn vay. Chậm
thanh toán các khoản lãi khi đến hạn thanh toán, xuất hiện nợ quá hạn. Đề nghị gia
hạn, điều chỉnh các khoản nợ nhiều lần không có lí do. Xuất hiện ngày càng nhiều
các khoản chi phí bất hợp lí. Thay đổi thường xuyên tổ chức hoặc Ban điều hành.


-

Phát sinh từ phía ngân hàng: Sự đánh giá và phân loại không chính xác về mức độ
rủi ro của khách hàng. Đánh giá quá cao năng lực tài chính của khách hàng so với
thực tế. Đánh giá khách hàng thông qua thông tin do khách hàng cung cấp mà
không điều tra xem xét thông tin từ các nguồn khác cấp tín dụng dựa trên các cam
kết không chắc chắn và thiếu tính đảm bào của khách hàng. Tốc độ tăng trưởng tín
dụng quá nhanh vượt quá khả năng và năng lực kiểm soát cũng như nguồn vốn của
ngân hàng.
11


Việc theo dõi, xem xét, giám sát thực tiễn sản xuất kinh doanh của khách
hàng nhằm phát hiện ra các dấu hiệu rủi ro thực tiễn, những biến động xấu trong sản
xuất kinh doanh của khách hàng để từ đó xác định rủi ro tiềm tàng để có biện pháp
xử lý kịp thời. Các phương pháp thường dùng là:
 Giám sát hoạt động tài khoản của khách hàng tại ngân hàng, gồm:
Sự thay đổi số dư, số phát sinh trong tài khoản tiền gửi và tiền vay của khách
hàng phản ánh tình hình tiêu thụ sản phẩm, lưu chuyển tiền tệ, sử dụng vốn vay và
tài trợ. Sự biến đổi bất thường trong tài khoản phản ánh những khó khăn trong quản
trị tài chính của khách hàng dẫn tới khó khăn trong chi trả của khách hàng.
 Phân tích báo cáo tài chính định kỳ
Kết quả phân tích sẽ cho thấy những biểu hiện làm giảm khả năng hoàn trả
nợ hay biểu hiện vi phạm hợp đồng của khách hàng.
 Kiểm tra các bảo đảm tiền vay
Thông qua các báo cáo thường kỳ về tình trạng tài sản đảm bảo hoặc kiểm tra
trực tiếp tại chỗ của khách hàng. Đối với tài sản thế chấp ngân hàng còn cần xem xét
việc sử dụng tài sản có hợp lý đúng như cam kết hay không. Còn với đảm bảo bằng
bảo lãnh cần xem xét nội dung giám sát người bảo lãnh cũng như đối với khách hàng
đi vay.

 Giám sát những thông tin khác
Ngoài ra cần kiểm tra địa điểm cư trú, nơi sản xuất kinh doanh, thông tin từ
các phương tiện thông tin đại chúng.
1.2.3.2. Đo lường rủi ro tín dụng
Là xác định mức rủi ro trên cơ sở các chỉ tiêu định tính và định lượng làm
căn cứ để xác định giới hạn tín dụng tối đa cho một khách hàng. Nói cách khác đo
lường rủi ro tín dụng là việc xây dựng mô hình thích hợp để đo lường mức độ rủi ro
mang lại từ phía khách hàng, từ đó xác định phần bù rủi ro và giới hạn tín dụng an
toàn tối đa đối với một khách hàng cũng như để trích lập dự phòng rủi ro. Thông
thường việc đo lường rủi ro tín dụng thường sử dụng các mô hình:
 Mô hình định tính:
12


Mô hình 6C: trọng tâm của mô hình này là xem xét liệu người vay có

a)

thiện chí và khả năng thanh toán các khoản vay khi đến hạn hay không. Cụ thể bao
gồm 6 yếu tố sau:
Character (Tư cách người vay):
Cán bộ tín dụng phải làm rõ mục đích xin vay của khách hàng, mục đích vay
của khách hàng có phù hợp với chính sách tín dụng hiện hành của Ngân hàng hay
không, đồng thời xem xét về lịch sử đi vay và trả nợ đối với khách hàng cũ; còn
khách hàng mới thì cần thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác như Trung tâm
phòng ngừa rủi ro, từ Ngân hàng khác, hoặc các cơ quan thông tin đại chúng…
Capacity (Năng lực của người vay):
Tùy thuộc vào quy định luật pháp của quốc gia. Người vay phải có năng lực
pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự.
Cash (Thu nhập của người vay):

Trước hết phải xác định được nguồn trả nợ của người vay như luồng tiền từ
doanh thu bán hàng hay từ thu nhập, tiền từ bán thanh lý tài sản, hoặc tiền từ phát
hành chứng khoán… Sau đó cần phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp vay
vốn thông qua các tỷ số tài chính.
Collateral (Bảo đảm tiền vay):
Đây là điều kiện để ngân hàng cấp tín dụng và là nguồn tài sản thứ hai có thể
dùng để trả nợ vay cho ngân hàng.
Conditions (Các điều kiện):
Ngân hàng quy định các điều kiện tùy theo chính sách tín dụng theo từng
thời kỳ.
Control ( Kiểm soát):
Đánh giá những ảnh hưởng do sự thay đổi của luật pháp, quy chế hoạt động
đến khả năng khách hàng đáp ứng các tiêu chuẩn của ngân hàng.
Mô hình 6C tương đối đơn giản, tuy nhiên lại phụ thuộc quá nhiều vào mức
độ chính xác của nguồn thông tin thu thập được, khả năng dự báo cũng như trình
độ phân tích, đánh giá chủ quan của cán bộ tín dụng.
13


b)

Mô hình 5P.
Purpose (Mục đích):
Người vay vốn ngân hàng nhất định phải có mục đích sử dụng, nếu mục đích
ấy vừa hợp pháp, vừa phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh thì ngân hàng sẽ
đồng ý cấp tín dụng. Chính vì vậy mà mục đích vay vốn không những cần được thể
hiện rõ trong các cam kết của hợp đồng tín dụng mà còn phải được chứng minh cụ
thể qua các chứng từ, hóa đơn.
Payment (Thanh toán):
Người đi vay phải chứng tỏ mình có khả năng thanh toán đối với những

khoản nợ đến hạn. Khả năng thanh toán của người đi vay phụ thuộc vào nguồn thu
nhập của họ trong mối quan hệ với các khoản nợ. Nếu khả năng thanh toán đáp ứng
được yêu cầu về mặt định lượng, thì các khoản nợ nói chung và nợ ngân hàng nói
riêng sẽ được thanh toán đúng hẹn.

Protection (Bảo hộ):
Một khoản tín dụng được cấp cho khách hàng phải được an toàn cho suốt chu
kỳ luân chuyển nếu nó có được một hệ thống bảo vệ tốt. Hệ thống bảo vệ này không
những nằm ngay trong quá trình luân chuyển sử dụng vốn mà còn được bảo đảm
bằng tài sản thế chấp, tài sản cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. Tính an toàn của
vốn tín dụng phụ thuộc vào hệ thống bảo vệ đó.Tùy điều kiện cụ thể mà có thể chấp
nhận tiêu chuẩn bảo vệ cho phù hợp với từng khách hàng.
Policy (Chính sách):
Chính sách phát triển của doanh nghiệp có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và
phát triểncủa doanh nghiệp trong tương lai. Việc hoạch định chiến lược và sách lược
trong nhiều nội dung như đổi mới công nghệ, trang thiết bị, vấn đề đội ngũ công nhân
lành nghề, cán bộ quản lý, ổn định phát triển và chiếm lĩnh thị trường, đổi mới mẫu
mã chất lượng sản phẩm…Trên một tầm nhìn có căn cứ, có định hướng thì khả năng
tồn tại và phát triển của doanh nghiệp mới ổn định và vững chắc.
14


Pricing (Định giá):
Thông thường các ngân hàng sẽ đưa ra các tiêu chuẩn cụ thể bằng cách chấm
điểm xếp hạng để quyết định cho vay.
 Mô hình lượng hóa rủi ro tín dụng:
c)

Mô hình điểm số Z
Đây là mô hình do E.I.Altman dùng để cho điểm tín dụng đối với các

doanh nghiệp vay vốn. Đại lượng Z dùng làm thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro
tín dụng đối với người vay và phụ thuộc vào:
- Trị số của các chỉ số tài chính của người vay.
- Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ
của người vay trong quá khứ. Từ đó Altman đã xây dựng mô hình điểm như sau:
Z = 1,2 X1 + 1,4 X2 + 3,3 X3 + 0,6 X4 + 1,0 X5
Trong đó:
X1 = Hệ số vốn lưu động/ tổng tài sản
X2 = Hệ số lãi chưa phân phối/ tổng tài sản
X3 = Hệ số lợi nhuận trước thuế và lãi/ tổng tài sản
X4 = Hệ số giá thị trường của tổng vốn sở hữu/ giá trị hạch toán của tổng nợ
X5 = Hệ số doanh thu/ tổng tài sản
Trị số Z càng cao, thì người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp. Vậy khi trị số
Z thấp hoặc là một số âm sẽ là căn cứ xếp khách hàng vào nhóm có nguy cơ vỡ nợ cao.
Z < 1,81 : Khách hàng có khả năng rủi ro cao.
1,81 < Z < 3 : Không xác định được
Z > 3 : Khách hàng không có khả năng vỡ nợ
Theo mô hình cho điểm Z của Altman, bất cứ công ty nào có điểm số thấp
hơn 1,81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ rủi ro tín dụng cao. Mô hình điểm số
Z có kỹ thuật đo lường tương đối đơn giản. Tuy nhiên mô hình này chỉ cho phép
phân loại nhóm khách hàng vay có rủi ro và không có rủi ro. Trong khi đó, thực tế
mức độ rủi ro tín dụng tiềm năng của mỗi khách hàng là khác nhau. Vả lại, yếu tố
thị trường cũng không được xét đến, đặc biệt là khi các điều kiện kinh doanh cũng
15


như điều kiện thị trường tài chính đang thay đổi liên tục như hiện nay. Và có các
nhân tố quan trọng nhưng cũng không được xét đến như: danh tiếng của khách
hàng, mối quan hệ lâu dài với ngân hàng,… sẽ làm cho mô hình điểm số Z có
những hạn chế nhất định.

d)

Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng
Các yếu tố quan trọng liên quan đến khách hàng sử dụng trong mô hình cho
điểm số tín dụng tiêu dùng bao gồm: hệ số tín dụng, tuổi đời, trạng thái tài sản, số
người phụ thuộc, sở hữu nhà, thu nhập, điện thoại cố định, số tài khoản cá nhân,
thời gian công tác. Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng mang tính khách quan hơn,
không tùy thuộc quá nhiều vào ý kiến chủ quan của cán bộ tín dụng, rút ngắn thời
gian ra quyết định tín dụng. Tuy nhiên mô hình không thể tự điều chỉnh một cách
nhanh chóng để thích ứng với những thay đổi hàng ngày của nền kinh tế – xã hội.

e)

Mô hình xếp hạng tín dụng của Moody’s và Standard & Poor’s
Rủi ro tín dụng hay rủi ro không hoàn được vốn trái phiếu của công ty
thường được thể hiện bằng việc xếp hạng trái phiếu. Những đánh giá này được
chuẩn bị bởi một số dịch vụ xếp hạng tư nhân trong đó Moody’s và Standard &
Poor’s là những dịch vụ tốt nhất. Đối với Moody’s xếp hạng cao nhất từ Aaa nhưng
với Standard & Poor’s thì cao nhất là AAA. Việc xếp hạng giảm dần từ Aa
(Moody’s) và AA (Standard & Poor’s) sau đó thấp dần để phản ánh rủi ro không
được hoàn vốn cao.
Mỗi mô hình đều có những ưu, nhược điểm cũng như các điều kiện để áp
dụng khác nhau. Tùy theo điều kiện của mình mà các ngân hàng có thể áp dụng mô
hình thích hợp.
1.2.3.3. Kiểm soát rủi ro tín dụng
Kiểm soát rủi ro tín dụng là việc sử dụng các biện pháp, kỹ thuật, công cụ,
chiến lược và những quá trình nhằm điều khiển, biến đổi rủi ro tín dụng tại một
ngân hàng bằng cách kiểm soát tần suất, mức độ rủi ro. Căn cứ vào mức độ rủi ro đã
được tính toán, các hệ số an toàn tài chính và khả năng chấp nhận rủi ro mà có các
biện pháp phòng chống khác nhau nhằm làm giảm mức độ thiệt hại.

16


Nếu phương án khắc phục thành công mức độ rủi ro trở nên bình thường thì
nhân viên tín dụng sẽ thực hiện tiếp nhiệm vụ của mình còn nếu việc thực thi biện
pháp khắc phục gặp trở ngại thì ngân hàng chuyển khoản tín dụng đó sang bộ phận
chuyên trách về xử lí rủi ro tín dụng. Bên cạnh đó bộ phận kiểm soát rủi ro tín dụng
độc lập sẽ giúp cán bộ lãnh đạo điều hành hoạt động một cách thông suốt và hiệu
quả. Trong ngân hàng nội dung cụ thể của hệ thống kiểm soát rủi ro tín dụng độc
lập cần phải xây dựng, phổ biến và thống nhất đến mọi phòng ban và mọi cán bộ.
Ngoài ra, hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô, các quy định bảo đảm an toàn trong
hoạt động của ngân hàng, hoạt động thanh tra của các cơ quan chức năng, thiết lập
và phát triển hệ thống thông tin tín dụng cũng là những yếu tố giúp ngân hàng tránh
được những rủi ro trong hoạt động tín dụng. Các phương thức để kiểm soát rủi ro
tín dụng như: né tránh rủi ro; ngăn ngừa rủi ro; giảm thiểu tổn thất do rủi ro cho vay
gây ra; chuyển giao rủi ro; đa dạng hóa rủi ro.

1.2.3.4. Tài trợ rủi ro tín dụng
Tài trợ rủi ro tín dụng là việc ngân hàng dùng các nguồn tài chính trong và
ngoài ngân hàng bù đắp tổn thất cho các khoản cho vay khi rủi ro xảy ra. Nợ rủi ro
sau khi được xử lý sẽ được thu hồi hoặc được chuyển qua theo dõi ngoại bảng. Các
biện pháp tài trợ rủi ro tín dụng bao gồm: Tự khắc phục rủi ro tín dụng; Chuyển
nhượng tài sản; Các biện pháp chuyển giao rủi ro tín dụng.
Quỹ dự phòng rủi ro là nguồn bù đắp chủ yếu của những khoản tín dụng bị
tổn thất. Quỹ thường được trích ra từ lợi nhuận sau thuế. Với việc lập quỹ dự phòng
rủi ro khi rủi ro xảy ra việc mất vốn cho vay sẽ không gây nhiều tác động tới ngân
hàng. Việc trích lập quỹ dự phòng ở nước ta hiện đang áp dụng theo thông tư
02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Cụ thể:
Điều 6: Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với năm (5) nhóm nợ quy định
Khoản 1 Điều này như sau:

a) Nhóm 1: 0%
17


b) Nhóm 2: 5%
c) Nhóm 3: 20%
d) Nhóm 4: 50%
đ) Nhóm 5: 100%
Riêng đối với các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý, tổ chức tín dụng
trích lập dự phòng cụ thể theo khả năng tài chính của tổ chức tín dụng.
Điều 8: Số tiền dự phòng cụ thể đối với từng khoản nợ được tính theo
công thức sau:
R = max {0, (A - C)} x r
Trong đó: R: số tiền dự phòng cụ thể phải trích
A: Số dư nợ gốc của khoản nợ
C: giá trị khấu trừ của tài sản bảo đảm
r: tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể
Khi rủi ro xảy ra, ngân hàng có thể làm việc tiếp với khách hàng tới khi
khoản vay được hoàn trả một phần hoặc toàn bộ mà không sử dụng đến luật pháp.
Hoặc ngân hàng có thể buộc khách hàng phải tuân thủ các điều khoản xử lý của
hợp đồng tín dụng.
Ngân hàng mua bảo hiểm tín dụng, nếu rủi ro xảy ra thì công ty bảo hiểm sẽ
chịu trách nhiệm bồi thường cho ngân hàng theo quy định. Ngoài ra ngân hàng còn
có thể tham gia cho vay đồng tài trợ giúp san sẻ rủi ro chủ yếu giữa các ngân hàng
giúp giảm thiểu rủi ro nếu xảy ra.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng
thương mại
1.3.1. Các nhân tố khách quan



Vốn và năng lực sản xuất kinh doanh của khách hàng
Một môi trường tốt cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng là phải tập
trung được nhiều khách hàng cung cấp tiền gửi cho ngân hàng và phải có các khách
hàng vay tiền kinh doanh tốt để giúp ngân hàng có được lợi nhuận từ chênh lệch lãi
18


suất cho vay và huy động. Điều này không phải do ngân hàng mà là do khách hàng
và sức khỏe của nền kinh tế quyết định. Năng lực sản xuất kinh doanh của khách
hàng kém sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh và khả năng trả nợ dẫn đến khó
khăn trong công tác quản trị rủi ro.


Nguồn lực sử dụng, điều kiện tự nhiên cũng như tình hình thị trường biến động
Vị trí địa lý, khí hậu, tài nguyên, lao động được các nhà sản xuất hết sức
quan tâm. Việc khai thác chúng một cách có hiệu quả sẽ góp phần phát huy được
tiềm năng và lợi thế so sánh của từng vùng, tiểu vùng đặc biệt đối với sản xuất nông
nghiệp. Bên cạnh đó khi nhu cầu thị trường tăng, các doanh nghiệp và người sản
xuất vay vốn mở rộng sản xuất để tìm kiếm lợi nhuận. Ngược lại, khi nhu cầu thị
trường giảm, sản xuất bị thu hẹp, nhu cầu tiêu dùng của người lao động giảm, vốn
sẽ giảm nhanh cả về khối lượng và khả năng thu hồi. Trong xu thế toàn cầu hóa về
kinh tế, khi xây dựng quản trị tín dụng của mình, các NHTM cần chú ý không chỉ
đơn thuần đánh giá thị trường nơi đóng trụ sở hoạt động, mà phải có sự đánh giá, dự
báo chính xác cả về nhu cầu thị trường trong nước, trong các khu vực và thị trường
thế giới.



Yếu tố chính trị - xã hội, chính sách của Chính phủ
Yếu tố chính trị - xã hội có ảnh hưởng đến quản trị tín dụng của NHTM. Vì

hoạt động kinh tế luôn gắn liền với hoạt động chính trị - xã hội. Kinh tế phát triển
tốt sẽ góp phần ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Ngược lại, khi chính trị xã hội bất ổn, sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế. Quản trị tín dụng của NHTM cũng
chịu ảnh hưởng bởi quản trị tín dụng của Nhà nước. Do đó sự thay đổi các chính
sách của Chính phủ đều có tác động không nhỏ đến mục tiêu, định hướng cũng như
quy trình hoạt động của công tác quản trị rủi ro tín dụng.
1.3.2. Các nhân tố chủ quan



Trình độ và nhận thức của các cán bộ quản trị rủi ro tín dụng
19


Con người là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của mỗi hoạt động
sản xuất kinh doanh nào. Muốn có hoạt động kinh doanh ngân hàng tốt trước hết
phải có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý giỏi, giàu kinh nghiệm, năng động,
phẩm chất đạo đức tốt, giỏi nghiệp vụ, hiểu biết rộng về pháp luật, tinh thần trách
nhiệm cao. Các sai phạm xảy ra trong công tác quản trị rủi ro tín dụng chủ yếu là do
các cán bộ chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc hạn chế rủi ro tín
dụng, chưa có những đánh giá chính xác về khách hàng và khả năng trả nợ của họ.
Chưa đánh giá đúng phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng, đối tác tham
gia bảo lãnh, không dự báo được những vấn đề phát sinh từ khách hàng có thể gây
bất lợi cho ngân hàng.


Hệ thống thông tin đánh giá khách hàng và quản trị rủi ro tín dụng của ngân
hàng chưa đạt được yêu cầu về sự tổng hợp và thống nhất
Hệ thống thông tin chưa đầy đủ và thiếu cập nhật đã khiến cho quá trình
đánh giá rủi ro tín dụng gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó ngân hàng chưa có đủ
thông tin về thị trường, không có những kênh thông tin chính xác để kiểm tra về các

khách hàng.



Chiến lược khách hàng của ngân hàng
Tùy theo chiến lược kinh doanh cụ thể mà mỗi ngân hàng đưa ra các mức độ
chấp nhận rủi ro khác nhau. Nhưng phải đảm bảo khả năng hoạt động kinh doanh
của ngân hàng.



Mức độ phức tạp của các hoạt động ngân hàng

20


Các hoạt động kinh doanh của ngân hàng ngày càng đa dạng và phức tạp
đem lại lợi nhuận ngày càng lớn tuy nhiên mức độ rủi ro cũng ngày càng cao hơn.

21


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI
NGÂN HÀNG TMCP KỸ THƯƠNG VIỆT NAM CHI NHÁNH
QUẢNG NGÃI
2.1. Khái quát về Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam Chi nhánh Quảng Ngãi
2.1.1. Tên và địa chỉ của Chi nhánh
-

Tên pháp lý: NHTMCP Kỹ thương Việt Nam Chi nhánh Quảng Ngãi.


-

Tên đầy đủ viết bằng tiếng Anh: Vietnam Technological and Commercial
Joint Stock Bank- Quang Ngai Branch.

-

Tên Thương hiệu (tên gọi quốc tế): Techcombank- Quang Ngai Branch.

-

Địa chỉ: 495 Quang Trung, Phường Nguyễn Nghiêm, Thành phố Quảng
Ngãi, Tỉnh Quảng Ngãi.

-

Số điện thoại: 055 371 7999 hoặc 055 371 7997.

-

Website: www.techcombank.com.vn

-

Slogan: Sáng tạo giá trị – Chia sẻ thành công

-

Logo:


2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của Chi nhánh

22


Theo giấy phép hoạt động số 0400/NH-GP do Thống đốc ngân hàng Nhà
nước Việt Nam cấp ngày 06/08/1993, giấy phép thành lập số 1534/QĐ-UB do
UBND thành phố Hà Nội cấp 04/09/1993, giấy phép kinh doanh số 055697 do
Trọng tài kinh tế Hà Nội (nay là Sở kế hoạch và Đầu tư Hà Nội) cấp 07/09/1993,
ngày 27/09/1993 NHTM Cổ phần Kỹ thương Việt Nam – Techcombank được chính
thức thành lập. Đây là một trong những NHTM Cổ phần đầu tiên của Việt Nam
được thành lập trong bối cảnh đất nước đang chuyển sang nền kinh tế thị trường với
số vốn điều lệ là 20 tỷ đồng và trụ sở chính ban đầu được đặt tại số 24 Lý Thường
Kiệt, Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Đến nay, NHTMCP Kỹ thương Việt Nam đã trở thành một trong những
NHTMCP hàng đầu Việt Nam với tổng Vốn chủ sở hữu đạt 14.986 tỷ đồng và tổng
Tài sản đạt trên 175.902 tỷ đồng. Tính đến năm 2014, Ngân hàng đã sở hữu một
mạng lưới dịch vụ đa dạng và rộng khắp với 316 chi nhánh và 1247 máy ATM trên
toàn quốc cùng với hệ thống công nghệ ngân hàng tiên tiến bậc nhất. Ngoài ra, ngân
hàng còn được dẫn dắt bởi một đội ngũ quản lý tài năng có bề dày kinh nghiệm tài
chính chuyên nghiệp cấp đa quốc gia và một lực lượng nhân sự lên tới 7.242 cán bộ,
nhân viên được đào tạo chuyên nghiệp sẵn sàng hiện thực hóa mục tiêu của Ngân
hàng – trở thành Ngân hàng tốt nhất và Doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam.
Trải qua 22 năm hình thành, xây dựng và phát triển NHTMCP Kỹ thương
Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể:
-

Là Ngân hàng Cổ phần có mạng lưới giao dịch rộng nhất tại thủ đô Hà Nội
vào năm 2002.


-

Năm 2006: Nhận Giải thưởng về thanh toán quốc tế từ the Bank of
NewYorks, Citibank, Wachovia.

-

Là ngân hàng Việt Nam đầu tiên và duy nhất được Financial Insights công
nhận thành tựu về ứng dụng công nghệ đi đầu trong giải pháp phát triển thị
trường vào năm 2007.

23


-

Năm 2008: Nhận danh hiệu “Dịch vụ được hài lòng nhất năm 2008” do độc
giả của báo Sài Gòn Tiếp thị bình chọn.

-

Năm 2009: Nhận Giải thưởng “Ngân hàng xuất sắc trong hoạt động thanh
toán quốc tế” do ngân hàng Wachovina trao tặng.

-

Năm 2010: Nhận Giải thưởng “Ngân hàng tốt nhất Việt Nam 2010” do tạp
chí Euromoney trao tặng.


-

Tháng 4/2011: Được xếp hạng trong "Top 500 doanh nghiệp hàng đầu Việt
Nam" từ tổ chức VNR 500 và nhận giải thưởng "Sản phẩm tín dụng của
năm" từ Thời Báo Kinh Tế Việt Nam.

-

Tháng 12/2011: Nhận Giải “Best domestic bank in Vietnam” – Ngân hàng
nội địa tốt nhất Việt Nam do Tạp chí The Asset trao tặng.

-

Năm 2012: Nhận 20 giải thưởng quốc tế, đáng chú ý là Giải thưởng “Ngân
hàng tốt nhất Việt Nam” được trao bởi The Asset, the Asian banker.

-

Năm 2013: Nhận 13 giải thưởng trong nước và quốc tế, trong đó nổi bật có
các giải về ngân hàng quản lý tiền tệ và tài trợ thương mại tốt nhất Việt
Nam, Ngân hàng tốt nhất Việt Nam và Nhà tuyển dụng tốt nhất của châu Á
năm 2013, và Sao Vàng Đất Việt.
Với mục tiêu trở thành Ngân hàng tốt nhất và Doanh nghiệp hàng đầu Việt

Nam cùng với quá trình hội nhập kinh tế hiện nay, NHTMCP Kỹ thương Việt Nam
không ngừng phát triển và nâng cao.
Hòa nhập với xu thế đó, đồng thời nắm bắt được nhu cầu to lớn của các
doanh nghiệp, cá nhân trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, theo Quyết định số 173/QĐHĐQT của Chủ tịch Hội đồng quản trị NHTMCP Kỹ thương Việt Nam, ngày
08/04/2009 NHTMCP Kỹ thương Việt Nam- Chi nhánh Quảng Ngãi được thành
lập đáp ứng nhu cầu về vốn, thanh toán và sử dụng những dịch vụ ngân hàng cho

các doanh nghiệp, cá nhân trong tỉnh và các vùng lân cận.
Khi mới thành lập, Chi nhánh được đặt tại 01 An Dương Vương, Thành phố
Quảng Ngãi và có 18 cán bộ công nhân viên.
24


Ngày 16/07/2011, theo Quyết định số 724/QĐ- HĐQT của Chủ tịch Hội
đồng quản trị NHTMCP Kỹ thương Việt Nam, Chi nhánh được thay đổi địa điểm
đến 495 Quang Trung, Phường Nguyễn Nghiêm, Thành phố Quảng Ngãi. Tính đến
nay, nhân sự có 25 cán bộ công nhân viên bổ sung kịp thời cho các phòng ban của
Chi nhánh.

2.1.3. Chức năng, nhiêm vụ, bộ máy tổ chức của Chi nhánh
2.1.3.1. Các chức năng, nhiệm vụ của Chi nhánh đang thực hiện theo giấy
phép kinh doanh
 Chức năng:

NHTMCP Kỹ thương Việt Nam Chi nhánh Quảng Ngãi tuy thời gian hoạt
động còn chưa nhiều nhưng chức năng của Chi nhánh cũng giống những NHTMCP
khác, nó thực hiện các chức năng như: chức năng trung gian tài chính, chức năng
tạo tiền, chức năng trung gian thanh toán, chức năng cung cấp và quản lý các
phương tiện thanh toán.
-

Chức năng trung gian tài chính:
Đây là chức năng quan trọng nhất của NHTM. NHTM nhận tiền gửi và cho
vay chính là đã thực hiện việc chuyển tiền tiết kiệm thành tiền đầu tư.
Với tư cách là một tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ, tín dụng, NHTMCP
Kỹ thương Việt Nam Chi nhánh Quảng Ngãi trên cơ sở tập hợp các nguồn vốn huy
động được thành một quỹ để cho vay, đáp ứng nhanh chóng các nhu cầu khác nhau

của các chủ thể khác nhau. Từ đó, đảm bảo quá trình sản xuất lưu thông hàng hoá
được diễn ra liên tục. Như vậy, ngân hàng đã thực hiện chức năng trung gian tín
dụng và góp phần vô cùng quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

-

Chức năng tạo tiền:
Chức năng tạo tiền là chức năng cực kỳ quan trọng của NHTM. Chức năng
này được thể hiện trong quá trình NHTM cấp tín dụng cho nền kinh tế và hoạt động
đầu tư của NHTM, trong mối quan hệ với NHTW đặc biệt trong quá trình thực hiện
25


×